Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Khu vực dành cho các hoạt động offline, giao lưu, kết bạn, hội họp
Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

hoangloi8978 đã viết: 21:14, 26/03/17 Cô bé trong lớp anh văn năm nhất đại học anh ạ. Kỷ niệm một thời đã trôi xa...
Đúng rồi ... Ai cũng có một thời đã trôi xa ...
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

tuphuongsg đã viết: 21:45, 26/03/17
Tôi rất thích LỊCH SỬ, cho nên bạn cứ tiếp tục, nhưng phải khách quan và chân thật, đừng có những khoảng tối và khoảng trống nhé! (muốn có sự thật có lẽ ko nên nhắc đến thời kỳ cận hiện đại nhỉ??? ~X( )
Hân hạnh lần đầu được biết bạn ... Bạn ở Sài gòn ??? ... Nếu không "khách quan và chân thật" và "có những khoảng tối và khoảng trống" thì không phải là lịch sử mà là chính trị ... Mà mình thì không thích ... chính trị ... hà hà hà ... "thời kỳ cận hiện đại" tế nhị hơn, nhưng không nhất thiết phải "bất khả xâm phạm" khi bàn về lịch sử ... hà hà hà ...
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Mình vừa đọc bài này trên mạng. Xin post lại đây, mời mọi người cho ý kiến, nhất là bạn trẻ Lê Tùng Lâm.

Sử Việt với “tướng giặc” Mai Thúc Loan
Phan Bá Lương
Đại Việt sử ký toàn thư viết như sau: “Nhâm Tuất (722) (Đường Huyền Tôn, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là có 30 vạn. Đường đế sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Quang Sở Khách đánh dẹp được” ([1]).
Đoạn ghi chép này của ĐVSK Toàn thư sẽ làm nảy sinh câu hỏi: lẽ nào một bộ sách sử được đánh giá là vĩ đại của chúng ta lại ghi chép về một vị anh hùng dân tộc như thế? Không biết ĐVSK Toàn thư đang ghi chép về lịch sử Việt Nam hay lịch sử Trung Hoa? v.v…
Để kiểm chứng, xem tiếp ĐVSK Toàn thư – Bản in Nội các quan bản thì cũng thấy viết như thế (xin chụp lại để mọi người cùng đọc) ([2]):
Tách câu và Phiên âm (viết theo từng cột trong bản in từ trên xuống dưới, rồi từ cột phải sang cột trái, khi hết một cột thì xuống hàng khác viết tiếp, để dễ đối chiếu)
(Cột 1) 主 延 祐 殺之. 其 餘 黨 丁 建 等合 㨿 園 府 城. 城 中 兵
chủ, Diên Hựu sát chi. Kì dư đảng Đinh Kiến đẳng hợp chúng ([3]) viên phủ thành. Thành trung binh
(Cột 2) 少 不 支 㨿 壘 待 援. 廣 州 大 族馮 子 由 幸 立 功 按 兵
thiểu bất chi, anh luỹ đãi viện. Quảng Châu Đại tộc Phùng Tử Do hạnh lập công, án binh
(Cột 3) 不 出.建 殺 延 祐. 後 桂 州 司馬 曹 直 静 攻 建 殺 之.
bất xuất. Kiến sát Diên Hựu. Hậu Quế Châu Tư mã Tào Trực Tĩnh công Kiến sát chi.
(Cột 4) 壬 戌 唐 玄 宗 隆 基 開元 十 年. 賊 帥 梅 叔 鸞 㨿 州 稱 黑 帝 外 結
Nhâm Tuất, [Đường Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên thập niên]. Tặc soái Mai Thúc Loan cứ châu, xưng Hắc Đế, ngoại kết
(Cột 5) 林 邑 真 臘 人 等 㨿 號 三 十 萬. 唐 帝 遣 内侍 左 監 門
Lâm Ấp, Chân Lạp nhân đẳng, chúng hiệu tam thập vạn. Đường đế khiển Nội thị tả giám môn
(Cột 6) 衛 將 軍 楊 思 朂 都 護 元 楚 客 討 平 之.
vệ tướng quân Dương Tư Húc, Đô hộ Nguyên Sở Khách thảo bình chi.
(Cột 7) 戊 戌 唐 肅宗 亨 至 德 三 年. 唐 改 安 南都 護 府 曰 鎮 南 都 護 府.
Mậu Tuất, [Đường Túc Tông Hanh, Chí Đức tam niên]. Đường cải An Nam Đô hộ phủ viết Trấn Nam
đô hộ phủ.
(Cột 8) 丁 未 唐 代宗 豫 大 曆 二 年. 崑 崙 闍 婆 來 寇 攻 㨿 州 城. 經 畧 使Đinh Mùi, [Đường Đại Tông Dự, Đại Lịch nhị niên]. Côn Lôn, Chà Bà lai khấu, công thao châu thành. Kinh lược sứ
(Cột 9) 張 伯 儀 求援 於 武 定 都 尉 髙 正 平. 援 兵 至 破崑 崙.
Trương Bá Nghi cầu viện ư Vũ Định đô uý Cao Chính Bình. Viện binh chí, phá Côn Lôn..
Dịch Quốc Ngữ
“chủ mưu, Diên Hựu giết đi. Dư đảng là bọn Đinh Kiến họp quân vây phủ thành. Trong thành binh ít không chống nổi, đóng cửa thành cố giữ để đợi quân cứu viện. Đại tộc ở Quảng Châu là Phùng Tử Do muốn lập công, đóng quân không đến cứu, Kiến giết Diên Hựu. Sau Tư mã Quế Châu là Tào Trực Tĩnh ([4]) đánh giết được Kiến. Nhâm Tuất [722], (Đường Huyền Tông, Long Cơ, Khai Nguyên năm thứ 10). Tướng giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là 30 vạn. Vua Đường sai nội thị tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách đánh dẹp yên được. Mậu Tuất [758], (Đường Túc Tông Hanh, Chí Đức năm thứ 3). Nhà Đường đổi An Nam Đô Hộ Phủ làm Trấn Nam Đô Hộ Phủ. Đinh Mùi [767], (Đường Đại Tông Dự, Đại Lịch thứ 2). [Người] Côn Lôn ([5]), Chà Bà ([6]) đến cướp, đánh lấy châu thành. Kinh lược sứ Trương Bá Nghi cầu cứu với Đô uý châu Vũ Định là Cao Chính Bình. Quân cứu viện đến, đánh tan quân Côn Lôn”.
Như vậy đây là sự thật, hai bản dịch của bộ ĐVSK Toàn thư đều ghi là “Tướng giặc Mai Thúc Loan” cả.
Xem tiếp tục Khâm định VSTGCM ([7]) của Quốc sử quán triều Nguyễn, cũng lấy từ trang mạng nomna.org, thì thấy sách này viết như sau: “… Năm Nhâm tuất (722). (Đường, Huyền tông, năm Khai Nguyên thứ 10). Tháng 7, mùa thu. Ở Hoan Châu Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng đế. Nhà Đường, sai bọn nội thị Dương Tự Húc sang đánh, phá được …”.
Như vậy là Khâm định VSTGCM không ghi Mai Thúc Loan là “tướng giặc”, người anh hùng dân tộc đã nổi dậy và chiếm giữ Hoan Châu, theo Đất nước Việt Nam qua các đời ([8]) thì vào thời Đường, An Nam đô hộ phủ cai quản 14 châu, trong đó có 8 châu là Giao Châu, Lục Châu, Phong Châu, Trường Châu, Ái Châu, Diễn Châu, Hoan Châu và Phúc Lộc Châu nằm trên đất nước ta; riêng Hoan Châu lúc bấy giờ gồm có 4 huyện là Cửu Đức (miền huyện Hưng Nguyên), Phố Dương (miền huyện Nghi Lộc, Nghi Xuân), Việt Thường (miền huyện Đức Thọ), Hoài Hoan (miền huyện Nam Đàn, Anh Sơn) và “trị sở của châu ở khoảng núi Lam Thành, tức là Rú Thành, đó sẽ là trụ sở của phủ Nghệ An ở thời Trần Lê”.
Về hai bản dịch bộ Đại Việt sử ký toàn thư tại Việt Nam:
Lời nói đầu của bộ ĐVSK Toàn thư (trọn bộ 2 tập) do Nxb Văn hóa thông tin xuất bản năm 2004 cho chúng ta biết “… Năm 1967, lần đầu tiên bộ ĐVSK Toàn thư gồm 4 tập do nhà Hán học Cao Huy Giu dịch và Giáo sư Đào Duy Anh hiệu đính ra mắt bạn đọc ([9]) … Sau này, chúng ta được biết bản in xưa nhất của bộ ĐVSK Toàn thư là bản Nội các quan bản được in từ văn khắc năm Chính Hòa 18 (1697). Bản in này do Giáo sư sử học Phan Huy Lê mang từ Paris về nước ([10])…Như vậy trong mấy chục năm qua, giới nghiên cứu và bạn đọc yêu mến lịch sử nước nhà đã có hai bản dịch về cùng một bộ sách vĩ đại ấy …”.
Về việc hoàn thành bộ ĐVSK Toàn thư:
Bộ ĐVSK Toàn thư hiện nay chúng ta đang sử dụng được hoàn thành qua những giai đoạn như sau:
-Đầu tiên, năm 1272 đời vua Trần Thánh Tông, Hàn lâm viện Học sĩ kiêm Quốc sử viện giám tu Lê Văn Hưu viết Đại Việt sử ký chép từ Triệu Vũ Đế (Triệu Đà) đến năm đầu Lý Chiêu Hoàng.
-Năm 1455 đời vua Lê Nhân Tông, Phan Phu Tiên viết tiếp bộ Đại Việt sử ký từ Trần Thái Tông đến 1428 khi quân Minh thua rút về nước.
-Hồ Tông Xác viết bộ Việt sử cương mục ([11]).
-Năm 1479 đời vua Lê Thánh Tông, Lễ bộ Hữu thị lang Triều liệt đại phu kiêm Quốc tử giám Tư nghiệp kiêm Sử quan tu soạn Ngô Sĩ Liên viết ĐVSK Toàn thư chép từ Hồng Bàng Thục Vương (gọi là ngoại kỷ) đến 1428 khi kháng chiến chống quân Minh thắng lợi. Theo bài tựa sách này thì Ngô Sĩ Liên đã “… lấy hai bộ sách của tiên triều sửa chữa chép lại, thêm vào một quyển ngoại kỷ, cộng thành mấy quyển gọi là ĐVSK Toàn thư, có việc nào sót quên thì bổ thêm vào, có lệ nào chưa đúng thì cải chính lại; văn có chỗ nào chưa ổn thì đổi đi, gián hoặc có việc hay dở có thể khuyên răn được thì góp thêm ý kiến quê mùa ở sau…” ([12]).
-Năm 1511 đời vua Lê Tương Dực, Binh bộ thượng thư kiêm Quốc tử giám tư nghiệp kiêm Sử quan đô tổng tài Vũ Quỳnh viết Đại Việt sử thông giám, chia từ Hồng Bàng thị đến 12 sứ quân làm “ngoại kỷ”, từ Đinh Tiên Hoàng đến năm đầu Thái tổ Cao hoàng đế làm “bản kỷ” ([13]).
-Năm 1514 đời vua Lê Tương Dực, Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri Kinh diên sự Đôn thư bá Trụ quốc Lê Tung soạn Đại Việt thông giám tổng luận.
-Năm Canh thìn 1520 vua Lê Chiêu Tông, Lễ bộ thượng thư kiêm Sử quán phó tổng tài tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Đặng Minh Khiêm soạn bộ Đại Việt lịch đại sử ký.
-Năm 1665 đời vua Lê Hiển Tông, Tham tụng Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Thiếu bảo Yên quận công Phạm Công Trứ viết Đại Việt sử ký tục biên, chia từ Hồng Bàng thị đến Ngô sứ quân làm “Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư”, từ Đinh Tiên Hoàng đến Thái tổ Cao hoàng đế làm “Bản kỷ toàn thư”, từ Lê Thái Tông đến Lê Cung Hoàng làm “Bản kỷ thực lục”, từ Lê Trang Tông đến Lê Thần Tông làm “Bản kỷ tục biên”.
-Năm 1697 đời vua Lê Hi Tông, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tham tụng Hình bộ Thượng thư tri Trung thư giám Lai Sơn tử Lê Hi viết Đại Việt sử ký tục biên, chép thêm từ Lê Huyền Tông đến năm Đức Nguyên thứ 2 đời Lê Gia Tông.
Ngoài những người được nêu tên ở trên và ngoài Đại Việt thông giám tổng luận do một mình Lê
Tung soạn, mỗi công trình còn được rất nhiều người tham gia, căn cứ vào Bài tựa hoặc Biểu dâng sách ta được biết:
–Đại Việt sử ký tục biên năm 1665, ngoài Phạm Công Trứ còn có Tả thị lang Dương Hạo; Hữu thị lang Hồ Sĩ Dương, Nguyễn Quốc Khôi, Đặng Công Chất; Tự khanh Nguyễn Công Bích; Đông các Bùi Đình Viên; Thị thư Đào Công Chính; Thị chế Ngô Khuê; Phủ doãn Nguyễn Đình Chính; Cấp sự trung Nguyễn Công Bật; Hàn lâm Nguyễn Viết Thứ, Vũ Duy Đoán ([14]).
–Đại Việt sử ký tục biên năm 1697, ngoài Lê Hi còn có Quang tiến thận lộc đại phu Bồi tụng Hộ bộ Hữu thị lang Liêm đường nam Nguyễn Quý Đức; Hoằng Tín đại phu Bồi tụng Thái bộc tự khanh tri Thị nội thư tả Binh phiên Nguyễn Công Đổng; Hoằng Tín đại phu Bồi tụng Hồng lô tự khanh tri Thị nội thư tả Hộ phiên Vũ Thạnh; Hoằng tín đại phu Bồi tụng Phụng Thiên phủ doãn tri Thuỷ sư Hà Tông Mục; Tiến công lang Bồi tụng Lại khoa cấp sự trung tri Thị nội thư tả Hộ phiên Nguyễn Hành; Tiến công lang Hộ khoa cấp sự trung Nguyễn Trí Trung; Tiến công lang Công khoa cấp sự trung Nguyễn Đương Bao; Cẩn sự lang Hàn lâm viện hiệu lí Nguyễn Mại; Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện hiệu thảo Nguyễn Hồi; Cẩn sự tá lang Hàn lâm viện hiệu thảo Ngô Công Trạc; Tiến công lang Chiêu văn quán Tư huấn Trần Phụ Dực; Tiến công lang Chiêu văn quán Tư huấn Đỗ Công Bật; Nội sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tư lễ giám Tổng thái giám phó tri Thị nội thư tả Binh phiên Khoan Hải hầu Phạm Đình Liêu phụng giám đằng san; Nội sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tư lễ giám đồng tri giám sự Thiêm tri bộ binh Thư tả lệnh sử Hiệu nghĩa hầu Nguyễn Thành Danh phụng giám đằng san; Nội sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tư lễ giám tả giám thừa Khuê tường hầu Nguyễn Tuấn Đường phụng giám đằng san; Nội sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Tư lễ giám tả giám thừa Vọng tường hầu Ngô Quán Luân phụng giám đằng san; Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Thiếu khanh Phó câu kê tướng thần lại Diệu đường tử Ngô Đức Thắng phụng khán đằng tả; Phó cai hợp tướng thần lại Thiếu khanh Hồng giang nam Lê Sĩ Huân phụng thuộc khán đằng; Ưu trúng Thị nội thư tả Binh phiên Cao Đăng Triều phụng đằng; Ưu trúng Thị nội thư tả Binh phiên Đỗ Công Liêm phụng đằng. Ưu trúng Thị nội thư tả Thuỷ binh phiên Đặng Hữu Phỉ phụng đằng; Ưu trúng Đô lại Nguyễn Hữu Đức phụng đằng; Tử nhân Hồng Lục, Liễu Chàng đẳng xã nhân phụng san ([15]).
Rất tiếc, các công trình trước Đại Việt sử ký tục biên năm 1665 đều không ghi tên những người tham gia, hoặc nay không còn, nên không biết được tường tận. Tuy nhiên cũng có thể xác quyết rằng những sách này cũng là một công trình tập thể có nhiều người mới làm được.
Xin được nêu mấy vấn đề để chúng ta cùng suy ngẫm, cũng xin nói cho rõ, bài viết này của tôi chỉ giới hạn trong khuôn khổ “ghi chép về Mai Thúc Loan” mà thôi, không có ý bao hàm cả toàn bộ sách ĐVSK Toàn thư vì Mai Thúc Loan chỉ là một sự việc nhỏ trong hàng triệu sự việc được nêu lên trong sách.
1-Ở trên chúng ta đã biết bộ ĐVSK Toàn thư mà ngày nay chúng ta đang có là do nhiều đời tác giả hoàn thành, xem những Bài tựa hoặc Biểu dâng sách sau đây thấy:
a. Ngô Sĩ Liên::
+Biểu dâng sách viết “… Đem hai bộ Đại Việt sử ký trước tham khảo với dã sử, soạn thành bộ ĐVSK Toàn thư …” ([16]).
+Bài tựa viết “…Văn Hưu là đại thủ bút của đời Trần, Phu Tiên là bậc cố lão của thánh triều ta, đều vâng chiếu biên chép lịch sử của nước nhà, tìm khắp các sách sử còn lại, tóm chép thành sách, để cho người xem sau này không còn tiếc nữa là được. Song ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý. Chỉ có bộ Việt sử cương mục của Hồ Tông Xác làm là chép việc thận trọng mà có phép tắc, bàn việc thiết đáng mà không rườm, cũng là bực giỏi …” ([17]).
b.Phạm Công Trứ viết “… Do đó mà xem thì việc biên tập quốc sử đã làm đến ba bốn lần rồi, nhưng vì chưa khắc in mà ban bố, cho nên sao chép theo nhau lầm lẫn, không khỏi có sự sai lầm hợi 亥 ra thỉ 豕, ngư 鱼 ra lỗ 鲁…, nếu không hiệu đính lại, thì làm thế nào mà rửa bỏ được thói quen theo nhau lâu ngày ấy… Vì thế cùng nhau gia công tìm kiếm, gián hoặc thấy có chỗ nào sao chép sót sai, chử nghĩa không chạy, thì suy tìm ý nghĩa mà sửa chữa một vài để cho người đọc dễ hiểu, chứ không dám thêm thắt đoán chừng…” ([18]).
c.Lê Hi viết “… sai bọn thần khảo đính sử cũ, chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy. Về thế thứ, phàm lệ, niên biểu, hết thảy đều y theo những tác phẩm trước, lại tìm kiếm chuyện cũ, tham khảo các sách dã sử loại biên …” ([19]).
Xem các bài tựa hoặc biểu dâng sách đều có một điểm chung là “theo sách cũ”, nhưng lại có “hiệu đính”, “chỗ nào sai thì sửa lại, chỗ nào đúng thì chép lấy…” .
2- Xem xong ghi chép về Mai Thúc Loan trong Khâm định VSTGCM mới vở lẽ rằng những gì ĐVSK Toàn thư ghi chép về Mai Thúc Loan là lấy từ trong Tân Đường thư ([20]), một bộ sử của nhà Đường Trung Hoa, và lẽ dĩ nhiên thì Đường thư phải gọi Mai Thúc Loan là “tướng giặc”. Điều đáng buồn ở đây là các sử quan Việt Nam, viết về lịch sử Việt Nam, nhưng lại dùng Đường thư khi viết về Mai Thúc Loan. Đã trải qua 8 lần viết, bổ sung với hàng chục quan lại tham dự, viết xong còn phải dâng lên vua, lên chúa ngự lãm trước khi được chiếu chỉ cho ban hành nhưng không hiểu sao lại để xảy ra việc Đường thư hiện diện như vậy. Ở trên tôi đã cố ý nêu tên những người tham gia vào việc viết hai phần Đại Việt sử ký tục biên năm 1665 và Đại Việt sử ký tục biên năm 1697 cũng chỉ nhằm chứng minhrằngnhững người nàylà những quan lại có vai vế, thậm chí là có chức tước lớn trong thời Lê – Trịnh, và họ có dư trình độ để viết nên những công trình này.
3-Ngay cảLê Tắc còn viết trong sách An Nam chí lược : “Sơ niên, hiệu Khai Nguyên (713-714), của Huyền Tông, soái trưởng Giao Châu là Mai Thúc Loan làm phản, hiệu xưng là Hắc Đế, ngoài thì kết giao với quân của Lâm Ấp và Chân Lạp, tập hợp được 30 vạn quân sĩ, chiếm cứ nước An Nam. Vua Huyền Tông ra lời chiếu sai quan Tả giám môn vệ tướng quân là Dương Tư Miễn và quan Đô hộ là Nguyên Sở Khách qua đánh, cứ noi theo con đường cũ của Mã Viện đi tới phá quân của Loan, thâu những xác chết đắp thành gò lớn, rồi kéo về” ([21]).
4-Tuy những bộ sách có trước bộ 1697 (bộ Nội các quan bản) hiện nay đều không còn, nhưng xem Đại Việt thông giám tổng luận ([22]) do Lê Tung soạn vào năm 1514, dựa vào Việt giám thông khảo của Vũ Quỳnh ([23]), nhằm mục đích “… tóm tắt đại yếu để cho khi xem mà đạo cương thường của trời đất càng rõ rệt, đạo trị bình của đế vương càng sáng thêm, như giường lưới đã cất thì các mắt lưới đều căng ra, như gương sáng đã treo thì muôn hình tượng đều chiếu thấy, có quan hệ đến đời lớn lắm vậy…”, sau đó viết tiếp “…Mai Hắc Đế nổi lên từ Châu Hoan, căm giận ngược chính của Sở Khách, cất quân để đánh, phía nam giữ đất Hải Lĩnh, phía bắc chống lại nhà Đường có thể gọi là bậc vua hào kiệt. Tiếc rằng không tài chống giặc, lòng người ít theo, nên không thể át nổi cái loạn Dương Tư Húc…” ([24]).
Như vậy có thể thấy rằng các bộ sách sử Việt Nam ra đời trước năm 1514 đều không có sách nào ghi Mai Thúc Loan là “tướng giặc” cả, dù những tác giả viết nên những bộ sử cũng đã đọc được Đường thư.
Vậy thì chỉ còn có thể kết luận việc ghi Mai Thúc Loan là “tướng giặc” chỉ có thể bắt nguồn từ một trong ba bộ sử viết sau 1514, đó là Đại Việt lịch đại sử ký doLễ bộ thượng thư kiêm Sử quán phó tổng tài tri Chiêu văn quán Tú lâm cục Đặng Minh Khiêm soạn năm 1520, Đại Việt sử ký tục biên do Tham tụng Lại bộ thượng thư kiêm Đông các đại học sĩ Thiếu bảo Yên quận công Phạm Công Trứ viết năm 1665, và Đại Việt sử ký tục biên do Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu Tham tụng Hình bộ Thượng thư tri Trung thư giám Lai Sơn tử Lê Hi viết năm 1697. Nhưng Đại Việt sử ký tục biên của Lê Hi chỉ chép thêm từ Lê Huyền Tông đến năm Đức Nguyên thứ 2 đời Lê Gia Tông thì có thể bỏ qua tác giả này, vì vậy chỉ còn lại hai bộ của Đặng Minh Khiêm và Phạm Công Trứ, rất tiếc là cả hai bộ sách này đều không còn.
5-Ngay cả bộ sử Khâm định VSTGCM của triều Nguyễn cũng không có một lời nào để đính chính cho ĐVSK Toàn thư cũng như khẳng định việc nổi dậy chống quân xâm lược Đường của vị anh hùng dân tộc Mai Thúc Loan, chỉ thấy ghi “Ở Hoan Châu Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng đế” (không còn ghi Mai Thúc Loan là tướng giặc). Cả các nhà sử học sau này khi dịch và cho xuất bản ĐVSK Toàn thư cũng không thấy một lời nào để đính chính sai lầm của ĐVSK Toàn thư cả.

Chú thích:
([1])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa Thông tin 2004, trang 167. Chú thích bên dưới trang sách này viết: “Tân Đường thư q.207, Dương Tư Húc truyện chép rằng: Đầu đời Khai Nguyên, thủ lĩnh Man ở An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, tự hiệu là Hắc Đế, dấy quân 32 châu, ngoài liên kết với các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân giữ miền biển phương nam, xưng quân chúng đến 40 vạn người. Dương Tư Húc xin đi, mộ con em các thủ lĩnh 10 vạn người cùng với đại đô hộ An Nam là Quang Sở Khách, đi theo đường của Mã Viện, xuất kỳ bất ý. Giặc sợ hãi, không kịp mưu tính, bèn cả thua”.
([2])Toàn bộ “hình ảnh, tách câu và phiên âm, dịch quốc ngữ” đều được lấy từ trang mạng nomna. org, tôi chỉ ghi lại thành từng cột để dễ đối chiếu mà thôi. Xin chân thành cám ơn trang mạng nomna. org.
([3])Trong bản khắc có chữ “chúng” này, nhưng phần tách câu để trống, ở đây thể hiện bằng một hình vuông, do không tìm thấy chữ như vậy. Các chữ (Cột 1), (Cột 2),… (Cột 9) là do tôi ghi để người đọc dễ tìm thấy và so sánh với bản in.
([4])Tân Đường thư, Cựu Đường thư, Thông giám đều chép là Tào Huyền Tĩnh.
([5]) Côn Lôn: thư tịch Trung Hoa từ thế kỷ IV, nhất là từ thời Đường, thường dùng tên Côn Lôn để chỉ một số cư dân trong vùng Nam Hải, tức vùng Đông Nam Á ngày nay. Tuệ Lâm trong Nhất Thiết kinh âm nghĩa (q.61) soạn năm 817, nói rằng “Côn Lôn…cũng gọi là Cốt Luân, là người Di ở các đảo châu Nam Hải, rất đen… chủng loại có nhiều”. Cựu Đường thư, Nam Man truyện cùng chép “Từ Lâm Ấp trở về phía nam, đều tóc quăn, da đen, gọi chung là Côn Lôn”. Như vậy, Côn Lôn là một sự phiếm chỉ, khó có thể xác định đó là cư dân một nơi nào ở Đông Nam Á hiện nay.
([6]) Chà Bà: phiên âm tên đảo Java, có tài liệu ghi là Chà Và.
([7])Khâm định VSTGCM của Quốc sử quán triều Nguyễn (1856-1881); Viện Sử học dịch (1957-1960); Nxb Giáo dục (Hà Nội – 1998); Chuyển sang ấn bản điện tử bởi Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Thanh Quyên (2001); Điều hợp: Lê Bắc.
([8])Sách đã dẫn, từ trang 174 đến 176.
([9])Theo Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh (Nxb Thuận Hóa 2006, trang 11), thì “Bản lưu hành ngày nay là do Quốc tử giám đời Lê khắc in, bản in đã được chuyển vào Quốc sử quán nhà Nguyễn ở Huế”.
([10])Bản in Nội Các Quan Bản; Mộc bản khắc năm Chính Hòa thứ 18 (1697); Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên… soạn thảo (1272 – 1697); Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam dịch (1985 – 1992); Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội – Hà Nội 1993; Tác giả -Văn bản-Tác phẩm: Phan Huy Lê; Chuyển sang ấn bản điện tử bởi Lê Bắc, Công Đệ, Ngọc Thủy, Tuyết Mai, Hồng Ty, Nguyễn Quang Trung; Điều hợp: Lê Bắc – bacle@hotmail.com 2001 (Tài liệu từ trang mạng nomna.org)
([11]) Không rõ viết từ đâu đến đâu và hoàn thành từ năm nào
([12])Cũng trong Bài tựa, Ngô Sĩ Liên viết: “…Văn Hưu là đại thủ bút của đời Trần, Phu Tiên là bậc cố lão của thánh triều ta … song ghi chép còn có chỗ chưa đủ, nghĩa lệ còn có chỗ chưa đáng, văn tự còn có chỗ chưa ổn, người đọc không khỏi có chỗ còn chưa vừa ý. Chỉ có bộ Việt sử cương mục của Hồ Tông Xác làm là chép việc thận trọng mà có phép tắc, bàn việc thiết đáng mà không rườm, cũng là bực giỏi …”. Tôi cho rằng Ngô Sĩ Liên không chỉ dựa vào “hai bộ sách của tiền triều” mà còn dựa vào Việt sử cương mục vì không phải ngẫu nhiên mà Ngô Sĩ Liên ca ngợi Việt sử cương mục như thế. Do đó, trong quá trình hoàn thành bộ Đại Việt sử ký toàn thư tôi đưa cả Việt sử cương mục vào trước, rất tiếc không tìm được tài liệu nào về tác phẩm và tác giả này.
([13])Tức vua Lê Thái Tổ – Lê Lợi.
([14])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang15.Tả hữu thị lang (đứng hàng thứ nhì ở các bộ, giúp việc cho thượng thư, hàm tòng tam phẩm); Tự khanh (đứng đầu ở 6 tự là Đại lí tự, Thái thường tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự, Thượng bảo tự, hàm chánh ngũ phẩm); Đông các (là Đông các học sĩ, hàm tòng ngũ phẩm); Thị thư (là Hàn lâm viện Thị thư, hàm chánh lục phẩm); Thị chế (là Hàn lâm viện Thị chế, hàm chánh lục phẩm); Phủ doãn (là Phụng thiên phủ doãn, hàm chánh ngũ phẩm); Cấp sự trung (ở 6 khoa, hàm chánh bát phẩm); Hàn lâm (ở đây không ghi rõ chức vụ gì nhưng xem nguyên tắc chung là chức lớn ghi trước chức nhỏ ghi sau, danh sách hai vị này ghi sau Cấp sự trung vậy phải là Hàn lâm viện Điển nghĩa hàm tòng bát phẩm).
([15])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang11 – 12.Từ khi Bình an vương Trịnh Tùng lên thay cha là Trịnh Kiểm thì quyền hành chính sự đều ở trong tay phủ chúa, để thực hiện việc này, chúa Trịnh cho đặt Phủ liêu gồm “6 phiên: Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công” tương tự như 6 bộ của triều đình, đồng thời đặt chức Tham tụng, Bồi tụng cầm đầu Phủ liêu. Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu (hiệu của quan văn hàm chánh nhất phẩm); Tham tụng (chức quan đứng đầu Phủ liêu trong Phủ đường Chúa Trịnh, có nhiệm vụ dự họp nơi triều đình hoặc Phủ đường do nhà vua hoặc nhà chúa chủ toạ vì Tham tụng thường kiêm chức thượng thư bên triều đình, Tham tụng còn thường được giao chức Thái bảo dạy thế tử con trai nối ngôi chúa, chủ toạ những phiên họp hẹp của Phủ đường); Trung thư giám (cơ quan chuyên việc chép tờ kim tiên – giấy rắc vàng chép lời phong trong kim sách – hoặc ngân tiên – lời phong trong ngân sách – chế sách và các bài biểu, gián, quan lịch, văn tế ởđiện, miếu); Tử (tước phong cho công thần gồm công, hầu, bá, tử, nam); Quang tiến thận lộc đại phu (hiệu của quan văn hàm tòng nhất phẩm); Bồi tụng (đứng hàng thứ hai trong phủ chúa Trịnh, giúp Tham tụng xem xét các tờ khải dâng lên, duyệt lại các quyết định của các bộ, thường do chúa Trịnh tự ý chọn dùng); Hoằng Tín đại phu(hiệu của quan văn hàm chánh ngũ phẩm); Thái bộc tự khanh (đứng đầu Thái bộc tự, giữ xe vua và hoàng tử, chuồng ngựa của vua, kiểm soát mục súc trong nước); Hồng lô tự khanh (đứng đầu Hồng lô tự, coi nghi tiết triều hội, khánh hạ, sắp xếp trật tự ban thứ, ngôi vị, lễ nghi tiếp đón sứ giả nước ngoài, lễ xướng danh thi Ðình);Phủ doãn (là Phụng thiên phủ doãn, hàm chánh ngũ phẩm, có nhiệm vụ đàn áp cường hào, xét những vụ kiện do huyện quan xử mà kêu lại ở bản hạt, khảo xét thành tích quan lại, khảo luận sĩ tử kỳ thi Hương; đời Minh Mạng là quan đứng đầu phủ Thừa Thiên và kinh thành hàm chánh tam phẩm); Tiến công lang (hiệu của quan văn hàm chánh bát phẩm); Cẩn sự lang (hiệu của quan văn hàm chánh thất phẩm); Hàn lâm viện hiệu lí (giữ việc kiểm sát, chỉnh lý và sẵn sàng cho ý kiến về văn từ trong chiếu chỉ, cùng là chú giải khi có người hỏi về những chữ trong chiếu chỉ của nhà vua); Cẩn sự tá lang (hiệu của quan văn hàm tòng thất phẩm); Hàn lâm viện hiệu thảo (giữ việc kiểm thảo các văn thư; thời Hậu Lê chức quan này là Hàn lâm viện kiểm thảo, đến thời Lê trung hưng vì kị húy tên chúa Trịnh Kiểm nên đổi thành Hiệu thảo); Chiêu văn quán Tư huấn (sao chép, hiệu đính tứ khố đồ thư ở Hàn lâm viện, hàm chánh bát phẩm); Tư lễ giám Tổng thái giám (đứng đầu Ty thái giám trong nội cung, hàm chánh tam phẩm); Đồng tri giám (đứng hàng thứ 5 trong Ty thái giám, hàm chánh ngũ phẩm); Giám thừa (đứng hàng thứ 6 trong Ty thái giám, hàm tòng ngũ phẩm); Thiếu khanh (đứng thứ hai ở các tự, hàm chánh lục phẩm); Phó câu kê tướng thần lại (ở Đàng Ngoài không rõ được chức trách và hàm, còn ở Đàng Trong thì Phó Câu kê đứng hàng thứ ba trong Tướng thần lại ty, sau Cai bạ và Câu kê, Cai hợp xếp sau Câu kê; có chức trách trưng thu tiền thóc và phát lương cho quân lính các đạo); Phụng giám đằng san (vâng lệnh xem xét để sửa chữa, cải chính, nếu có); Đằng tả (sao chép); Phụng san (vâng lệnh khắc in).
([16])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang19.
([17])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang17.
([18])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang14 – 15.
([19])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang10.
([20])Tân Đường thư (tên gọi để phân biệt với Cựu Đường thư của Lưu Hu nhà Hậu Tấn thời Ngũ đại thập quốc), là bộ sách lịch sử nằm trong 24 bộ chính sử Trung Hoa ghi chép về lịch sử hưng thịnh và suy vong của nhà Đường từ thời Đường Cao Tổ(618) cho tới thời Đường Ai Đế (907) gồm 225 quyển, trong đó bản kỷ 10 quyển, chí 50 quyển, biểu 15 quyển và liệt truyện 150 quyển, được giới nghiên cứu và sử học Trung Hoa coi là một kiệt tác ([20]). Trong bản kỷ Đường Huyền Tông (quyển 5) viết: “Huyền tông còn muốn mở rộng đất đai nên đã đem quân sang xâm chiếm bán đảo Triều Tiên, củng cố nền thống trị ở An Nam”, điều này đồng nghĩa với việc những ai chống đối nhà Đường đều bị Đường thư coi là “giặc”.
([21])Nxb Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây 2002, trang 117. Lê Tắc là quan Thị lang dưới triều Trần Thái Tông, được chuyển sang giúp việc cho Chương hiến hầu Trần Kiện. Năm 1285, giặc Nguyên xâm lược nước ta, Trần Kiện đem thủ hạ và quân lính, trong đó có Lê Tắc, sang đầu hàng Thoát Hoan. Bị quân ta chận đánh ở Chi Lăng, Trần Kiện bỏ mạng, Lê Tắc ôm thây chủ chạy thoát qua Trung Hoa, được nhà Nguyên phòng làm tòng Thị lang rồi theo Trần Ích Tắc về nước, nhưng cũng bị quân ta chận đánh, Lê Tắc lại chạy được về Trung Hoa và từ đó làm dân vong quốc. Năm 1292, Lê Tắc được phong hàm Phụng sự lang giữ chức Đồng Tri châu An Tiêm, từ đó yên phận dưởng lão, chuyên nghiên cứu sách vở và soạn ra bộ An Nam chí lược. Sách có lẽ được viết xong vào khoảng năm 1335. “…Xét về lập trường dân tộc, về tư cách cá nhân soạn giả…không thể không lên án Lê Tắc…Những điều Lê Tắc viết ra, mà người ngoài phải công nhận là hơn cả các sử gia danh tiếng như Tư Mã Thiên, Ban Cố (hơn ở một số phương diện) không phải hoàn toàn do cái tài của Lê Tắc, mà do cái vốn văn hóa Việt Nam giàu có, hào hùng. Người nước ngoài phải chú ý đến An Nam chí lược chính là ở đó…” (An Nam chí lược, sách đã dẫn, trang 22-23).
([22])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, từ trang 39 đến trang 61.
([23])Do Đại Việt sử thông giám không còn, cũng không có bài tựa … nên không thể biết được Vũ Quỳnh căn cứ vào đâu mà viết nên Đại Việt sử thông giám.
([24])ĐVSK Toàn thư, Nxb Văn hóa thông tin 2004, tập 1, trang 44. Chú ý: ghi rõ Dương Tư Húc là loạn.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Lê Văn Khôi và cuộc nổi dậy ở thành Phiên An (1833-1835)

Bùi Thụy Đào Nguyên
Lê Văn Khôi (? – 1834) tên thật là Bế – Nguyễn Nghê , còn được gọi là Hai Khôi, Nguyễn Hựu Khôi hay Bế Khôi; là con nuôi, là thuộc tướng của Lê Văn Duyệt và là người thủ lĩnh cuộc nổi dậy chống lại nhà Nguyễn ở thành Phiên An (tức vùng Gia Định cũ) Việt Nam.


A. Thân thế và sự nghiệp:
Căn cứ Tộc phả Bế – Nguyễn, ông tổ đời thứ 9 của Lê Văn Khôi, vốn họ Nguyễn tức Nguyễn Tông Thái. Đời ông tổ đời thứ 8 đổi theo họ tỗ mẫu (họ mẹ), gọi là Bế Công. Đến ông tổ đời thứ 5, vì có công dẹp nhà Mạc nên đời đời tập chức phiên thần, cai quản địa phương và trở thành dòng họ lớn ở Cao Bằng.
Đến tháng 9 năm Canh Thân (1740), năm đầu Cảnh Hưng, vua Lê Hiển Tông lại cho đổi làm họ Bế – Nguyễn.
Cũng theo tộc phả này, Lê Văn Khôi là con trai Bế Kiện. Ông là người cao lớn, dũng mãnh, ăn nhiều, tính hay khôi hài, tài võ xuất chúng… Về võ nghệ, tương truyền khi vào Gia Định, có lần Lê Văn Khôi dùng tay không chống lại cọp dữ cho sứ thần nước Xiêm xem. Về tài văn, bổn tuồng San hậu, có nhiều đoạn do ông nhuận sắc[1].
I. Theo Lê Văn Duyệt:
Sách Đại Nam chính biên liệt truyện ghi: “năm Gia Long thứ 18 (1819), ở hai trấn Thanh Nghệ và Thanh Bình (nay đổi là Ninh Bình), Thiên Quan (tên phủ, nay đổi là Nho Quan), những lưu dân, thổ phỉ tụ họp nhau làm giặc, quan sở tại không kiềm chế nổi, vua sai tả quân Lê Văn Duyệt tới đó kinh lược. (Khi ấy) Khôi mộ quân lệ thuộc dưới trướng, đánh dẹp thường có công. Duyệt yêu mến dùng làm nanh vuốt”.
Trần Trọng Kim cho biết chi tiết:“ Lê Văn Khôi, khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt xin đầu thú. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến Phó vệ úy” (Việt Nam sử lược, tr.445).
Nhưng theo Nguyễn Phan Quang tìm hiểu thì “rất có thể Lê Văn Khôi rời Cao Bằng đi đến vùng thượng du Hòa Bình, Thanh Hóa (nơi vốn có mối quan hệ lâu đời với dòng họ của Lê Văn Khôi), nhằm liên kết với cuộc đấu tranh của các lang đạo họ Đinh, họ Quách của dân tộc Mường. Và Lê Văn Khôi đã đi theo Lê Văn Duyệt vào khoảng thời gian lãnh tụ Quách Tất Thúc và 2 con đầu hàng Duyệt và được Duyệt cho theo quân thứ.” (Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 235)
II. Khởi binh chống nhà Nguyễn:
Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, hay còn được gọi là sự biến thành Phiên An, là một cuộc nổi dậy chống lại triều đình xảy ra vào thời vua Minh Mạng do Lê Văn Khôi khởi xướng.

Sự kiện này diễn ra từ năm 1833 đến năm 1835 tại thành Bát Quái (còn gọi là thành Quy hay thành Phiên An, Phan Yên, Sài Côn) và các tỉnh miền Nam Việt Nam.

2.1 Nguyên nhân:
Vua Minh Mạng và Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) vốn có nhiều hiềm khích và tư thù. Minh Mạng tuy ghét, nhưng không dám làm gì bởi công lao và uy quyền của ông quá lớn.
Cho nên ngay sau khi Lê Văn Duyệt mất (1832), việc đầu tiên của nhà vua là giành lại quyền lực của mình ở Gia Định. Cùng năm đó, nhà vua cho bãi bỏ chế độ Tổng trấn, cải ngũ trấn thành sáu tỉnh (tức Nam Kỳ lục tỉnh, gồm: Phiên An, Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) trực thuộc vào triều đình Huế, biến thành Gia Định (nơi cai trị của quan Tổng trấn trước đây) thành trị sở của quan Tổng đốc tỉnh Phiên An.
Tóm thâu quyền lực xong, việc tiếp theo là nhà vua cắt đặt quan lại vào thay. Trong số đó có ba viên viên quan vào coi giữ Phiên An, là: Nguyễn Văn Quế (Tổng đốc), Bạch Xuân Nguyên (Bố chính, họ ngoại vua Minh Mạng), và Nguyễn Chương Đạt (Án sát); đồng thời mật sai dựng lên vụ án Lê Văn Duyệt.
Theo sách Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, “…vốn là người tham lam, tàn ác; nên khi đến làm Bố chính ở Phiên An, Bạch Xuân Nguyên nói rằng phụng mật chỉ truy xét việc riêng của Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước”(tr. 445).
Nói gọn, nguyên nhân chính của cuộc khởi nghĩa này, là vì nhà vua muốn làm nhục Lê Văn Duyệt, vì nhân dân Gia Định bị áp bức và còn vì một số quan chức địa phương cùng một vài thành phần nhân dân ở đây bị mất quyền lợi và quyền lực…
2.2 Diễn biến:
2.2.1 Nổi dậy:
Khi tra án Lê Văn Duyệt, Bạch Xuân Nguyên đã cho bắt vợ con và những thủ hạ thân tín của Tả quân, trong số ấy, có Lê Văn Khôi.
Lê Văn Khôi (còn có tên là Nguyễn Hữu Khôi, Nguyễn Hựu Khôi), người ở Cao Bằng. Do trước đây Khôi khởi binh chống lại nhà Nguyễn, bị quân triều đình đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt đang làm Kinh lược ở đấy, bèn ra thú. Lê Văn Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy. (Theo Quốc triều chính biên toát yếu, khi nổi dậy, Lê Văn Khôi đang giữ chức Tả quân Minh nghĩa Vệ úy).
Cho nên khi Bạch Xuân Nguyên kiếm cớ hài tội người cha nuôi, và còn bắt giam ông; phần thì tức giận vì chủ bị nhục mạ, phần thì sợ tội, Lê Văn Khôi bèn mưu với mấy người cùng cánh để khởi binh chống lại.
Sau khi ngầm liên hệ được với binh lính bên ngoài, đêm 18 tháng 5 năm Quý Tỵ (1833), ông cùng 27 lính hồi lương (2) đột nhập dinh Bố Chính giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên. Quan Tổng đốc Nguyễn Văn Quế hay tin vội đem quân đến cứu cũng bị giết nốt (3). Lãnh binh thành Phiên An là Giả Tiến Chiêm đem hơn 400 quân chống lại nhưng bị thua bỏ chạy. Còn Án sát Nguyễn Chương Đạt, nhờ có người cho biết trước, nên chạy thoát được. Được tin khẩn báo, vua Minh Mạng cử ngay Lê Phúc Báo thay Nguyễn Văn Quế đồng thời điều động khoảng ngàn quân của các tỉnh Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận vào gấp Phiên An để trấn áp.
2.2.2 Đánh chiếm Nam Kỳ lục tỉnh:

Lấy được thành Phiên An, mở cửa nhà tù, thả hết phạm nhân và phát khí giới cho họ. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Nguyên súy, phong tặng các tướng và sắp đặt quan chức cai trị như một triều đình riêng (4). Để có chính nghĩa và có nhiều người theo, Lê Văn Khôi tuyên bố tôn phò Hoàng tôn Đán (tức Nguyễn Phúc Mỹ Đường, con trai trưởng của Hoàng tử Cảnh).
Sau đó, Lê Văn Khôi sai Phó tướng Lê Đắc Lực mang quân tiến đánh và chiếm được thành Biên Hòa. Các quan lại nhà Nguyễn như Thự tuần phủ Võ Quýnh, án sát Lê Văn Trác, lãnh binh Hồ Kim Truyền đều bỏ chạy.
Phần tướng Thái Công Triều (được Khôi phong Trung quân) thì mang quân đi đánh chiếm các tỉnh thành phía Nam. Đêm ngày 7 tháng 6 năm 1833, quân nổi dậy tiến công, lần lượt chiếm được các tỉnh: Định Tường, Vĩnh Long, An Giang…Cứ thế, chỉ chưa đầy một tháng cả Nam kỳ lục tỉnh đều thuộc về lực lượng nổi dậy.
Ngày 4 tháng 6 năm 1833, vua Minh Mạng cử tướng Phan Văn Thúy, làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm Tham tán cầm đầu đạo Tiền quân, theo đường bộ tiến vào Gia Định. Cử tướng Tống Phúc Lương làm Thảo nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm Tham tán, cầm đầu đạo quân thứ hai theo đường thủy vào thẳng Vĩnh Long, Định Tường, rồi tiến lên thành Phiên An. Vẫn không yên tâm, nhà vua cử thêm đạo quân thứ ba do tướng Trần Văn Năng làm Bình khấu tướng quân cùng Lê Đăng Doanh và Nguyễn Văn Trọng cùng làm Tham tán, thống lĩnh 3 vệ quân với 23 chiến thuyền theo đường thủy đến cửa Cần Giờ, để phối hợp với hai đội quân trên.
2.2.3 Thất thế:
Ngày 17 tháng 6 năm 1833, trong khi đạo tiền quân do Phan Văn Thúy chỉ huy mới đến Khánh Hòa, thì Thự tuần phủ Võ Quýnh cùng các quan quân dưới quyền đã đánh chiếm lại được thành Biên Hòa. Được tin vui, vua Minh Mạng sai gửi hỏa tốc 20 súng thần công vào chiến trường Gia Định.
Khoảng trung tuần tháng 7 năm 1833, cả ba đạo quân trên đều vào đến Nam Kỳ. Trước sức mạnh đó, giới Địa chủ, phú hào các nơi đều dao động, không dám ủng hộ Lê Văn Khôi nữa. Tiếp đó, một tướng giỏi của ông là Thái Công Triều (5) cũng đầu hàng triều đình, mang quân về Gia Định đánh lại Lê văn Khôi, khiến lực lượng nổi dậy bị suy yếu nhanh chóng.
Vì vậy, quân triều đình đã dễ dàng chiếm lại các tỉnh: ngày 13 tháng 7, lấy lại Định Tường & Vĩnh Long; ngày 19 tháng 7, lấy lại An Giang & Hà Tiên…Cứ thế, đến trung tuần tháng 8 năm ấy, cả 5 tỉnh (trừ Phiên An) thuộc Nam Kỳ đều đã bị quân triều chiếm lại hết.
2.2.4 Cố thủ và thất bại:
Lê Văn Khôi gặp cảnh “lưỡng đầu thọ địch, thêm binh cô tướng quả, nên truyền lệnh đóng cửa thành cố thủ” (Vương Hồng Sển, tr. 211), rồi nhờ giáo sĩ phương Tây đi sang cầu viện Xiêm La. Xiêm La nhân muốn lấn chiếm nước Việt nên nhận lời giúp (sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam phê: đây là một sai lầm lớn của Khôi, tr. 353). Năm 1834, quân triều đình đánh bại quân Xiêm. Chiếm lại toàn bộ các tỉnh miền Nam xong, quân triều đình dồn hết về bao vây thành Phiên An.
Khi thành đang bị vậy ngặt, Lê Văn Khôi bị bệnh phù thũng mất ở trong thành vào ngày 11 tháng Chạp năm Minh Mạng thứ 14 (1833. Theo sử gia M. Gaultier, Khôi bị đầu độc). Con trai ông là Lê Văn Cù (6) mới 7, 8 tuổi được cử lên thay, tướng Nguyễn Văn Trắm (em họ Khôi) được cử ra chỉ huy quân trong thành…
Dù Lê Văn Khôi đã chết, nhưng nhờ thành cao hào sâu, quân nổi dậy vẫn giữ được thành cho tới tháng 7 năm Ất Tỵ (1835). Lúc bấy giờ, hiện trạng rất nguy ngập: Thành bị bao vây dài ngày, dịch tả hoành hành, súng đạn hư hỏng vơi cạn dần, lương thực tuy nhiều nhưng bị ẩm mốc, tinh thần và sức lực quân dân đều suy kiệt và ly tán… Cho nên khi quân triều đình chia làm 8 mũi, tấn công ồ ạt vào thành. Quân nổi dậy chống cự không nổi, bị thua trận. Đại thắng, các tướng lĩnh lập tức cho đề mấy chữ “Thành Phiên An đã hạ” trên một lá cờ đỏ, sai quân thay nhau chạy ngựa suốt ngày đêm về kinh sư báo tiệp.
2. 3 Sau cuộc chiến:
Nhận được tin báo tiệp, vua Minh Mạng cả mừng, truyền đóng cũi giải 6 trọng phạm (tội chủ mưu) về Huế, gồm: giáo sĩ Marchand (tức Cố Du. Theo Trương Vĩnh Ký, vị tu sĩ này muốn thủ vai Bá Đa Lộc thứ hai), Mạch Tấn Giai (Hoa kiều), Nguyễn Văn Hoành, Nguyễn Văn Trắm và Nguyễn Văn Bột (7). Ngoài ra, còn chém thêm hai người nữa, đó là tướng Thái Công Triều vá Án sát Nguyễn Chương Dật (bị kêu án lăng trì, nhưng xét công và vì biết ăn năn nên được giảm án. Theo Vương Hồng Sển, tr. 216).
Số còn lại gồm binh sĩ và người dân, bất kể già trẻ, gái trai, ở trong thành Phiên An, cả thảy 1.831 đều bị giết chết và chôn chung một chỗ, gọi là Mả Ngụy hay Mả Biền Tru (8).
Sau khi dẹp yên, năm 1835, triều thần ở Đô sát viện là Phan Bá Đạt dâng sớ hài tội Lê Văn Duyệt, đã khép luôn Tả quân vào tội gây nên sự biến ở thành Phiên An. Đọc sớ, vua Minh Mạng dụ rằng: Ví dù quan cai trị không hèn đốn như Nguyễn Văn Quế, tham tàn như Bạch Xuân Nguyên, thì chúng nó có ngày làm phản chứ không sao khỏi được. Vì bọn tiêu hạ của hắn (chỉ Lê Văn Duyệt) toàn là quân hung đồ, quen làm những việc bất thiện. Chúng nó đã quen thấy hắn dối chúa, lấn trên…(Việt Nam sử lược, tr. 459). Kết cục, Tả quân bị khép bảy tội phải chém, hai tội phải thắt cổ, một tội phải sung quân; nhưng vì ông Duyệt mất đã lâu nên chỉ cho người truy đoạt quan tước, sang phẳng mồ mả và dựng lên đấy bia đá trên viết to những chữ: “Quyền yêm Lê Văn Duyệt phục pháp”xứ” (tức đây chỗ tên lại cái lộng quyền Lê Văn Duyệt chịu phép nước).
Còn tòa thành cũ là thành Bát Quái (tức Phiên An, do Olivier de Puymanel xây dựng năm 1870), vì “tội” kiên cố quá, đã làm hao tổn quân triều đình không ít, nên bị nhà vua sai phá bỏ, cho xây lại một tòa thành nhỏ hơn, ít kiên cố hơn là Thành Gia Định (hay còn gọi là Phượng Thành, Phụng Thành).
B. Bàn luận:
Nói về Lê Văn Khôi, M. Gaultier viết:
“Không như các sử của triều Nguyễn đã nói Lê Văn Khôi chỉ là một kẻ phiến động tầm thường, có nhiều tham vọng và vô tư cách. Thực ra, Khôi là một người võ nghệ tuyệt luân, có nhân phẩm cao quý, có tài giao thiệp, có huyết khí cương cường, có tinh thần hào hiệp, biết chỉ huy…nên rất được những người chung quanh cảm mến. Nhờ vậy mà sau tiếng hô của Khôi hàng trăm ngàn gia đình dân chúng miền Nam vùng ngay dậy”…(Dẫn theo Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên, quyển 4, tr. 352).
Sau khi kể về cuộc nổi dậy do Lê Văn Khôi khởi xướng, trước năm 1975, nhà sử học Phạm Văn Sơn có lời bình:
“…Luôn 3 năm liền ở miền Nam, máu đổ xương rơi, tàn dân hại vật, đó là trách nhiệm của một ông vua hẹp hòi, của một triều đình nhiều kẻ dua nịnh. Đất này tuy là nơi lập nghiệp của nhà Nguyễn mà lại xẩy ra nhiều sự rối ren là vì vua Minh Mạng thiếu sự rộng lượng đối với các cựu thần, lại nghe bọn xu nịnh nên dân sự bị áp bức quá nhiều. Tuy ông là một ông vua biết chăm nom việc nước, bên trong bên ngoài sửa sang được nhiều việc…nhưng người ta không thể không quy trách nhiệm cho ông về các vụ loạn ly đã xảy ra ở Bắc Hà, Nam Hà và Chân Lạp do quan lại tham nhũng gây nên, đáng lẽ ở những miền xa xôi này ông phải lựa đặt những cán bộ ưu tú, biết lấy ân làm uy, khéo léo vỗ về dân chúng, bởi từ lâu họ đã thiếu cảm tình với tân triều…Ngoài ra, dầu quân đội của Minh Mạng đã thắng ở Bắc cũng như ở Nam, ta cũng không thể coi đây là những vinh quang cho những người làm chính trị đời bấy giờ…Bề khác, ta có thể nghĩ rằng cuộc chiến đấu của quân dân thành Phiên An là một cuộc chiến anh dũng đáng phục. Cuộc chiến đấu này là một cuộc chiến đấu có lý tưởng bởi nó có chủ trương đánh đổ một chế độ tàn ác, bất công, phi dân” (theo Việt sử toàn thư, sách điện tử và Việt sử tân biên, quyển 4, tr. 362. Cả hai sách đều cùng một tác giả).
Sau năm 1975, GS. Nguyễn Phan Quang có ý kiến:
“Có tác giả cho rằng cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi là của những người theo đạo Gia Tô, do các giáo sĩ chủ mưu. Có tác giả lại nghĩ rằng đây chỉ là mưu đồ lật đổ của một phe phái trong tầng lớp thống trị chống Minh Mạng. Có ý kiến còn cho rằng đây là một cuộc bạo loạn, một mưu đồ phản động, phản dân tộc (!)…Xét những thành phần chính đi theo Lê Văn Khôi bao gồm: giáo dân, người Hoa (9), các dân tộc thiểu số (người Chăm, người Khmer, một số người dân tộc ở Tây Nguyên), quân “Hồi lương, Bắc thuận”, và một số đông dân lục tỉnh…Vậy có thể nghĩ rằng ít nhất trong giai đoạn đầu, cuộc nổi dậy do Lê Văn Khôi khởi xướng đã gắn bó với phong trào đấu tranh của nông dân và của các dân tộc chống triều Nguyễn… Và từ mối quan hệ giữa hai cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi và của Nông Văn Vân, đã cho thấy họ có chung một ý đồ là cùng nổi dậy trong phạm vi cả nước nhằm lật đổ triều Nguyễn. Rõ ràng không phải Lê Văn Khôi nổi dậy chỉ nhằm mục đích trả thù cho Lê Văn Duyệt, càng không phải vì thân thuộc của Khôi ở Cao Bằng bị truy nã mà nổ ra cuộc nổi dậy của Nông Văn Vân.” (tr. 239, 249 và 253).
Nhóm tác giả sách Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1) cũng đã chỉ ra rằng: Cũng như các cuộc khởi nghĩa của nông dân và các dân tộc ít người, cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi phản ánh sự bất bình cao độ của nhân dân Gia Định đối với triều Nguyễn (tr. 464).
Tuy nhiên các nhà nghiên cứu trong sách Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh sau khi chỉ ra nguyên nhân thất bại, đều có chung một kết rằng đây không phải là một cuộc “khởi nghĩa”. Trích:
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu:
“Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi là cuộc nổi dậy không thành công to lớn nhất của Nam Kỳ. Nó quy tụ được nhiều thành phần của Sài Gòn đương thời. Họ bất mãn với sự thay đổi chính sách thống trị của Minh Mạng ngay sau khi Lê Văn Duyệt chết. Họ cùng bị bách hại, kết tội, bóc lột bởi nhóm quan lại mới đến. Nhưng họ chỉ biết kết hợp chống đối, mà thiếu hẳn một đường lối để tạo thành một sức mạnh gắn bó, cuốn hút được những người còn ở xa. Chỉ trong việc Lê Văn Khôi tức tốc cầu viện quân Xiêm đã đủ cho nhân dân lục tỉnh phản đối rồi, nên suốt thời gian bị bao vây, không có một cuộc nổi dậy nào của dân ở các tỉnh, nhằm chia sẻ lực lượng quân triều. Điều đó đã nói lên mức độ bị cô lập của một cuộc binh biến”…
GS. Trần Văn Giàu:
“Phe Khôi nổi lên, chủ yếu là với lực lượng quân đội địa phương, chống lại triều đình Minh Mạng, đó là một biểu hiện của mâu thuẫn giữa các cánh phong kiến. Khôi dùng hàng ngũ cố đạo người Pháp và những tay phiêu lưu người Tàu. Khôi lại cầu viện quân Xiêm…Ý định của Khôi là cát cứ ở phương nam. Cho nên, dù ban đầu, cuộc khởi binh của Khôi có trùng hợp với một số cuộc khởi nghĩa nông dân trên cả nước Việt Nam, nó không tránh khỏi sớm mất đà, rốt cùng chỉ có thể dựa vào hào sâu, tường cao, lương thực đủ, súng đạn nhiều. Khôi chống cự với quân triều được gần ba năm. Trong ba năm đó, nhân dân Gia Định – Sài Gòn vì chiến tranh mà thêm đồ thán. Hai bên đánh qua đánh lại, phố phường tan tác, thôn xóm tiêu điều. Cuối cùng quân Minh Mạng toàn thắng”…
Nhà văn Trần Bạch Đằng:
“Chúng ta không nên xếp sự biến Lê Văn khôi vào phạm trù nông dân khởi nghĩa bởi vì động cơ bao trùm sự biến là mâu thuẫn nội bộ giai cấp thống trị, thậm chí, mang dấu vết thanh toán tư thù và chừng mực nào đó – cũng như Nông Văn Vân và Lê Văn Phụng ở Bắc Bộ – có bàn tay các cố đạo ngoại quốc nhúng vào, nhưng nó vẫn báo hiệu chấm dứt thời kỳ dân đất Đồng Nai cảm tình với nhà Nguyễn và nhà Nguyễn nương tay với dân Đồng Nai”… (tập1- tr. 211, tr. 243 và 432).
Nhóm tác giả sách Sài Gòn – TP. HCM cũng nêu lên ý kiến tương tự:
“Cuộc binh biến này, thực chất chỉ là một cuộc đảo chính quân sự của một tầng lớp thống trị địa phương, nhằm chống lại nhà nước phong kiến trung ương, chứ không phải là cuộc khởi nghĩa của nhân dân, mặc dù nó đã lôi cuốn được nhiều thành phần, như: giáo dân Thiên chúa, một số Hoa kiều, một số dân tộc ít người vùng Tây Ninh, binh lính quê ở miền Bắc, miền Trung, một số địa chủ, dòng dõi công thần và một số quan lại dưới quyền Lê Văn Duyệt…Nhưng cuộc binh biến chưa có biểu hiện nào cho thấy nó đã nổ ra vì nguyện vọng và vì lợi ích của đông đảo các tầng lớp nhân dân…” (tr. 100).
***
Vấn đề ở đây có phải là cuộc “khởi nghĩa” hay chỉ là cuộc “binh biến”, cần phải có một công trình nghiên cứu sâu rộng, mới có thể đạt được sự đồng thuận cao hơn. Trước mắt, ta chỉ nên gọi đây là cuộc nổi dậy, hay là sự biến thành Phiên An là công tâm và hợp lý hơn cả.
Và nói sao thì cuộc nổi dậy Lê Văn Khôi cũng đã nổ ra, điều mà Minh Mạng không ngờ tới (10), làm 3 năm liền ở miền Nam, máu đổ xương rơi, tàn dân hại vật. Nếu hôm qua thành phần dân tộc này làm nồng cốt cho Thế tổ nhà Nguyễn (Nguyễn Ánh) tranh đấu với nhà Tây Sơn; thì bởi duyên cớ gì mà ngày nay họ coi vua Minh Mạng là bạo chúa, coi đám cận thần là bọn có tâm thuật hèn hạ, và cần phải triệt bỏ hết?.. Cuộc chiến bại của Phiên An, tóm lại là một cuộc chiến bại oanh liệt, đáng là kinh nghiệm quý báu cho những nhà làm chính trị hôm qua cũng như hôm nay suy gẫm lại cách cai trị của mình.
Chú thích:
1.Vương Hồng Sển, Khảo về đồ sứ men lam (Huế), NXB Mỹ thuật, 1994, tr. 208). Trong Gia Định xưa (Huỳnh Minh soạn. Nxb. VHTT in lại năm 2006, tr. 160) có thêm chi tiết: Tương truyền, vào năm 1920, khi Lê Văn Duyệt đi kinh lược vùng Thanh Hóa, có Lê Văn Khôi đi theo hầu. Lúc hai ông ghé thăm mộ Võ Tánh ở Bình Định, nhìn tháp Cánh Tiên nơi cố đô của Chiêm Thành, Ông Khôi đã xúc cảm làm một thơ Đường luật, trong đó có hai câu cuối còn được truyền tụng: Ca quản lâu đài vân cộng khứ/ Duy dư Tiên tháp lão càn khôn (nghĩa: Tiếng đàn hát ca xang, đã cùng mây bay đi mất/ Chỉ còn một tháp Cánh Tiên thi gan cùng tuế nguyệt, khoe già với trời đất). Điều đó chứng tỏ Lê Văn Khôi là người văn võ toàn tài.
2. Bắc thuận hay Hồi lương là những người ở miền Bắc hay Trung, bị tội phải đày vào làm lính ở Nam Kỳ.
3. Đoạn này chép theo Việt Nam sử lược. Nhưng theo Ngô Tất Tố thì: Bạch Xuân Nguyên cùng vợ con chạy đến Xóm Gà (Gia Định) thì bị Khôi đuổi kịp, chém chết cả nhà. Khôi trở lại dinh Tổng đốc toan thú tội, chẳng dè Nguyễn Văn Quế hay tin tù phá ngục, sợ quá nên tự tử. Lỡ việc, Khôi mới chiếm thành làm phản (Gia Định Tổng trấn Tả quân Lê Văn Duyệt. Ngô Tất Tố soạn. Nhà in Mai Lĩnh xuất bản, không in năm.). Phạm Văn Sơn ghi: Lê Văn Khôi cùng các đồng chí đột nhập dinh Bố chánh bắt cả nhà Phạm Xuân Nguyên, nhưng Nguyên chạy thoát được. Nhưng ngay đêm ấy loạn quân tập nã được Nguyên, rồi đem Nguyên và Quế về đốt như bó đuốc trước từ đường của Tả quân (tr. 351). Vương Hồng Sển, chép tương tự: Nguyên và Quế đều bị bắt, đều bị lấy sáp làm đèn, đốt lên đầu, tế sống Tả quân (tr. 209). Việt Nam sử lược ghi chỉ có Bạch Xuân Nguyên bị làm đuốc để tế từ đường (tr.448).
4. Vương Hồng Sển thì chép rằng: Khi báo được cừu lớn, trả hờn cho Tả quân rồi, thì bọn Khôi, Hoành, Trắm đều lên lưng voi giong ruổi, định về quê cũ là xứ Bắc…Nhưng dân tình còn mến đức Tả quân, chạy theo xin đừng bỏ chúng. Vì vậy, Khôi quày đầu voi trở lại, từ đấy mới làm phản thật sự: đoạt thành, thượng cờ đỏ đề hai chữ Chiêu An, ngày 22 tháng
5 năm 1833, tự xưng Bình Nam đại nguyên soái, và phong cho các tướng lãnh…(tr. 209).
5.Thái Công Triều, người Thừa Thiên, nguyên là Vệ úy coi vệ biền binh ở Phiên An, đi theo Lê Văn Khôi được Lê Văn Khôi giao cai quản phân nửa Nam Kỳ. Đề cập đến mối quan hệ giữa Khôi và Triều, Vương Hồng Sển viết: Khôi và Triều ngầm không thuận nhau, nên chia hai Nam Kỳ để tránh đụng chạm quyền lợi. Triều lo việc thủy quân và lãnh trách nhiệm từ Sài Gòn đến ranh giới nước Xiêm La; còn Khôi thì đảm trách từ Sài Gòn ra Huế. Triều theo Khôi là đầu hàng đỡ chớ vẫn có nhị tâm, nên lén tư thông đưa thơ cho các đồng liêu cũ ở triều (tr.211). Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 3) phê rằng: Khôi phạm một sai lầm nghiêm trọnmg là cắt đôi Nam Kỳ, giao một nủa cho Triều quản lĩnh (tr.353).
6. Nguyễn Q. Thắng (Từ điển nhân vật lịch sử Viêt Nam), ghi là Lê Văn Câu, Sách Sài Gòn – TP. HCM (do TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên), ghi Lê Văn Cú.
7. GS. Nguyễn Phan Quang không ghi Mạch Tấn Giai mà ghi tên Bốn Bang, gốc người Hoa. Ông này trước khi bị giết có soạn một truyện dài bằng thơ lục bát được gọi là Bốn Bang thư gồm 308 câu kể lại cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi. (Sách Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 238). Có tài liệu lại cho rằng: Bốn Bang không phải là tên của một người mà là bốn bang lớn của người Hoa, đại diện cho tất cả người Hoa tại miền Nam, tham gia vào cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi. Do vậy, từ đó người Hoa không còn được nhà Nguyễn ưu đãi như trước.
8.Mả Biền Tru: có nghĩa tru diệt ngay, không cần xét xử. Theo Vương Hồng Sển, trước đây trên cái mả to này, có đặt một tấm mộ bia đề: Nguy tặc nhứt võng tinh trụ (Quân loạn bắt chung một lưới, giết hết).. Theo Địa chí văn hóa TP. HCM, phần lịch sử, (do Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình cùng chủ biên, xuất bản năm 1987), mả này ở gần Mô súng, khoảng gần Ngã Sáu công trường Dân chủ (TP. HCM). Con số 1.831 người bị giết chết, ghi theo Trần Trọng Kim (Việt Nam sử lược, tr.445) & Nguyễn Q. Thắng -Nguyễn Bá Thế (Từ điển nhân vật lịch sử Viêt Nam). Sách Hỏi đáp lịch sử Việt Nam ghi 1.737 người (Nxb.Trẻ, 2007). Nguyển Phan Quang (Việt Nam thế kỷ XIX, tr. 230-237) cho biết căn cứ vào những bản mật tấu thì con số bị bắt giết là 1.284 người. Phần quân triều đình, con số bị thương hơn ngàn và bị chết trong công cuộc đánh dẹp là 2.431 người. Vương Hồng Sển sau khi dẫn ra 5 con số ở 5 tài liệu khác nhau, ông viết rằng: Tại sao chuyện cách nay không lâu lắm, mà dị biệt đến thế? Có phải tại ngày xưa cấm nói sự thật?…(tr. 313).
9. Người Công giáo theo Lê Văn Khôi vì ông hứa bảo vệ và không ngăn cản việc theo đạo của họ, trong khi họ rất thấu hiểu vua Minh Mạng chẳng ưa gì công giáo cả. Người Hoa theo Khôi vì cảm công ơn của Tả quân Duyệt đã che chở cho họ trong việc cư trú, tạo cơ hội cho họ buôn bán kiếm lợi. Điều này, Khôi hứa là sẽ tiếp tục đường lối của người cha nuôi.
10. Theo Đại Nam thực lục, sau khi cuộc nổi dậy nổ ra, vua Minh Mạng gọi đại thần Phan Thanh Giản (người ở Bến Tre) vào hỏi: “Dân Gia Định có tiếng là dân trung nghĩa, ngươi sinh trưởng ở đất ấy há lại không rõ?…Trẫm vẫn bảo Bắc Kỳ phong tục kiêu bạc nên dân thích nổi loạn, không ngờ nơi dựng nghiệp vua bây giờ cũng có thói kiêu bạc ấy”…(dẫn lại theo Nguyễn Phan Quang, tr. 256).
Sách tham khảo:
-Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb. Tân Việt, Sài Gòn, 1968.
-Vương Hồng Sển, Đồ sành cũ đất Nam Kỳ và giặc Lê Văn Khôi in trong Khảo về đồ sứ men lam Huế. Nxb Mỹ thuật, 1994.
-Phạm Văn Sơn, Việt sử tân biên (quyển 4). Tủ sách sử học Việt nam xuất bản, Sài Gòn, 1961.
-Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX, Nxb. TP. HCM, 2002.
-Nhiều người soạn, Địa chí văn hóa TP. HCM (tập 1). Nxb Tp. HCM, 1987.
Huỳnh Minh, Gia Định xưa. Nxb Văn hóa-Thông tin in lại năm 2006.
-Nhóm Nhân văn trẻ, Hỏi đáp lịch sử Việt Nam (tập 3). Nxb Trẻ, 2007.
Trịnh Vân Thanh, Thành ngữ điển tích danh nhân từ điển (tập thượng). Tác giả tự xuất bản, Sài Gòn, 1965.
-Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế, Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam. Nxb KHXH, Hà Nội, 1992.
-Nhiều người soạn, (TS. Quách Thu Nguyệt chủ biên) Sài Gòn – TP. HCM, Nxb. Trẻ, 2006.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Chế Lan Viên là cây đại thụ của làng thơ Việt Nam, tình cờ đọc một bài phê bình thơ của Ông, mình không quan tâm thái độ tác giả, chỉ xin “trích đoạn” một số các các câu thơ mà tác giả đã dùng để “trích dẫn”, có chổ mình đã đọc, thậm chí đã thuộc lòng, có chổ mình không hề biết đó là thơ Chế Lan Viên … hà hà hà …

"Đây, điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh
Đây, chiến thuyền nằm mơ trên sông lặng
Bầy voi thiêng trầm mặc dạo bên thành…"


"Một ngày biếc thị thành ta rời bỏ
Quay về xem non nước giống dân Hời
Đây, những Tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời Gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than…"

"Tôi có chờ đâu, có đợi đâu.
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
--- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!

Ai đâu trở lại mùa thu trước
Nhặt lấy cho tôi những lá vàng?
Với của hoa tươi, muôn cánh rã,
Về đây đem chắn nẻo xuân sang!

Ai biết hồn tôi say mộng ảo
Ý thu góp lại cản tình xuân?
Có một người nghèo không biết tết
Mang lì chiếc áo độ thu tàn!..."

"…Tôi đứng dưới cờ, đưa tay tuyên thệ
Trên đất quê hương mang hình bóng mẹ
Ngỡ chừng như vừa sinh lại lần đầu
Đảng trở thành nơi cắt rốn chôn rau"


"…Từ có Bác cuộc đời chợt sáng
Bát cơm no ngày tám tháng ba
Cơm thơm ăn với cá kho
Công đức Bác Hồ bản nhớ nghìn năm
Bác thương dân chăm ăn chăm mặc
Em đi chợ đồng bằng bán hạt sa nhân
Tháng giêng thêu áo may quần
Tháng hai trẩy hội mùa xuân hãy còn…"

"Luận cương đến Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin"

“Bọn giặc chó miền Nam, bay đã uổng!
Cắt thịt da ta, không cắt nổi nụ cười!
Cả chế độ miền Nam bay sụp xuống
Khi thành đồng đã đến lúc vươn vai”

“Bắt lấy con chó điên trong dinh Độc Lập!
Bắt lấy con thú điên trong dinh độc lập!
Bắt cả tớ thầy treo lên cành cây
Thằng Diệm chết. Thằng Mỹ thì cút ngay"

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”

“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”

“Khi em xoay lưng lại với anh
Hai đứa cách nhau một vòng quay trái đất
Khi hai đứa mắt đã soi trong mắt
Thì không gian còn khoàng cách nào đâu”

“Em đi, như chiều đi
Gọi chim vườn bay hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc biếc

Em ở, trời trưa ở
Nắng sáng màu xanh tre

Tình em như sao khuya
Rải hạt vàng chi chít

Sợ gì chim bay đi"


Chế Lan Viên
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

... Trái đất của em nhỏ nhoi, bao bọc bởi những rặng tre xanh hiền hòa. Tâm hồn em là giòng sông mùa thu êm đềm, tĩnh lặng. Tâm hồn tôi hoàn toàn tương phản, trùng điệp núi đèo, ghềnh thác. Tôi sinh ra trong cuộc đời này để gánh hết khổ đau, để làm tên du mục đi lang thang trên chính quê hương mình. Ngày mai, tôi lại sẽ bắt đầu hành trình du mục mới. Con nước trôi còn biết mình đang ra biển. Chiếc lá rơi còn biết cội quay về, nhưng tôi không biết sẽ về đâu ...

(st)
Đầu trang

hoangloi8978
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 22:07, 08/10/10

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi hoangloi8978 »

tulang đã viết: 00:46, 29/03/17
"Tôi có chờ đâu, có đợi đâu.
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
--- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Bài thơ này hay quá, hợp với tâm trạng của em...
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

hoangloi8978 đã viết: 09:51, 30/03/17
tulang đã viết: 00:46, 29/03/17
"Tôi có chờ đâu, có đợi đâu.
Đem chi xuân lại gợi thêm sầu?
--- Với tôi, tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau!
Bài thơ này hay quá, hợp với tâm trạng của em...
Thơ Chế Lan Viên đó em !
Đầu trang

hoangloi8978
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 22:07, 08/10/10

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi hoangloi8978 »

Buồn buồn lại tập làm thơ
Gió đùa vòm lá chiều mơ hạ vàng
Gọi thầm chẳng thấy đò sang
À ơi điệu lý bẽ bàng duyên tơ


Thôi người đừng mãi đợi chờ
Thuyền sang bến khác ngẩn ngơ một đời
Cớ sao tình bạc như vôi
Gió đưa lời ước xưa phôi phai nhoà


Bẽ bàng cho một kiếp hoa
Tàn phai hương sắc bướm đa tình rời
Cũng đành là chỉ thế thôi
Sự đời đen bạc tình đời dối gian


Chữ tình đến bước ly tan
Tiếc làm gì vạt nắng tàn, em ơi...
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Vừa đi Sài gòn thăm thằng bạn sắp ... ra đi ... Mệt và buồn quá ! Có lẽ ngày mai sẽ cố viết một cái gì đó về nó ...
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Câu lạc bộ - Giao lưu - Kết bạn”