"Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Các bài viết học thuật về môn tứ trụ (tử bình, bát tự)
VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

"Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Cuốn "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận" đã được Lesoi dịch gần xong bên trang web "Kim Tử Bình" (Tử Bình Diệu Dung). Ai cần xin mời sang đó đọc (vì không thể mang về đây được).
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Xin lỗi tôi nhầm với bên "Huyền Không Lý Số" nên đã viết "(vì không thể mang về đây được)".
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 06:02, 06/04/15 với 1 lần sửa.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Sau đây là bài dịch của Lesoi bên "Kim Tử Bình" (Tử Bình Diệu Dung):

(Số thứ tự các ví dụ tôi đánh tiếp theo Phần I của cuốn Trích Thiên Tủy)

Phần II

LUẬN LỤC THÂN


Chương 1 - Phu Thê

Nhân duyên vợ chồng hợp ở đời,
Hỉ thần có ý gần Thiên tài.


Nguyên chú: Vợ và con là một vậy, trong cục có hỉ thần, cả đời phú quý quyết định ở con cái đủ, là quyết định do ở vợ. Đại khái dựa vào ở Tài xem vợ, như hỉ thần là Tài thần, thì vợ đẹp mà còn phú quý; hỉ thần và Tài thần không đố kỵ nhau cũng tốt, nếu không thì khắc vợ, hoặc cũng là không tốt, hoặc là bất hòa. Nhưng xem Tài thần, lại cần phải Hoạt pháp (phép xem phải linh hoạt), như Tài thần mỏng, cần phải dụng trợ Tài; Tài vượng thân nhược, lại hỉ Tỉ Kiếp; Tài thần hại Ấn, phải cần Quan tinh; Tài ít Quan nhiều, phải cần Thương quan. Không được Tài vận, cần xung thì xung, cần tiết thì tiết; Tài khí lưu thông, cần hợp thì hợp, cần khố thì khố. Hoặc Tài thần tiết khí quá nhiều, Tỉ Kiếp thấu lộ, cùng thân vượng không có Tài, nhất định vợ chồng là không toàn mỹ vậy. Về phần Tài vượng thân cường, tất phú quý mà nhiều thê thiếp, lúc nhìn phải biết xem xét khinh trọng như thế nào.

Nhâm thị viết: Phép Tử Bình, lấy Tài làm vợ, Tài là cái ta khắc. Người lấy Tài đến là ta, lý này xuất phát từ chính luận, lại lấy Tài là cha, là hậu nhân sai lầm vậy. Nếu nói căn cứ là chính xác, thì ông bà cùng gia tộc, sao không mất luân thường đạo lý chứ? Tuy nói phân ra Thiên và Chính, rốt cuộc là miễn cưỡng. Tài có thiên và chính, chỉ là phân biệt âm dương, cũng không hoán đổi khí khác, mà lý lẽ ở trên đời là không phạm thượng, cần phân biệt mà loại trừ. Nếu như Tài là cha, Quan là con, thì đạo lý luân thường vứt đi vậy, chẳng lẽ hết thảy ông bà cùng sinh cháu, là có lý sao? Là phép lấy lục thân, nay đem sửa đổi lại. Sinh ta là cha mẹ, là thiên chính Ấn vậy; Ta sinh là con cái, là Thực Thần Thương Quan vậy; Ta khắc là thê thiếp, là Thiên chính Tài tinh vậy. khắc ta là Quan Quỷ, là Tổ phụ vậy; đồng ta là anh em, là Tỉ kiên Kiếp Tài vậy; Chỗ này là danh thuận chính lý, là phép bất dịch vậy. Nói lấy Tài làm vợ, Tài thích hợp thì vợ tài năng; Tài thần trọc, thì vợ là Sư tử Hà Đông. Thanh, Tài tinh là hỉ thần, là không tranh không đố vậy. Trọc, là tụ hợp sinh Sát phá hư, là tranh giành vô tình vậy. Sách xưa bất kể nhật chủ suy vượng, cứ lấy Dương Nhận Tỉ Kiếp là khắc vợ, cuối cùng lý lẽ là không chân thực, cần phải phân biệt nhật chủ suy vượng hỉ kỵ, tứ trụ phối hợp mà xem linh hoạt mới đúng.

Như Tài thần khinh mà không có Quan, Tỉ Kiếp nhiều, chủ khắc vợ.
Tài thần trọng mà thân nhược, không có Tỉ Kiếp, chủ khắc vợ.
Quan Sát vượng mà dụng Ấn, gặp Tài tinh, chủ vợ xấu mà khắc vợ.
Quan Sát khinh mà thân vượng, thấy Tài tinh, gặp Tỉ Kiếp, chủ vợ đẹp mà khắc vợ.
Kiếp Nhận trọng, Tài tinh khinh, có Thực Thương, gặp Kiêu Ấn, chủ vợ bị nguy hiểm.
Tài tinh ít, Quan Sát vượng, không có Thực Thương, có Ấn thụ, chủ vợ có bệnh suy.
Kiếp Nhận vượng, mà Tài khinh, có Thực Thương, vợ hiền mà không khắc.
Quan tinh nhược gặp Tài tinh, vợ xấu mà không khắc.
Thân cường Sát nhẹ, Tài tinh sinh Sát, Quan khinh Thương quan trọng, Tài tinh hóa Thương quan, Ấn thụ trùng điệp, Tài tinh đắc khí, chủ vợ hiền mà đẹp, hoặc được thê tài dẫn đến giàu có.
Sát trọng thân khinh, Tài tinh bè đảng với Sát, Quan nhiều dụng Ấn, Tài tinh phá Ấn, Thương quan bội Ấn, Tài tinh đắc cục, chủ vợ không hiền mà xấu, hoặc vì vợ mà mang họa vào thân.
Nhật chủ tọa Tài, Tài là hỉ dụng thần, tất được vợ cùng tài sản.
Nhật chủ hỉ Tài, Tài hợp Nhàn thần mà hóa Tài, nhất định phải theo vợ.
Nhật chủ hỉ Tài, tài hợp Nhàn thần mà hóa thành kỵ thần, chủ vợ ngoại tình.

Tùy theo nhật chủ hỉ kị mà luận. Nếu Tài tinh phù phiếm, cần Tài nên ẩn sâu, cần xung động mà dẫn trợ. Cần phải nghiên cứu kỹ càng.

230 - Quý Mão - Ất Sửu - Canh Thân - Đinh Sửu

Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi

Tạo này kim hàn tọa lộc, Ấn thụ nắm quyền, đủ để dụng hỏa địch hàn. Chỗ kỵ, can năm Quý thủy khắc Đinh là bệnh, hoàn toàn dựa vào can tháng Ất mộc thông căn, tiết thủy sinh hỏa, chỗ này hỉ thần là Tài tinh vậy. Càng hỉ Tài tinh gặp hợp, gọi là Tài đến theo ta, vợ hiền thục mà siêng năng, sinh 3 con, đều là dòng dõi nho học.

231 - Đinh Mùi - Ất Tị - Đinh Dậu - Quý Mão

Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi

Đinh hỏa sinh vào đầu mùa hạ, trong trụ có Kiêu Kiếp nắm quyền, một điểm Quý thủy, không đủ ức chế, hỉ nhất là nhật chủ tọa dưới Dậu kim, xung khử Mão mộc, sinh khởi Quý thủy. Xuất thân bần hàn, vận Quý nhập học, lại được tài sản cự vạn; vận Nhâm đăng khoa, vận Tân Sửu đắc tuyển tri huyện, làm quan Quận trưởng. Tạo này nếu không có Dậu kim, chẳng những không có tài, mà danh cũng không có vậy.

232 - Ất Hợi - Canh Thìn - Bính Thân - Nhâm Thìn

Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất

Bính hỏa sinh vào cuối mùa xuân, Ấn thụ thông căn sinh vượng, nhật chủ tọa Tài, can giờ lại thấu Nhâm thủy, tất lấy Ất mộc làm dụng thần. Cũng ngại, Ất Canh hợp hóa kim, sinh Sát phá Ấn, nên vợ không hiền, đố kỵ hung dữ dị thường, tắt đường không con. Tài làm hại. Đáng sợ quá!

Chương 2 - Con cái

Truyền một đời gốc cành Tử tức,
Xem hỉ thần và Sát liền nhau.


Nguyên chú: Nói chung dựa vào Quan mà xem con cái. Như hỉ thần là Quan tinh, con cái hiền tài, hỉ thần và Quan tinh không đố kị nhau cũng tốt, nếu không là không có con, hoặc là không ra gì, hoặc là có khắc. Nhưng xem Quan tinh, lại phải Hoạt pháp, như Quan khinh phải cần công ở dân; Sát trọng Thân khinh, chỉ cần Ấn Tỉ; không có Quan tinh, chỉ luận Tài; nếu Quan tinh trở ngại, phải cùng phù xung phát; Quan tinh tiết khí quá trọng, cần hội hợp trợ xa; nếu Sát có thân khinh mà không có chế, là nữ nhiều.

Nhâm thị viết: Thuyết lấy Quan tinh là con, cuối cùng sợ có phạm thượng. Nói Quan là quản lý vậy. Triều đình thiết lập quan, quan quản lý vạn dân, tất không dám làm bậy, tuân thủ quy củ. Gia đình tất thủ lĩnh là quản lý, động tác ra vào, đều tuân theo tổ phụ dạy bảo vậy. Không cúi phục quan quản lý, thì là nghịch tử; vậy nói đến mệnh lý, sao có thể lấy dân làm con mà còn phạm thượng sao? Chẳng lẽ luận mệnh lại có thể mà vua không có cha ư? Ngạn ngữ nói: “ Cha phải chuyên quyền ở con ”, nếu lấy Quan làm con, cha lại lấy con cai quản, cho thấy cha không được chuyên quyền vậy, cho nên lấy khắc cha khắc mẹ là đúng, thì có lý sao? Nay sửa đổi lấy Thực Thương làm con. Lời xưa: “Thực thần có thọ vợ nhiều con, giờ gặp Thất Sát vốn không con trai”, “Thực thần có chế định nhiều con trai”, hai thuyết này, có thể nói xác thực làm bằng chứng vậy. Nhưng chỗ này cũng chỉ là Tử pháp, nếu trong cục không có Thực Thương không có Quan Sát, thì luận làm sao? Cho nên mệnh lý không thể chấp nhất, nói chung biến thông là đúng, trước đem Thực Thương mà nhận định, sau đó sẽ xem nhật chủ vượng suy, tứ trụ hỉ kỵ là dụng. Cho nên “Xem hỉ thần và Sát liền nhau”, là luận rất biến thông vậy.

Như nhật chủ vượng, không có Ấn thụ, có Thực Thương, tất nhiều con trai.
Nhật chủ vượng, gặp Ấn thụ, Thực Thương khinh, tất ít con.
Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, Thực Thương khinh, có Tài tinh, dự phòng con nhiều mà hiền.
Nhật chủ vượng, Ấn nhiều tất không con; nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, không Ấn thụ, cũng không có con.
Nhật chủ nhược, Thực Thương khinh, không có Tỉ Kiếp, tất không có con.
Nhật chủ nhược, Sát trọng, Thực Thương khinh, Tài tàng mà suy nhược, tất nhiều con gái.
Nhật chủ nhược, Thất Sát trọng, Thực Thương khinh, có Tỉ Kiếp, con gái nhiều con trai ít.
Nhật chủ nhược, Quan Sát trọng, không có Ấn Tỉ, tất không có con trai.
Nhật chủ vượng, Thực Thương khinh, gặp Ấn thụ, gặp Tài tinh, con ít cháu nhiều.
Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, Quan Sát khinh, có Ấn thụ, gặp Tài, có con tất nghịch.
Lại có nhật chủ vượng, không có Ấn thụ, Thực Thương ẩn, có Quan Sát, tất nhiều con.
Lại có nhật chủ vượng, nhiều Tỉ Kiếp, không có Ấn thụ, Thực Thương ẩn, tất nhiều con, ý là mẫu đa tử ác vậy.

Cho nên mộc đa hỏa tắt, kim khắc mộc thì sinh hỏa; hỏa đa thổ tiêu, thủy khắc hỏa thì sinh thổ; thổ trọng mai kim, mộc khắc thổ thì sinh kim; kim đa thủy thấm, hỏa khắc kim vừa thủy khắc hỏa thì sinh thủy; thủy đa mộc trôi, thổ khắc thủy thì sinh mộc. Lấy Quan Sát làm con, cũng là nói chỗ này, cho dù rõ ràng cũng lấy Quan Sát là con.

Nói chung, thân vượng lấy Tài là con, thân suy lấy Ấn là con, chỗ này ta đã thử nghiệm, cho nên can đảm sửa đổi, cẩn thận suy, không có không ứng vậy.

233 - Tân Sửu - Tân Sửu - Mậu Tuất - Quý Sửu

Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi

Tạo này nhật chủ vượng, Tỉ Kiếp nhiều, thông căn năm tháng cùng thấu Thương quan, Sửu thuộc thấp thổ, có thể sinh kim tích thủy, Tuất là hỏa khố, nhật chủ tọa hỏa khố, không đến nỗi bị băng hàn vậy. Là lấy nông nghiệp làm giàu, càng hỉ vận chạy phương Tây không nghịch, tôi tuy đoán nhiều con, thật ra không dám định số lượng, hỏi ý kiến, sinh con từ lúc 16 tuổi, mỗi lần sinh con, liên tục sinh 16 đứa con, cũng không có tổn thương. Chỗ này vì mệnh thật đẹp, Ấn tinh không hiện, Tân kim sáng rõ không tạp mộc hỏa là đẹp vậy.

234 - Quý Hợi - Giáp Tý - Đinh Dậu - Quý Mão

Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ

Tạo này Quan Sát nắm lệnh, ngại là thấu can Giáp mộc, không thể Tòng Sát, buộc phải xem Sát vượng dụng Ấn, thì kỵ Mão Dậu gặp xung, khử đi Giáp mộc vượng địa. Vợ sinh ra 8 con gái, vợ nhỏ cũng sinh gái, hoàn toàn không có con trai. Chỗ nói thân suy lấy Ấn hòa, là do chỗ này Tài tinh phá Ấn vậy.

235 - Ất Mùi - Tân Tị - Mậu Tuất - Đinh Tị

Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi

Mậu thổ sinh vào tháng Tị, trong trụ hỏa thổ vốn vượng, Tân kim lộ mà vô căn. Lại thêm sinh giờ Tị, Đinh hỏa độc thấu khắc Tân kim, trong cục không có thấp khí, càng lo can năm có Ất mộc, trợ hỏa cháy mãnh liệt, cho nên khắc hai vợ, sinh 12 con, hình chết 10 đứa. Hiện còn 2 con.

236 - Mậu Tý - Quý Hợi - Nhâm Tuất - Giáp Thìn

Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị

Nhâm thủy sinh vào đầu mùa đông, hỉ là không có kim, độc thấu Thực thần, cho nên chữ nghĩa ít thành. Giáp Dần nhập học, có nuôi dưỡng 10 đứa con. Không có vợ, kỳ diệu là không có Tài tinh; thi Hương bất lợi, không có chỗ Dần Mão vậy. Tạo này nếu như hoán đổi Tuất thổ thành mộc, thì thanh vân đắc lộ vậy.

237 - Canh Dần - Bính Tuất - Tân Hợi - Tân Mão

Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn

Tân kim sinh vào tháng Tuất, Ấn tinh nắm lệnh; lại có Dần củng Tuất sinh Bính hỏa, Tỉ Kiếp không thể sinh Hợi thủy, lại còn có Hợi Mão củng mộc, tứ trụ đều thành Tài Quan, 2 vợ 4 thiếp sinh 3 con trai đều khắc, sinh 12 con gái lại khắc hết 9. Vẫn hỉ thu kim có khí, gia nghiệp hưng thịnh.

238 - Đinh Dậu - Đinh Mùi - Mậu Tuất - Đinh Tị

Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu

Thổ sinh cuối mùa hạ, Ấn thụ trùng điệp, tứ trụ hoàn toàn không có khí thủy, táo thổ không thể tiết hỏa sinh kim, khắc 3 vợ 5 con. Đến Sửu vận thấp thổ, hối hỏa sinh kim, lại hội kim cục, mới nuôi được 1 con trai.

Bởi vậy xem tạo số, Thực thần Thương quan là con cũng rõ ràng. Phàm tử tức (con cái) có hay không, trong mệnh có lý nhất định, trong mệnh con chỉ có 5 số, thủy 1 - hỏa 2 - mộc 3 - kim 4 - thổ 5 vậy; nắm lệnh thì gấp đôi, hưu tù thì giảm nửa, ngoại trừ gia giảm mà thừa ra, cho nên nắm vững chỗ này vậy.

239 - Tân Mão - Tân Mão - Giáp Thìn - Đinh Mão

Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu

Tạo này xuân mộc hùng tráng, kim thấu vô căn, hỉ Đinh hỏa thấu lộ thương khắc Tân kim, cho nên đến vận Kỷ Sửu, Mậu Tý, chẳng những có con không nuôi dưỡng, mà còn Tài đa phá hư. Vận Đinh Hợi, củng mộc mà thiên can thấu Đinh hỏa, người và của cùng có ích; vận Bính Tuất càng đẹp, sinh 5 trai, gia nghiệp tăng mới. Bởi vậy xem mệnh, phàm dụng thần bát tự là Tử tức tinh, như dụng thần thuộc hỏa, thì con tất ở vận mộc hỏa, hoặc được lưu niên mộc hỏa; như không đúng được niên vận mộc hỏa, nhất định tử tức khép ở trong nhiều mộc hỏa, hoặc là nhật chủ mộc hỏa, nếu không thì khó mang, thử nghiệm nhiều lần đều đúng. Nhưng dụng thần ở bên trong mệnh, vật không có Thê Tài Tử Lộc, mà cùng thông thọ yểu, đều tại một chữ dụng thần mà định, có thể không chú ý chăng?

Chương 3 - Phụ Mẫu

Cha mẹ hoặc rơi cùng hoặc suy,
Chỗ đóng năm tháng quyết không nhỏ.


Nguyên chú: Phép Tử Bình, lấy Tài là cha, lấy Ấn là mẹ, lấy đoán cát hung, 10 có 9 nghiệm, nhưng xem năm tháng vẫn là trọng yếu. Khí năm có ích ở nguyệt lệnh, cùng năm tháng không bị tổn thương là nói hỉ thần, cha mẹ tất hưng thịnh. Tài khí năm tháng chém mất ở can giờ, trước là khắc cha; Ấn khí năm tháng chém mất ở chi giờ, trước là khắc mẹ. Lại phải nhìn linh hoạt tình thế ở trong cục, không thể chuyên luận Tài Ấn, trong đó có cơ ẩn lộ hưng vong, mà bất tất phải ở Tài Ấn. Cùng thần sinh Tài sinh Ấn, mà mở ra chỗ được tổn hay ích, cùng luận âm dương nhiều ít, không có không nghiệm.

Nhâm thị viết: Cha mẹ, là gốc rễ sinh ra thân ta, là lấy đóng chỗ năm tháng, cùng biết suy tàn là không giống nhau, hầu như là phép chính lý bất dịch vậy. Nguyên chú lại lấy Tài Ấn phân ra cha mẹ, lại luận nói khắc cha mẹ, là không nắm chắc, vẫn dựa vào khe sách sai lầm vậy, nói đến cha mẹ lại có thêm chữ khắc hay sao? Nay sửa đổi tang thân, hình thê, khắc tử là rất chí lý.

Như năm tháng Quan Ấn tương sinh, ngày giờ Tài Thương không phạm, thì được bề trên che chở, dưới nhận mà lấy vinh.
Năm tháng Quan Ấn tương sinh, ngày giờ hình thương xung phá, thì phá sạch tổ nghiệp, phá bại gia phong.
Năm Quan tháng Ấn, tháng Quan năm Ấn, tổ thượng thanh cao; Nhật chủ hỉ Quan, ngày giờ gặp Thương, nhật chủ hỉ Ấn, ngày giờ gặp Tài, tất bại tổ nhục tông.
Năm Tài tháng Ấn, nhật chủ hỉ Ấn, ngày giờ gặp Quan Ấn, biết là giúp cha chấn hưng gia đình.
Năm Quan tháng Ấn, nhật chủ hỉ Ấn, ngày giờ gặp Quan, mà biết định tự bản thân cha mẹ thành lập gia môn.
Năm Quan tháng Kiếp, năm Kiếp tháng Kiếp, năm Ấn tháng Kiếp, nhật chủ hỉ Tài, ngày giờ gặp Tài hoặc Thương, xuất thân nghèo khốn, mệnh tự thân lập nghiệp.
Năm Kiếp tháng Tài, nhật chủ hỉ Tài, sản nghiệp hùng hậu, nhật chủ hỉ Kiếp, là thanh cao bần hàn.
Năm Quan tháng Thương, nhật chủ hỉ Quan, ngày giờ thích Quan tất là gần với bếp lò, ngày giờ gặp Kiếp, tất phá bại.

Tóm lại, Tài Quan Ấn thụ, quyết định ở năm tháng, là hỉ thần của nhật chủ, cha mẹ không phú cũng quý; là kỵ thần của nhật chủ, không bần cũng tiện, nên xem xét kỹ càng.

240 - Quý Mão - Ất Sửu - Bính Tý - Kỷ Sửu

Giáp Tý/Quý Hợi/Nhâm Tuất/Tân Dậu/Canh Thân/Kỷ Mùi.

Tạo này thấu ra Quan Ấn mà còn đắc lộc, Tài tinh tàng mà quy khố, cách cục chưa từng không thấy không tốt, chỗ ngại là, giờ Sửu Thương quan bất chấp tung hoành, Quan tinh thoái khí, nhật chủ suy nhược, hoàn toàn dựa vào Ất mộc sinh hỏa mà hộ Quan. Năm tháng Quan Ấn tương sinh, cũng xuất thân nhà quan, đến vận Hợi đi học; vận Nhâm Tuất thủy thông căn, phá hao dị thường, lại thêm quyên góp làm quan, hết sức rõ ràng; đến Dậu vận, Tài tinh phá Ấn, cuối cùng chịu quốc hình.

241 - Ất Mão - Đinh Hợi - Mậu Ngọ - Bính Thìn

Bính Tuất/Ất Dậu/ Giáp Thân/Quý Mùi/Nhâm Ngọ/Tân tị

Mậu thổ sinh vào đầu mùa đông, Tài tinh lâm vượng, Quan Ấn song thanh tọa lộc, nhật nguyên lâm vượng phùng sinh, có thể thấy tứ trụ là thuần túy, một đường sinh hóa hữu tình, hỉ dụng đều có tinh thần, cho nên hành vận không phá cục, xuất thân nhà làm quan, liền bước lên khoa giáp, chữ nghĩa đều nhân từ, là mệnh tạo phú quý phúc thọ vậy.

242 - Đinh Tị - Tân Hợi - Mậu Tý - Mậu Ngọ

Canh Tuất/Kỷ Dậu/Mậu Thân/Đinh Mùi/Bính Ngọ/Ất Tị

Tạo này trong trụ có 3 hỏa 2 thổ, hầu như là vượng tướng, không biết Hợi Tý nắm quyền, xung phá Ấn thụ, thiên can hỏa thổ hư thoát, tổ thượng đại phú, đến thế hệ cha thì phá bại; kiêm thêm đầu vận đất tây kim, sinh trợ vượng thủy, nửa đời lao đao. Cùng giao vận Đinh Mùi, vận chuyển nam phương, liên tiếp Bính Ngọ là 20 năm, ý nguyện kinh doanh đều đạt thành tựu to lớn, phát tài hơn 10 vạn.

243 - Ất Hợi - Tân Tị - Bính Thìn - Quý Tị

Canh Thìn/Kỷ Mão/Mậu Dần/Đinh Sửu/Bính Tý/Ất Hợi

Tạo này chi gặp 2 lộc thừa quyền, can năm thấu Ấn thông căn, phàm suy mệnh, dùng lấy vượng luận, lấy Tài tinh đoán kỳ danh lợi song thu, nhưng Bính hỏa sinh ở đầu mùa hạ, phương tiến hỏa khí, can năm Ấn thụ, bị chỗ can tháng Tài tinh phá hư, Tị Hợi phùng xung, phá lộc khử hỏa, thì kim lại được sinh phù, mộc hỏa thất thế. Lại tọa dưới Thìn thổ, cướp đi mệnh chủ vô thần, giờ Quý cái đầu, Tị hỏa cũng bị thương, tất lấy nhược mà suy, dụng lấy Tị hỏa, đầu vận đông phương mộc thổ, xuất thân vốn tổ nghiệp phong phú; Bính Tý hỏa không thông căn, Quan đắc địa, lại tăng thêm phá hao; vận Sửu sinh kim tiết hỏa, hình khắc dị thường, gia nghiệp 10 mất 8,9, vợ chồng đều chết.

Chương 4 - Huynh Đệ

Huynh đệ ai phế cùng ai hưng,
Đề dụng Tài thần xem trọng khinh.


Nguyên chú: Bại Tài Tỉ kiên Dương Nhận, đều là anh em vậy. Thần phải ở đề cương, cùng so sánh Tài thần Hỉ thần khinh hay trọng, Tài Quan nhược, cả ba cùng hiển lộ vết tích cướp đoạt, anh em tất cường; Tài Quan vượng, cả ba xuất ra có công trợ giúp nhật chủ, anh em tất đẹp; thân và Tài Quan quân bình, mà cả ba ẩn đều không lộ, anh em tất quý; Tỉ kiên trọng mà hại dân Tài Sát cũng vượng, anh em tất phú. Thân nhược mà bang trợ không lộ, có Ấn mà anh em tất nhiều; thân vượng mà cả ba lại lộ, không có Quan mà anh em tất suy.

Nhâm thị viết: Tỉ kiên là anh, Bại tài (Kiếp) là em, Lộc Nhận cũng luận giống như vậy.

Như Sát vượng không có Thực, Sát trọng không có Ấn, được Bại tài (Kiếp) hợp Sát, tất được em trợ lực.
Sát vượng Thực khinh, Ấn nhược gặp Tài, được Tỉ kiên địch Sát, tất được anh trợ lực.
Tài khinh Kiếp trọng, Ấn thụ chế Thương quan, không tránh giống như Tư Mã.
Tài Quan thất thế, Kiếp Nhận làm càn, lo buồn giống như Chu Công.
Tài sinh đảng Sát, Tỉ Kiếp trợ thân, có thể ngũ chung với anh cả; Sát trọng không có Ấn, nhật chủ suy Thương lại ẩn, anh em không thể không than thở.
Sát vượng Ấn ẩn, Tỉ kiên vô khí, em tuy kính mà khiến vẫn suy.
Quan vượng Ấn khinh, Tài tinh đắc khí, anh dù có yêu mà em cũng không thành.
Nhật chủ tuy suy, Ấn vượng ở đề cương tháng, anh em hợp thành bầy.
Thân vượng gặp Kiêu, Kiếp trọng không có Quan, một thân chủ trì.
Tài khinh Kiếp trọng, Thực Thương hóa Kiếp, có thể yên ổn.
Tài khinh gặp Kiếp, Quan được lộ rõ, không xảy ra chuyện nồi da nấu thịt.
Kiêu Kiếp trọng phùng, Tài khinh Sát ẩn, không tránh khỏi đau buồn hao tổn.
Nhật chủ suy có Ấn, Tài tinh gặp Kiếp, trái lại anh em có thể hưng vinh.

Bất luận đề cương hỉ kỵ, hoàn toàn mượn nhật chủ là yêu hay ghét, cần xem xét cho thật kỹ.

244 - Đinh Hợi - Nhâm Dần - Bính Tý - Đinh Dậu

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Bính hỏa sinh vào đầu xuân, là nói giúp hỏa mang lửa, không luận vượng. Can tháng Nhâm thủy thông căn, Hợi Tý là Sát vượng không bị chế, mừng Đinh hỏa thấu lộ, Dần Hợi hợp mà hóa Ấn, lấy tạp thành ơn. Chi giờ Dậu Tài tinh, sinh Quan khắc Ấn, lại được Đinh hỏa tọa Dậu, khiến cho kim không thể khắc mộc, cho nên anh em là 7 người, đều liền học hành, hơn nữa anh yêu em kính.

245 - Quý Tị - Mậu Ngọ - Bính Ngọ - Canh Dần

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý

Tạo này Dương Nhận nắm quyền, lại phùng sinh vượng, càng thêm lo, Mậu hợp Quý hóa hỏa, Tài lại bị nhiều chỗ Kiếp đoạt, anh em 6 người, đều không thành tài, vất vả kinh khủng. Tôi tạo năm tháng ngày đều giống nhau, đổi một giờ Nhâm Thìn, Sát nhược không thể tương chế, cũng có 6 em trai, được lực nhưng chết sớm, còn lại đều chẳng ra gì, dẫn đến liên lụy phá nhà. Tóm lại Kiếp Nhận thái vượng, Tài Quan vô khí, anh em lại ít, dẫu có, không bằng không có. Nhưng Quan Sát thái vượng, anh em cũng thương tàn, bí mật cần phải Thân và Tài cùng vượng, Quan Ấn thông căn, có thể anh em trung hậu nghĩa tình.
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 06:06, 06/04/15 với 4 lần sửa.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 5 - Hà Tri Chương

Sao biết người giàu? Tài khí thông môn hộ.


Nguyên chú : Tài vượng thân cường, Quan tinh hộ Tài, kỵ Ấn mà Tài có thể phá Ấn, hỉ Ấn mà Tài có thể sinh Quan, Thương quan trọng mặt Tài thần lưu thông, Tài thần trọng mà Thương quan có hạn, không có Tài mà ám thành Tài cục, Tài lộ mà Thương quan cũng lộ, chỗ này đều là Tài khí thông môn hộ, cho nên giàu vậy. Nói phép luận Tài và luận thê, có thể tương thông vậy, nhưng có vợ hiền mà tài suy, cũng có tài phú mà có hại vợ, xem hình xung hội hợp. Nếu Tài thần thanh mà thân vượng thì vợ đẹp, Tài thần trọc mà thân vượng là nhà giàu.

Nhâm thị viết: Thân vượng Tài nhược mà không có Quan, tất cần có Thực Thương; thân vượng Tài vượng không có Thực Thương, tất cần có Quan có Sát. Thân vượng Ấn vượng Thực Thương khinh, Tài tinh đắc cục; thân vượng Quan suy Ấn thụ trọng, Tài được nắm lệnh; thân vượng Kiếp vượng, không có Tài Ấn mà có Thực Thương; thân nhược Tài trọng, không có Quan Ấn mà có Tỉ Kiếp đều là Tài khí thông môn hộ vậy. Tài tức là Thê, có thể luận thông vậy. Nếu Tài thanh thì vợ đẹp, Tài trọc thì giàu, lý dù là đúng, nhưng chưa luận sâu vậy.
Như thân vượng có Ấn, Quan tinh tiết khí, tứ trụ không thấy Thực Thương được Tài tinh sinh Quan, không có Thực Thương thì Tài tinh cũng kém, chủ vợ đẹp mà Tài kém vậy; Thân vượng không có Ấn, Quan nhược gặp Thương, được Tài tinh hóa Thương quan sinh Quan, thì cũng thông căn, Quan cũng được trợ giúp, chẳng những được vợ đẹp, mà còn đại phú; Thân vượng Quan nhược, thấy Thực Thương nhiều, Tài tinh không cùng Quan thông nhau, tuy nhà giàu mà có vợ xấu vậy; Thân vượng không có Quan, Thực Thương có khí, Tài tinh không cùng nối liền với Kiếp, không có Ấn mà thê (vợ) tài (tiền của) đều tốt, có Ấn thì Tài vượng mà vợ bị tổn thương.
Bốn chỗ này đều cần phải suy xét cho kĩ.

246 - Giáp Thân - Bính Tý - Nhâm Dần - Tân Hợi

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Nhâm thủy sinh vào giữa mùa đông, Dương Nhận nắm quyền, năm tháng mộc hỏa vô căn, chi ngày Thực thần bị xung phá, tựa như bình thường. Nhưng hỉ có ngày Dần giờ Hợi, chính là đất mộc hỏa sinh; Dần Hợi hợp, thì khí mộc hỏa càng nối nhau, Thân Tý hội, thì Thực thần được sinh phù, chỗ gọi là Tài khí thông môn hộ vậy. Giàu có hơn trăm vạn. Phàm mệnh cự phú, Tài tinh không nhiều, chỉ cần sinh hóa có tình, tức là Tài khí thông môn hộ, nếu Tài lâm vượng địa, không nên thấy Quan, nhật chủ thất lệnh, tất phải cần Tỉ Kiếp trợ thân, là đẹp vậy.

247 - Nhâm Thân - Bính Ngọ - Quý Hợi - Mậu Ngọ

Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý

Quý thủy sinh vào giữa mùa hạ, lại gặp giờ Ngọ, Tài Quan thái vượng. Hỉ là nhật nguyên đắc địa, càng hay can năm có Kiếp tọa trường sinh, Tài tinh có khí, nhất là ngũ hành không có mộc, Tài bị thổ tiết mà hỏa lại không có mộc trợ giúp, có thể dụng Nhâm thủy. Đến vận tây bắc, kim thủy đắc địa, sản nghiệp không dồi dào, tự lập nghiệp có 40, 50 vạn, có một vợ 4 thiếp 8 con.

Sao biết người quý? Quan tinh hữu lý hội.

Nguyên chú: Quan vượng thân vượng, Ấn thụ hộ Quan, kỵ Kiếp mà Quan có thể khử Kiếp, hỉ Ấn mà Quan có thể sinh Ấn, Tài thần vượng mà Quan tinh thông đạt, Quan tinh vượng mà Tài thần có khí, không có Quan mà ám thành Quan cục, Quan tinh tàng mà Tài thần cũng ẩn, chỗ này đều là Quan tinh hữu lý hội, cho nên là quý vậy. Phép nói luận dân và luận con, có thể tương thông vậy, nhưng cũng có con nhiều mà không có quan, thân hiển mà không có con, cũng phải xem hình xung hội hợp. Nếu Quan tinh thanh mà thân vượng thì tất quý; Quan tinh trọc mà thân vượng tất nhiều con; về phân đắc tượng, đắc khí, đắc cục, đắc cách, vợ con phú quý lưỡng toàn.

Nhâm thị viết: Thân vượng Quan nhược, Tài có thể sinh Quan, Quan vượng thân nhược, Quan có thể sinh Ấn, Ấn vượng Quan suy, Tài có thể phá Ấn, Ấn suy Quan vượng, Tài không hiện, Kiếp trọng Tài khinh, Quan có thể khử Kiếp, Tài tinh phá Ấn, Quan có thể sinh Ấn, dụng Quan, Quan tàng Tài cũng tàng, dụng Ấn, Ấn lộ Quan cũng lộ, đều là Quan tinh hữu lý hội, cho nân là quý hiển vậy.
Như thân vượng Quan vượng Ấn cũng vượng, cách cục rất thanh, mà tứ trụ Thực Thương, không có một chút hỗn tạp, Tài tinh lại không xuất hiện, tình Quan tinh dựa vào ở Ấn, tình Ấn dựa vào nhật chủ, chỉ có sinh bản thân nhật chủ, cho nên có quan mà không có con vậy; dẫu có khiến hơi tạp Thực Thương, cũng bị chỗ Ấn tinh khắc, con cũng gian nan. Như thân vượng Quan vượng Ấn nhược, Thực Thương ám tàng, không hại Quan tinh, không bị chỗ Ấn thụ khắc, tự nhiên quý mà còn có con; nhất định thân vượng Quan suy, Thực Thương có khí, có Ấn mà có Tài phá Ấn, không có Tài mà ám thành Tài cục, không quý mà con tất giàu có; như thân vượng Quan suy, Thực Thương vượng mà không có Tài, có con nhưng chắn chắc nghèo túng; như thân nhược Quan vượng, Thực Thương vượng mà không có Ấn, bần mà không có con, hoặc có Ấn gặp Tài, cũng nói giống như vậy.

248 - Quý Mão - Quý Hợi - Đinh Mão - Tân Hợi

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Tạo này Quan Sát nắm quyền, vốn là đáng sợ vậy; nhưng hỉ có chi củng Ấn cục, khéo mượn Tài bồi, lưu thông thế thủy, là Quan tinh hữu lý hội. Ngại là đầu vận Canh Thân, Tân Dậu, sinh Sát phá Ấn, công danh trở ngại; vận Kỷ Mùi chi toàn Ấn cục, can thấu Thực thần, công danh thẳng tiến, làm quan đến Thượng Thư. Nhưng có mệnh được vận, nếu không được vận, cũng chỉ là giới hàn nho mà thôi.

249 - Quý Dậu - Đinh Tị - Bính Ngọ - Nhâm Thìn

Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi

Bính hỏa sinh vào đầu mùa hạ, tọa lộc lâm vượng, hỉ gặp Tị Dậu củng kim cục, Tài sinh Quan, Quan chế Kiếp, càng đẹp có giờ thấu Nhâm thủy, trợ khởi Quan tinh, lấy thành Ký tế. Ngoài 30 tuổi vận đến phương bắc thủy địa, đăng khoa phát giáp, danh lợi song huy. Chớ lấy Quan Sát hỗn tạp mà lo, thân vượng, tất cần Quan Sát hỗn tạp mà phát vậy.

250 - Giáp Ngọ - Bính Dần - Tân Dậu - Kỷ Sửu

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân

Mệnh này Tài lâm vượng địa, Quan gặp trường sinh, nhật chủ tọa lộc, Ấn thụ thông căn, 4 chữ thiên can, địa chi đều lâm lộc vượng, ngũ hành không có thủy, thanh mà thuần túy. Mùa xuân kim tuy nhược, hỉ có giờ Ấn thông căn đắc dụng, Canh vận trợ thân. Quý Dậu được đăng khoa; Ngọ vận Sát vượng, bệnh gặp hình tang; Tân vận năm Kỷ Mão phát giáp vào Từ lâm; hậu vận kim thủy trợ thân, công danh thăng tiến không thể nói hết vậy.

251 - Ất Tị - Tân Tị - Canh Thìn - Giáp Thân

Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi

Canh kim sinh vào trước Lập Hạ 5 ngày, thổ nắm lệnh, hỏa chưa nắm quyền, Canh kim sinh tọa Thực, mà chi Thìn thân vượng, cùng sinh phù vượng, thân cường Sát kém. Ngại là Tài lộ vô căn lại gặp Kiếp, cho nên xuất thân bần hàn; vừa giao vận Đinh, Quan tinh nguyên thần phát lộ, 2 năm Mậu Dần Kỷ Mão, Tài tinh đắc địa, hỉ thần dụng thần cùng đến, liền bước lên khoa giáp, lại nhập Từ lâm.
Sách nói: "Dĩ Sát hóa quyền, định hiển lộ hàn môn quý khách", là chỗ này vậy.

Sao biết người bần? Tài bần thần phản bất chân.

Nguyên chú: Tài thần bất chân, chẳng những tiết khí cũng bị Kiếp đoạt, Thực Thương khinh Tài trọng Thực Thương tiết, Tài khinh Quan trọng Tài khí tiết, Thương trọng Ấn khinh thân nhược, Tài trọng lại khinh thân nhược, đều là Tài bất chân vậy. Ở giữa có một vị thanh khí, là không hàn.

Nhâm thị viết: Tài thần bất thì có 9 trường hợp, như: Tài trọng mà Thực Thương nhiều, là 1 bất chân; Tài khinh hỉ Thực Thương mà Ấn vượng, là 2 bất chân; Tài khinh Kiếp trọng, Thực Thương không hiện là 3 bất chân; Tài nhiều hỉ Kiếp, mà Quan tinh chế Kiếp là 4 bất chân; Hỉ Ấn mà Tài tinh phá Ấn là 5 bất chân; Kỵ Ấn mà Tài tinh sinh Quan là 6 bất chân; Hỉ Tài mà Tài hợp Nhàn thần mà hóa, là 7 bất chân; Kỵ Tài mà Tài hợp Nhàn thần hóa Tài, là 8 bất chân; Quan Sát vượng hỉ Ấn, Tài tinh lại đắc cục, là 9 bất chân.
9 trường hợp này đều là chính lý Tài bất chân vậy, như vậy là bần nhiều mà phú ít, cho nên bần cũng có vài loại bần, phú cũng có mấy loại phú, không thể định đại khái. Có bần mà quý, có bần mà chính trực, có bần mà đê tiện, nên phân biệt rõ.
Như Tài khinh Quan suy, phùng Thực Thương mà gặp Ấn, hoặc hỉ Ấn, Tài tinh phá Ấn, được Quan tinh cứu giải, chỗ này là quý mà bần vậy; Quan Sát vượng mà thân nhược, Tài tinh sinh trợ Quan Sát, có Ấn Tài thì một vạc dây lưng dễ có, không có Ấn thì là lão nho quan, chỗ này là cách thanh bần; chỗ đều là đúng vậy. Tài nhiều mà cõi lòng muốn tham lam liền chết, Quan vượng mà tâm chí tất muốn cầu, không hợp mà hợp, không theo mà theo, hợp mà không hóa, là theo không đúng, mệnh như thế, thấy phú quý mà sinh nịnh bợ, thấy tài lợi mà quên ân nghĩa, gọi là bần mà tiện vậy, tức là may mắn làm giàu, cũng không đủ quý vậy; phàm mệnh bại nghiệp phá gia, mới nhìn tựa cho là tốt, không phải Tài Quan song mỹ, tức là can chi đều thanh, không phải Sát Ấn tương sinh, tức là Tài lâm vượng địa, không biết Tài Quan tuy có thể dưỡng mệnh vinh thân, trước tiên tất phải cần nhật chủ phải vượng tướng, nhật chủ có thể gánh nhận Tài Quan, nếu thái quá hay bất cập, đều là bất chân (không thật), thì cũng có thể tán có thể hao, cuối cùng không thể đạt được phú quý vậy, cách cục như thất rất nhiều, khó mà đưa ra cho hết, nên nghiên cứu tường tận.

252 - Nhâm Tý - Mậu Thân - Mậu Tuất - Tân Dậu

Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần

Mậu thổ sinh vào đầu mùa thu, chi ở phương tây, tú khí lưu hành, cách cục vốn tốt, xuất thân đại phú. Ngại là can năm thấu ra Nhâm thủy có thể hội cục, thì Tài tinh lại bất chân vậy. Kiêm vận hành tây bắc đất kim thủy vượng, cho nên trọng nghĩa khinh tài, hao tán dị thường, duy chỉ có Tuất vận vào trường có con. Vận Tân Hợi, Nhâm Tý bần khổ không kham nỗi.

253 - Quý Mão - Giáp Dần - Đinh Tị - Kỷ Dậu

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân

Tạo này Tài tàng Sát lộ, là Sát Ấn tương sinh, lại tương sinh nối liền, tựa như quý cách, cho nên tổ nghiệp có hơn 20 vạn; không biết là can năm vô căn, tinh hoa đều bị Ấn thụ cướp tiết khí hết, tất dụng Tài Dậu kim. Cái đầu Kỷ thổ che đậy. Tưởng rằng có tình, nhưng mộc vượng thổ hư, giúp hỏa phùng sinh, nên Tị Dậu không hội, là Tài bất chân vậy. Vừa giao vận Nhâm Tý, tiết kim sinh mộc, thất bại như tro; đến Hợi vận, Ấn gặp trường sinh, mắc bệnh chết đói.

254 - Canh Ngọ - Nhâm Ngọ - Bính Dần - Canh Dần

Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý

Tạo này hỏa mùa hạ gặp kim, Tài sinh Sát nhược, hai chi không tạp, Sát Nhận thần thanh, tất nhiên danh lợi song toàn. Chẳng biết địa chi mộc hỏa, không sinh trợ kim thủy, Nhâm thủy chẳng những không thể chế hỏa mà trái lại tiết khí Tài tinh, mùa hạ Canh kim bại tuyệt, dễ thấy Tài thần bất chân vậy. Vận Quý Mùi, Giáp Thân, Ất Dậu, thổ kim cường vượng, cơm áo đầy đủ; giao vận Bính Tuất, chi toàn hỏa cục, hình thê khắc tử, phá hao dị thường, gia nghiệp mấy vạn trôi theo dòng nước; vận Đinh Hợi, Đinh hợp Nhâm, Hợi hợp Dần mà hóa mộc, cô khổ không chịu nổi mà chết.

255 - Ất Mão - Ất Dậu - Canh Dần - Nhâm Ngọ

Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ/ Tân Tị/ Canh Thìn/ Kỷ Mão

Thu kim thừa lệnh, Tài Quan cùng vượng, Thực thần thổ tú, xem đại tượng, là mệnh phú quý. Ngại là Tài tinh thái trọng, Quan tinh hợp cục, nhật chủ lại thành nhược, không gánh nỗi Tài Quan, hoàn toàn dựa vào Kiếp Nhận trợ thân, Dậu bị mão xung Ngọ khắc; can giờ Nhâm thủy không thể khắc hỏa, ngược lại còn tiết khí nhật nguyên, là Tài tinh bất chân vậy. Đầu vận Giáp Thân lộc vượng, cuộc sống đầy đủ, các vận sau thuộc phương nam, nghèo khổ bất kham.

256 - Tân Sửu - Bính Thân - Quý Tị - Canh Thân

Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần

Tạo này Tài tinh tọa lộc, nhất Sát độc thanh, tựa như tốt đẹp, ngại là Ấn tinh thái trọng, Sửu thổ sinh kim tiết hỏa, Bính hợp Tân hóa thủy, lấy Tài là dụng, Thân lại hợp Tị, là Tài bất chân vậy. Đầu vận Ất Mùi, Giáp Ngọ, mộc hỏa đều vượng, tổ nghiệp thịnh vượng; vừa giao vận Quý Tị, đều theo Thân hợp, thất bại như tro, cuối cùng làm ăn mày.

257 - Canh Thìn - Ất Dậu - Đinh Sửu - Ất Tị

Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão

Nhật nguyên Đinh hỏa, giờ gặp vượng địa, 2 Ấn sinh thân. Hỏa vượng kim cường, tựa như phú cách. Chẳng biết can tháng Ất mộc hợp Canh mà hóa, chi hội kim cục, tứ trụ toàn là Tài, trái lại thành Tài thần bất chân vậy. Tổ nghiệp cũng thịnh vượng, đầu vận Bính Tuất, Đinh hợi, Tỉ Kiếp trợ thân, tiền bạc dư dả; vận Mậu Tý Kỷ Sửu, sinh kim hối hỏa, người vong nhà phá, rốt cuộc mùa đông đói mà chết.

Sao biết người tiện? Quan tinh vẫn không thấy.

Nguyên chú: Quan tinh không thấy, không những thất lệnh mà bị thương vậy. Thân khinh Quan trọng, Quan khinh Ấn trọng, Tài trọng không có Quan, Quan trọng không có Ấn, đều là Quan tinh không thấy vậy. Ở giữa có một trọc tài, thì không bần; về phần dụng thần vô lực mà kỵ thần thái quá, địch mà không chịu hàng, trợ vượng khi nhược, chủ tòng không thích hợp, tuế vận bất giúp, thì vừa bần còn tiện.

Nhâm thị viết: Đoạn này nguyên chú nói quá sơ lược, nhưng trong phú quý, không phải không có tiện, trong bần tiện, không phải không có quý, cho nên một chữ tiện, không dễ biết vậy.
Như thân nhược Quan vượng, không dụng Ấn thụ hóa, trái lại lấy Thương quan cưỡng chế; như thân nhược Ấn khinh không lấy Quan tinh sinh Ấn, ngược lại lấy Tài tinh phá Ấn; như Tài trọng thân khinh, không lấy Tỉ Kiếp trợ thân, lại lấy Tỉ Kiếp đoạt Tài, hợp cách này, quên mất Thánh hiền đã dạy rõ, không nghĩ tổ phụ tổ phụ tích đức, dẫn đến họa sinh bất trắc, vạ lây con cháu. Như thân nhược Ấn khinh, Quan vượng không có Tài, hoặc thân vượng Quan nhược, Tài tinh không hiện, hợp cách này, dẫn đến không đổi bần khốn, ý chí gặp phú quý không dễ, không thể không lễ nghĩa, không lấy đại nghĩa. Cho nên biết tham tài đổi lụa mà không quên hố tiền, mà cuối cùng một thời làm mang nhục vinh hiển, vui cái giỏ bầu mà cam chịu theo vết chân, cuối cùng phải chịu tải đủ điều, lý là lấy có 3 loại Quan tinh không thấy: Quan khinh Ấn trọng mà thân nhược, hoặc Quan trọng Ấn khinh mà thân nhược; Quan Ấn cân bằng mà nhật chủ hưu tù, chỗ này là Thượng đẳng Quan tinh không thấy vậy; Như Quan vượng hỉ Ấn, mà Tài tinh phá Ấn, hoặc Quan Sát trọng mà không có Ấn, Thực Thương cưỡng chế, hoặc Quan nhiều kỵ Tài, Tài tinh lại đắc cục, hoặc hỉ Quan tinh mà Quan tinh hợp thần khác hóa Thương quan. Hoặc là kỵ Quan tinh, thần khác hợp Quan tinh mà hóa Quan, chỗ này là loại Hạ đẳng Quan tinh không thấy vậy.
Nên nghiên cứu tường tận vậy.

258 - Đinh Sửu - Nhâm Tý - Đinh Hợi - Giáp Thìn

Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ

Đinh hỏa sinh vào giữa mùa đông, can thấu Nhâm thủy, chi hội đủ Hợi Tý Sửu thủy cục, Quan tinh quá vượng; Thìn thuộc thấp thổ, không thể chế thủy, ngược lại làm hối hỏa, gọi là tượng thanh khô, Quan tinh lại không chân vậy. Hỉ không có kim, khí thế thuần thanh, là người học vấn chân xác, xử thế không bạc, dạy ngu qua ngày, thủ khổ thanh bần, là thượng đẳng Quan tinh không thấy vậy.

259- Bính Thìn - Canh Dần - Bính Ngọ - Nhâm Thìn

Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân

Tạo này Tài tuyệt vô căn, Quan lại vô khí, thêm chi vận đến đất đông nam, tuổi thơ mất cha, theo mẹ tái giá; mẫu tử mấy năm, chăn trâu kiếm ăn qua ngày, lâu ngày thì ra sức làm thuê, sau đôi mắt bị mù, không thể làm mướn, ăn mày kiếm sống.

260 - Đinh Mão - Giáp Thìn - Tân Hợi - Quý Tị

Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất

Tạo này xuân kim phùng hỏa, lý là cần Ấn hóa Sát, Tài tinh phá Ấn, Quý thủy khắc Đinh, Hợi xung Tị, tựa như chế Sát hữu tình. Chẳng biết xuân thủy hưu tù, mộc hỏa cùng vượng, chẳng những không thể khắc hỏa, ngược lại đi sinh mộc tiết kim; Tài Quan vốn có thể làm vinh thân, nhưng nhật chủ không thể gánh vác, tuy là tâm chuyên nhất định muốn cầu. Sao lại che đậy chứ! Xuất nhân không nghèo hèn, đầu tiên học âm nhạc, sau do mất tiếng mà theo quan; người vô cùng lanh lợi, mà lại rất gặp thời cơ, theo được mấy năm, phát tài phản chủ, lại cống nạp ra làm quan cửu phẩm, tác oai tác phúc, không từ bất kể chuyện xấu nào; về sau phạm tội bị cách chức, nghèo khó như cũ.

Sao biết người cát? Hỉ thần là phụ trợ.

Nguyên chú: Chỗ hỉ thần ở trong trụ, tả hữu chung thủy, đều đắc lực thì tất cát, song tình thế chung thuận lợi, nội thể vững chắc, chủ tòng được thích hợp, dẫu có 1, 2 kỵ thần, thích đến công kích, cũng không hung hiểm, giống như trong một quốc gia an hòa, không sợ giặc ngoại bang.

Nhâm thị viết : Hỉ thần, là phụ dụng thần trợ chủ. Phàm bát tự trước tiên cần phải có hỉ thần, cả đời hữu cát vô hung, cho nên hỉ thần chính là cát thần vậy. Nếu trong trụ có dụng thần và hỉ thần, tuế vận không gặp kỵ thần thì vô hại, lỡ gặp kỵ thần tất hung, như Mậu thổ sinh vào tháng Dần, lấy Giáp mộc trong Dần làm dụng thần, kỵ thần nhất định là Canh Tân Thân Dậu kim, nguyên thần nhật chủ dày, lấy Nhâm Quý Hợi Tý làm hỷ thần, thì kim gặp thủy ma tham sinh, không đến khắc mộc vậy; nguyên thần nhật chủ hư nhược, lấy Bính Đinh Tị Ngọ hỏa làm hỷ thần, thì kim sợ gặp thủy, cũng không đến khắc mộc vậy. Như thân nhược lấy Bính hỏa trong Dần làm dụng thần, hỉ thấy thấu ra thiên can, lấy thủy là kỵ thần, lấy Tỉ thổ là hỉ thần, cho nên dụng Quan dụng Ấn có phân biệt; Dụng Quan, nếu thân vượng có thể lấy Tài làm hỉ thần; thân nhược dụng Ấn, rồi sau đó lấy Quan làm hỉ thần, không có hỉ thần mà dụng thần đắc lệnh hùng tráng, đại thế kiên cố, tứ trụ an hòa, dụng thần đứng cạnh, không tranh không đố, tức gặp kỵ thần cũng không hung hiểm. Như nguyên cục không có hỷ thần, có kỵ thần (hoặc ám phục hoặc xuất hiện), hoặc đứng sát bên dụng thần, hoặc tranh hoặc đố, hoặc dụng thần không nắm lệnh, hoặc tuế vận dẫn xuất kỵ thần, trợ khởi kỵ thần, giống như quốc gia có gian thần, tư thông giặc ngoại bang, hai mặt giáp công thì hung họa lập tức đến. Luận về thổ như thế, còn lại đều luận giống vậy.

261 - Giáp Tý - Bính Dần - Mậu Dần - Kỷ Mùi

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất.

Đầu xuân thổ hư, Sát vượng phùng Tài, lấy Bính hỏa làm dụng, hỉ Tài cùng Ấn cách nhau, sinh sinh không nghịch; kỳ diệu là giờ Mùi trợ thân là hỉ thần; tứ trụ thuần túy, chủ tòng được thích hợp. Cho nên cả đời có cát không có hung, làm quan đến Quan Sát, sau lui về ở ẩn an nhàn, sinh 6 người con đều đăng khoa giáp, vợ chồng hòa thuận yên vui, thọ hơn 80 tuổi.

262 - Bính Thân - Kỷ Hợi - Canh Thìn - Mậu Dần

Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị

Mệnh này hàn kim hỉ hỏa, được chi giờ Dần sinh, thì hỏa có lửa, nhưng có Tài Sát, trước tiên thân phải vượng. Hay là tọa lộc ở chi năm, có 3 Ấn kề gần sinh, Hợi thủy nắm quyền, Thân kim tham sinh vong xung. Không có hỏa thì thổ đóng băng kim hàn lạnh, không có mộc thì thủy vượng hỏa hư, lấy hỏa làm dụng thần, lấy mộc làm hỉ thần, hai tự mộc hỏa, không thể thiếu một. Cho nên cả đời không có hung hiểm, đăng khoa giáp bảng, quan trường không có phong ba, con cháu phát quang, thọ ngoài 80 tuổi.

Làm sao biết người hung? Kỵ thần triển chuyển công.

Nguyên chú: Tài Quan vô khí, dụng thần vô lực, chẳng qua không thể phát đạt được mà thôi, cũng không có hình hung vậy. Về phần kỵ thần quá nhiều, hoặc hình hoặc xung, tuế vận trợ giúp. Triển chuyển (Gián tiếp) công kích, trong cục không có thần chế ngự, lại không có chủ để tòng, không khỏi hình thương phá bại, phạm tội chịu khổ, đến già vẫn như xưa.

Nhâm thị viết: Kỵ thần, là thần làm tổn hại dụng thần. Cho nên bát tự trước tiên phải có hỉ thần, thì kị thần không có thế. Lấy kỵ thần là bệnh, hỉ thần là dược, bệnh có dược chữa là cát, có bệnh mà không có dược là hung; cả đời ít cát nhiều hung, đều là do kỵ thần đắc thế vậy.
Như người sinh tháng Dần, không dụng Giáp mộc mà dụng Mậu thổ, thì Giáp mộc nắm lệnh là kỵ thần, xem ý hướng của nhật chủ, hoặc là hỉ hóa mà hóa, hoặc là dụng kim để chế, dàn xếp thật tốt, lại gặp tuế vận phù hỉ ức kỵ, cũng có thể chuyển hung thành cát; nếu tuế vận lại không đến phù hỉ ức kỵ, lại không cùng kỵ thần kết thành bè đảng, bất quá cả đời là bình thường, không có chỗ phát đạt mà thôi; nếu không có hỏa hóa mộc, kim chế, lại gặp thủy sinh mộc, tuế vận lại bè đảng sinh trợ kỵ thần, hại hỉ thần của ta, gián tiếp công nhau, thì hung họa đủ điều, đến già cũng không cát, luận mộc như vậy, còn lại tương tự mà suy luận.

263 - Ất Hợi - Mậu Dần - Bính Tý - Giáp Ngọ

Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân

Bính hỏa sinh tháng Dần, Ấn tinh nắm lệnh, giờ gặp Nhận vượng, Giáp Ất cùng vượng thấu ra, tứ trụ vô kim; Dần Hợi hợp hóa mộc, Tý thủy bị xung phá, Quan tinh vô dụng, tất lấy can tháng Mậu thổ làm dụng thần. Kỵ thần Giáp mộc, Hợi Tý thủy, lại sinh mộc vượng, chỗ gọi là Kỵ thần triển chuyển công vậy. Đầu vận Đinh Sửu, sinh trợ dụng thần, tổ nghiệp có hơn 10 vạn; vừa giao vận Bính Tý, hỏa không thông căn, cha mẹ đều mất, hết lộc; vận Ất Hợi thủy mộc đều vượng, lại hết lộc lần nữa, khắc 3 vợ 4 con, nhảy sông tự tử.

264 - Tân Tị - Canh Dần - Bính Thìn - Kỷ Sửu

Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân

Bính hỏa sinh tháng Dần, mộc non hỏa tướng, không là vượng vậy, sinh giờ Sửu, cướp đi nguyên thần nhật chủ, lấy Dần mộc làm dụng thần. Chỗ ngại là Canh kim thấu xuất là kỵ thần, Dần mộc phùng kim, hỏa hư thoát khí. Đầu vận Kỷ Sửu, Mậu Tý, sinh kim tiết hỏa, mồ côi cha mẹ, cô khổ bất kham; vận Đinh Hợi, Bính Tuất, hỏa tại phương tây bắc, không thể khử hết kỵ thần, cho nên nhiều lần phong sương, hơi thành gia nghiệp; vừa giao vận Ất Dậu, can chi đều hợp hóa kỵ thần, hình thê khắc tử, gặp nạn thủy mà chết.

Sao biết người thọ? Tính định Nguyên thần dày

Nguyên chú: Tĩnh là thọ, trong trụ không có xung không có hợp, không có khuyết không có tham, thì tính định vậy. Nguyên thần tồn tại, không chỉ nói là tinh khí thần khí đều đầy đủ vậy, Quan tinh không tuyệt, Tài thần không diệt, Thương quan có khí, thân nhược Ấn vượng, đề cương phụ trợ chủ, dụng thần có lực, thời thượng sinh căn, vận không có tuyệt địa, đều là xứ nguyên thần kiên cố. Nghiên cứu kĩ, nói chung khí Giáp Ất Dần Mão, không gặp xung chiến tiết thương, thiên vượng phù phiếm mà dàn xếp được ổn thỏa thì tâm thọ. Mộc thuộc Nhân, Nhân là thọ, mỗi lần đều nghiệm, cho nên mới dám đặt bút viết. Nếu người bần tiện mà cũng có thọ, bẩm lấy được một thân vượng, hoặc là thân nhược mà hành vận sinh địa, cho nên thực lộc không khuyết vậy.

Nhâm thị viết: Nhân, Tĩnh, Khoan, Đức, Hậu, 5 cách này, đều là dấu hiệu thọ vậy. Tứ trụ đắc địa, ngũ hành cân bằng, chỗ hợp đều là nhàn thần, chỗ hóa đều là dụng thần, xung khử đều là kỵ thần, lưu tồn đều là hỉ thần, không khuyết không hãm, không thiên không khô, thì là tính định vậy. Tính định không sinh lén vụn trộm lưu luyến, là người bao gồm đầy đủ khoan hậu bình hòa, nhân đức, không hề không có phú quý phúc thọ vậy. Nguyên thần dày, như Quan nhược gặp Tài, Tài khinh gặp Thực, thân vượng mà Thực Thương phát túh, thân nhược mà Ấn tinh nắm quyền, chỗ hỉ đều là thần ở đề cương, chỗ kỵ đều là vật thất lệnh, đề cương đều là cùng chi giờ có tình, vận hành cùng hỉ dụng thần không nghịch, đều là chỗ Nguyên thần dày, nên nghiên cứu cho tường tận. Thanh mà thuần tuý, tất phú quý mà thọ; trọc mà hỗn tạp, tất bần tiện mà thọ.

265 - Tân Sửu - Quý Tị - Giáp Tý - Bính Dần

Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu.

Tạo này khởi nguyên đầu từ Tị hỏa, sinh Sửu thổ, Sửu thổ sinh Tân kim, Tân kim sinh Quý thủy, Quý thủy sinh Giáp mộc, Giáp mộc sinh Bính hỏa; Giáp lộc cư ở Dần, Quý lộc cư ở Tý, Bính lộc cư ở Tị, Tân kim Quan tinh tọa Tài địa, Tài gặp Thực thần sinh, nguyên lưu ngũ hành đều dày, tứ trụ thông căn sinh vượng, hai bên trên dưới đều có tình, làm người cương nhu hòa hợp, nhân đức đều có đủ, làm quan tam phẩm, giàu có hơn trăm vạn, con cái 13 người, thọ đến trăm tuổi, không bệnh mà chết.

266 - Kỷ Dậu - Ất Hợi - Bính Dần - Mậu Tý

Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Tạo này Dậu kim là nguyên đầu, sinh Hợi thủy, Hợi thủy hợp Dần mà sinh Bính hỏa, Bính hỏa sinh Mậu thổ, nguyên thần đều dày. Xuất thân hương bảng, làm quan chức Quan Sát, là người khoan hậu chính trực, có 9 người con 24 người cháu, giàu có hơn trăm vạn, thọ đến 120 tuổi, không bệnh mà chết.

267 - Kỷ Dậu - Tân Mùi - Nhâm Dần - Nhâm Dần

Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi

Tạo này Mùi thổ là nguyên đầu, sinh Tân kim, Tân kim sinh Nhâm thủy, Nhâm thủy sinh Dần mộc, tứ trụ sinh hóa hữu tình, nguyên thần dày mà thuần túy. Hỉ hỏa tàng không lộ. Sớm đăng khoa giáp, làm quan tam phẩm, là người phẩm hạnh đoan chính, hòa nhã nhân hậu; có 8 con 19 cháu, thọ đến 96 tuổi.

268 - Đinh Mùi - Canh Tuất - Canh Thìn - Bính Tý

Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị/ Giáp Thìn

Tạo này Đinh hỏa là nguyên đầu, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, tàng hai Tài khố, thân vượng dụng Quan. Trung niên hành vận không nghịch, cho nên sớm đăng hương bảng, danh lợi song toàn. Là người cương quyết, công tư phân minh, không có hà khắc bạc đãi. Tiếc là ở không có mộc, nguyên thần hỏa không đủ, nhánh cháu tuy vượng, nhưng con trưởng khó tránh bị nhiều lo phiền tổn hại.

269 - Ất Mùi - Mậu Dần - Ất Mão - Canh Thìn

Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ.

Tạo này chi hội đông phương, đúng Khúc Trực Nhân Thọ cách, nói chung Tài Quan có khí, danh lợi song toàn. Nhưng ngũ hành hỏa không hiện, nguyên thần Tài hư thoát, Dần Mão phương đông mộc vượng, căn Quan tinh cũng nhược. Cho nên cả đời giữ gìn thanh sạch, túi tiền chưa đầy đã hết, mà cả đời khinh tài trọng nghĩa; là người không kiêu căng xu nịnh, giữ gìn đạo lý, thanh bần thủ khổ; sinh 4 con đều có năng lực, thọ đến 94 tuổi.

270 - Quý Sửu - Giáp Dần - Mậu Tuất - Canh Thân

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân

Ngày Mậu Tuất gặp giờ Canh Thân, Thực thần có lực, Sát vượng không có Ấn, đủ để cưỡng chế. Sinh 8, 9n người con đã có đến 3, 4 người quý hiển mà nhận lệnh phong quan nhất phẩm, hay là ở thổ kim có tình vậy. Là người đủ tính tham ác, là do không thể hóa Sát vậy, dâm đãng hoang phí vô lễ, hỏa không hiện, là do thủy đắc địa vậy. Bởi do Dần xung Thân, nên tất phá Bính hỏa, Sửu hình Tuất Đinh hỏa cũng bị thụ thương, thêm thấu ra Quý thủy, thì nhật chủ tất nhớ hợp, không quan tam mà cầu; chi Dần Tuất tàng hỏa, âm thầm khắc hết, nói hỏa chủ lễ, sao là người có thể vô lễ? Vô lễ thì không từ bất cứ việc gì vậy. Giả sử can năm Quý thủy, đổi thành Đinh hỏa, thì không có không nhân đức vậy. Phú quý phúc thọ, đều do lực ở giờ Thân, cũng nhờ công đức tổ tiên vậy. Hậu sinh bị ung nhọt đầu mà chết, đều do tích ác quá nhiều, mà trời tru diệt vậy.

271 - Mậu Thìn - Canh Thân - Kỷ Mão - Mậu Thìn

Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần

Mệnh này là thổ kim Thương quan, Quý thủy trong thìn, là Thiên Tài quy khố, Nhâm thủy trong Thân, là Chính Tài phùng sinh, Kiếp tuy vượng nhưng không thể đoạt Tài; lại thêm thổ khí sinh kim, là Thương quan hóa Kiếp, ám sinh Tài tinh, kiêm đôc Sát vi quyền, cho nên là người có quyền mưu xuất chúng, địa chi toàn là khí âm thấp, việc làm quỷ quyệt đa đoan, cả đời chỉ coi trọng tài, mà thiếu nhân nghĩa, đến 40 tuổi vẫn không con cái, cưới 2 vợ vẫn không có con; Thọ ngoài 90 tuổi, đặc biệt tài như mệnh, sau cuối cùng gia nghiệp có hơn 40 vạn, cướp đoạt mà hết. Nghiên cứu kĩ, đều là do Tài tinh thủ ở ẩn tàng, cho nên không được lưu hành vậy, tài không lưu hành, thu kim gặp thổ mà càng cứng, sức sống liền bị đoạn tuyệt mà thôi, nói chung tài dày mà không có con, đều giống như cách này, cho nên người không có con, tính tình tất nhiều bỉ lận, không biết tài tán thì dân tụ, giả sử người giàu mà không có con có thể khinh tài ở trong thân tộc, chia nhiều lợi ích, sao sợ không có con chăng? Giống như tạo này, kim khí quá kiên, thủy không lộ đầu, không được sinh sôi kỳ diệu, có thể tán tài, thì kim tự lưu hành, thì tất có con vậy. Nhưng tán cũng có ưu và khuyết, tán tài ở tăng đạo, thì là vô công; tán tài ở thân tộc, thì có công. Tu đức được báo đáp, chuyện đời vốn có thể xoay chuyển; làm thiện nhiều thì cát, thiên tâm nào khó cảm hóa, thọ vốn là đứng đầu Ngũ phúc ( Ngũ phúc là bao gồm: 1 là giàu, 2 là yên lành, 3 là Thọ, 4 là có đức tốt, 5 là vui hết tuổi trời), thọ mà không có con, cuối cùng cũng vô ích; cùng phú thọ mà không có con, không bằng bần thọ mà có con vậy.

Sao biết người yểu? Do khí trọc thần khô.

Nguyên chú: Mệnh khí trọc thần khô, là Ấn thụ thái vượng, nhật chủ không có chỗ dựa, Tài Sát thái vượng, nhật chủ không có nơi nương tựa, kỵ thần cùng hỉ thần tạp mà lo, tứ trụ và dụng thần trái lại tuyệt, xung mà bất hòa, vượng mà không có chế, thấp mà không tông, táo mà nồng, tinh lưu khí tiết, tháng nghịch giờ thoát, chỗ này đều là người đoản thọ.

Nhâm thị viết: Mệnh khí trọc thần khô, ở trong dễ mà khó xem, 4 chữ "Khí trọc thần khô", có thể phân ra mà nói, chữ trọc giống như luận một chữ nhược. Khí trọc, là nhật chủ thất lệnh, dụng thần kém cỏi, kỵ thần thâm dày, đề cương và chi tháng không chiếu cố nhau, chi năm và chi ngày bất hòa, hỉ xung mà không xung, kỵ hợp mà lại hợp, hành vận cùng hỉ dụng thần vô tình, lại cùng kỵ thần kết bè đảng, tuy không thọ mà có con. Thần khô, là thân nhược mà Ấn thụ quá vượng; thân vượng mà hoàn toàn không có khắc tiết; nhưng trọng dụng Ấn mà Tài tinh phá Ấn; thân nhược không có Ấn mà Thực Thương trùng điệp; hoặc kim hàn thủy lạnh mà thổ thấp; hoặc hỏa viêm thổ táo mà mộc khô, đều là yểu mệnh và không có con.

272 - Ất Sửu - Ất Dậu - Bính Thìn - Tân Mão

Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ/ Tân Tị/ Canh Thìn/ Kỷ Mão

Mệnh này có 3 Ấn phù thân, Thìn Dậu hợp mà không xung, tứ trụ không có thủy, dường như là trung cách. Nhưng chi đều là thấp thổ, hối hỏa sinh kim, Thìn cùng dư khí mộc, cùng Dậu hợp Tài, mộc không thể nhờ căn, cùng Dậu hóa kim, thì mộc lại bị tổn hại, thiên can có 2 Ất, địa chi không tải, thì là có thể biết tàn héo vậy, suy từ chỗ này, nhật nguyên hư nhược. Đến Ngọ vận, phá Dậu bảo vệ Mão, được duy nhất 01 đứa con; vận Tân Tị, hoàn toàn hội kim cục phá Ấn, thì nguyên khí thụ thương nặng, hội Tài thì Tài vật cực tất phản, vợ chồng đều mất.

273 - Kỷ Sửu - Mậu Thìn - Tân Hợi - Mậu Tuất

Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất

Mệnh này thổ dày trùng trùng, chôn lấp kim non giòn, ngũ hành không có mộc; không có lợi khai dương, một chút Hợi thủy bị khắc tuyệt, chi tàng Giáp Ất, không thể nào dẫn trợ; nhưng mùa xuân khí thổ hư, Tài tàng có thể làm dụng thần; đầu vận phương đông mộc địa, được che chở có dư; Dần vận sinh được một con. Ất Sửu vận, thổ lại thông căn mà chết yểu.

274 - Nhâm Dần - Nhâm Dần - Giáp Dần - Nhâm Thân

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Xuân mộc trọng phùng lộc, chi đượ giờ Thân, tựa như giờ Sát lưu thanh, chẳng biết mộc vượng kim khuyết, tất phải cần có hỏa mới đẹp; can có 3 Nhâm, trong Dần có Bính hỏa bị khắc, có thể biết là Thần khô vậy. Đến vận Bính hỏa, gặp 3 Nhâm hồi khắc, gia nghiệp phá tán, yểu mà không có con. Phàm thủy mộc cùng vượng mà không có thổ, tối kỵ là hỏa vận, tức là thân không bị hại, thì cũng phá hao dị thường. Nếu theo tục luận tất dụng Thân kim, là do 2 hỏa khắc kim vậy, như Bính hỏa khắc kim là hại, thì trước đó vận Ất Tị, khẩn khắc Thân kim, mà còn bị tam hình, sao lại đẹp chứ?

275 - Tân Sửu - Tân Sửu - Quý Dậu - Quý Sửu

Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi

Mệnh này thấp thổ trùng trùng, trùng điệp kim hàn, Quý thủy trọc mà còn băng hàn, chỗ gọi là âm dày, rất hàn lạnh vậy. Nói không có sinh phát, là khí trọc thần khô, cho nên là người ngu muội quá mức, không làm nên việc gì. Đến vận Mậu Tuất, sinh kim khắc thủy mà chết yểu. Theo tục luận, là Lưỡng can bất tạp, kim thủy song thanh, địa chi tam sát, Sát Ấn tương sinh là đẹp, định là quý cách, trước thì xuân mộc mang kim non, mài dủa thành đại khí, đều lấy là cách danh lợi song toàn. Chẳng biết yểu mệnh, đều là giống như cách này, học giả nên nghiên cứu cho tường tận.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 6 - Nữ Mệnh Chương

Luận chồng luận con phải yên ổn,
Khí tĩnh hòa bình phụ nữ chương,
Tam Kỳ Nhị Đức nói tốt hư,
Hàm Trì Dịch Mã nửa rõ suy.


Nguyên chú: Trong cục Quan tinh thuận theo rõ, chồng quý mà cát, lý lẽ là tự nhiên vậy. Nếu Quan tinh thái vượng, lấy Thương quan làm chồng, Quan tinh quá bé, lấy Tài làm chồng; Tỉ kiên vượng mà không có Quan, lấy Thương quan làm chồng; Thương quan vượng mà không có Tài Quan, lấy Ấn làm chồng, cục đầy Quan tinh bắt nạt nhật chủ, hỉ Ấn thụ mà nó không khắc thân vậy; cục đầy Ấn thụ tiết khí Quan tinh, hỉ Tài mà thân không khắc mất vậy.
Nói chung, luận con luận quý cùng với nam mệnh là giống nhau. Trong cục Thương quan thanh hiển, con quý mà thân, không cần phải nói vậy. Nếu Thương quan quá vượng, lấy Ấn làm con; Thương quan quá bé, lấy Tỉ kiên làm con, Ấn thụ vượng mà không có Thương quan, lấy Tài làm con vậy; Tài thần vượng mà tiết Thực Thương, lấy Tỉ kiên làm con vậy. Không cần phải chuyên lấy Quan tinh mà luận chồng. Chuyên lấy Thương Thực mà luận con. Chỉ lấy yên ổn là cát, thuận tĩnh là quý, Nhị Đức Tam Kỳ không đáng luận, Hàm Trì Dịch Mã dù có nghiệm, nói chung ở lý lẽ là không bền. Trong đó nghiên cứu mà luận, thì không thể không biết.


Nhâm thị viết : Nữ mệnh, trước tiên xem Phu tinh thịnh suy, thì cùng biết quý vậy. Kế đến khảo sát cách cục thanh hay trọc, thì biết tài hay ngu vậy. Dâm tà hay tật hại, tình không rời tứ trụ; trinh tĩnh đoan chính, chung quy cũng ở lý ngũ hành. Đều cần phải thẩm tra tinh thông, trinh tiết phụ nữ không bị sai bậy; nghiên cứu kỹ càng nên xác thực, luận đúng dâm ô khó thoát. Nhị Đức Tam Kỳ, là ngông cuồng tạo ra chuyện tốt; Hàm trì Dịch mã, là hậu nhân nói sai. Không có hiếu với cha mẹ chồng, chỉ vì Tài khinh Kiếp trọng; bất kính với chồng, đều do Quan nhược thân cường. Quan vượng hiện rõ, chồng chủ tài hoa; khí tĩnh ôn hòa, là phụ nữ nhu thuận. Nếu là Quan tinh thái vượng, không có Tỉ Kiếp lấy Ấn làm phu tinh; Có Tỉ Kiếp mà không có Ấn thụ, lấy Thực Thương làm chồng. Nếu Quan tinh quá nhược, có Thương quan, lấy Tài làm chồng, không có Tài tinh mà Tỉ Kiếp vượng, cũng lấy Thực Thương làm phu tinh; toàn bàn đêu là Tỉ mà không có Quan Ấn, lấy Thực Thương làm chồng; toàn cục Ấn thụ mà không có Quan không có Thương lấy Tài làm chồng; Thương quan vượng, nhật chủ suy, lấy Ấn làm chồng; Nhật chủ vượng, Thực thương nhiều, lấy Tài làm chồng; Quan tinh khinh, Ấn thụ trọng, cũng lấy Tài làm chồng.
Tài là Thiên ân tinh, nữ mệnh thân vượng không có Quan, Tài tinh đắc lệnh đắc cục, là thượng cách vậy. Nếu luận hình thương, lại có thêm lý sinh khắc tồn tại ở chỗ này. Quan tinh suy, Tài tinh ẩn, nhật chủ cường, Thương quan trọng, thì khắc phu; Quan tinh suy, không có Tài tinh, Tỉ Kiếp vượng, thì bắt nạt chồng; Quan tinh suy, không có Tài tinh, nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, tất là bắt nạt chồng mà khắc phu; Quan tinh nhược, Ấn thụ nhiều, không có Tài tinh, tất khắc phu; Tỉ Kiếp vượng, không có Quan tinh, Ấn vượng không có Tài, tất khắc phu; Quan tinh vượng, Ấn thụ khinh, tất khắc phu; Tỉ Kiếp vượng, không có Quan tinh, có Thương quan, Ấn thụ trọng, tất khắc phu; Thực thần nhiều, Quan tinh suy, có Ấn thụ, gặp Tài tinh, tất khắc phu.
Phàm Phu tinh nữ mệnh, tức là dụng thần, Tử tinh nữ mệnh tức là hỉ thần, không thể chuyên luận Quan tinh là chồng, Thực Thương là. Nhật chủ vượng, Thương quan vượng, không có Ấn thụ, có Tài tinh, con nhiều mà quý; Nhật chủ vượng, Thương quan vượng, không có Tài Ấn, con nhiều mà mạnh mẽ; Nhật chủ vượng, Thương quan khinh, không có Tài Ấn, con nhiều mà giàu có; Nhật chủ vượng, ắt phải không có Thực, Quan tinh đắc cục, con nhiều mà hiền; Nhật chủ vượng, không có Thực Thương, có Tài tinh, không có Quan Sát, con nhiều mà tài năng; Nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, có Ấn thụ, không có Tài tinh, tất có con; Nhật chủ nhược, Thực Thương khinh, không có Tài tinh, tất có con; Nhật chủ nhược, Tài tinh khinh, Quan Ấn vượng, tất có con; Nhật chủ nhược, Quan tinh vượng, không có Tài tinh, có Ấn thụ, tất có con; Nhật chủ nhược, không có Quan tinh, đều có Thương quan, tất có con; Nhật chủ vượng, có Ấn thụ, không có Tài tinh, tất hiếm con; Nhật chủ vượng, Tỉ kiên nhiều, không có Quan tinh, có Ấn thụ, tất hiếm con; Nhật chủ vượng, Ấn thụ trọng, không có Tài tinh, tất không có con; Nhật chủ nhược, Thương quan trọng, Ấn thụ khinh, tất không có con; Nhật chủ nhược, Tài tinh trọng, gặp Ấn thụ, tất không có con; Nhật chủ nhược, Quan Sát vượng, tất không có con; Nhật chủ nhược, Thực Thương vượng, không có Ấn thụ, tất không có con; Hỏa viêm thổ táo, không có con; Thổ kim thấp không thông, không có con; Thủy phiếm mộc phù, không có con; Kim hàn thủy lạnh, không có con; Ấn thụ trùng điệp, không có con; Tài Quan thái vượng, không có con; đầy cục toàn là Thực Thương, không có con.
Trên đây là cách không có con, nếu có con tất khắc phu, không khắc phu cũng chết yểu.

Về phần thuyết dâm tà, cũng nghiên cứu tứ trụ. Nhật chủ vượng, Quan tinh suy, không có Tài tinh, nhật chủ đủ để đối địch; Nhật chủ vượng, Quan tinh suy, Thực Thương trọng, không có Tài tinh, nhật chủ đủ để bắt nạt; Nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí nhật chủ, đi sinh trợ thần khác; Nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí Quan tinh hợp nhật chủ mà hóa; nhật chủ vượng, Quan tinh nhược, khí Quan tinh, dựa vào thế nhật chủ; nhật chủ nhược, không có Tài tinh, có Thực Thương, gặp Ấn thụ, nhật chủ là chuyên quyền; nhật chủ vượng, không có Tài tinh, Quan tinh khinh, Thực Thương trọng, Quan tinh không có hỗ nương tựa; nhật chủ vượng, Quan vô căn, nhật chủ không thuận Quan tinh, mà đi hợp Tài tinh; nhật chủ nhược, Thương Thực trọng, Ấn thụ khinh; nhật chủ nhược, Thực Thương trọng, không có Ấn thụ, có Tài tinh; Thực Thương nắm lệnh, Tài Quan thất thế; Quan không có Tài sinh, Tỉ Kiếp sinh Thực Thương; cục toàn Thương quan mà không có Tài; cục đầy Quan tinh không có Ấn; cục đầy Tỉ Kiếp không có Thực Thương; cục đầy Ấn thụ không có Tài, đều là mệnh dâm tiện vậy.

Tóm lại, Thương quan không nên trọng, trọng tất xinh đẹp lẳng lơ mà đa dâm vậy; Thương quan thân nhược có Ấn, thân vượng có Tài, tất xinh đẹp thông minh mà trinh khiết vậy. Phàm xem nữ mệnh, quan hệ không nhỏ, không thể khinh đoán dâm tà, lấy xúc phạm phẫn nộ. Nhưng cũng không tể một mực mà nói, hoặc là do tổ tông khiến cho gây ra tội lỗi; hoặc là do vận mệnh gia môn, hoặc là do chồng chẳng ra gì, hoặc là do mẹ chồng bất lương, lúc nhỏ không dạy bảo cẩn thận, hoặc là do thói quen không tốt, không có cẩn thận phận gái, mặc cho kỷ cương phép tắc, vào chùa đốt hương, nghe lời du ngoạn mua vui, nam nữ hỗn tạp, lúc đầu thì chỉ có nói đùa chưa có việc gì, lâu ngày thì trong tâm nảy sinh tà ý quan hệ bất chính, sao nói là không động tâm chứ? Cho nên sự kiện thứ nhất là phải ở nhà, nghiêm túc giữ gìn khuê môn. Trong khuê phòng, không có những lời nói đùa, thì hình phạm được hóa vậy; trong nhà, không nghe tiếng cười đùa, thì sẽ tôn kính nhau vậy. Chủ nhà không thể không cẩn thận vậy.

276 - Mậu Thân - Giáp Dần - Nhâm Dần - Đinh Mùi

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ.

Nhâm thủy sinh vào đầu xuân, thổ hư mộc thịnh. Chế Sát thái quá. Dần Thân xung nhau, vốn là khắc mộc, chẳng biết mộc vượng kim khuyết, kim lại bị thương, thì Mậu thổ vô căn để theo chăm sóc, mà nhật chủ Nhâm thủy, có thể tùy hứng mà đi, thấy Tài tinh có thế, tự nhiên tòng Tài mà đi, dẫn đến hại chồng bại nghiệp, bỏ con cái mà đi theo người khác vậy.

277 - Đinh Mùi - Ất Tị - Giáp Ngọ - Đinh Mão

Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu.

Nhật nguyên Giáp Ngọ, sinh vào tháng Tị, chi thuộc nam phương, can thấu 2 Đinh, thế hỏa mãnh liệt. Tiết khí nhật chủ quá mức, trong cục không có thủy, chỉ có thể dụng Kiếp. Đầu vận lại gặp hỏa địa, sớm hình thương chồng. Là người cực thông minh xinh đẹp, mà lẵng lơ dị thường, không thể thủ tiết. Đến vận Mậu Thân, cùng mộc hỏa tranh chiến, không nói nổi vậy.

278 - Mậu Tuất - Kỷ Mùi - Bính Thìn - Mậu Tuất

Mậu Ngọ/ Đinh Mùi/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi.

Cục đầy Thương quan, ngũ hành không có mộc, Ấn tinh không hiện, thành cách thuận cục, cho nên là người thông minh xinh đẹp. Nhưng tứ trụ không có kim, thổ quá khô dày, Tân kim phu tinh nhảy vào Tuất mộ, người này dâm loạn quá mức. Chồng sớm chết thảm. Lại đi theo người, không quá hai đến ba năm lại khắc, đến vận Ất Mão, phạm thổ vượng, tự vẫn mà chết.

279 - Mậu Ngọ - Ất Sửu - Mậu Tuất - Bính Thìn

Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị.

Mậu thổ sinh vào tháng Sửu, thổ vượng, mộc đúng khô héo, mà Sửu là kim khố, Tân kim phục tàng, không thể nhờ căn, lại thêm Thìn Tuất xung Quan tàng, mà trung vận phương tây kim địa, dâm tiện không nói nỗi.

280 - Kỷ Hợi - Bính Dần - Đinh Hợi - Canh Tuất

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu

Đinh hỏa sinh tháng Dần, mộc nắm quyền, hỏa gặp vượng tướng, tất lấy Hợi thủy Quan tinh làm phu tinh là rõ ràng vậy. Chi năm Hợi thủy hợp Dần hóa mộc, mà chi ngày Hợi thủy, tất cần sinh phù mộc; can giờ Canh kim ngăn cách, không có ý sinh phù. Lại gặp Tuất thổ kề gần khắc, thì tình của nhật chủ, tất hướng về Canh kim vậy. Cho nên vô cùng dâm tiện vậy.

281 - Đinh Mùi - Quý Sửu - Canh Tý - Đinh Hợi

Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân.

Hàn kim hỉ hỏa, ngại là chi toàn Hợi Tý Sửu. Phương bắc thủy vượng, lại có can Quý khắc Đinh, Sửu Mùi xung khử Đinh hỏa dư khí, ngũ hành không có mộc, không có tình sinh hóa. Can giờ Đinh hỏa hư thoát vô căn, làm sao có thể quản nỗi Canh kim chứ? Mà tình nhật chủ, cũng biết không để ý đến Đinh hỏa, cho nên tính lẳng lơ vậy.

282 - Đinh Sửu - Quý Sửu - Canh Tý - Ất Dậu

Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu.

Canh kim sinh vào cuối mùa đông, không chỉ hàn kim hỉ hỏa, mà còn gặp mùa Dương Nhận Ấn thụ nắm quyền, đủ để dụng hỏa địch hàn; can tháng Quý thủy thông căn chi lộc, khắc tuyệt Đinh hỏa, đủ để đi lừa dối Quan; can giờ Ất mộc, mừng đến hợp, tình tất hướng về Tài vậy. Cho nên bỏ chồng mà đi, dâm ô không chịu nổi vậy.

283 - Đinh Sửu - Nhâm Tý - Tân Tị - Bính Thân

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân.

Nhâm thủy đi hợp khử Đinh hỏa Sát, Bính hỏa Quan tinh đắc lộc ở chi ngày Tị, tựa như tốt đẹp, cho nên xuất thân gia đình trước đây, vì xinh đẹp mà quyến rũ. Nhiều người thường lấy danh hiệu là so với Dương Phi. Lúc 4, 5 tuổi, mắt tú mi đẹp, đến 13, 14 tuổi càng thêm đẹp đẽ, trở thành người đẹp như tranh. Năm 18 tuổi, gả con thuộc người có học, trai tân vốn trinh trắng cẩn thận hiếu học, bị mê hoặc mà phế bỏ việc học, cuối cùng vì bệnh lao mà chết. Từ đấy về sau, dâm ô không chịu nổi, về sau thân bại danh liệt. Không có chỗ nương tựa, tự vẫn mà chết. Tạo này nguyên nhân là do bị nhiều hợp. Lấy Quan hợp hóa Thương quan, gọi là Tham hợp vong Quan, mà Tị Thân hợp cũng hóa Thương quan, Đinh Nhâm hợp hóa Tài tinh, rõ ràng có chủ ý gạt bỏ Bính hỏa ra ngoài. Tình tất hướng về bên cạnh Đinh Nhâm, huống chi can chi đều hợp, không hướng tới thì không đáng là ý trung nhân vậy.

284 - Mậu Tý - Mậu Ngọ - Quý Dậu - Mậu Ngọ

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất.

Quý thủy sinh vào tháng Ngọ, Tài quan cũng vượng, tọa dưới Ấn thụ, chi năm tọa lộc, chưa hẳn là không trung hòa. Thiên can thấu 3 Mậu thổ, tranh hợp Quý thủy, thì tình nhật chủ, càng không có định kiến; địa chi 2 Ngọ phá Dậu, mà thế Tài Quan, không phân cường nhược, tình nhật chủ hiển nhiên dựa theo thế Tài mà đi. Chỉ có can năm chính phu không có thế Tài. Cho nên lực không địch lại Quan ở can tháng và giờ, cho nên không quan tâm không dàn xếp đến chính vậy. Đến vận Ất Mão, mộc sinh hỏa vượng, 2 can thổ giờ và tháng, vẫn được sinh phù, can thổ ở năm không hóa mà bị khắc, cho nên chồng lâm bệnh mà chết, về sau dâm ố dị thường, lầm lỗi hại người, đáng tin!

285 - Ất Mùi - Tân Tị - Ất Hợi - Bính Tuất

Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu.

Ất mộc sinh tháng Tị, Thương quan nắm lệnh, hỉ nhất là tọa dưới Hợi Ấn xung Tị chế Thương, không chỉ nhật chủ hỉ được sinh phù, mà ức chế Tân kim được bảo hộ nên đẹp, đúng chỗ gọi là Thương quan dụng Ấn, độc Sát lưu thanh, chẳng những xinh đẹp mà còn tài cao, thư hoạ đều tinh thông. Chỉ ngại giờ Tuất gần bên khắc Hợi thủy, Bính dương thấu lộ, Tân kim thụ thương, bất lợi cung chồng con, kiêm tính cách mà phá hư cả đời vậy.

286 - Đinh Tị - Mậu Thân - Quý Sửu - Ất Mão

Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn.

Tạo này Quan tinh Thực thần tọa lộc, Ấn thụ nắm lệnh phùng sinh, Tài sinh Quan vượng, không hại Ấn thụ, Ấn thụ nắm lệnh, đủ để phù thân, Thực thần đắc địa, nhất khí tương sinh, ngũ hành quân bình, thuần túy khoan thai. Chồng vinh con quý, được phong hai đời nhất phẩm.

287 - Ất Hợi - Quý Dậu - Giáp Thìn - Bính Dần

Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Ất Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị.

Tháng 8 Quan tinh Tài tinh trợ kim, sinh vào giờ Dần, hai chi năm giờ phùng sinh đắc lộc, can thấu hỏa thủy, thế không tương khắc, có tình sinh hóa. Tài tinh đắc địa, tứ trụ thông căn, ngũ hành không nghịch, khí tĩnh ôn hòa thuần túy. Chồng vinh con quý, được phong nhất phẩm.

288 - Tân Dậu - Nhâm Thìn - Đinh Tị - Giáp Thìn

Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý.

Thương quan tuy vượng, hợp Dậu hóa kim, thì nguyên thần Quan tinh càng dày vậy. Tị hỏa củng kim, Thìn thổ dẫn, thì nguyên thần Tài càng thêm kiên cố. Giờ thấu Ấn tinh, trợ ánh sáng cho nhật chủ, chế Thìn thổ Thương quan, chỗ gọi là mộc không khô, hỏa không mãnh liệt, thủy không khô cạn, thổ không táo, kim không giòn, khí tĩnh an hoà. Chồng vinh con quý, được phong nhất phẩm phu nhân.

289 - Kỷ Tị - Quý Dậu - Nhâm Thìn - Giáp Thìn

Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị.

Mùa thu thủy thông nguyên, Ấn tinh nắm lệnh, Quan Sát tuy vượng, chế hóa hợp tình, càng đẹp giờ thấu Giáp mộc, chế Sát thổ tú, nhất khí tinh khiết, cho nên nhân phẩm đoan chính, tinh thông thi thư. Hỉ vận trình không có hỏa. Quan không được trợ, Ấn không thụ khắc, phu tinh quý hiển, con cái xinh giỏi, được phong nhị phẩm phu nhân.

290 - Canh Thìn - Nhâm Ngọ - Ất Hợi - Quý Mùi

Tân Tị/ Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất .

Mộc sinh tháng Ngọ, mùa thế hỏa mãnh liệt mà kim giòn yếu, hỉ có Nhâm Quý thông căn chế hỏa, Thìn thổ tiết hỏa sinh kim, thì hỏa thổ không quá táo, thủy mộc không khô cạn, liên tục tương sinh, thanh mà thuần túy. Là trung nữ tài hoa, sinh ba con, chồng làm quan kinh thành, gia đạo thanh hàn. Ở nhà dạy con đọc sách, hai con đăng khoa, một con đăng khoa, một con phát Giáp, chồng làm quan Lang Trung, con làm quan Ngự Sử, được phong nhị phẩm phu nhân.

291 - Canh Thìn - Mậu Dần - Ất Dậu - Nhâm Ngọ

Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ.

Ất mộc sinh vào đầu xuân, mộc non kim cứng, hỉ nhất có giờ Ngọ chế Sát hộ thân, là Hàn Mộc hướng dương, Quan Ấn song thanh, Tài tinh sinh Quan, không phá Ấn thụ, thuần túy trung hòa. Chồng làm quan nhị phẩm, 5 con 23 cháu, cả đời không bệnh tật, vợ chồng yêu nhau, thọ hơn 80 tuổi, không bệnh mà chết, hậu duệ đều hiển quý.

292 - Bính Thìn - Quý Tị - Đinh Sửu - Giáp Thìn

Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu.

Đinh hỏa sinh tháng Tị, Quý thủy phu tinh thanh thấu, can giờ Giáp mộc, Ấn thụ độc thanh. Cách này phẩm chất đoan trang, giữ thân trinh khiết. Tiếc bính hỏa thái vượng, sinh trợ Thương quan, dẫn đến phá tổn tiển của. Tuy nhiên hỉ có Tị Sửu trợ kim, Tài tinh đắc dụng, thân vượng lấy Tài làm con, dạy con thành danh, hai con đều quý, được phong tam phẩm phu nhân.

293 - Bính Dần - Tân Mão - Quý Dậu - Mậu Ngọ

Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi.

Quý thủy sinh vào giữa mùa xuân, tiết khí nhật chủ, thêm Tài Quan cùng vượng, nhật chủ nhu nhược, lấy Ấn làm phu tinh, thanh mà đắc dụng, là người giữ vững đức tính đoan trang, cần cù dệt vải. Đến Sửu vận, tiết hỏa trợ kim, sinh liền hai con; vận Mậu Tý, xung khử Ngọ hỏa, không thương Dậu kim, chồng đăng khoa giáp bảng; giao vận Đinh Hợi, Dậu quay về vậy. Bệnh của tạo này, thật ra là do Tài vượng. Thiên can Tân kim, Bính hỏa hợp Tân, địa chi Dậu kim, Ngọ hỏa phá Dậu, thêm Dần Mão nắm quyền sinh hỏa, vận Đinh Hợi hợp Dần hóa mộc, trợ khởi vượng thần, lại còn Đinh hỏa khắc mất Tân kim, hết lộc vậy.

294 - Tân Sửu - Tân Mão - Bính Tý - Quý Tị

Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi.

Bính hỏa sinh vào giữa xuân, là mùa hỏa tướng mộc vượng, đúng được tượng trung hòa, hai trụ năm tháng thấu Tài tinh, địa chi Tị Sửu trợ kim, Tài vượng sinh Quan, Quan tinh đắc lộc, lấy Ấn làm phu tinh, gọi là Chân Thần đắc dụng. Vốn tính cần kiệm, dệt vải giúp chồng đi học, cam chịu phụng sự làm cho bố mẹ chồng vui lòng. Đến vận Giáp Ngọ, trợ thân hộ Ấn, chồng đăng khoa giáp bảng, phong làm quan; thọ đến vận Dậu, hội kim cục xung phá Mão mộc, hết lộc.

295 - Đinh Dậu - Quý Mão - Bính Thìn - Bính Thân

Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi .

Bính hỏa sinh vào giữa xuân, Quan thấu Tài tàng, Ấn tinh nắm lệnh, Tỉ Kiếp trợ thân, tựa là như vượng. Ngại là Mão Dậu xung phá, Quý Đinh tương khắc, mộc hỏa tổn hại mà kim thủy sinh tồn, tuy dựa vào can giờ Bính hỏa trợ thân, nhưng Bính tọa Thân kim, cũng tự thân không lo xong. Hỉ trong Thìn xúc tàng dư khí, còn một chút mầm gốc, hãy còn mùa xuân, còn có thể dự trữ, so với tạo trước nhược hơn, cũng lấy Ấn làm phu tinh, là người đoan trang thùy mị, có tri thức hiểu lễ nghĩa; vận Bính Ngọ, phá Dậu kim, chồng đăng khoa, sinh hai con, phong làm tứ phẩm phu nhân; đến ngoài 40 tuổi, vận Mậu Thân, tiết hỏa sanh kim, hết lộc.

296 - Quý Sửu - Canh Thân - Mậu Ngọ - Kỷ Mùi

Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần

Mậu thổ sinh vào đầu mùa thu, trụ có Kiếp Ấn trùng điệp, được Thực thần nắm lệnh, tiết kỳ tinh anh, mừng Quý thủy nhuận thổ dưỡng kim, tú khí lưu hành. Là người nhân phẩm đoan trang, biết đại nghĩa, tuy xuất thân nông gia, an bần dệt vải nuôi chồng, hiếu lễ cha mẹ chồng. Đến vận Quý Hợi, chồng thi hương, đăng giáp bảng, làm quan Hoàng đường, tuy chồng quý hiển, chồng thường thấy quý mà tự phụ kiêu căng, ở nhà vẫn dệt vải. Sinh 4 con, đều thông minh xinh đẹp, thọ đến vận Bính, đoạt Thực hết lộc.

297 - Quý Mùi - Canh Thân - Mậu Tuất - Kỷ Mùi

Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn.

Tạo này cùng trụ trước, chỉ có khác hai chữ Mùi Tuất, còn lại đều giống nhau. Mùi Sửu đều là thổ, Ngọ Tuất thay nhau, nên dụng kim khử hỏa. Tình thế xem qua thắng hơn trụ trước, sao kim lại không bằng vậy? Nói đến Sửu thuộc phương bắc thấp thổ, có thể hối hỏa sinh kim, lại có thể chứa thủy, Mùi thuộc nam phương thổ táo, có thể làm kim giòn trợ hỏa, lại có thể làm khô thủy; Ngọ tuy là hỏa, gặp Sửu thổ mà tham sinh, Tuất tuy là thổ, tàng hỏa mà càng khô táo. May mắn thu kim dụng sự, cho nên là quý vậy. Tuy xuất thân bần hàn, mà nhân phẩm đoan trang, giữ gia đạo cần kiệm. Chồng đăng trung hương bảng. Làm huyện lệnh, sinh hai con.

298 - Kỷ Dậu - Tân Mùi - Mậu Thìn - Nhâm Tuất

Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão.

Thổ sinh mùa hạ hưng thịnh, hỉ là không có mộc, phú quý vậy. Cho nên xuất thân con nhà quan thế, thông thi thư, đạt lễ giáo. Đến Dậu vận, phu tinh lộc vượng, sinh một con, chồng đăng khoa. Vận Giáp Tuất, hình xung xuất Đinh hỏa, gia đạo chia lìa, tuổi xuân thủ tiết, khổ hạnh chí nguyện dạy con thành danh. Đến Tý vận, con đăng khoa, làm quan tri huyện, thọ đến Dần vận phương kim tuyệt địa.

299 - Đinh Hợi - Nhâm Tý - Quý Sửu - Giáp Dần

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân.

Quý thủy sinh vào giữa đông, chi toàn Hợi Tý Sửu, một khí phương bắc hàn lạnh, khí thế lan tràn, một chút Đinh hỏa vô căn, hỉ nhất giờ Dần, nạp thủy mà tiết kỳ tinh hoa. Giáp mộc phu tinh tọa lộc, cho nên là người thông minh xinh đẹp, đoan trang thùy mị; hỉ vận trình đông nam, nơi chỗ mộc hỏa, chồng vinh con tú, phúc trạch có thừa.

300 - Ất Mão - Bính Tuất - Ất Mão - Đinh Hợi

Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ.

Ất mộc sinh vào cuối thu, trong trụ tọa hai lộc vượng, Hợi Mão lại hợp trợ mộc, tứ trụ không có kim, nhật nguyên vượng. Hỉ có Bính Đinh cùng thấu lộ, tiết mộc sinh thổ. Tài tinh làm phu tinh, là người đoan trang hòa thuận, chồng đăng trúng hương bảng, xuất thế làm quan. Sinh 3 con, thọ đến Nhâm vận.

301 - Mậu Dần - Giáp Dần - Đinh Mùi - Tân Sửu

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ.

Đinh hỏa sinh vào đầu xuân, Ấn thụ quá trọng, hỉ nhất có giờ Sửu, tọa dưới Tài khố, xung khử Ấn tàng trong Mùi, khởi sinh Tài tinh, tất lấy Tân kim làm phu tinh; Sửu thổ là Tử tinh vậy. Đầu vận phương bắc thủy địa, tiết kim sinh mộc, xuất thân hàn vi; đến vận Canh Tuất, Kỷ Dậu, Mậu Thân 30 năm là nơi đất thổ kim, chồng phát tài dư dả, sinh 3 con đều quý, được người cung kính. Chỗ gọi là Khí Ấn tựu Tài, mà chồng được con giúp. Cho nên về sau con cháu phát vinh hiển vậy.

302 - Nhâm Thìn - Kỷ Dậu - Tân Sửu - Quý Tị

Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Kỷ Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần .

Tân kim sinh vào giữa mùa thu, chi toàn kim cục, ngũ hành không có mộc, Tị hỏa hợp trở thành trợ kim, tất không lấy Quan làm dụng. Hỉ có Nhâm Quý cùng thấu, tiết kỳ tinh anh, là người thông minh đoan trang, hiểu biết khá nhiều thi lễ. Đáng tiếc, 19 tuổi vận trình Đinh Mùi, nam phương hỏa địa, sinh thổ làm suy thủy, lưu niên Canh Tuất, chi toàn khắc thủy, không con mà chết.

303 - Giáp Ngọ - Bính Dần - Ất Mão - Kỷ Mão

Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ.

Mộc vượng phùng hỏa, tượng thông minh, càng đẹp là không có kim thủy, thuần thanh không tạp, là người đoan trang. Lấy Bính hỏa làm phu tinh, tiếc là vận trình phương bắc thủy địa, cũng không thọ vậy, sinh 3 con chỉ còn một, đến vận Nhâm, khắc Bính hỏa mà trở ngại vậy. Nếu so sánh hai tạo vận đồ đều thuận hành, không chỉ trường thọ, nếu là nam mệnh thì danh lợi lưỡng toàn, nữ mệnh tất chồng vinh con quý vậy.

304 - Đinh Mùi - Nhâm Dần - Ất Mão - Kỷ Mão

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất.

Xuân mộc dày đặc, là cực vượng vậy. Can giờ Kỷ thổ vô căn, lấy Đinh hỏa làm phu tinh. Đinh Nhâm hợp hóa, khử thủy nhưng lại hay, không nên hóa mộc, cho nên xuất thân bần hàn. Mừng vận trình nam phương hỏa địa, chẳng những trợ chồng hưng gia, mà còn con cái cũng nhiều. Thọ đến Thân vận, Nhâm thủy phùng sinh mà gặp trở ngại. Tạo này so với tạo trước, tạo này không bằng, nhưng do mệnh tốt không bằng vận tốt. Nam nữ đều đúng vậy.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 7 - Tiểu Nhi

Luận Tài luận Sát luận Tinh thần,
Tứ trụ hòa bình dễ nuôi dưỡng,
Khí thế đi dài không đoạt mất,
Cửa Sát dù có không hại thân.


Nguyên chú: Tài thần không bè đảng Thất Sát, chủ vượng tinh thần đủ thông, can chi yên ổn hòa bình. Lại phải xem khí thế, như khí thế ở nhật chủ, mà nhật chủ hùng tráng; khí thế ở Tài Quan, mà Tài Quan không nghịch với nhật chủ; khí thế ở đông nam, mà trước 5,7 tuổi, không hành tây bắc; khí thế ở tây bắc, mà trước 5, 7 tuổi, không hành đông nam. Hành vận không gặp mất trước, chỗ này là khí thế xa dài, dù có cửa Sát, cũng không hại thân.

Nhâm thị viết : Mệnh tiểu nhi, thường thấy rõ là dễ thương thì khó nuôi, xấu xí khó nhìn thì lại dễ lớn, tuy là cửa vận khí gia môn, cũng cần xem xét căn nguyên là nông hay sâu. Mà mệnh Tiểu nhi, thì giống như mầm quả ban đầu, cần phải bồi bổ thật tốt, là tất nhiên không cần phải nói. Nhưng trước khi chưa thành hình, cha mẹ không kiềm chế việc phòng the, trong chất độc thụ thai, sau khi vừa sinh ra, quan tâm quá mức, hoặc là không có kiêng kỵ ăn uống, hoặc là không có điều hòa ấm lạnh, mang theo nhiều loại tật bệnh, thậm chí không kể hết nỗi. Còn có gia đình tích ác, mà không lo sợ, dù mệnh tiểu nhi, là rõ ràng thuần túy, cho nên khó nuôi dưỡng vậy. Kế đến liên quan đến kỵ âm dương mộ phần, di dời sửa chữa làm tổn hại, dẫn đến chết yểu. Cho nên mệnh tiểu nhi, là không dễ xem vậy. Ngoại trừ những điều đã kể ra, tiếp theo luận mệnh, tất cần tứ trụ yên bình, không bị thiên khô, không bị xung khắc, thông căn nguyệt lệnh, khí thông giờ sinh, Sát vượng có Ấn, Ấn nhược có Quan, Quan suy có Tài, Tài khinh có Thực Thương, sinh hóa hữu tình, lưu thông không nghịch, hoặc có một thần đắc dụng, thủy chung không xấu, hoặc hai ý tương thông, che chỡ lẫn nhau, chưa giao vận mà lưu niên bình thuận, vừa giao vận thì vận đồ an tường, chỗ này gọi là khí thế xa dài, tự nhiên dễ dàng thành người, trái lại chỗ này tất là khó nuôi vậy. Còn lại cửa sát nhiều loại, tất cả đều sai lầm xằng bậy, tất nên loại bỏ toàn bộ, chấm dứt sai lầm về sau.

305 - Tân Sửu - Quý Tị - Bính Tý - Đinh Dậu

Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi

Bính hỏa sinh vào tháng Tị, tuy nói là kiến lộc, nhưng ngũ hành không có mộc sinh trợ. Thiên can lại thấu Tài Quan, địa chi không nên lại thấy Dậu Tý, lại càng không nên hội kim cục. Tuy Đinh hỏa có thể trợ thân, Quý thủy làm tổn hại, gọi là Tài đa thân nhược, lại thêm có Quan tinh vượng, nhật chủ cực hư nhược vậy. Vả lại đầu vận giao Nhâm phùng Sát, năm Tân Hợi, thiên can gặp Nhâm Quý khắc Bính Đinh, địa chi Hợi xung Tị phá lộc, nhổ hết căn vận, mắc bệnh cam tích vàng da mà chết.

306 - Quý Sửu - Kỷ Mùi - Bính Dần - Tân Mão

Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu

Tạo trước bởi vì Tài Quan thái vượng, dẫn đến yểu mệnh, tạo này nhật chủ tọa trường sinh, lại sinh mùa hạ, Tài Quan là dụng thần, Thương Quan là hỉ thần, Thương sinh Tài, Tài lại sinh Quan, tựa như là sinh hóa hữu tình. Chẳng biết tạo trên là Tài đa thân nhược, lấy Quan thành Sát, tạo này Tài tuyệt Quan hưu tù, e rằng khó hưởng hậu hỷ. Quý thủy Quan tinh sinh tháng Mùi, hỏa thổ táo khô, dư khí ở Sửu, tàng kim chứa thủy, nhưng Kỷ thổ phủ đầu làm tổn thương Quý thủy, Sửu Mùi xung mất căn gốc kim thủy, can giờ Tân lại lâm tuyệt địa, tuy có mà như không, cách xa làm sao có thể sinh Quý thủy chứ? Thì Kỷ thổ cũng không thể sinh kim xa cách. Mà vận trình lại chạy đến đông nam đất mộc hỏa, nhất định không thể là người kế thừa gia nghiệp vậy.

307 - Canh Tuất - Nhâm Ngọ - Bính Dần - Kỷ Hợi

Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý

Bính dụng Nhâm Sát, thân cường Sát yếu, lấy Sát hóa quyền. Hỉ Tài sinh Sát nhược, tất nhiên là danh lợi song toàn. Tiếc là chi toàn hỏa cục, Dần Hợi lại hợp hóa mộc mà sinh hỏa, can năm tháng Nhâm Canh vô căn mà thiếu sinh phù, đến năm Đinh Tị, Tị xung Hợi khử mất lộc Nhâm thủy, Đinh hỏa hợp khử Nhâm thủy dụng thần, chết do bệnh cam tích vàng da.

308 - Nhâm Thân - Mậu Thân - Nhâm Thân - Mậu Thân

Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần

Nhâm thủy sinh vào mùa thu, địa chi đều tọa đất trường sinh, thiên can thấu hai Mậu, nhìn qua xu hướng, địa chi toàn là nhất khí, là Lưỡng can bất tạp, mà lại là Sát Ấn tương sinh, là đại quý cách. Chẳng biết kim đa thủy trọc, mẫu đa tử bệnh, tứ trụ không có hỏa khắc kim, kim lại không thể sinh thủy, tinh hoa Mậu thổ tiết hết ở kim, gọi là tượng thiên khô, tất nhiên khó nuôi dưỡng, danh lợi đều hư, quả nhiên chết vào năm 3 tuổi năm Giáp Tuất.

309 - Nhâm Thân - Giáp Thìn - Nhâm Thân - Mậu Thân

Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất

Nhâm thủy sinh vào cuối mùa xuân, tựa như Sát Ấn tương sinh, địa chi gặp 3 Thân kim trường sinh, Thực thần chế Sát thành quyền, định là quý cách. Chẳng biết xuân thổ hư khí, tháng thấu Giáp mộc, chẳng những Thìn thổ bị chế, mà can giờ Mậu thổ, cũng bị khắc. Ngũ hành không có hỏa, không được may mắn sinh sôi, cũng là mẫu đa tử bệnh, là tượng thiên khô, tất nhiên khó nuôi dưỡng. Về sau chết do bệnh đậu mùa.

310 - Quý Sửu - Nhâm Tuất - Đinh Hợi - Nhâm Dần

Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn

Tạo này Đinh hỏa âm nhu, sinh vào cuối thu, Quan Sát trùng điệp, tất không thể nuôi dưỡng. Chẳng biết Quan Sát tuy vượng, hay là ở tháng Tuất, thân thông căn khố, đủ để chế thủy, càng hay là không có kim, chi giờ Dần mộc không tổn thương, khí thông ở giờ sinh, đủ để nạp thủy, chẳng những dễ nuôi, mà còn có thể toại chí họa hành. Nhưng mà một loại Quan Sát, chớ nên lấy Quan là hỉ, Sát là ghét, thân nhược thì Quan đều là Sát, thân vượng thì Sát đều là quan, chỉ cần không có Tài mà có Ấn, liền là tạo tốt. Như nói Đinh hỏa tử ở Dần, là cực kỳ sai lầm vậy. Dần tàng Giáp mộc, chính là mẫu của Đinh, cớ sao lại tử? Phàm can âm lấy sinh địa làm tử, tử địa là sinh, là không phải chính luận vậy. Quả nhiên lúc nhỏ không có bệnh tật, thông minh hơn người, sau đến năm Giáp Tuất nhập học. Vận đến nam phương hỏa thổ, chế Sát phù thân, không thể hạn chế số lượng thành công vậy.

311 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Đinh Dậu - Kỷ Dậu

Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất

Tạo này đại thể nói thấu mộc ở can tháng, xuân mộc đủ để sinh hỏa, can năm Nhâm thủy sinh mộc, ngày giờ tọa hai trường sinh, đều luận lấy vượng. Tiếc rằng địa chi thổ kim thái trọng, tất là căn thiên can thủy mộc yếu, thủy mộc vô khí, thì mái ấm của Đinh hỏa không được kiên cố. Giáp mộc sinh vào cuối mùa xuân, mộc đang thoái khí, Thìn Dậu hợp mà hóa kim, thì dư khí Giáp mộc lâm tuyệt địa. Tuất thổ ngăn cách, khiến cho kim không thể sinh thủy, Tuất thổ đủ để chế thủy, Nhâm thủy thụ khắc mà không thể sinh mộc. Thìn Dậu hóa kim, tất có thể khắc mộc, cũng biết căn gốc nhật chủ không kiên cố. Nếu như nói Dậu là nơi Đinh hỏa trường sinh, là ngũ hành đảo nghịch vậy. Trong Dậu thuần có Tân, không có tạp khí, kim sinh thủy, lý là không có sinh hỏa. Hỏa đến Dậu kim, đất tử tuyệt, càng sợ can giờ có Kỷ thổ, lấy mất đi nguyên thần nhật chủ, sinh kim tiết hỏa, mà 3 chữ thủy mộc hỏa đều hư nhược vậy. Hậu quả chết yểu ở năm Quý Dậu. Bởi vậy luận mệnh tiểu nhi, là không dễ nhìn vậy.

Chương 8 - Tài Đức

Đức thắng Tài, cục hợp phong cách quân tử; Tài thắng Đức, dụng tượng hiển lộ đa năng.


Nguyên chú: Thanh hòa thuận lợi, chủ phụ trợ được thỏa đáng, chỗ hợp đều là chính thần, chỗ dụng đều là chính khí, không nên phức tạp, không nên làm giả hóa thật, Tài Quan hỉ thần, đều theo cả đời; tâm không sinh ham mê, độ lượng khoan dung, hành động tất chính, đều là phong độ quân tử vậy. Tài yếu mà thân vượng đủ để tham lam, Quan khinh mà tâm chí tất theo mà cầu, nhơ bẩn mà bị hại, chủ nhược phụ giúp cường, tranh hợp tà thần, 3, 4 dụng thần, nỗi lòng gian tham, việc làm gặp may, đều là tượng đa năng. Đại để dương ở trong, âm ở ngoài, không kích không kháng là đức thắng tài, như tháng ngày là Bính Dần Mậu Thìn, năm giờ Kỷ Mão Quý Mão là đúng; dương ở ngoài, âm ở trong, sợ thế xu lợi, là tài thắng đức, như tháng ngày Kỷ Mão Kỷ Tị, năm giờ Bính Dần Mậu Dần là đúng.

Nhâm thị viết: Thiện ác chính tà, không ngoài lý lẽ ngũ hành; quân tử tiểu nhân, cũng không tách khỏi tình của tứ trụ. Dương khí động ích, nghĩa đáng xem là thuận lợi có ích; âm khí thuận tĩnh, lý lẽ bao hàm sâu xa. Hòa bình thuần túy, là cách chính cục thanh, không tranh không đố, hợp khử đều là khí thiên lệch, hóa xuất đều là chính thần, hỉ Quan mà Tài có thể sinh Quan; hỉ Tài mà Quan có thể khắc chế Kiếp, kỵ Ấn mà Tài có thể phá Ấn; hỉ Ấn mà Quan có thể sinh Ấn, dương thịnh âm suy, dương khí nắm quyền, chỗ dùng đều là dương khí, chỗ hỉ đều là loại dương, ở trên dưới đều không kiêu nịnh, đều là phong cách quân tử vậy. Khí thiên lệch tạp loạn, bỏ nhược dụng cường, nhiều tranh nhiều hợp, hợp khử đều là chính khí, hóa ra đều là tà thần, hỉ Quan mà lâm Kiếp địa, hỉ Tài mà cư nơi Ấn, kỵ Ấn mà Quan tinh sinh Ấn, hỉ Ấn mà Tài phá Ấn, âm thịnh dương suy, âm khí nắm quyền, chỗ dùng đều là âm khí, chỗ hỉ đều là là loại âm, xu thế Tài ở xung quanh, đều là tượng đa năng vậy. Nhưng được khí thế hòa bình, dụng thần rõ ràng, hành động nhất định cũng chân chính vậy.

312 - Quý Dậu - Mậu Ngọ - Canh Dần - Đinh Sửu

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý

Canh kim sinh vào giữa mùa hạ, Chính Quan đắc lộc, thông căn ở năm giờ Dậu Sửu, khí đúng trung hòa. Dần Ngọ Tài Quan củng hợp, Tài không phá Ấn, Quan có thể sinh Ấn, 3 chữ Tài Quan Ấn, sinh hóa không nghịch, Quý theo Mậu hợp, khử đi khí âm trọc, cho nên phẩm chất đoan chính, giữ gìn đạo lý truyền thống. Sớm nhập học, tự mình dạy ngu; Đinh Dậu đăng khoa, về sau không nhận chức tri huyện, tình nguyện dạy học, sống thanh bần đạo hạnh. Có người nói nhỏ rằng: Công danh, sừng sững không chọn khoa đăng ngôi cao mà cũng thành công danh, công thành danh được, huống hồ ta không có tài lợi hại, thì dạy học bất tất y không đủ áo cơm, được ta đi chí nguyện của ta, thì không phụ ân đức của bậc cha ông vậy!

313 - Bính Dần - Canh Tý - Kỷ Hợi - Giáp Tuất

Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ

Kỷ thổ sinh vào giữa mùa đông, thể thấp hàn, thủy lạnh mộc héo, Canh kim lại khắc mộc sinh thủy, hầu như là hỗn trọc. Hay là ở can năm thấu Bính, là Nhất dương giải hàn, được sưởi ấm ngày đông rét, khử trọc Canh kim, không những bản thân mừng được sưởi ấm, mà Giáp mộc cũng mừng được phát vinh; càng hay có thêm giờ Tuất là táo thổ, ngăn khối thủy trọc, bồi dưỡng mộc khô héo, mà nhật chủ cũng có căn nguyên. Huống hồ Giáp Kỷ hợp trung hòa, cho nên xử thế đứng đắn, giữ gìn đạo lý truyền thống, liêm khiết đứng đắn thuận hòa, có phong cách quân tử ngày xưa. Chỉ sợ thế thủy thái vượng, công danh chỉ có cử nhân.

314 - Bính Tuất - Tân Sửu - Kỷ Mão - Giáp Tý

Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi

Tạo này thủy lạnh kim hàn, thổ lạnh mộc héo, được can năm thấu Bính, là Nhất dương giải hàn, hầu như là tốt. Nhưng mà Bính Tân hợp hóa thủy, là lấy dương biến thành âm, lại gia tăng hàn khí. Tượng chính dương lại biến thành loại tà âm, cho nên là loại người tham lam không chán, chồng chất gian mưu, xu tài nhận thế, gặp phú quý mà tham siểm nịnh, kiêu căng nịnh hót, chỗ gọi là tượng đa năng vậy.

Chương 9 - Phấn Ức

Trong cục hiển lộ cơ phấn phát, là thần ý thông suốt; tượng bên trong nhiều khí chôn nặng, là tâm uất chí hôi.


Nguyên chú: Dương minh dụng sự, dụng thần đắc lực, thiên địa giao thái, thần hiển tinh thông, tất nhiều phấn phát; âm hối dụng sự, tình nhiều sinh luyến, chủ nhược thần cường, thần tàng tinh tiết, người nhiều buồn khốn. Nếu thế thuần dương, thân vượng mà Tài Quan vượng, tất là phấn phát; cục thuần âm, thân nhược mà Quan Sát nhiều là nhiều khốn đốn.

Nhâm thị viết: Không uất ức mà nhiều dễ chịu, trong cục không thái quá, không khuyết hãm, chỗ dụng đều đắc khí, hỉ thần đều đắc lực, kỵ thần đều thất thế, nhàn thần không kết đảng kỵ vật, lại có ích cho hỉ dụng, kỵ hợp mà gặp xung, kỵ xung mà gặp hợp, thể âm dụng dương, cho nên Nhất dương sinh ở phương bắc, âm sinh thì dương thành, giống như Giáp mộc tàng trong Hợi vậy. Tuế vận lại cần giúp cách trợ dụng, tất nhiều cơ phấn phát. Thiếu thông suốt, mà nhiều uất ức, trong cục hoặc là thái quá, hoặc là khuyết hãm, chỗ dụng đều là thất lệnh, chỗ hỉ đều là vô lực, chỗ kỵ đều là đắc thế, nhàn thần chiếm đoạt, hỉ thần lại đi trợ kỵ thần, hỉ hợp mà gặp xung, kỵ hợp mà gặp hợp, thể dương dụng âm, cho nên Nhị âm sinh ở phương nam, dương sinh thì âm thành, giống như Kỷ thổ tàng trong Ngọ vậy. Chi Tuế lại không bổ hỉ khử kỵ, tất nhiều buồn khốn. Nhưng cục dù âm hối, mà vận đồ phối hợp dương minh, cũng có thể thông suốt; tượng tuy là dương minh, mà vận đồ phối hợp âm hối, cũng bị uất ức khốn đốn, cho nên vận đồ cần phải xem xét thận trọng.

Như dụng Giáp tàng ở trong Hợi, thiên can có Nhâm Quý, thì vận thích hợp Mậu Dần Kỷ Mão; thiên can có Canh Tân, thì vận thích hợp Bính Dần, Đinh Mão; thiên can có Mậu Kỷ, thì vận thích hợp Giáp Dần Ất Mão.

Như dụng Kỷ thổ tàng ở trong Ngọ, thiên can có Nhâm Quý, thì vận thích hợp Canh Ngọ Tân Mùi. Chỗ này theo tàng thần mà luận, minh cũng luận giống như vậy.

Như dụng thiên can thuộc mộc, địa chi thủy vượng, thì thích hợp vận Bính Dần Đinh Mão; thiên can có thủy, thì thích hợp vận Mậu Dần Kỷ Mão; địa chi nhiều kim, thì thích hợp vận Giáp Tuất Ất Hợi; thiên can có thổ, thì thích hợp vận Giáp Tý Ất Sửu; địa chi nhiều hỏa, thì thích hợp vận Giáp Thìn Ất Tị; thiên can có hỏa, thì thích hợp vận Nhâm Tý Quý Sửu. Phối hợp như thế, thứ đến không có họa tranh chiến, mà trái lại có tình chế hóa, chỗ này nhất định là không tốt vậy. Nghiên cứu kĩ càng, tự có thâm cơ vậy.

315 - Mậu Thìn - Giáp Tý - Nhâm Tý - Tân Hợi

Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ

Nhâm thủy sinh vào giữa mùa đông, gặp lộc vượng, chỗ gọi là nước Côn Lôn, thì có thể thuận mà không thể nghịch vậy. Hỉ Tý Thìn củng thủy, thì căn Mậu thổ không kiên cố, can tháng Giáp mộc làm dụng, tiết hóa thủy phiếm loạn, tức chỗ này trong cục hiển lộ cơ phấn phát vậy. Đến vận Bính Dần, Đinh Mão, hàn mộc được hỏa mà phát phồn vinh, khử đi kim thổ âm hàn, sớm đăng khoa giáp, danh cao Hàn uyển; đến vận Mậu Thìn, nghịch thủy thế, dẫn đến mất mạng.

316 - Giáp Thân - Bính Tý - Quý Hợi - Quý Hợi

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Quý thủy sinh vào giữa mùa đông, gặp 3 chi vượng, xu thế chảy tràn lan, hỉ có Giáp Bính cùng thấu, chi gặp tuyệt xứ phùng sinh, mộc thổ cùng nhau hộ vệ, kim được lưu hành, thủy được ôn hòa, mộc được phát vinh, hỏa được sinh phù, dụng thần nhất định là Giáp mộc, là có cơ phấn phát. Giao vận Mậu Dần, một đường thẳng tiến. Vận Kỷ Mão sớm toại công danh. Vận Canh Thìn, Tân Tị tuy có chế hóa hữu tình, nhưng không có ý sinh phù, dẫn đên đường quan lận đận, không thể hiển đạt vậy.

317 - Giáp Thân - Canh Ngọ - Đinh Hợi - Nhâm Dần

Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý

Tạo này 4 chữ thiên can, địa chi đều tọa lộc vượng, duy chỉ nhật chủ tọa lộc nắm lệnh, vốn đủ đảm nhận Tài Quan. Thanh mà còn dày. Thanh đủ thần vượng, cho nên vận đông tây nam bắc, đều an bình. Xuất thân sản nghiệp hơn trăm vạn, sớm đăng khoa giáp, nhân từ bốn phương, ngoài 60 tuổi hồi hương. Một vợ bốn thiếp, 13 con, nhàn hạ tuổi già, thọ đến 90 tuổi.

318 - Quý Sửu - Ất Sửu - Quý Sửu - Quý Sửu

Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi

Tạo này thiên can có 3 Quý, địa chi nhất khí, Thực thần thanh thấu, Sát Ấn tương sinh, đều nói cách danh lợi lưỡng toàn. Ta nói: Quý thủy chí âm, lại sinh cuối mùa đông, đều là thấp thổ, thấp thổ thủy nhược, gọi là cống rãnh vậy. Mà thủy thổ hàn đóng băng, là âm hối thấp trệ, không có khí sinh phát, danh lợi đều hư, phàm mệnh phú quý, hàn noãn vừa phải, tinh thần phấn phát, không có mang âm hàn ẩm ướt, là tượng thiên khô mà có thể phú quý vậy. Đến năm Nhâm Thân, cha mẹ đều mất, học hành không thông, lại không có lấy nghề nghiệp, người lại hư nhược, không có thành tựu gì, cuối cùng trở thành một tên khất cái.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 10 - Ân Oán

Hai ý tình thông có mai mối,
Mặc dù xa dàn ý truy tìm;
Có tình lại bị người ly gián,
Khởi oán trong ân chết không nản.


Nguyên chú: Hỉ thần hợp thần, hai tình tương thông, lại có chỗ dẫn dụng sinh hóa, giống như có người môi giới vậy, tuy là phân chia cách xa, mà tình cảm tự nhiên hòa hợp tốt với nhau, thì có ân mà lại oán, hợp thần hỉ thần dù có tình, mà có kỵ thần ly gián, cầu hợp không được, cuối cùng nhiều ai oán. Về phần thần đáng ghét, may mắn là ở xa; còn thần yêu thích, gần thì càng thân thiết. Lại có một loại không hẹn mà gặp, không bằng gặp vui, lén hợp tư tình, đủ là cũng bỏ đi.

Nhâm thị viết: Ân oán, là Hỉ Kỵ vậy. Chỗ hỉ thần Nhật chủ xa cách, được hợp thần hóa mà thành gần vậy. Gọi là hai ý tình thông, giống như có người trung gian mai mối vậy. Hỉ thần xa cách, được thần bên cạnh dẫn mà có thể hòa hợp với nhau, thì có ân mà không có oán vậy. Chỉ có nhàn thần kỵ thần mà không có hỉ thần, được nhàn thần kỵ thần hợp hóa hỉ thần, chỗ gọi là không hẹn mà gặp vậy. Hỉ thần xa cách, tuy có tình cùng nhật chủ, bị nhàn thần kỵ thần ngăn cản, nhật chủ cùng hỉ thần mỗi bên cùng không chiếu cố nhau, được nhàn thần kỵ thần hợp hội, hóa làm hỉ thần, gọi là dắt hợp tư tình vậy. Càng có tình, hỉ thần cùng nhật chủ gần kề, hầu như là vô tình, gặp hợp hóa thành kỵ thần, hỉ thần cùng nhật chủ tuy không gần kề, lại có tình với nhật chủ, trong có kỵ thần ngăn cách chiếm giữ, hoặc là hỉ thần cùng nhàn thần hợp trợ kỵ thần, giống như bị người ly gián, lấy oán trả ân, đến chết không hồi tâm. Như nhật chủ hỉ Bính hỏa ở can giờ, tháng thấu Nhâm thủy là kỵ thần, nếu như can năm Đinh hỏa hợp Nhâm hóa mộc, không những khử đi can Ất mộc hợp Canh kim mà kề gần, chỗ này là nhàn thần hóa thành hỉ thần, giống như có người trung gian mai mối; nhật chủ hỉ hỏa, trong cục không có hỏa, trái lại Quý thủy là kỵ thần, được Mậu thổ hợp Quý thủy, hóa thành hỉ thần, gọi là tình cờ mà gặp nhau vậy. Nhật chủ hỉ kim, duy chỉ có chi năm gặp Dậu, cùng nhật chủ xa cách, nhật chủ tọa Tị, kỵ thần kề bên, được chi Sửu hội cục, thành kim cục hỉ thần, gọi là dắt hợp tư tình vậy. Còn lại có thể suy ra.

319 - Đinh Dậu - Giáp Thìn - Mậu Tuất - Mậu Ngọ

Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất

Tạo này trùng trùng thổ dày, Giáp mộc thoái khí, không thể khơi thông thổ, thì tình thổ không thể thiếu chi năm Dậu kim, phát tiết tinh hoa. Kim gặp hỏa, bởi có ý muốn sinh nhật chủ, mặc dù cách xa, vẫn có ý tương hợp, mừng hai Thìn Dậu hợp mà kề gần nhật chủ, giống như có người làm mai mối dẫn dắt vậy. Đầu vận Quý Mão Nhâm Dần, ly gián hỉ thần, công danh khó đạt. Gian nan khốn khổ hình thương; vận Tân Sửu, hối hỏa hội kim nhập học, đăng liền khoa giáp; Vận Canh Tý, Kỷ Hợi, Mậu Tuất, Dậu vận, phương bắc đất thổ kim, làm quan đến chức Thượng Thư.

320 - Đinh Dậu - Ất Tị - Đinh Sửu - Bính Ngọ

Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi

Đinh hỏa sinh vào tháng Tị giờ Ngọ, Tỉ Kiếp cùng vượng, lại gặp mộc trợ giúp, xu thế mãnh liệt, chi năm Dậu kim, vốn là hỉ thần của nhật chủ, xa cách nhật chủ, lại bị Đinh hỏa khắc chế Dậu, Tị hỏa cướp đoạt, tựa như vô tình. Mừng nhất là tọa dưới Sửu thổ, liệt hỏa gặp thấp thổ, thì sinh tâm yêu mến, mời Tị Dậu hợp kim, quy về trong khố, tình ý tựa như hòa thuận nhau, không những có tài đến theo ta, mà còn có thể tiết hỏa thổ tú, cho nên có thể phát giáp, làm quan Bố Chính, danh lợi song toàn.

321 - Quý Dậu - Mậu Ngọ - Bính Thìn - Giáp Ngọ

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý

Bính hỏa sinh vào tháng Ngọ giờ Ngọ, vượng cũng biết vậy. Một chút Quý thủy, vốn không trọc loạn, Mậu thổ hợp Quý, lại trợ hỏa thêm mãnh liệt; chi năm Dậu kim, có ý hợp với Thìn thổ, lại bị Ngọ hỏa ly gián, cầu hợp không được, gọi là trong ân có oán vậy. Thêm vận đến đông nam đất mộc hỏa, cả đời chỉ gặp hình thương phá hao. Khắc 2 vợ 7 con, bị 4 lần tan vỡ, đến Dần vận mất mạng.

Chương 11 - Nhàn Thần

Một hai Nhàn thần sao bỏ dùng,
Không dùng sao ngại chớ động nó;
Nửa cục Nhàn thần dù nhàn rỗi,
Một cơ khẩn yếu lấy tự hào.


Nguyên chú: Hỉ thần chẳng nên nhiều vậy, một hỉ mà được 10 hỉ; Kỵ thần cũng chẳng nên nhiều vậy, một kị mà bị 10 hại vậy. Từ ở ngoài hỉ kị, không đủ để là hỉ, không đủ để là kị, đều là Nhàn thần.
Như lấy thiên can làm dụng thần, thành khí thành hợp, mà thần địa chi hư thoát vô khí, xung hợp thoải mái, thăng giáng vô tình; như lấy địa chi làm dụng, thành trợ thành hợp, mà thần thiên can, tản đi trôi nổi, không trở ngại nhật chủ, chủ dương trợ dương, mà dương khí lưu lại, không xung không động, không hợp không trợ; ngày tháng có tình, năm giờ không quan tâm, nhật chủ vô hại, nhật chủ khí vô tình; được chỗ ngày giờ, năm tháng không quan tâm, nhật chủ vô hại, nhật chủ không xung không hợp, tuy có nhàn thần, chỉ cần không động đến nó, nhưng chỗ quan trọng, tự kết doanh trại. Về phần vận mệnh, chỉ có giới hạn nhà mình, cũng là đủ.


Nhâm thị viết: Có dụng thần nhất định phải có hỉ thần, hỉ thần là thần trợ cách phụ dụng vậy, như vậy có hỉ thần cũng nhất định sẽ có kỵ thần, kỵ thần, là thần phá cách tổn dụng vậy. Trong tứ trụ ngoài dụng thần, hỉ thần, kỵ thần đều là Nhàn thần.
Riêng Nhàn thần chiếm đa số, cho nên có xưng là một hai nửa cục, Nhàn thần không hại thể dụng, không làm trở ngại hỉ thần, cũng không nên động đến nó vậy. Cho dù nhàn rỗi, đến lúc chi tuế gặp phá cách tổn dụng, mà lúc hỉ thần không thể phụ cách hộ dụng, gọi là sân trường khẩn yếu, được nhàn thần chế hóa hung thần kỵ vật của tuế vận, phụ giúp hỉ dụng cách cục; hoặc được nhàn thần hợp thần chi tuế, hóa thành hỉ dụng mà phụ cách trợ dụng, là người một nhà của ta vậy. Chỗ bản văn chương này, chỗ trọng ở câu cuối “Sân trường khẩn yếu, là nhà mình vậy”, nguyên chú không khỏi có sai lầm vậy, về phần tuy có Nhàn thần, chỉ cần không động đến nó, sân trường khẩn yếu, tự kết doanh trại, về phần vận mệnh, chỉ có giới hạn nhà mình, luận đúng như thế, không chỉ không làm nhà mình, lại lấy trộm cướp đề phòng vậy, chỗ lý này là không chính xác.

Như dụng mộc, mộc có dư, lấy hỏa làm Hỉ thần, lấy kim làm Kỵ thần, lấy thủy làm Cừu thần, lấy thổ làm Nhàn thần; mộc không đủ, lấy thủy làm hỉ thần, thổ làm kỵ thần, lấy kim làm cừu thần, lấy hỏa làm nhàn thần, là lấy dụng thần tất được hỉ thần phò tá, nhàn thần trợ giúp thì dụng thần có thế, không nhớ kỵ thần vậy, luận về mộc như thế, còn lại cũng biết vậy.

322 - Canh Dần - Mậu Tý - Giáp Dần - Bính Dần

Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi

Giáp mộc sinh tháng Tý, hai dương tiến khí, vượng Ấn sinh thân, chi tọa 3 Dần, thân thể Tùng Bách, vượng mà còn cứng, một chút Canh kim lâm tuyệt, không thể khắc mộc, lại là kỵ thần, hàn mộc hướng dương, can giờ Bính hỏa thấu thanh, kháng lại hàn lạnh, tiết kỳ tinh anh, mà làm dụng thần, mùa đông khí hàn hỏa hư, lấy Dần mộc làm hỉ thần, can tháng Mậu thổ có thể chế thủy, lại có thể sinh kim, cho nên là nhàn thần, lấy thủy làm cừu thần, hỉ Bính hỏa thanh thuần. Đến Mão vận tiết thủy sinh hỏa, sớm đăng khoa Giáp; Nhâm Thìn, Quý Tị, được nhàn thần chế hợp, quan đồ bằng phẳng; Giáp Ngọ, Ất Mùi, nơi đất hỏa vượng, làm quan đến Thượng Thư.

323 - Giáp Tý - Đinh Mão - Giáp Dần - Canh Ngọ

Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu

Giáp mộc sinh tháng Mão, chi phùng lộc vượng, can thấu Tỉ kiên, là cực vượng vậy, can giờ Canh kim, vô căn là kỵ thần, can tháng Đinh hỏa làm dụng thần, khí thông sáng chói. Cho nên sớm đăng khoa, làm quan đến Quan Sát, tiếc không có thổ nhàn thần, đến vận Nhâm Thân, kim thủy hợp lại làm tổn hại thể dụng, cho nên không tránh được họa vậy.

Ra cửa phải hướng nơi chân trời,
Việc gì quần thoa phải lưu lại.


Nguyên chú: Ý là muốn hăng hái đầy hứa hẹn vậy, mà nhật chủ có hợp, không quan tâm đến dụng thần, dụng thần có hợp, không quan tâm đến nhật chủ, không muốn quý mà gặp quý, không muốn lộc mà gặp lộc, không muốn hợp mà gặp hợp, không muốn sinh mà gặp sinh, đều có tình mà lại vô tình, giống như lộc thoa cài tóc muốn lưu mà không bỏ vậy.

Nhâm thị viết: Đoạn này ý nói về tham hợp mà không thay đổi vậy, đã hợp thì nên hóa, hóa thành hỉ, tự nhiên danh lợi; hóa thành kỵ, tai họa hung dữ cùng đến. Hợp mà không hóa, thì giống như bị lưu luyến ràng buộc, tham cái kia mà kỵ cái này, mà không có chí lớn hứa hẹn vậy, mà kị chí lớn vậy; dụng thần có hợp, không có hứa hẹn quan tâm đến nhật chủ, mà không phụ giúp thành công vậy; Lại có chân hợp thần, vốn có thể hóa, trái lại trợ theo thần hợp mà không hóa vậy; Lại có nhật chủ hưu tù, vốn có thể tòng, lại gặp hợp thần trợ giúp mà không tòng vậy. Chỗ này đều là có tình mà lại vô tình, giống như lưu lại lộc thoa cài tóc bừa bải vậy.

324 - Ất Mùi - Canh Thìn - Mậu Thìn - Bính Thìn

Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất

Mậu thổ sinh vào cuối mùa xuân, Ất mộc Quan tinh thấu lộ, có gốc ở Mùi, dư khí ở thìn, vốn có thể làm dụng. Sợ là Ất hợp Canh, là tham hợp kỵ khắc, không thích quan tâm đến nhật chủ của ta, hợp mà không hóa. Canh kim cũng không có tác dụng, lại có Bính hỏa phủ đầu, đến 21 tuổi, do thi cử không thành, tức là bỏ thi cử, không quan tâm đến chuyện sanh con, lấy rượu giải sầu; mà nói: cao xa đại đạo không thành vinh, gắn bó ruộng bờ, ta không làm giàu, duy chỉ có tính tình vui vẻ, ta nói cười thoải mái, để cuối cùng thân ta, là đủ vậy!

325 - Đinh Sửu - Quý Mão - Bính Tuất - Tân Mão

Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu

Bính hỏa sinh vào giữa mùa xuân, Ấn chính Quan thanh, nhật nguyên sinh vượng, đủ để dụng Quan. Ngại là có Bính Tân hợp, không quan tâm giúp dụng thần của ta, Tân kim nhu nhuyễn, Bính hỏa gặp mà sợ, nhu có thể chế cương, lưu luyến không rời, kị hứa hẹn chí lớn; Bính sợ Mão Tuất hợp mà hóa kiếp, cho nên tuổi trẻ xem qua là thuộc, sau vì lưu luyến ái tình, bỏ học mất tư cách, lại là vì tửu sắc vong thân, một chuyện không thành.

Bất kể tuyết trắng cùng trăng sáng,
Cho dù thúc ngựa hướng thiên cung.

Nguyên chú: Nhật chủ cưỡi dụng thần mà phi nhanh, là ý riêng tư không có kiềm chế vậy; dụng thần theo nhật chủ mà phi nhanh, là không có tư tình trói buộc vậy. Đủ để thành chí lớn, là vô tình mà hữu tình vậy.

Nhâm thị viết: Đoạn này chính là đắc dụng phùng xung vậy. Xung thì động, động thì chạy nhanh vậy. Trong cục ngoài dụng thần hỉ thần, mà nhật chủ lưu luyến cùng với thần khác, được dụng hỉ thần xung khử đi, thì nhật chủ không có ý riêng bị kềm chế, thế cưỡi hỉ thần mà chạy nhanh vậy. Trong cục dụng thần hỉ thần cùng lưu luyến với thần khác, nhật chủ có thể xung khắc nó mà khử đi, thì hỉ thần không có bị ràng buộc, thuận theo nhật chủ mà phi nhanh vậy. Loại này tưởng vô tình mà lại hữu tình, lấy ý chí của chồng, mà không luyến tư tình để thành chí lớn vậy.

326 - Đinh Mão - Tân Hợi - Bính Dần - Bính Thân

Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị

Tạo này Sát tuy nắm lệnh, mà Ấn thụ cũng vượng, thêm có Tỉ Kiếp cùng thấu, thân vượng đủ để dụng Sát. Dụng Sát không nên hợp Sát, hợp thì không vinh hiển, hơn nữa Tân kim kề bên, mà nhật chủ có tình ý, lưu luyến ràng buộc. Mừng Đinh hỏa Kiếp khử đi Tân kim, khiến cho nhật chủ không có lưu luyến tình riêng, Thân kim xung động Dần mộc, ý là khiến cho nhật chủ không có kềm chế. Càng hay là Thân kim sinh Sát, nhật chủ dựa vào hỉ dụng thần mà chạy nhanh vậy. Đến vận Mậu Thân, đăng khoa phát giáp, chí lớn đầy hứa hẹn vậy.

327 - Tân Tị - Bính Thân - Nhâm Dần - Canh Tuất

Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần

Nhâm thủy sinh tháng Thân, tuy mùa thu có thuỷ thông nguyên, mà Tài Sát đều vượng, lấy Thân kim làm dụng. Nhưng thiên can Bính Tân, địa chi Thân Tị đều hợp, hợp có thể hóa, cũng có thể sinh thân, hợp mà không hóa, trái lại là bị ràng buộc, không quan tâm nhật chủ, hỉ là dụng của ta vậy, mà kim nắm lệnh, hỏa thông căn, chỉ có một mình lưu luyến, mà không có ý hóa hợp. May là ở nhật chủ tự khắc Bính hỏa, khiến cho Bính hỏa không có rỗi mà đi hợp Tân kim, Dần xung động Thân kim, khiến cho kim khắc mộc, thì căn gốc của Bính hỏa bị nhổ bật, còn nhật chủ Nhâm thủy, kiên cố không có ý kiềm chế, dụng thần theo nhật chủ mà chạy nhanh vậy, đến vận Quý Tị, đăng khoa giáp bảng, làm đến quan tuần phủ, mà chí lớn thành đạt vậy.

Chương 12. Tòng Tượng

Nguyên chú: Nhật chủ cô lập vô khí, không có địa nhân nguyên, ý là tuyệt không có một chút sinh phù, Tài Quan cường thậm, chính là chân tòng vậy.
Vậy đã tòng, nên luận chỗ thần tòng. Như Tòng Tài, chỉ lấy Tài là chủ; Tài thần là mộc mà vượng, lại xem ý hướng, hoặc là cần hỏa, cần thổ, cần kim, mà hành vận được chỗ là cát, nếu không thì hung, ngoài ra đều theo chỗ này mà suy, kim không thể khắc mộc, khắc mộc Tài suy vậy.

Nhâm thị viết: Tòng tượng là không giống nhau, không phải chuyên luận Tài Quan mà thôi vậy. Nhật chủ bị cô lập vô khí, ý là tứ trụ không sinh phù, toàn cục là Quan tinh, thì gọi là Tòng Quan; toàn cục là Tài tinh, gọi là Tòng Tài. Như nhật chủ là kim, Tài thần là mộc, sinh vào mùa xuân, lại có thủy sinh, gọi là thái quá, hỉ hỏa để đi; sinh vào mùa hạ, hỏa vượng tiết khí, hỉ thủy để sinh; sinh vào mùa đông, thủy đa mộc phù, hỉ lấy thổ bồi đắp, hỏa để sưởi ấm là cát lợi, ngược lại thì hung họa, chỗ nói tòng thần thì có cát và hung vậy. Lý ở trên là có Tòng Vượng, Tòng Cường, Tòng Khí, Tòng Thế, so với Tòng Tài Quan thì càng khó suy đoán, đặc biệt cần phải xem xét kỹ lưỡng 4 cách tòng này, chỗ nhiều sách không ghi lại, ta giới thiệu, thử nghiệm chính xác, không phải là hư ngôn vậy.
+ Tòng vượng, tứ trụ đều là Tỉ Kiếp, không có Quan Sát chế, có Ấn thụ sinh, là cực vượng vậy, là Tòng Vượng thần vậy. Vận hành Tỉ Kiếp Ấn thụ chế thì cát; như trong cục Ấn khinh, hành vận Thực Thương cũng tốt; vận Quan Sát là phạm vượng, hung họa lập tức đến ngay; gặp Tài tinh, thì quần Kiếp tranh Tài, là cửu tử nhất sinh.
+ Tòng cường, tứ trụ có Ấn thụ, Tỉ Kiếp trùng điệp, nhật chủ lại nắm lệnh. Tuyệt đối không có một chút khí Tài Quan, gọi là Nhị nhân đồng tâm, là cực cường vậy, chỉ có thể thuận mà không thể nghịch vậy. Hành Tỉ Kiếp vận là cát, vận Ấn thụ cũng tốt, vận Thực Thương có Ấn thụ xung khắc tất hung, vận Tài Quan là chọc giận cường thần, đại hung.
+ Tòng khí, bất luận là loại Tài Quan, Ấn thụ, Thực Thương, nếu như khí thế ở mộc hỏa, phải hành vận mộc hỏa; khí thế ở kim thủy, phải hành vận kim thủy, trái lại chỗ này tất hung họa.
+ Tòng thế, nhật chủ vô căn, tứ trụ Tài Quan Thực Thương cùng vượng, chẳng cần phân biệt cường nhược, lại không có Kiếp Ấn sinh phù nhật chủ, lại không thể tòng theo một thần mà đi, duy chỉ có thể hoà giải vậy. Là trong Tài Quan Thực Thương, độc vượng ở đâu, thì theo thế vượng. Như cả ba bằng nhau, chẳng cần phân biệt cường nhược, cần phải hành Tài vận để hòa thuận, dẫn thông khí Thực Thương, trợ thế Tài Quan thì cát lợi; thứ là hành vận Quan Sát; thứ nữa là hành vận Thực Thương; như hành Tỉ Kiếp Ấn thụ, tất hung họa là không nghi ngờ. Đã thử nghiệm nhiều lần.

328 - Mậu Tuất - Bính Thìn - Ất Mùi - Bính Tuất

Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất

Ất mộc sinh vào cuối xuân, có gốc ở Mùi, dư khí ở Thìn, tựa như Tài đa thân nhược, nhưng tứ trụ đều là Tài, thế tất phải tòng. Xuân thổ hư khí, được Bính hỏa thực phát, mà hỏa chính là mộc tú khí, thổ chính là hỏa tú khí, cả ba đều đầy đủ, không có kim để tiết, không có thủy để đẹp. Hỉ vận đến đất nam phương hỏa địa, tú khí lưu hành, cho nên phát khoa thềm son, thành tích bút hồng tấu tham thiên, danh ghi bảng vàng, làm thần tiên đội trăm nghìn mũ quan, ý chí đầy hứa hẹn vậy.

329 - Nhâm Dần - Nhâm Dần - Canh Dần - Mậu Dần

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Canh kim sinh vào đầu xuân, chi tứ trụ đều là Dần, Mậu thổ tuy sinh nhưng giống như chết. Hỉ có 2 Nhâm thấu can năm tháng, dẫn thông Canh kim, sinh phù mộc còn non mà tòng theo Tài vậy. Cũng là tú khí lưu hành, hỉ vận đến đông nam không nghịch, mộc cũng được phồn vinh, cho nên sớm đăng khoa giáp, làm quan hoàng triều.

330 - Bính Dần - Canh Dần - Nhâm Ngọ - Ất Tị

Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân

Nhâm thủy sinh vào đầu xuân, mộc nắm lệnh, mà hỏa phùng sinh, duy nhất chỉ có Canh kim lâm tuyệt địa, Bính hỏa đủ để luyện kim, cách chân tòng Tài. Thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, tú khí lưu hành, đăng khoa phát giáp, làm quan đến chức Thị Lang.

Phàm Tòng Tài cách, cần phải chỗ Thực để tiết ra tinh hoa, chẳng những công danh hiển đạt, mà cả đời cũng không xảy ra hung tai. Tòng Tài tối kỵ nhất là Kiếp vận, trong trụ có Thực Thương, có thể hóa Tỉ Kiếp sinh Tài là tốt nhất. Nếu không có Thực Thương thổ tú, học hành khó thành, một khi gặp Tỉ Kiếp, không có tình sinh hóa, tất sẽ xảy ra hình thương vậy.

331 - Đinh Mão - Nhâm Dần - Canh Ngọ - Bính Tuất

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Canh kim sinh tháng Dần, chi đều là hỏa cục, Tài sinh Sát vượng, tuyệt không có một chút sinh phù; can tháng Nhâm thủy, Đinh Nhâm hợp mà hóa mộc, lại tòng thế hỏa, đều là bè đảng với Sát, tượng này là chân tòng, được hương bảng, làm tri huyện, Dậu vận có đại tang, Bính vận liên tiếp thăng quan, Thân vận bị liên lụy mắc tội mất chức.

332 - Tân Tị - Tân Sửu - Ất Dậu - Ất Dậu

Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi

Ất Dậu sinh vào cuối đông, chi toàn là kim cục, can thấu 2 Tân, là chân Tòng Sát. Vận Mậu Tuất đăng liền khoa Giáp, vào cung Hàn uyển. Vận Đinh Dậu, Bính Thân, hỏa tiệt cước mà kim đắc địa, liên tục thăng quan. Vận Ất Mùi, phá tan kim cục, mộc đắc căn, hết lộc.

333 - Quý Mão - Ất Mão - Giáp Dần - Ất Hợi

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Giáp mộc sinh vào giữa xuân, chi phùng 2 Mão vượng, Dần lộc, Hợi sinh, can có Ất mộc trợ, Quý Ấn cực vượng vậy, là tòng theo vượng thần. Đầu vận Giáp mộc, sớm nhập học; vận Quý Sửu phương bắc thấp thổ, cũng lấy thủy luận, đăng khoa phát giáp. Vận Nhâm Tý, Ấn tinh chiếu lâm. Vận Tân Hợi, kim không thông căn, chi phùng sinh vượng, làm quan Hoàng đường. Vừa giao vận Canh Tuất, thổ kim đều vượng, chọc giận vượng thần, nên không thể miễn tội vậy.

334 - Bính Ngọ - Giáp Ngọ - Bính Ngọ - Giáp Ngọ

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý

Bính sinh giữa mùa hạ, tứ trụ toàn là Ngọ, thiên can cùng thấu Giáp Bính, là rất cường vượng vậy, chỉ có thể thuận mà không thể nghịch. Đầu vận Ất Mùi, sớm đi học, Bính vận đăng khoa, Thân vận bệnh nặng nguy hiểm. Đinh vận phát giáp. Dậu vận gặp đại tang. Mậu Tuất vận, quan đồ bình thản. Hợi vận phạm vượng thần, chết trong chiến trận.

335 - Quý Dậu - Quý Hợi - Canh Thân - Đinh Hợi

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Canh kim sinh vào đầu mùa đông, thế thủy nắm quyền, kim phùng lộc vượng, can giờ Đinh hỏa vô căn, trong cục khí thế kim thủy, cũng là tòng kim thủy mà luận, Đinh hỏa lại là bệnh. Giao đầu Quý Hợi, loại trừ Đinh hỏa, vui vẻ như thường. Vận Nhâm Tuất nhập học, mà tang phục liên tiếp, là do Tuất thổ chế thủy vậy, vận Tân Dậu Canh Thân, quý khoa phát giáp, làm quan cầm đường. Chuyển vận Kỷ Mùi, nam phương hỏa thồ cùng đến, bị liên lụy mắc tội mất chức. Mậu Ngọ vận, phá hao quá nhiều mà chết.

336 - Bính Tuất - Nhâm Thìn - Quý Tị - Giáp Dần

Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất

Quý thủy sinh vào cuối xuân, trong trụ có Tài Quan Thương ba thần đều vượng, Ấn tinh tàng mà vô khí, nhật chủ hưu tù vô căn, duy chỉ có Quan tinh nắm lệnh, cần phải tòng thế Quan tinh. Mừng nhật chủ tọa Tài tinh, dẫn thông khí Thương quan, đến vận Giáp Ngọ, hội thành hỏa cục sinh Quan, thẳng tiến đường mây. Vận Ất Mùi ra làm quan. Thân Dậu vận có Bính Đinh cái đầu, quan đồ bình hòa. Mậu Tuất vận, làm quan tuần phủ. Đến Hợi vận trợ thân, xung phá Tị hỏa, hết lộc. Chỗ nói cực nhược thì không thể ích (tăng thêm) vậy.

337 - Quý Dậu - Ất Sửu - Bính Thân - Bính Thân

Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi

Bính hỏa sinh tháng Sửu tọa dưới Thân kim, suy tuyệt vô khí, Dậu Sửu củng kim, can tháng Ất mộc tàn héo vô căn, Quan tinh tọa Tài, Thương gặp Tài hóa, tòng hóa thế kim thủy. Vận Quý Hợi, nhập học đăng khoa. Vận Tân Dậu, Canh Thân, khử Ấn sinh Quan, từ quan huyện mà thăng quan một châu, tiền của làm quan dư dật đầy đủ. Vận Kỷ Mùi, nam phương thổ táo, Thương quan trợ Kiếp, hết lộc.

Chương 13. Hóa Tượng

Hóa đắc chân thì chỉ luận hóa,
Hóa thần còn có vài cách nói.


Nguyên chú: Như nhật chủ Giáp mộc sinh vào tứ quý, chỉ gặp một vị Kỷ thổ, ở trên tháng giờ hợp gặp Nhâm Quý, Giáp, Ất, Mậu mà có một chữ Thìn, chính là được chân hóa. Lại như Bính Tân sinh vào mùa Đông, Mậu Quý sinh vào mùa Hạ, Canh Ất sinh vào mùa Thu, Đinh Nhâm sinh vào mùa Xuân, tự mình tương hợp, lại được Long lấy vận, chỗ này là chân hóa vậy. Vậy đã hóa, thì luận hóa thần. Như Giáp Kỷ hóa thổ, thổ âm hàn, cần hỏa khí phải hưng vượng; thổ thái vượng thì lại cần lấy thủy làm Tài, mộc làm Quan, kim là Thực thần. Tuỳ theo chỗ tiếp cận, luận hỉ kỵ, lại thấy Giáp Ất, cũng không lấy tranh hợp đố hợp mà luận. Bởi vì là chân hóa vậy, giống như cô gái chính trực không đổi hai chồng, tuế vận gặp đều là Nhàn thần vậy.

Nhâm thị viết: Gốc hợp hóa, xưa kia Hòng đế tế trời ở Viên Khâu, trời giáng xuống thập can, thương mệnh lớn khuất phục làm thập nhị địa chi để phối thành. Cho nên nhật can viết thiên can, là từ chỗ này. Nghĩa hợp tức là thiên 1, địa 2, thiên 3, địa 4, thiên 5, địa 6, thiên 7, địa 8, thiên 9, địa 10. Dựa theo số mà suy, thì Giáp 1, Ất 2, Bính 3, Đinh 4, Mậu 5, Kỷ 6, Canh 7, Tân 8, Nhâm 9, Quý 10 vậy. Như “Lạc Thư” lấy số 5 ở giữa, 1 được 5 là 6, cho nên Giáp hợp với Kỷ; 2 được 5 là 7, cho nên Ất hợp Canh; 3 được 5 là 8, cho nên Bính hợp Tân; 4 được 5 là 9, cho nên Đinh hợp Nhâm; 5 được 5 là 10, cho nên Mậu hợp Quý.
Hợp thì hóa, hóa cũng được thổ 5 mà sau đó thành, 5 là Thìn thổ vậy. Thìn thổ ở mùa Xuân, mùa ở Tam Dương, là thể sinh vật, khí thông mà động, động thì biến, biến thì hóa vậy. Còn thập can hợp, mà đến vị trí 5 Thìn, thì nguyên thần hóa khí phát lộ. Cho nên Giáp Kỷ khởi Giáp Tý, đến 5 vị gặp Mậu Thìn mà hóa thổ; Ất Canh khởi Bính Tý, đến 5 vị gặp Canh Thìn mà hóa kim; Bính Tân khởi Mậu Tý, đến 5 vị gặp Nhâm Thìn mà hóa thủy; Đinh Nhâm khởi Canh Tý, đến 5 vị gặp Giáp Thìn mà hóa mộc; Mậu Quý khởi Nhâm Tý, đến 5 vị gặp Bính Thìn mà hóa hỏa. Chỗ này là chân nguyên của tương hợp tương hóa, thời cận đại ít được truyền, chỉ biết gặp Rồng mà hóa, không biết gặp 5 mà hóa. Thuyết Rồng là Thìn, ý là tạo điều kiện để dẫn tới, nếu như Thìn là đúng Rồng, thì người sinh năm Thìn là con Rồng, có thể làm mưa, còn người sinh năm Dần là Hổ, tất là hại người vậy.
Về phần tác dụng của hóa tượng, cũng có cái lý phối hợp hỉ kỵ, cho nên “Hóa thần còn có vài cách nói” vậy. Không phải hóa thần này, hỉ thấy thần này, chấp nhất mà luận vậy, là hóa tượng cũng cần nghiên cứu suy vượng, xem xét hư thực, khảo sát hỉ kỵ, thì cát hung mới có ứng nghiệm, hiểu rõ tốt xấu vậy. Như hóa thần vượng mà có dư, cần tiết thần hóa thần làm dụng thần; Hóa thần suy mà không đủ, cần thần sinh trợ hóa thần làm dụng.

Như Giáp Kỷ hợp hóa thổ, sinh tháng Mùi Tuất, thổ táo mà vượng, can thấu Bính Đinh, chi tàng Tị Ngọ, gọi là quá dư, lại gặp vận hỏa thổ, tất thái quá mà không tốt vậy. Cần phải theo ý hướng, trong trụ có thủy, cần hành vận kim; trong trụ có kim, cần hành vận thủy; không có kim không có thủy, thế thổ quá vượng, bí quá phải cần kim tiết; hỏa thổ quá táo, vận kim cần mang thủy để nhuận. Sinh vào tháng Sửu Thìn, thấp thổ là nhược, hỏa tuy có hư, thủy mộc không có mà đầy, hoặc can chi hỗn tạp kim thủy, gọi là khâng đủ, cũng cần phải theo ý hướng. Trong trụ có kim, cần hành vận hỏa; trong trụ có thủy, cần hành vận thổ; kim thủy cùng thấy, quá ở hư thấp, thổ vận cần mang hỏa để đầy đủ, trợ khởi hóa thần là cát vậy.

Về phần thuyết tranh hợp đố hợp, là luận điệu hoang đường vậy, đã hợp mà hóa, giống như trinh phụ phối với nghĩa phu, từ đầu đến cuối, không sinh hai lòng, thấy Mậu Kỷ là cùng loại Tỉ kiên, gặp Giáp Ất là bản khí của ta, có nghĩa với nhau. Hợp mà không hóa, có ý miễn cưỡng, tất không thành vợ chồng. Thấy Mậu Kỷ nhiều mà khởi bệnh tranh giành đố kỵ, gặp Giáp Ất nhiều mà tính càng mạnh mẽ. Giáp hợp Kỷ như vậy, còn lại các loại cứ thế suy ra.

338 - Ất Sửu - Giáp Thân - Giáp Thìn - Kỷ Tị

Quý Mùi/ Nhâm Ngọ/ Tân Tị/ Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần

Hai can Giáp Ất ở năm tháng, có Thân kim đắc lệnh cùng Tân kim trong Sửu chế hóa, không khởi bệnh tranh đố. Can giờ Kỷ thổ lâm bệnh, cùng nhật chủ thân thiết mà hợp, là chân thực hợp thần, chính là chân hóa. Nhưng thu kim nắm lệnh, tiết khí hóa thần không đủ. Đến Ngọ vận trợ hóa thần, được Hương bảng; vận Tân Tị kim hỏa cùng vượng, nhập cung vua, làm quan trong triều; vận Canh Thìn hợp Ất chế hóa Tỉ Kiếp, làm quan Bố chính.

339 - Mậu Thìn - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Kỷ Tị

Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn

Giáp mộc sinh vào cuối thu, thổ vượng thừa quyền, khắc khử Nhâm thủy, lại không có Tỉ Kiếp, càng đúng hợp thần, hóa khí có thừa. Tiếc là vận đến đông bắc đất thủy mộc, công danh làm quan, không bằng mệnh trên, đến Sửu vận năm Đinh Dậu, ám hội kim cục, tiết hóa thần mà thổ tú, đăng khoa; năm Mậu Tuất phát Giáp, làm quan một châu.

340 - Kỷ Mão - Đinh Mão - Nhâm Ngọ - Giáp Thìn

Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu

Nhâm thủy sinh vào giữa mùa xuân, hóa tượng này thật, hỉ nhất là nguyên thần Giáp mộc thấu lộ, hóa khí có thừa. Dư thì nên tiết, vì thế hóa thần thổ tú, hỉ Nhâm thủy tọa Ngọ, Ngọ sinh Thìn thổ, tú khí lưu hành. Thiếu niên khoa giáp, danh tiếng Hàn Uyển, tiếc là trung vận đất thủy vượng, không thể vinh hiển, cuối cùng làm quan huyện.

341 - Kỷ Mão - Đinh Mão - Nhâm Ngọ - Quý Mão

Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu

Tạo này cùng tạo trên khác chỉ có một chữ Mão, hóa tượng là thật, hóa thần quá vượng. Ngại có Quý Kiếp tranh Tài, can năm Kỷ thổ, thấu cách xa lại không căn gốc, không thể khử mất Quý thủy. Ngọ hỏa không thể lưu hành. Trụ này Quý thủy, đúng là khách đoạt giải vậy. Tuy đạt Hương bảng, cuối cùng không thể làm quan.

342 - Bính Tuất - Mậu Tuất - Quý Tị - Nhâm Tuất

Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn

Quý thủy sinh vào cuối thu, Bính hỏa thấu mà thông căn, là chân hóa. Ngại là can giờ thấu Nhâm thủy khắc Bính hỏa, chỉ đạt Hương bảng, đến Mão vận, Nhâm thủy lâm tuyệt địa, được chọn làm Tri huyện, trải qua ba lần đảm nhiệm mà không thăng chức, nguyên nhân cũng là do Nhâm thủy đoạt tài vậy.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 14. Giả Tòng

Tượng chân tòng là có mấy người,
Thân giả tòng cũng có thể phát.


Nguyên chú: Nhật chủ nhược, Tài Quan cường, thì không thể không tòng; bên trong có Tỉ Kiếp ám sinh, là Tòng không chân. Về phần tuế vận Tài Quan đắc địa, tuy là Giả tòng, cũng có thể thủ phú quý, nhưng người không thể miễn họa, hoặc mưu kế bất chính mà thôi.

Nhâm thị viết: Giả tòng, như người có căn cạn lực yếu, không thể tự lập, trong cục tuy có Kiếp Ấn, cũng tự lo thân mình chưa xong, mà nhật chủ cũng khó mà nương tựa, đành phải gửi thân theo người vậy. Tượng không giống nhau, không phải chuyên luận Tài Quan mà thôi, so với chân Tòng thì na ná giống nhau. Tứ trụ Tài Quan đắc thời nắm lệnh, nhật chủ hư nhược vô khí, tuy có Tỉ Kiếp Ấn thụ sinh phù, mà trong trụ có Thực thần sinh Tài, Tài vẫn phá Ấn; hoặc có Quan tinh chế Kiếp, thì nhật chủ không thể nương nhờ được, chủ có thể dựa vào thế của Tài Quan, thế Tài vượng, thì Tòng Tài; thế Quan vượng, thì Tòng Quan. Tòng Tài, hành vận đến đất Thực Thương Tài vượng; Tòng Quan, hành vận đến đất Tài Quan vượng, cũng có thể hưng phát, phải xem ý hướng, phối với hành vận là đúng. Nhưng tượng Giả tòng, chỉ cần hành vận yên ổn, giả mà hành vận chân, cũng có thể phú quý.

Tại sao gọi là chân vận? Như Tòng Tài có Tỉ Kiếp phân tranh, thì hành vận Quan Sát tất quý, gặp vận Thực Thương tất phú; có Ấn thụ ám sinh phải hành Tài vận; có khí Quan Sát tiết khí, cần gặp hành vận Thực Thương. Như Tòng Quan Sát, có Tỉ Kiếp trợ thân, gặp Quan vận mà danh cao; có Thực Thương phá Quan, hành Tài vận mà lộc trọng; có Ấn thụ tiết Quan, cần Tài vận để phá Ấn, gọi là hành Chân vận, không phú cũng quý, ngược lại thì hung họa, hoặc xu thế kỵ nghĩa, mưu tính không đứng đắn. Nếu có tuế vận không trái nghịch, ức giả phù chân, dù cho xuất thân thấp bé, cũng có thể quật khởi thanh danh gia đình, chỗ này nhất định là thỏa đáng vậy. Chỗ này chính là tượng Nguyên trọc lưu thanh, nên nghiên cứu tỉ mĩ.

343 - Quý Tị - Ất Mão - Kỷ Hợi - Quý Dậu

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Xuân thổ hư thoát, thế Sát nắm quyền, Tài gặp vượng, mừng Tị Hợi gặp xung phá Ấn, thành cách Tòng Sát. Nhưng mà Mão Dậu xung Sát, Tị Dậu bán hội kim cục, không luận là chân tòng vậy. Cho nên xuất thân hàn vi. Hay là ở giữa có Hợi thủy, gọi là nguyên trọc lưu thanh, do đó có thể quật khởi thanh danh gia tộc, sớm vào nhập học. Vận Nhâm Tý, đăng liền khoa giáp, bước vào Hoàng đường, giữ chức Quan sát ( Tuần phủ). Vận Tân Hợi, kim hư thủy thực, tương sinh không nghịch, quan trường bằng phẳng. Vận Canh Tuất, thổ kim cùng vượng, thủy mộc cùng thụ thương, e rằng không tránh được phong ba vậy.

344 - Đinh Sửu - Nhâm Dần - Bính Thân - Nhâm Thìn

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Bính hỏa sinh đầu mùa xuân, hỏa hư mộc nộn (non yếu), mộc nộn gặp kim, kề gần tương xung, gốc rễ bị nhổ tận cùng, Thân kim lại gặp thổ sinh, thế Sát càng vượng, thành cách Tòng Sát, dụng Tài là tuyệt diệu. Chi năm Sửu thổ, sinh kim hối hỏa, cho nên xuất thân nhà quan, sớm đăng khoa giáp. Vận đến tây bắc kim thủy, làm quan tuần phủ, tuy gặp thổ vận, nhưng vẫn được kim để hóa, cho nên không có hung hiểm vậy.

345 - Ất Mão - Kỷ Mão - Mậu Thìn - Quý Hợi

Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu

Mậu thổ sinh vào giữa mùa xuân, mộc nắm quyền, nhật chủ tọa Thìn, Thìn chứa thủy dưỡng mộc, tứ trụ không có kim. Lại được giờ Hợi thủy, thủy vượng sinh mộc, lại không có hỏa để sinh hóa, dụng cách Tòng Quan. Không luận thân suy vậy. Tuy không xuất thân khoa giáp, vận đến Bính Tý, Ất Hợi, liền đăng bảng quan, vị trí đến tướng soái. Đến vận Quý Dậu, mất chức vong mạng.

346 - Đinh Mão - Bính Dần - Tân Hợi - Canh Dần

Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân

Tân kim sinh vào đầu mùa xuân, thiên can Bính Đinh Canh Tân âm dương tương khắc, mà kim tuyệt hỏa sinh, địa chi Dần mộc nắm lệnh, ngày giờ Dần Hợi hóa mộc, dụng cách Tòng Sát. Vận đến thủy địa, sinh mộc trợ hỏa, hoàn toàn không có hung hiểm, đăng liền Giáp bảng, từ quan huyện đến quan quận, sinh ba đứa con, đều thanh tú.

347 - Quý Hợi - Ất Mão - Kỷ Mùi - Đinh Mão

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Kỷ thổ sinh vào giữa mùa xuân, xuân mộc nắm lệnh lại hợp mộc cục, can giờ Đinh hỏa bị can năm Quý thủy khắc khử, Mùi thổ lại hợp mộc cục, không thể không Tòng Sát vậy. Xuất thân khoa giáp, làm quan tuần phủ.

Chương 15. Giả Hóa

Người Giả hóa cũng có nhiều quý,
Cô nhi dị tính cũng như nhau.


Nguyên chú: Nhật chủ cô nhược mà gặp hợp chân thần, không thể không hóa, nhưng ám phù nhật chủ, hợp thần lại hư nhược, cùng vận không có lấy Long, thì không phải chân hóa. Về phần tuế vận phù khởi hợp thần, chế phục kỵ thần, tuy là Giả hóa, cũng có thể lấy phú quý, tuy là cô nhi dị tính, cũng có thể nổi tiếng, nhưng người đa số gặp trì trệ khó khăn, làm việc không tiến, cốt nhục không được như ý.

Nhâm thị viết: Cục Giả hóa, tượng không giống nhau, có chân hợp thần mà nhật chủ cô nhược, sinh ra hóa thần có dư mà nhật chủ mang căn mầm; có hợp thần không chân mà nhật chủ là gốc, có hóa thần không đủ mà nhật chủ vô khí, có đã hợp hóa thần mà nhật chủ được Kiếp Ấn sinh phù, có đã hợp hóa mà nhàn thần đến làm tổn thương hóa khí, cho nên Giả hóa so với Chân hóa là càng khó, cần phải nghiên cứu kỹ càng, để nắm được Giả hóa.
Như Giáp hợp Kỷ, sinh ở tháng Sửu Tuất, hợp thần tuy là chân, mà nhật chủ cô nhược không có trợ giúp, không thể không hóa, nhưng mùa Thu Đông khí thấp mà hàn, lại có khí kim ám tiết, tuế vận tất cần gặp hỏa, khử khí hàn thấp, thì trung khí ấm áp vậy. Sinh vào tháng Thìn Mùi, hóa thần tuy có thừa, mà Thìn chính là dư khí của mộc, Mùi là thân thông căn khố, mộc không hẳn là vô căn, nhưng khí Xuân Hạ khí ích mà ấm áp, lại có thủy mộc tàng căn, tuế vận nhất định cần đất thổ kim, khử đi mầm gốc mộc, thì không có phân tranh vậy. Như Ất hợp Canh, nhật chủ là mộc, sinh vào mùa Hạ, hợp thần tuy không chân, mà nhật chủ tiết khí vô căn, thổ táo lại không thể sinh kim, tuế vận nhất định cần thổ, thì có thể tiết hỏa dưỡng kim vậy. Sinh vào mùa Đông, kim gặp tiết khí mà không đủ, mộc không nạp thủy mà vô khí, mặc dù có thổ mà đóng băng, vẫn không thể sinh kim ngăn thủy, tuế vận nhất định thổ cần mang theo hỏa, thì giải khí hàn mà khí trung hòa, kim được sinh mà không hàn lạnh vậy.
Như Đinh hợp Nhâm, nhật chủ là Đinh, sinh vào mùa Xuân, Nhâm thủy vô căn, tất theo Đinh mà hợp, không biết mộc vượng tự có thể sinh hỏa, thì Đinh hỏa lại không theo Nhâm hóa mộc, hoặc có Tỉ Kiếp trợ giúp, tuế vận nhất định cần gặp thủy, thì hỏa bị chế mà mộc được thành vậy. Như Bính hợp Tân, nhật chủ là hỏa, sinh vào mùa đông, kim thủy trùng điệp, đã hợp mà hóa, sợ trong trụ có thổ, ám đến tổn hại hóa thần của ta, thấp thổ tuy không thể ngăn thủy, mà cuối cùng thủy vẩn đục không trong, tuế vận nhất định phải cần gặp kim thổ, thì khí lưu hành mà sinh thủy, hóa thần tự chân vậy. Phối hợp như vậy, lấy Giả thành Chân, cũng có danh lợi song toàn, rạng rỡ tổ tông vậy.

Tóm lại, cách tượng không chân, khó tránh lúc nhỏ cô khổ, dễ bị lam lũ, bằng không thì cũng là người kiêu ngạo không cương quyết. Nếu tuế vận không ức Giả phù Chân, cả đời một việc cũng không tiến, danh lợi không thành vậy.

348 - Kỷ Mão - Giáp Tuất - Giáp Tý - Kỷ Tị

Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Thiên can 2 Giáp gặp 2 Kỷ, từng đôi tương hợp, địa chi Mão Tuất hợp, tuy không thể hóa hỏa sinh thổ, nhưng không có tranh đố, tuy là giả hóa, nhưng có tình không tranh đố. Mùi vận phá Tý thủy, đăng Hương bảng; vận Canh Ngọ Kỷ Tị, sinh trợ hóa thần, làm quan cầm đường.

349 - Giáp Tý - Bính Tý - Giáp Thân - Kỷ Tị

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, Ấn thụ nắm quyền, vốn là Sát Ấn tương sinh, đáng tiếc là nhật chủ tọa dưới Thân kim lâm tuyệt địa, cực hư nhược không được thủy sinh, thấy Kỷ thổ mà tham hợp, hợp thần tuy chân mà thất lệnh, cần phải nhờ vào Bính hỏa sinh, giải khí hàn lạnh. Ngại là thủy vượng nắm lệnh, thì hỏa cũng hư thoát, không thể sinh phù, hóa thần giả mà không thanh, là người có nhân phẩm không chân chính, đến vận Canh Thìn năm Giáp Ngọ, khắc mộc sanh thổ, đăng Hương bảng mà không làm quan.

350 - Giáp Dần - Đinh Sửu - Giáp Tuất - Kỷ Tị

Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi

Giáp mộc sinh tháng Sửu, Kỷ thổ thông căn lâm vượng, chi năm lộc vượng, thấy Đinh hỏa mà có tình tương sinh, không có ý tranh đố, tuy là giả hóa, có tình động mà không nghịch. Đến vận Canh Thìn, liền đăng khoa Giáp; vận Tân Tị Nhâm Ngọ, nam phương hỏa địa, sinh trợ hóa thần, làm quan hoàng triều.

351 - Giáp Dần - Tân Mùi - Quý Hợi - Mậu Ngọ

Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu

Quý thủy sinh vào mùa cuối hạ, mộc hỏa cũng vượng, can tháng Tân kim vô khí, không có sinh thủy, nhật chủ tuy vượng địa, nhưng vẫn bị mang hai hỏa thổ, can giờ Mậu thổ, hợp thần chân mà còn vượng, nhật chủ không thể hợp theo vậy. Đầu vận Nhâm Thân Quý Dậu, kim thủy đều vượng, cô khổ quá mức; đến vận Giáp Tuất, chi hội hỏa cục, xuất ngoại gặp được cơ hội lớn; vận Ất Hợi thủy gặp mộc tiết, chi được hội cục, thành danh bất ngờ, tài bạch giàu có sung túc; vừa giao Bính Tý, hỏa không thông căn, bị liên luỵ mà mất chức, đến năm Nhâm Tý hết lộc.

352 - Giáp Thìn - Đinh Mão - Nhâm Thìn - Tân Hợi

Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu

Nhâm thủy sinh vào giữa mùa xuân, tuy giờ gặp lộc Ấn, mà hóa thần nắm lệnh, lại can năm có nguyên thần thấu lộ, can giờ Tân kim vô căn lâm tuyệt, Đinh hỏa hợp thần, đủ để khắc Nhâm thủy. Tân kim không thể sinh thủy, thì Hợi thủy không phải lộc vượng của Nhâm, chính là đất trường sinh của Giáp, nhật can không thể không tòng mà hóa vậy. Vận đến nam phương hỏa địa, được nhập trường ăn lộc, chiến thắng làm quan; đến vận Nhâm Thân Quý Dậu, kim thủy phá cục, chẳng những không còn làm quan, mà còn bị hình thương hao tán.

Chương 16. Thuận Cục

Vừa ra khỏi cửa chỉ thấy Nhi,
Nhi ta thành khí thành cửa ngõ:
Tòng Nhi bất kể thân cường nhược,
Chỉ cần Nhi ta lại được Nhi.


Nguyên chú: Chỗ này cùng thành tượng, tòng tượng, không giống Thương quan, chỉ lấy Ta sinh là Nhi. Như mộc gặp Hỏa, thành khí tượng, như ngày Mậu Kỷ gặp Thân Dậu Tuất thành khí Tây phương, hoặc đủ Tị Dậu Sửu hội kim cục, bất luận nhật chủ cường nhược, mà còn xem kim có thể sinh khí thủy, chuyển thành ý sinh dục. Chỗ này là lưu thông, tất nhiên phú quý..

Nhâm thị viết: Thuận, là ta sinh vậy. Chỉ thấy Nhi, là nhiều Thực Thương vậy; thành cửa ngõ, là nguyệt kiến gặp Thực Thương vậy, tháng là môn hộ, không thể thiếu Thực Thương ở đề cương vậy; bất luận thân cường hay thân nhược, tứ trụ tuy có Tỉ Kiếp vẫn loại đi để sinh trợ Thực Thương vậy; Nhi ta lại được Nhi, trong cục không thể thiếu có Tài, ý lấy thanh sinh dục vậy. Như bản thân bình thường, không làm không có ý chí, được con cháu hưng thịnh, chấn hưng danh tiếng gia đình, lại cần phải vận hành Tài địa, mà lại sinh cháu, có thể hưởng vinh con cháu vậy. Cho nên gọi là Thuận cục.
Tòng Nhi và Tòng Tài Quan là khác nhau vậy. Nhưng Thực Thương sinh tài, chuyển thành sinh dục, tú khí lưu hành, danh lợi đều toại nguyện. Cho nên lấy Thực Thương là con, Tài là cháu, cháu không thể khắc ông bà, thì có thể an hưởng vinh hoa. Như thấy Quan tinh, nói cháu lại sinh Nhi, thì ông cụ tổ lại bị thụ thương, cho nên thấy Quan Sát tất là thôi hại vậy. Như thấy Ấn thụ, là cha của ta, cha có thể sinh ta, ta tự có, sao có thể cho con? Con tất gặp tai ương, ý là không có sinh dưỡng. Tai họa lập tức đến, là lấy Tòng Nhi cách tối kỵ Ấn vận, kế đến là Quan vận. Quan có thể tiết khí Tài, lại có thể khắc nhật chủ, còn Thực Thương lại cùng Quan tinh là bất hòa, ý là mất sinh dục, khởi họa tranh chiến, không hại người thì cũng tán tài vậy.

353 - Đinh Mão - Nhâm Dần - Quý Mão - Bính Thìn

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Quý thủy sinh vào đầu xuân, chi đủ Dần Mão Thìn phương đông nhất khí, cách thành thủy mộc Tòng Nhi, lấy can giờ Bính hỏa làm dụng, chỗ gọi là Nhi lại sinh Nhi. Ngại ở can tháng Nhâm thủy là bệnh, hỉ Đinh hỏa hợp Nhâm hóa mộc, lại sinh Bính hỏa, chuyển thành ý sinh dục, cho nên sớm đăng khoa Giáp, thân đến Hàn Uyển, làm quan tướng soái. Thân vận, mộc hỏa tuyệt địa, hết lộc.

354 - Đinh Tị - Quý Mão - Quý Mão - Bính Thìn

Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu

Quý thủy sinh vào giữa mùa xuân, mộc vượng thừa quyền, tứ trụ không có kim, cũng là thủy mộc Tòng Nhi cách. Dần vận, chi hội đông phương, năm Giáp Tuất nhập học, năm Bính Tý đăng Hương bảng, không bằng tạo ở trên, can tháng Quý thủy tranh Tài, không có chế hợp cho đẹp vậy. Mừng Tài tinh có thế, đường quan chắc chắn là hanh thông.

355 - Kỷ Mùi - Đinh Sửu - Bính Tuất - Mậu Tuất

Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi

Bính hỏa sinh vào cuối mùa đông, toàn cục là thổ, thành cách hỏa thổ, là Tòng Nhi cách. Tân Tài tàng trong Sửu là dụng, gọi là “Nhất cá huyền cơ ám lý tồn” vậy. Chỗ sợ là Đinh hỏa cái đầu, thông căn Mùi Tuất, kỵ thần nghiêm trọng, không thể hiển đạt. May là trung vận Quý Dậu, Nhâm Thân, hỉ dụng cùng đến, đường quan thuận lợi.

356 - Kỷ Mùi - Tân Mùi - Bính Tuất - Mậu Tuất

Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn/ Đinh Mão/ Bính Dần

Bính hỏa sinh vào cuối mùa hạ, toàn cục đầy thổ, là Tòng Nhi cách, can tháng Tân kim độc phát, gọi là Tòng Nhi lại thấy Nhi vậy. Xem đại tượng thì thắng hơn tạo trước, công danh phú quý lại không bằng phẳng là sao vậy? Tạo trước tuy kim không hiện, mà Sửu xúc tàng tam đông thấp thổ, có thể làm mờ hỏa dưỡng kim, tạo này Tân kim hiển lộ, mà mùa hạ kim nóng chảy, căn khí không kiên cố, Mùi Tuất Đinh hỏa nắm quyền, chỗ gọi là “Hung vật thâm tàng” vậy. Cộng thêm vận đến Đông Nam đất mộc hỏa, tuy được Hương bảng, cuối cùng chỉ là một thầy giáo.

357 - Giáp Ngọ - Đinh Sửu - Giáp Ngọ - Bính Dần

Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi

Giáp mộc sinh vào cuối mùa đông, hỏa hư mà may mắn thông căn có lửa, cách thủ Tòng Nhi. Mộc tuy tiến khí, lại phùng Lộc Tỉ trợ thân, là chỗ nói Tòng Nhi bất luận thân cường nhược, cho nên không luận thân nhược vậy. Tạo trước quá ở khô táo. Tạo này thì thấp thổ gặp táo, là địa nhuận thiên hòa, sinh dưỡng không nghịch. Liền đăng khoa Giáp, làm quan Thị Lang.

358 - Tân Sửu - Tân Sửu - Mậu Thân - Nhâm Tý

Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi

Mậu thổ sinh vào cuối mùa đông, Tân kim cùng thấu thông căn tọa dưới Thân kim Nhâm thủy, vượng mà phùng sinh, cũng biết là thuần túy, sớm nhập học, đến Hợi vận, loại tụ phương bắc, được trúng Thi Hương. Giao vận Mậu Tuất, thông căn táo thổ, khử mất Nhâm thủy, đến năm Bính Dần, xung khử Thân kim căn gốc Nhâm thủy, thể dụng đều thụ thương, hết lộc.

359 - Canh Tý - Canh Thìn - Mậu Thân - Tân Dậu

Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất

Tạo này Mậu thổ sinh cuối mùa xuân, trong cục trùng điệp Canh Tân, cách thủ Tòng Nhi, hỉ chi hội Tài cục, sinh dưỡng có tình, cùng tạo trước là gần như nhau, tạo này trung niên vận thổ kim, sinh trợ Tài tinh, cho nên liền đăng khoa Giáp, làm quan Huyện lệnh. Tạo trước không có lộc không làm quan, thực tế là do vận trình nghịch phản vậy.

360 - Nhâm Dần - Tân Hợi - Tân Hợi - Nhâm Thìn

Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị

Tân kim sinh vào đầu mùa đông, Nhâm thủy nắm quyền, Tài phùng sinh vượng, chứa hai khí kim thủy, cách thủ Tòng Nhi vậy. Đi học luôn thành công, đến vận Giáp Dần, đăng khoa Giáp bảng. Vận Ất Mão, từ quan Thị Lang tiến đến Hoàng triều. Vừa giao vận Bính Thìn, Quan Ấn cùng đến, lại gặp năm Mậu Tuất xung động Ấn thụ, phá kỳ Thương quan, hết lộc.

361 - Nhâm Tý - Tân Hợi - Tân Mão - Tân Mão

Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị

Tân kim sinh vào đầu mùa đông, thế thủy nắm quyền, dù thiên can thấu 3 Tân kim, mà địa chi lâm tuyệt, cách thủ Tòng Nhi, đi học xem qua là nhớ, tuổi trẻ nhập học, Giáp Dần làm quan Tri huyện. Vận Ất Mão, đường quan thuận lợi. Vận Bính Thìn bị liên lụy mắc tội, đến năm Tuất thổ vượng khắc thủy mà qua đời.

Phàm Tòng Nhi cách, hành vận không nghịch, gặp Tài không thể không có phú quý vậy; mà tú khí lưu hành, người tất thông minh xuất chúng, học vấn tinh thông.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 17. Phản Cục

Quân dựa Thần sinh lý rất tinh,
Lộ thiên cơ Nhi có cứu Mẫu,
Mẫu từ diệt Tử vì cửa khác,
Nam khỏe vì sao lại sợ thê.


Nguyên chú: Mộc là Quân, thổ là Thần vậy. Thủy phiếm mộc phù, thổ ngăn thủy thì sinh mộc, mộc vượng hỏa sí, kim phạt mộc thì sinh hỏa, hỏa vượng thổ tiêu, thủy khắc hỏa thì sinh thổ; thổ trọng kim mai, mộc khắc thổ thì sinh kim, kim vượng thì thủy trọc, hỏa khắc kim thì sinh thủy, đều là Quân dựa vào Thần sinh vậy, lý này là rất huyền diệu.

Nhâm thị viết : Quân dựa vào Thần sinh, ý nói Ấn thụ quá vượng vậy. Chỗ này nhắm nhật chủ mà luận, như nhật chủ thuộc mộc là Quân, thổ trong cục là Thần, tứ trụ gặp nhiều Nhâm Quý Hợi Tý, thế thủy tràn lan, khí mộc lại hư, chẳng những không thể sinh mộc, ức chế mà mộc cũng không thể nạp được thủy, mộc tất trôi nổi vậy; tất cần dụng thổ ngăn thủy, thì nhờ căn ở trong mộc, thủy mới có thể sinh mộc mà cũng nhận được thủy vậy. Phá Ấn mà tựu Tài, là ý phạm thượng, cho nên gọi là Phản cục vậy. Tuy nhắm vào nhật chủ mà luận, tứ trụ cũng luận giống như thế. Như thủy là Quan tinh, mộc là Ấn thụ, thế thủy quá vượng, cũng làm cho mộc trôi nổi, mộc cần thấy thổ mà có thể nhận thủy, để thành diệu dụng phản sinh. Cho nên lý này rất thâm thúy vậy. Hỏa thổ kim thủy, đều luận giống như vậy.

362 - Nhâm Thìn - Nhâm Tý - Giáp Dần - Mậu Thìn

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ

Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tuy nhật chủ tọa lộc, không đến nỗi phù phiếm, còn thế thủy thái vượng; Thìn thổ tuy có thể tích thủy, hỉ Mậu thổ thấu lộ, Thìn là mộc dư khí. Đủ để ngăn thủy gửi căn, gọi là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Cho nên sớm đăng khoa Giáp, danh cao Hàn uyển; càng đẹp là vận một mạch nam phương hỏa thổ, lộc vị là không thể giới hạn vậy.

363 - Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Giáp Tý - Mậu Thìn

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ

Giáp mộc sinh vào giữa mùa đông, tạo trước tọa Dần mà thực, tạo này thì tọa Tý mà hư, cho nên chi năm mang hỏa Tuất thổ, so với Thìn thổ lực lượng quá lớn vậy. Bởi do căn Mậu thổ kiên cố, đủ để bổ hư cho nhật chủ, hành vận cũng vậy, công danh cũng vậy, làm quan đến chức Thượng Thư.

364 - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Tân Dậu - Kỷ Hợi

Đinh Mão/ Bính Dần /Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất

Tạo Trần Đề đốc, Tân sinh tháng Thìn, thổ tuy trùng điệp, xuân thổ cuối cùng thuộc khí loại bỏ mà buông; mộc có dư khí, trong Hợi có Giáp mộc phùng sinh, Thìn Dậu gián tiếp tương sinh, lại trợ căn nguyên cho mộc, xung xa Tị hỏa, khiến cho không sinh thổ Mậu Kỷ, cũng là Quân dựa vào Thần sinh vậy. Thi Hương không thành, là do nguyên thần mộc không thấu vậy, nhưng hỉ sinh hóa không nghịch, vận đến đông bắc đất thủy mộc, cho nên là vũ chức siêu quần.

365 - Mậu Ngọ - Đinh Tị - Kỷ Mão - Canh Ngọ

Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi

Kỷ thổ sinh vào đầu mùa hạ, trong cục Ấn tinh nắm lệnh, hỏa vượng thổ tiêu, lại có thể đốt mộc, đến năm Canh Tý kỳ thi mùa xuân chiến thắng, thủy mang kim đủ để chế hỏa mãnh liệt, nhuận táo thổ vậy. Kỳ không thể hiển đạt, đường quan lận đận, là do trong cục không có thủy vậy.

Nguyên chú: Mộc là Mẫu, Hỏa là Tử. Mộc bị kim tổn thương, hỏa khắc kim thì sinh mộc; hỏa gặp thủy khắc, thổ khắc thủy thì sinh hỏa; thổ gặp mộc tổn thương, kim khắc mộc thì sinh thổ; kim phùng hỏa luyện, thủy khắc viêm thì sinh kim; thủy do thổ tắc, mộc khắc thổ thì sinh thủy, đều là ý Nhi có thể sinh Mẫu. Ý này có thể đoạt thiên cơ.

Nhâm thị viết: Ý là Nhi có thể sinh Mẫu, cần phân ra mùa mà luận vậy. Như thổ sinh mùa đông, hàn mà còn tàn lụi, gặp kim thủy tất đóng băng, không chỉ kim có thể khắc mộc, mà thủy cũng có thể khắc mộc vậy; tất cần hỏa để khắc kim, giải thủy đóng băng, mộc được dương hỏa mà phát sinh vậy. Hỏa gặp thủy khắc, sinh ở đầu mùa xuân cuối mùa đông, thì mộc nộn hỏa hư, không những hỏa kỵ thủy, mà mộc cũng kỵ thủy, tất cần thổ đến ngăn thủy, bồi mộc sinh sôi, thì hỏa được sinh, mà mộc cũng vinh vậy. Thổ gặp mộc tổn thương, sinh ở cuối đông đầu xuân, mộc kiên thổ hư, dẫu có hỏa, cũng không thể sinh thấp thổ, tất cần phải dụng kim phạt mộc, thì hỏa có lửa mà thổ được sinh vậy. Kim gặp hỏa luyện, sinh ở cuối xuân đầu hạ, mộc vượng hỏa thịnh, tất cần thủy đến khắc hỏa, lại có thể thấp mộc nhuận thổ, mà kim được sinh vậy. Thủy do thổ hàn, sinh ở mùa thu đông, kim đa thủy nhược, thổ nhập phương Khôn, mà có thể tắc thủy, tất cần mộc để khai thông thổ, thì thế thủy thông đạt mà không có trở ngại vậy. Thành tình Mẫu Tử dựa vào nhau. Nếu mộc sinh ở mùa hạ thu, hỏa ở mùa thu đông, kim sinh mùa đông xuân, thủy sinh mùa xuân hạ, chính là vị trí hưu tù, bản thân không có dư khí, làm sao có thể dụng thần sinh ta chứ, chẳng lẻ lấy thần chế khắc ta ư? Tuy nhìn nhật chủ mà luận, thần trong tứ trụ, đều luận giống như vậy.

366 - Giáp Thân - Bính Dần - Giáp Thân - Canh Ngọ

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân

Đầu xuân mộc nộn, 2 Thân xung Dần lộc, giờ lại thấu ra Canh kim, là mộc nộn kim kiên, hoàn toàn dựa vào Bính hỏa phùng sinh lâm vượng; càng đẹp là ngũ hành không có thủy. Gọi là Nhi có cứu Mẫu, khiến cho Canh Thân kim, không tổn thương Giáp mộc. Đến Tị vận, lộc địa của Bính hỏa, trúng Hương bảng, vận Canh Ngọ phát giáp, vận Tân Mùi làm quan huyện. Nói chung là sợ Canh kim cái đầu, không thể thăng thiên, vận Nhâm Thân không những làm quan lận đận, lại còn sợ hết lộc.

367 - Giáp Thân - Bính Tý - Ất Dậu - Bính Tuất

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Ất mộc sinh ở giữa mùa đông, tuy gặp vị trí tướng, cuối cùng mùa đông điêu tàn không tươi tốt, chi lại là loại tây phương, Tài Sát tung hoành, hỉ có Bính hỏa cùng thấu, thì kim không hàn lạnh, thủy không đóng băng, là hàn mộc hướng dương, Nhi có thể cứu Mẫu. Là người tính tình khảng khái. Tuy ở kinh doanh, quy mô tầm thường, lập nghiệp hơn thập vạn. Bất lợi ở thi Hương, là do Tuất thổ sinh Sát phá Ấn vậy.

368 - Bính Thìn - Ất Mùi - Nhâm Thìn - Giáp Thìn

Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu / Nhâm Dần/ Quý Mão.

Nhâm thủy sinh ở cuối mùa hạ, đất hưu tù, hỉ gặp 3 chi Thìn, thân thông căn khố, Thìn thổ có thể tích thủy dưỡng mộc, Giáp Ất cùng thấu, thông căn chế thổ, là Nhi có thể sinh Mẫu. Ngại là Bính hỏa tiết mộc sinh thổ, công danh bất quá chỉ là một học trò; may là ở trung vận đến già vận đến đông bắc đất thủy mộc, quyên nạp mà làm quan, địa vị làm quan Bố chính, giàu có hơn trăm vạn.

369 - Quý Mão - Ất Mão - Kỷ Mão - Tân Mùi

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Kỷ thổ sinh ở giữa mùa Xuân, tứ Sát nắm lệnh, nhật nguyên cực hư thoát vậy, vẫn hỉ có thấp thổ có thể sinh mộc, không lo mộc thịnh, dường như nhất định Mậu thổ không thể chống nỗi vậy. Càng hay là có Mùi thổ, thông căn có dư, đủ để dụng Tân kim chế Sát, mà Nhi có thể sinh Mẫu. Đến năm Quý Dậu, Tân kim đắc lộc, trúng Hương bảng, Canh Tuất làm quan huyện lệnh. Chỗ ngại là can năm Quý thủy, sinh mộc tiết kim, làm quan không vinh hiển, tài sản như vôi. Là giới thanh quan, nhân phẩm rất đoan chính.

Nguyên chú: Mộc là Mẫu, hỏa là Tử vậy, thái vượng gọi là Từ mẫu, trái lại khiến cho hỏa sí mà thiêu diệt, thì gọi là Diệt tử. Hỏa thổ kim thủy cũng như vậy.

Nhâm thị viết: Lý lẽ Mẫu từ diệt Tử, ý cùng Quân dựa vào Thần sinh là tương tự vậy, cứu giúp, đều là Ấn vượng, cửa khác, là Quân dựa Thần sinh, trong cục Ấn thụ tuy vượng, trong trụ Tài tinh có khí, có thể dụng Tài phá Ấn vậy. Mẫu từ diệt Tử, dẫu có Tài tinh mà vô khí, không thể lấy Tài tinh phá Ấn vậy. Chỉ được tính thuận mẫu, trợ giúp cho Tử vậy. Tuế vận vẫn hành đất Tỉ Kiếp, để Mẫu từ mà Tử an; một khi thấy loại Tài tinh Thực Thương, nghịch tính mẫu, ý là không có sinh dục, tai họa tất khó tránh vậy.

370 - Quý Mão - Giáp Dần - Đinh Mão - Giáp Thìn

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ.

Tạo này tục gọi là Sát Ấn tương sinh, là thân cường Sát thiển, kim thủy vận danh lợi song thu, không biết khí Quý thủy, quy về hết chỗ Giáp mộc, địa chi đủ Dần, Mão, Thìn, là mộc đa hỏa tức, đầu vận Quý Sửu Nhâm Tý, sinh mộc khắc hỏa, hình thương phá hao; Tân Hợi, Canh Tuất, Kỷ Dậu, Mậu Thân, thổ sinh kim vượng, xúc nộ vượng thần Mão mộc, hoạn nạn khác thường, nói đất sinh tồn, là lấy ở trước 60 tuổi, một việc cũng không thành. Vận Đinh Mùi trợ khởi nhật nguyên, thuận tính mẫu, được gặp nhiều sự giúp đỡ, cưới thiếp sinh liền hai con. Cùng Bính Ngọ 20 năm, phát tài đếm bạc vạn, thọ đến ngoài 90 tuổi.

371 - Mậu Tuất - Bính Thìn - Tân Sửu - Mậu Tuất

Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất

Tân kim sinh cuối xuân, tứ trụ đều là thổ, Bính hỏa Quan tinh, tiết hết nguyên thần, là thổ trọng vùi kim, là Mẫu đa diệt Tử. Đầu vận hỏa thổ, hình tang phá bại, rửa sạch chỗ này không còn. Vừa giao vận Canh Thân, trợ khởi nhật nguyên, thuận tính mẫu, được nhiều sự giúp đỡ; cùng Tân Dậu, củng bảo thần Sửu, quyên nạp làm quan; vận Nhâm Tuất, thổ lại đắc địa, bị liên lụy mắc tội mất chức.

372 - Bính Tuất - Mậu Tuất - Tân Sửu - Mậu Tuất

Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn

Chỗ này cùng với tạo trước chỉ có đổi một chữ Tuất, do đầu vận Kỷ Hợi, Canh Tý, Tân Sửu là kim thủy, Sửu thổ dưỡng kim, xuất thân phú quý, Tân vận giàu thêm; vừa giao Nhâm vận, thủy mộc cùng đến, phạm tính mẫu, so với lấy thổ trọng phùng thì mộc tất tốt, mạnh là làm quan, phạm sự thì mất chức.

373 - Nhâm Tý - Nhâm Dần - Giáp Tý - Nhâm Thân

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Tạo này tục luận mộc sinh đầu xuân, giờ Sát độc thanh. Hứa là danh cao lộc trọng, không biết đầu xuân mộc nộn, khí lại ngưng hàn, không thể nạp thủy; chi giờ Thân kim, là sinh địa Nhâm thủy, lại có Tý Thân củng thủy, là Mẫu đa diệt Tử vậy. Tiếc là vận không có mộc trợ, gặp hỏa vận cùng thủy chiến, e rằng danh lợi không thành vậy. Hành đầu Quý Mão Giáp Thìn, đông phương mộc địa, thuận Mẫu trợ Tử. Trên có che chở rất tốt; vừa giao Ất Tị, vận chuyển nam phương, cha mẹ cùng mất. Tài tán người tan; Bính vận thủy hỏa giao chiến, gia nghiệp phá hết mà chết.

Nguyên chú: Mộc là phu, Thổ là thê vậy. Mộc tuy kiện vượng, thổ có thể sinh kim mà khắc mộc. Gọi là Phu kiện phạ Thê ( chồng khỏe mà sợ vợ). Hỏa thổ kim thủy hòa thuận, có thủy gặp liệt hỏa mà sinh thổ, hỏa gặp hàn kim mà sinh thủy. Thủy sinh kim, là nhuận táo địa; hỏa sinh mộc, là giải băng hàn. Hỏa thiêu mộc mà thủy khô, thổ thấm thủy mà mộc khô đều là phản cục, học được huyền diệu cần phải suy xét cho kĩ.

Nhâm thị viết: Mộc là chồng, thổ là vợ vậy. Mộc vượng thổ nhiều, không có kim không sợ, một khi thấy chữ Canh Thân Tân Dậu, kim khắc mộc, gọi là chồng khỏe mà sợ vợ vậy. Tuế vận gặp kim, cũng luận như vậy. Như nhật nguyên Giáp Dần Ất Mão, gọi là chồng khỏe, tứ trụ nhiều thổ, trong cục lại có kim, hoặc là ngày Giáp tháng Dần, ngày Ất tháng Mão, năm giờ có nhiều thổ, can thấu Canh Tân kim. Chỗ gọi là chồng khỏe mà sợ vợ, như mộc vô khí mà thổ trọng, tức là không thấy kim. Chồng suy vợ vượng, cũng là sợ vợ, ngũ hành đều luận giống vậy. Có thủy sinh thổ, chế hỏa mãnh liệt; hỏa sinh thủy, địch kim hàn; thủy sinh kim, nhuận táo thổ; hỏa sinh mộc, giải thủy đóng băng. Hỏa vượng gặp táo thổ mà thủy khô, là hỏa có thể khắc thủy vậy; thổ táo gặp kim trọng mà thủy ngấm, là thổ có thể khắc mộc vậy; kim trọng thấy thủy phiếm mà mộc héo khô, là kim có thể khắc mộc vậy; thủy cuồng được mộc thịnh mà hỏa tắt, thủy có thể khắc thổ vậy; mộc nhiều gặp hỏa mãnh liệt mà thổ khét, mộc có thể khắc kim vậy. Chỗ này đều là thâm cơ ngũ hành đảo nghịch, cho nên gọi là phản cục, học giả nên suy xét cho kĩ lý lẽ huyền diệu. Mệnh học hết sức áo diệu, đều lộ ra hết ở đây vậy.

374 - Kỷ Hợi - Mậu Thìn - Giáp Dần - Tân Mùi

Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh ở cuối xuân. Tứ trụ thổ nhiều, giờ thấu Tân kim, thổ sinh kim, kim khắc mộc gọi là Phu kiện phạ thê. Đầu vận mộc hỏa, khử thổ kim, sớm nhập học, liền đăng khoa Giáp; Giáp Tý Quý Hợi, Ấn vượng phùng sinh, nhật nguyên đủ để đảm nhận Tài Quan, nhảy cao làm quan.

375 - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Giáp Tý - Tân Mùi

Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất

Giáp mộc sinh ở cuối xuân, mộc còn dư khí, tọa dưới Ấn thụ, là tượng trung hòa; Tài tinh trùng điệp nắm lệnh, giờ thấu Quan tinh, thổ vượng sinh kim, là Phu kiện phạ Thê. Đầu vận mộc hỏa, khử đi thổ kim, sớm nhập học, liền đăng khoa Giáp. Làm quan không thể hiển vinh, chỉ vì thổ là bệnh vậy. Tạo trước có Hợi, lại tọa - Lộc, chi lại khỏe hơn tạo này, tạo này thì Tý Mùi tương xuyên phá Ấn, tạo trước thì có Dần chế thổ hộ Ấn vậy.

376 - Ất Hợi - Tân Tị - Đinh Tị - Canh Tuất

Canh Thìn/ Ất Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi

Tạo của Đới thượng thư. Nhật nguyên Đinh Tị, sinh ở đầu mùa hạ, hai trụ tháng giờ thấu ra Canh Tân, địa chi lại phùng sinh trợ, Tị Hợi phùng xung, khử hỏa tồn kim, là phu kiện phạ thê. Hỉ kỳ vận đến đất đông phương mộc, trợ Ấn phù thân, là trạng nguyên thiên hạ, quan trường không có phong ba; vừa giao Tý vận, 2 Tị dễ bị chế, hết lộc.

377 - Quý Hợi - Giáp Tý - Mậu Tuất - Quý Sửu

Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ

Nhật nguyên Mậu Tuất, sinh ở năm Hợi tháng Tý, tháng thấu Giáp mộc phùng sinh, thủy sinh mộc, mộc khắc thổ, là phu kiện phạ thê, tối hỉ tọa dưới Tuất là táo thổ, trong ám tàng Đinh hỏa Ấn thụ, Tài tuy vượng, không thể phá Ấn, chỗ gọi là "Huyền cơ ám lý tồn" vậy. Sợ là chi loại bắc phương, thế Tài thái vượng, vật cực tất phản, tuy vị trí bá chủ một phương, nhưng làm quan không lớn.

378 - Quý Hợi - Quý Hợi - Mậu Ngọ - Giáp Dần

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Tạo của Thương Đề đốc. Nhật nguyên Mậu Ngọ, sinh ở năm Hợi tháng Hợi, gặp giờ Giáp Dần Sát vượng, Tài Sát tung hoành, Tài tinh đủ để phá Ấn, dẫn đến thi Hương khó thành. May mà Dần củng Ngọ Ấn, là khắc xứ phùng sinh, lấy Sát hóa Ấn, cho nên là vũ chức siêu quần.

Nhâm thị viết: Tôi xem mệnh Phu kiện phạ thê, rõ ràng rất nhiều quý hiển, lý ít nghiên cứu, trọng ở một chữ "Kiện" kỳ diệu vậy. Nếu như nhật chủ không kiện, gọi là Tài đa thân nhược, cuối cùng là thân khốn khổ vậy. Phu kiện phạ thê, sợ mà không sợ, khởi tùy theo lý đúng vậy. Vận gặp sinh vượng đất phù thân, tự nhiên trở nên nổi bật. Nếu Phu không kiện mà sợ vợ, vợ tất buông thả mà vượt qua đạo lý. Nam muốn dục mà mất tính cương, nữ ham vui mà quên tính thuận, làm sao có thể phú quý chứ?


Chương 18. Chiến Cục

Thiên chiến còn có thể, Địa chiến gấp như hỏa.

Nguyên chú: Can đầu gặp Canh Giáp Ất Tân gọi là Thiên chiến, mà được địa chi thuận là không có hại; địa chi Dần Thân Mão Dậu, gọi là Địa chiến, thì thiên can không thể làm lực. Xu thế nhanh hung, là bởi vì thiên chủ động, địa chủ tĩnh vậy. Tất cả đều thấy gọi là Thiên Địa giao chiến, tất gặp hung là không nghi ngờ, gặp tuế vận hội hợp, là thắng hay bại, cũng có thể tồn mà cũng có thể phát. Có 1 xung 2 xung, chỉ được 1 hợp thần có lực, hoặc không có khố thần quý thần, để thu khí động, tức là tranh khí, cũng có tốt đẹp. Về phần Hỉ thần phục tàng tử tuyệt, lại cần xung động dẫn dụng khí sinh phát.

Nhâm thị viết : Thiên can khí chuyên, mà được địa chi an tĩnh, dễ dàng chế hóa, cho nên “Thiên chiến vẫn còn được” vậy. Địa chi khí tạp, thiên can dù là thuận tĩnh, vẫn khó mà chế hóa, cho nên “Địa chiến gấp như hỏa” vậy. Mà thiên can nên động không nên tĩnh, động thì hữu dụng, còn tĩnh thì càng chuyên; địa chi nên tĩnh mà không nên động, tĩnh thì hữu dụng, động thì căn bị nhổ. Cần phải hợp thần có lực, hội thần thành cục, tức là khí động, hoặc nhận khố thần thì động thần, tĩnh thần yên ổn, gọi là trong động trợ tĩnh, là lấy hung hóa cát. Như các loại Giáp Dần, Canh Thân, Ất Mão, Tân Dậu, Bính Dần, Nhâm Thân, Đinh Mão, Quý Dậu.
Thiên địa giao chiến, tuy có hợp thần hội thần, cũng không ngừng động khí, xu thế nhanh hung. Như nói 2 không xung 1, chỗ này là nói sai vậy. Như 2 Dần 1 Thân, xung khử 1 Dần, tổn mất 1 Dần vậy; như 2 Thân gặp 1 Dần, cho dù không xung, kim nhiều mộc ít, cũng có thể khắc hết vậy. Cho nên thiên can luận là khắc, địa chi nói xung, xung tức là khắc vậy, lý rất rõ ràng, sao lại nghi ngờ chứ? Về phần dụng thần phục tàng hoặc là dụng thần bị hợp, trong nguyên cục không có thần dẫn dụng, trái lại cần xung mà động, mới có thể phát dụng. Cho nên hợp cũng có nên và không nên, xung cũng có cần và không cần, cần nghiên cứu kỹ càng.

379 - Quý Dậu - Ất Mão - Đinh Mùi - Tân Hợi

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Tạo của Lý Đô Tư. Đinh hỏa sinh vào giữa xuân, chi toàn mộc cục, Quý tọa chi Dậu, tựa như Tài sinh nhược Sát, Sát Ấn tương sinh, chẳng biết là Mão Dậu xung nhau, phá mất Ấn cục; thiên can Ất Tân giao chiến, lại tổn hại nguyên thần Ấn, thì Tài Sát tung hoành. Đến vận Tân năm Nhâm Tý, lại gặp Tài Sát, gặp hình phạm pháp.

380 - Quý Dậu - Tân Dậu - Ất Mão - Kỷ Mão

Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão

Thiên can Ất Tân Kỷ Quý, địa chi 2 Mão 2 Dậu, kim bén mộc tàn, thiên địa giao chiến. Kim nắm lệnh, lại có Kỷ thổ sinh, mộc hưu tù, Quý thủy không thể sinh phù. Trung vận nam phương, hỏa vận chế Sát, đường xuất thân đặc biệt, thăng tri huyện. Đến vận Thìn sinh kim trợ Sát, liền vướng quốc pháp.

381 - Nhâm Thân - Nhâm Dần - Nhâm Ngọ - Giáp Thìn

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Nhâm thủy sinh vào tháng Dần, hai trụ năm tháng thấu ra 2 Tỉ kiên, tọa Thân phùng sinh, thế thủy thông gốc. Mà đầu xuân mộc nộn (non yếu), gặp xung tựa như không đẹp, mừng tọa dưới Ngọ hỏa, có thể giải cứu khí hàn, mộc được phát sinh, kim cũng có chế. Càng đẹp can giờ có Giáp mộc, phát lộ nguyên thần, thiên can Nhâm thủy, cũng có chỗ quy về. Vận hành mộc địa, có tình sinh hóa, không có họa tranh chiến vậy. Là lấy chiến thắng làm quan, ra chủ trì một khu nổi tiếng, đến Thân vận, hai Thân xung một Dần mộc, hết lộc.

382 - Nhâm Thân - Nhâm Dần - Nhâm Thân - Tân Sửu

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Thiên can 3 Nhâm, địa chi 2 Thân, đầu xuân mộc nộn, không chịu nỗi 2 Thân kẹp xung, ngũ hành không có hỏa, thiếu tình chế hóa, sợ Sửu thấp thổ sinh kim, tượng gọi là khí trọc thần khô. Đầu vận Quý Mão, Giáp Thìn, không đủ trợ mộc, có thừa sự che chở. Vận Ất Tị cùng thấy hình xung, hình tang phá bại. Vận Bính Ngọ, bầy Tỉ tranh Tài, thiên can không có mộc hóa, nhà phá mạng vong.

383 - Ất Hợi - Tân Tị - Mậu Thân - Giáp Dần

Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi

Thiên can Ất Tân Giáp Mậu, địa chi Dần Thân Tị Hợi, thiên địa giao chiến, tựa như không đẹp. Nhưng hỉ thiên can Ất Tân khử Quan tinh hỗn Sát, địa chi Dần Thân, chế Sát tung hoành. Tị Hợi gặp xung, phá Ấn vốn là không hỉ, hỉ là sinh sau Lập Hạ 10 ngày, Mậu thổ nắm lệnh, thì Hợi thủy bị chế mà Tị hỏa không tổn thương. Vận trình trung niên, mộc hỏa trợ Ấn phù thân, liền đăng khoa Giáp, làm quan thủ Quận; đến Tý vận, trợ khởi Hợi thủy, sinh Sát phá Ấn, hết lộc.

384 - Ất Hợi - Tân Tị - Giáp Tý - Canh Ngọ

Canh Thìn/ Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi

Thiên can Giáp Ất Canh Tân, địa chi Tị Hợi Tý Ngọ, là thiên địa giao chiến, trong cục hỏa vượng thủy suy, Ấn thụ không hẳn là không thích Quan Sát sinh. Chẳng biết Canh Tân ở trên Tị Ngọ, cùng Hợi Tý không có quan hệ thân thiết, chính là gọi Khắc Tiết giao gia. Kiêm vận đồ không gặp thủy địa, hình hao khác thường, khắc ba vợ bốn con. Đến vận Đinh Sửu, hợp khử Tý thủy, hối hỏa sinh kim, một chuyện không thành mà chết.


Chương 19. Hợp Cục

Hợp có nên và không nên, không nên hợp nhiều.

Nguyên chú: Hỉ thần có thể có hợp mà trợ giúp, như lấy Canh là hỉ thần, được Ất hợp mà trợ kim; hung thần có thể có hợp mà khử đi, như lấy Giáp là hung thần, được Kỷ tới hợp đi; động cục có thể có hợp mà tĩnh, như Giáp sinh ở Hợi, được Dần mà thành việc, là êm đềm vậy. Như hợp trợ khởi hung thần, như Kỷ là hung thần, thì Giáp hợp trợ giúp thổ; hợp trói buộc hỉ thần, như Ất là hỉ thần, thì Canh hợp trói buộc; hợp che đậy động cục, Sửu là hỉ thần, thì Tý Ngọ là hợp bế, tránh sinh họa là hợp, không hỉ Giáp mộc, thì Dần Hợi hợp là trợ giúp mộc, đều là không nên vậy. Nói chung, hợp nhiều thì không lưu thông, không phấn phát, tuy có tú khí, cũng không được vậy.

Nhâm thị viết: Hợp vốn là chuyện đẹp, nhưng thích hợp mà hợp thì đẹp nhất, nếu kỵ hợp mà hợp, so với xung thì càng hung, là sao vậy? Xung được hợp mà tĩnh thì dễ dàng, hợp được xung mà biểu hiện rõ thì khó khăn, giấy thông hành hỉ thần có thể có hợp mà trợ giúp là đẹp, như Canh là hỉ thần, là được Ất hợp đi vậy. Nhàn thần hung thần có thể có hợp mà hóa hỉ vậy, như Quý thủy là hung thần Mậu là đầu thần, Mậu Quý hợp mà hóa hỏa thành hỉ thần; Nhàn thần Kỵ thần có thể hợp mà hóa hỉ, như Nhâm là thần, Đinh là Kỵ thần, Đinh Nhâm hợp mà hóa mộc thành hỉ thần vậy.
Như Tý Ngọ phùng xung, hỉ thần ở Ngọ được Sửu hợp; Dần Thân phùng xung, hỉ thần ở Dần, được Hợi hợp, đều là thích hợp. Như kỵ thần được hợp mà trợ giúp, lấy Kỷ là kỵ thần, Giáp hợp, thì là hợp trợ cho kỵ; lấy Ất là hỉ thần, Tân là nhàn thần, Bính Tân hợp hóa là không thành kỵ thần vậy. Có Nhàn thần Kỵ thần hợp hóa Hung thần, lấy Nhâm thủy là đầu thần, Đinh là kỵ thần, Đinh Nhâm hợp hóa mộc là thành hung thần vậy. Như Mão Dậu phùng xung, hỉ thần ở Mão là hợp phong thần, hóa kim thì khắc hỏa, đều là không nên vậy. Nói chung, kỵ thần hợp hóa mà chưa có khử, hỉ thần đến mà hợp hóa. Nếu kỵ thần hợp mà không khử, không đủ là hỉ; hỉ thần không đến bách hợp, là không đủ đẹp, trái lại ham mêê trói buộc mà vô dụng vậy. Có đến hay không, tức là hóa và không hóa vậy, nên xem xét kỹ.

385 - Tân Hợi - Canh Dần - Bính Tý - Ất Mùi

Kỷ Sửu/ Mậu Tý/ Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân

Tạo của Chu Trung đường, nhật nguyên Bính Tý, sinh vào đầu xuân, hỏa hư mộc nộn, dụng thần ở mộc, kỵ thần ở kim, hỉ nhất Hợi thủy nhờ kim lưu thông, hợp Dần sinh mộc là không nghi ngờ. Chi giờ Mùi thổ, lại được Ất mộc chế đắp căn, khử trọc lưu thanh, trung hòa thuần túy. Là người khoan hậu, hoà nhã, cả đời làm quan yên ổn.

386 - Mậu Tý - Canh Thân - Nhâm Dần - Tân Sửu

Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần

Nhật nguyên Nhâm Dần, sinh vào đầu thu, mùa thu thủy thông nguyên, trùng điệp Ấn thụ, Mậu Sửu thổ, có thể sinh kim, không thể chế thủy, khỏi cần thiết lập, chỉ là không thuận tính, lấy Dần mộc làm dụng. Đến Quý vận, tiết kim sinh mộc, nhập học; Hợi vận chi thuộc phương bắc, nói Sửu thổ ẩm ướt là bệnh, lại sinh hợp khơi thông mộc, liền đăng khoa giáp, danh cao hàn uyển,. Chỉ ngại là, Dần Thân xung nhau, tú khí bị tổn thương, rớt Tri huyện. Giáp Tý vận, thủy mộc ngang nhau, một đường nhân ái yên bình. Ất vận, Ất cõng hợp Canh trợ Hổ, bãi chức về nhà; Sửu vận sinh kim, hết lộc.

387 - Đinh Hợi - Nhâm Dần - Bính Ngọ - Đinh Dậu

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh vào tháng Dần, thiên can vừa đủ có hai Đinh. Nhâm thủy thông căn chi Hợi, Sát Ấn tương sanh. Chỗ ngại là Nhâm Dần chi Hợi, chính xác dạng Ấn tương sinh, chỗ ngại là Đinh Nhâm cùng Dần Hợi hợp, dẫn đến Kiếp Nhận tung hoành, bầy Kiếp tranh Tài. Đầu vận phương bắc kim thủy, sản nghiệp hưng thịnh; Mậu Tuất vận lại hội hỏa cục, khắc hại kim tận cùng, gia phá mạng vong.

388 - Kỷ Hợi - Giáp Tuất - Mậu Dần - Bính Thìn

Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Tạo của Tạ Thị lang, sinh vào cuối thu, thổ nắm lệnh, động thường không vượng, nhưng Giáp mộc tiến khí, chi được trường sinh lộc vượng, chi Thìn là dư khí của mộc, tiết hỏa dưỡng mộc, không có kim để chế, thế Sát vượng vậy. Hỉ Giáp hợp Kỷ là thích hợp, thì nhật chủ không bị khắc; càng đẹp ở trung vận thổ kim, chế hóa phù hợp, danh cao được lộc.

389 - Kỷ Mùi - Giáp Tuất - Mậu Dần - Bính Thìn

Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Tạo này cùng với tạo trước chỉ hoán đổi một chữ Hợi, thì thổ không có thủy nhuận, không thể dưỡng mộc, Giáp hợp Kỷ là không nên, Sát không có khí thế, Kiếp mặc sức tung hoành vậy. Vận Nhâm Thân sinh hóa, tuy được nhập học mà không thi đậu; trung vận lại gặp thổ kim, hình thê khắc tử, gia nghiệp tiêu dần; đến Tị vận mà chết. Cách chỉ được một chút lót ở bên trong vậy.

390 - Đinh Hợi - Nhâm Dần - Giáp Tuất - Nhâm Dần

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Giáp mộc sinh ở tháng Dần giờ Dần, mộc nộn khí hư, lấy Bính hỏa giải băng địch hàn làm dụng, lấy Nhâm thủy khắc Bính là kỵ, hỉ nhất là Đinh hợp Nhâm hóa mộc, lại sinh Bính hỏa. Năm Quý Dậu vốn là không cát, hỉ kỳ đại vận ở Kỷ, có thể khắc Quý thủy, tin chiến thắng làm quan. Tiếc là vận Mậu năm Mão không cát, không thể trọng dụng.

391 - Đinh Hợi - Nhâm Dần - Giáp Tuất - Giáp Tý

Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi/ Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân

Giáp sinh tháng Dần, đắc thời nắm lệnh, như dụng Đinh hỏa, Nhâm thủy hợp khử, như dụng Mậu thổ, Dần Hợi sinh hợp khắc Tuất, cả đời thành bại không đều, hình háo đa đoan. Vẫn hỉ trung vận, ấm no mà thôi. Cho nên cần hợp, danh lợi như áo giáp; không cần hợp thì hình thương phá bại.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 20 : Quân Tượng

Quân không thể kháng. Quý ở tổn trên ích dưới.

Nguyên chú: Nhật chủ là Quân, thần phòng ngự là Thần. Như nhật chủ Giáp Ất, đầy cục đều là mộc, bên trong có 1,2 khí thổ, là Quân thịnh Thần suy, xu thế phải nhiều mới lấy trợ thần, hỏa sinh, thổ đầy, kim bảo vệ, để ở dưới bảo toàn mà ở trên yên ổn.

Nhâm thị viết: Quân không thể làm, lý là không có phạm thượng vậy.Tổn trên là tiết ở trên, là không khắc chế vậy, ở trên tiết thì ở dưới nhận khí mà ích lợi.

Như lấy ngày Giáp Ất nhật chủ là Quân, bên trong cục toàn là mộc, chỉ có một hai khí thổ, là Quân cực thịnh mà Thần cực suy vậy, vậy chỉ có phải thuận theo tính Quân, lấy hành hỏa, hành hỏa thì mộc bị tiết, thổ được sinh phù, gọi là Tổn trên để Ích dưới, thì ở trên vua không làm, mà ở dưới được an ổn. Nếu lấy vạn kim, là đối kháng với vua vậy; mà mộc thịnh thì có thể làm cho kim khuyết, vua vẫn không thể kháng lại, trái lại là gây phẫn nộ, mà Thần càng tiết khí, chẳng những vô ích, mà còn có hại, sao có thể ở trên yên mà ở dưới đầy đủ chứ?

392 - Giáp Tuất - Bính Dần - Giáp Tuất - Ất Hợi

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân

Giáp sinh tháng Dần, lại được Hợi sinh, Tỉ Kiếp trợ, hai chi năm và ngày Tuất thổ hư nhược, gọi là Quân thịnh Thần suy, hỉ nhất là can tháng thấu ra Bính hỏa, thuận theo thế mộc, Tuất được tình củng sinh, thì ở trên yên mà ở dưới bảo toàn. Vận Kỷ Tị, hỏa thổ cùng vượng, liền đăng khoa Giáp. Canh Ngọ Tân Mùi, hỏa đắc địa, kim vô căn, lại có hai hỏa hồi khắc, Canh Tân không thể đối kháng vua, Ngọ Mùi đủ để Ích cho thần, làm đến quan Bố Chính. Vận Nhâm Thân xung khắc Bính Dần, là nghịch tính vua, hết lộc.

393 - Giáp Tý - Giáp Tuất - Giáp Dần - Ất Hợi

Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh ở cuối mùa thu, thổ vượng nắm quyền, không thể so với mùa xuân thổ hư, cho nên một Tuất ở chỗ này, đủ để chống hai Tuất của đối phương. Sinh giờ Hợi, lại thiên can đều là mộc, là Quân thịnh Thần suy, cho nên, trong cục hỏa không có lấy được, bầy Tỉ tranh Tài, không thể Ích Thần, thì ở trên yên mà ở dưới không bảo toàn vậy. Vận đầu phương bắc chủ thủy vượng, trợ thế cho Quân, hình tang hao phá, tổ nghiệp không tốt. Vận Đinh Sửu, hỏa thổ cùng đến, gia nghiệp hơi thành tựu. Vận Mậu Dần Kỷ Mão, thổ vô căn, mộc lâm vượng, hủy bỏ ba lần, khởi lên đảo nghịch khác thường, hình thê khắc tử, đến vận Mão vong mạng.


Chương 21. Thần Tượng

Thần không thể quá, Quý ở Tổn dưới mà Ích trên.

Nguyên chú: Nhật chủ là Thần, Quan tinh là Quân. Như nhật chủ Giáp Ất, toàn cục đều là mộc, bên trong có 1,2 kim khí, là Thần thịnh Quân suy, xu thế phải nhiều mới lấy trợ kim. Dụng hỏa mang thổ, để tiết mộc khí; dụng thổ mang hỏa, để sinh kim thần, để mà Quân yên mà Thần bảo toàn. Nếu mộc hỏa lại thịnh, không thể tránh được thì Thần nên giữ gìn Quân, khí không thiếu dùng, một đường hành đất hỏa, mới có thể phát phúc.

Nhâm thị viết: Thần không thể vượt quá, phải lấy đức hóa vậy, sau là Thần thuận mà Quân an. Như nhật nguyên Giáp Ất, toàn cục là mộc, trong cục chỉ có 1,2 kim, Thần thịnh mà Quân cực suy vậy. Nếu kim vận chế Thần, gọi là thế suy mà ra oai, tất có ý kháng trên, tất thổ cần mang vận hỏa; mộc gặp hỏa mà tương sinh, tâm Thần thuận theo vậy. Kim gặp thổ mà được Ích, tâm của Quân yên ổn vậy. Nếu mộc vượng, mà không thấy hỏa thổ, nhất lộ hành vận thủy mộc, cũng có thể an Quân. Nếu không mộc cùng vượng, không thấy hỏa thổ, Thần nên bảo vệ Quân vậy, một đường hành vận thủ mộc, cũng có thể làm Quan yên. Nếu mộc hỏa cùng vượng, thì nân thuận theo tâm của Thần. Một đường hành hỏa, chỗ gọi là Thần thịnh mà tính thuận. Quân suy mà nhân từ, cũng là trên an ổn mà dưới bảo toàn. Nếu đơn thuần dụng thổ kim để kích động, ý là ở trên không yên mà dưới cũng không bảo toàn vậy.

394 - Mậu Dần - Giáp Dần - Giáp Dần - Canh Ngọ

Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân

Nhật nguyên Giáp Dần, năm tháng đều là Dần, toàn cục là mộc, can giờ Canh kim vô căn, là Thần thịnh mà Quân cực suy vậy. Hỉ giờ Ngọ lưu thông tính mộc, thì Mậu thổ nhược mà có căn, tâm Thần thuận theo vậy. Lại gặp vận Bính Thìn, Đinh Tị, Mậu Ngọ, Kỷ Mùi hỏa mang thổ, sinh hóa không nghịch, Thần thuận Quân yên. Sớm đăng khoa giáp, làm quan Thị Lang. Vận Canh Thân, không thể hòa với Thần, hết lộc.

395 - Quý Mão - Ất Mão - Giáp Dần - Tân Mùi

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Nhật nguyên Giáp Dần, năm tháng đều là Mão, lại thấu Ất Quý, Mùi thuộc nam phương táo thổ, là căn khố mộc, thổ không sinh kim, cho nên Quân Tân kim, không có năng lực vậy. Nên Thần phải giữ gìn Quân, lấy Quý thủy làm dụng, vận gặp Giáp Dần, Quý Sửu, sản nghiệp đầy đủ. Nhâm Tý, Tân Hợi, danh lợi đầy đủ. Vừa giao vận Canh Tuất, thổ kim cùng vượng, không thể dung thần, phạm việc mất chức, phá hao khắc con mà chết.

396 - Mậu Ngọ - Mậu Ngọ - Mậu Ngọ - Giáp Dần

Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý

Trụ này gặp 3 Mậu Ngọ, giờ Sát tuy tọa lộc, trong cục không có thủy, hỏa thổ quá khô táo, là Thần thịnh Quân suy, mà Dần Ngọ củng hội, mộc tòng thế hỏa, chuyển sinh nhật chủ, ơn Quân tuy trọng, mà ý hướng nhật chủ, lại không lấy đến Giáp mộc, cho nên vận đến tây phương kim địa, công danh hiển hách, rất nặng tình riêng, không nhớ đến ơn Quân vậy. Vận gặp thủy vượng, lại không giữ gìn Quân, mắc tội mà mất chức.

397 - Giáp Dần - Bính Tý - Kỷ Dậu - Kỷ Tị

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Nhật nguyên Kỷ Dậu, sinh vào giữa mùa đông, Giáp Dần Quan tinh tọa lộc, Tý thủy Tài tinh nắm lệnh, là Tài vượng sinh Quan, giờ gặp Ấn thụ, trụ này gọi là Quân Thần đều thịnh. Càng đẹp là can tháng thấu một Bính hỏa, là Hàn thổ hướng dương, chuyển sinh nhật chủ, ơn Quân trọng vậy. Sớm đăng khoa Giáp, danh cao Hàn Uyển. Là do tọa dưới Dậu kim, được chi giờ Tị củng, hỏa sinh, kim bảo vệ, thủy dưỡng, mà lực lượng nhật chủ, đủ để khắc Tài, là do cùng là Quan trọng Tài, mà quên ơn vua vậy.
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 01:29, 19/04/15 với 3 lần sửa.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức tứ trụ”