Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Khu vực dành cho các hoạt động offline, giao lưu, kết bạn, hội họp
hoangloi8978
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 22:07, 08/10/10

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi hoangloi8978 »

tulang đã viết: 22:09, 11/05/17 hà hà hà ... Vô chính diệu phi bần tất yểu ... Anh chẳng những "Tuế Hổ Phù" mà còn "Long Phượng Hổ Cái" nữa ... hà hà hà ... Nhưng để làm gì ??? ... Anh ghét nhất, ai chúc anh phát tài ... Vì phát tài đồng nghĩa ... "tất yểu" ... hà hà hà ...
Tam Hóa liên châu là đẹp lắm rồi hà hà
Ba mẹ em giới thiệu cho em một em tuổi Bính Tý, em tuổi Canh Ngọ. Nhờ anh Tulang và mọi người xem giúp 2 tuổi này thế nào?
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

hoangloi8978 đã viết: 19:55, 12/05/17 Tam Hóa liên châu là đẹp lắm rồi hà hà
Ba mẹ em giới thiệu cho em một em tuổi Bính Tý, em tuổi Canh Ngọ. Nhờ anh Tulang và mọi người xem giúp 2 tuổi này thế nào?
Bính hoả khắc Canh kim,Tý Ngọ Mão Dậu tứ hành xung ... Nhưng không nhất thiết như vậy ... Tình yêu sẽ hoá giải tất cả mọi thứ cấm kỵ ... hà hà hà ... Khi đã yêu thì còn lòng dạ nào mà sợ ... chết hay nghèo nữa ??? ... hà hà hà ...
Đầu trang

Ngon_gio_Dong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1301
Tham gia: 17:04, 01/04/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi Ngon_gio_Dong »

Anh Tulang đại vận này có Tử Phủ Vũ Tướng - Hóa Khoa rất đẹp. Mà từ năm 42 tuổi trở đi, các đại vận của anh gặp lần lượt Quyền - Khoa - Lộc là ngon rồi. Cung Quan của anh có Âm Dương, Thanh Long, Hóa Kỵ, cách đẹp như trong sách luôn !
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Ngon_gio_Dong đã viết: 09:28, 13/05/17 Anh Tulang đại vận này có Tử Phủ Vũ Tướng - Hóa Khoa rất đẹp. Mà từ năm 42 tuổi trở đi, các đại vận của anh gặp lần lượt Quyền - Khoa - Lộc là ngon rồi. Cung Quan của anh có Âm Dương, Thanh Long, Hóa Kỵ, cách đẹp như trong sách luôn !
hà hà hà ... Cảm ơn ! Cảm ơn ! ... Anh chỉ mong hai chữ bình yên ... Tulang ta vốn nhát gan ... Áp lực ... rủi ro ... Đêm không ngủ được ... Còn thời gian, tâm trí đâu để làm thơ con cóc ??? ... hà hà hà ... Dù sao cũng vận hết sức bình sinh ... Không biết có vượt qua được ... con trăng này ??? ... hà hà hà ...
Đầu trang

hoangloi8978
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 22:07, 08/10/10

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi hoangloi8978 »

tulang đã viết: 21:37, 12/05/17 Bính hoả khắc Canh kim,Tý Ngọ Mão Dậu tứ hành xung ... Nhưng không nhất thiết như vậy ... Tình yêu sẽ hoá giải tất cả mọi thứ cấm kỵ ... hà hà hà ... Khi đã yêu thì còn lòng dạ nào mà sợ ... chết hay nghèo nữa ??? ... hà hà hà ...
Cảm ơn anh Tulang đã xem giúp! Hy vọng tình yêu của em và bạn gái đủ lớn để vượt qua tất cả!
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Câu chuyện định mệnh của vị thư sinh thời Trần làm quan đầu triều khi chưa đến 20 tuổi.
.
Chưa đến 20 tuổi, chưa hề có đỗ đạt gì, cũng không phải Hoàng thân quốc thích, không có bất kỳ sự giới thiệu hay quen biết nào, vậy mà Đoàn Nhữ Hài lại được phong chức quan đầu triều. Đây quả là một câu chuyện lịch sử ly kỳ về định mệnh…
Câu chuyện định mệnh ly kỳ này được ghi chép cẩn thận trong “Đông A di sự”, một cuốn sách do Trần Triều Bình Chương Quốc Sư và Băng Hồ Tướng Công Trần Nguyên Đán chắp bút. Cuốn sách cổ này là một tư liệu quý, do chính những người trong dòng tộc nhà Trần ghi chép lại từng chi tiết về các sự kiện của triều đại nhà Trần. Dưới đây xin được gửi tới độc giả câu chuyện về Đoàn Nhữ Hài. Câu chuyện của Đoàn Nhữ Hài gắn liền với câu chuyện Thượng hoàng Trần Nhân Tông giáo dục con là Vua Trần Anh
Định mệnh phải chăng là có thật?
Thời còn đang chuẩn bị cho kỳ thi Thái học sinh (tiến sĩ), thư sinh 20 tuổi Đoàn Nhữ Hài là một học trò của trường Quốc Tử Giám tại kinh thành Thăng Long. Vào một ngày nọ, cậu đến chơi chùa Diên Hựu (ngày nay còn gọi là Một Cột), tình cờ gặp một vị hòa thượng. Nghe nói người tu hành có thể đoán biết tương lai, Đoàn Nhữ Hài đã tò mò hỏi về con đường làm quan của mình.
Vị hòa thượng hỏi Đoàn Nhữ Hài ngày tháng năm sinh và nhận được câu trả lời rằng: “Tôi tuổi kỷ mão, tháng 9 ngày mồng 1, giờ mão”.
Vị hòa thượng bấm đốt ngón tay thong thả nói: “Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá Vua ở sân rồng, tức là số làm tới Tể tướng”.
Vị hòa thượng giải thích kỹ hơn:
“Mệnh tiên sinh lập tại mùi, xương, khúc, kình miếu địa thủ mệnh. Lại được Nhật mão, Nguyệt tại hợi tịnh minh chiếu, thêm cách giáp Quang, Quý. Đây là cách của Đại thần phò tá Đế vương. Năm nay Đại hạn của tiên sinh ở Tỵ có hình, tang, cơ, mã được nguyệt chiếu. Tiểu hạn ở thân, ngoại triều có tham vũ, tướng, quyền, lộc, tả, hữu tất thành đại hỷ sự, đại hỷ sự sẽ đến một cách bất ngờ. Khi tiên sinh bị ngựa đá hoặc cắn thì là khi công danh tới đấy”.
Đoàn Nhữ Hài nghe xong thì mừng lắm, trở về chăm chỉ học hành. Nhưng tháng sau khi cậu thi khảo hạch của Quốc Tử Giám thì bị trượt vì lời văn ngông nghênh, kênh kiệu quá.
Đoàn Nhữ Hài giận lắm, tìm tới vị hòa thượng trách mắng: “Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái học sinh được? Không đậu Thái học sinh thì sao có thể làm Tể tướng?”
Vị hòa thượng điềm tĩnh giảng giải:
“Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái dương miếu địa, Hóa khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên nhan. Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên mã gặp Đà la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp Vua. Đây tôi cho tiên sinh biết: ngày 13/6 này tiên sinh sẽ được gần Thiên tử”.
Cuối cùng, vị hòa thượng còn không quên dặn dò: “Sau này ở địa vị cực cao quý, tiên sinh phải thương yêu muôn dân”.
Đoàn Nhữ Hài khấp khởi mừng thầm, về chờ đến ngày 13/6. Tuy nhiên ngày hôm đó chờ mãi mà chẳng có gì lạ. Cậu ta lại tức tốc tìm đến chùa Diên Hựu, lần này là để hỏi tội hòa thượng. Nhưng trên đường đi, cậu đụng phải một người đang cưỡi ngựa, ngã lăn vào bụi cỏ.
Đoàn Nhữ Hài tóm lấy dây cương hạch tội: “Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta?”
Người cưỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội ngược phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi: “Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!”
Đoàn Nhữ Hài bức xúc: “Ta học trường Quốc tử giám, sắp thi Thái học sinh, thì Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo đều thông. Sao lại không biết chữ?”
Biết Hài đang buồn vì thi rớt, người cưỡi ngựa tiếp lời: “Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc Tử Giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?”
Đoàn Nhữ Hài tiếp tục lớn tiếng: “Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái học sinh đậu Trạng nguyên, đó là Vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy?”
Người kia đáp: “Tôi là Vua đây”.
Lúc này Đoàn Nhữ Hài thất kinh hồn vía, nhìn lại thấy người này dù mặc áo lót, mũ đội ngược phía sau ra phía trước, nhưng mũ ấy là mũ của thiên tử, chân đi hài bên thêu Long, bên thêu Phụng. Hài quỳ xuống tung hô vạn tuế và tạ tội.
Nguyên chuyện là thế này, khi Vua Trần Nhân Tông nhường ngôi cho Trần Anh Tông rồi đi tu, Vua Anh Tông thường hay rượu chè say sưa. Một hôm Thượng hoàng Trần Nhân Tông bất ngờ từ Thiên Trường về Thăng Long mà không một ai biết trước. Thượng Hoàng thong thả đi lại trong cung điện từ giờ Thìn sang giờ Tỵ mà không thấy con đâu. Thượng Hoàng hỏi thái giám, vị thái giám đến tìm thấy Vua Anh Tông nhưng Vua đang say mèm không sao dậy nổi. Vậy là Thượng Hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan đến họp ở Thiên Trường với ý phế truất Vua Trần Anh Tông.
Đến giờ mùi, Vua Trần Anh Tông mới tỉnh dậy nghe báo sự việc thì sợ quá, không kịp ăn mặc gì cả, nhảy lên ngựa chạy vội về và đụng phải thư sinh Đoàn Nhữ Hài.
Vậy là Đoàn Nhữ Hài đã cùng Vua Trần Anh Tông tức tốc về Thiên Trường (Nam Định ngày nay). Trên đường đi, Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài 2.200 chữ tạ tội. Đến nơi, vì Thượng hoàng Trần Nhân Tông còn giận, không cho Vua Anh Tông gặp, nên hai người dâng biểu rồi quỳ ở ngoài.
Các quan lấy tờ biểu truyền cho nhau đọc rồi cùng trầm trồ khen hay. Thượng hoàng nghe được bèn sai người đưa biểu vào. Thượng hoàng Nhân Tông xem biểu tạ tội, quả nhiên lời văn hàm súc, ý tứ cao thâm, hỏi thăm biết được người làm biểu tạ tội đi cùng Vua, bèn truyền lệnh tha tội cho Vua Anh Tông, rồi truyền gọi Đoàn Nhữ Hài vào.
Thượng Hoàng Nhân Tông nhìn Đoàn Nhữ Hài rồi nói: “Trông tiên sinh dung quang khác lạ, chắc thế nào cũng là bậc văn thần sau này. Để bần tăng coi lại lá số tử vi cho tiên sinh xem”. (Thượng Hoàng sau khi nhường ngôi cho con liền đi tu, nên khi xưng hô vẫn hay tự gọi mình là bần tăng)
Đoàn Nhữ Hài trình bát tự (ngày tháng năm sinh). Thượng Hoàng bấm tay xem qua mừng lắm: “Ta đang lo không có một văn thần trẻ tuổi phò tá con ta. May gặp tiên sinh đây là người trung liệt, văn mô vũ lược, chí cả, tâm hùng đáng là bậc Đại thần vậy”.
Lúc này Đoàn Nhữ Hài mới kể câu chuyện gặp một hòa thượng ở chùa Diên Hựu và đoán trước việc gặp được Vua, mọi việc ngẫm lại quả nhiên chính xác vô cùng. Thượng Hoàng cười bảo Đoàn Nhữ Hài:
“Khoa Tử vi do Hoàng Bính tiên sinh truyền cho Thái Tông nhà ta. Con gái người là Hoàng Thái Phi (tức con gái Hoàng Bính được gả cho vua Trần Thái Tông, được đặt là Huệ Túc Phu Nhân) truyền cho bần tăng, còn thượng phụ cũng được người truyền (thượng phụ tức là đức thánh Trần). Thượng Phụ truyền cho Tuệ Trung thượng sĩ. Chính bần tăng là đệ tử của ngài Tuệ Trung. Người xem tử vi cho tiên sinh là ngài Tuệ Trung đấy.”)
Thượng Hoàng xem kỹ lá số của Đoàn Nhữ Hài rồi nói thêm rằng:
“Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.”
Lúc này Vua Trần Anh Tống mong Thượng Hoàng có thể cứu giúp: “Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?”
Thượng Hoàng liền lấy từ bìa cuốn kinh Kim Cương viết mấy chữ “Tứ đại giai không, miễn tử” rồi trao cho Đoàn Nhữ Hài và nói:
“Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim Cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.”
Trở về thành Thăng Long, Vua Trần Anh Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm chức quan Ngự sử trung tán, đây là chức quan vào hàng đầu triều, có nhiệm vụ can gián nhà Vua. Lần đầu tiên một người chưa hề đỗ đạt gì, không phải Hoàng thân quốc thích, không người tiền cử lại được phong làm quan đầu triều. Định mệnh dường như là có thật, thiên ý quả có thể đoán trước qua 8 quẻ hay các môn toán mệnh, tử vi.
Tuy nhiên nhiều người thời đó ganh ghét chế giễu Đoàn Nhữ Hài rằng: “Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán”. Có nghĩa là: “Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa”.
Dù bị đàm tiếu, nhưng Đoàn Như Hài cũng chỉ mìm cười. Qua câu chuyện ly kỳ của mình, ông đã hiểu rõ rằng định mệnh là có thật, ông được ngồi vào chức quan trọng yếu này là do khuôn thiên định mệnh sắp xếp cho ông.
Nhớ lại dặn dò của vị hòa thượng Tuệ Trung, ông hết lòng phục vụ cho triều đình, chăm lo cho dân chúng.
Mộ và đền thờ Đoàn Nhữ Hài cho thấy ông cũng được lòng dân chúng. (Ảnh qua nghean.gov.vn)
Tứ đại giai không, miễn tử
Năm 1298, Đoàn Nhữ Hài được phong chức Xử Mật Viện và nhập cung, được Khâm Từ Thái Hậu dẫn đến diện kiến với Huệ Túc Phu Nhân (vợ vua Trần Thái Tông, người chỉ dạy tử vi cho các Hoàng thân nhà Trần) tại Lầu Tinh Các (lầu chuyên quan sát thiên văn).
Huệ Túc Phu Nhân thấy Đoàn Nhữ Hài đến thì phán rằng: “Sáng nay thấy thủy tiên nở mười cánh, ta bấm độn biết là có đại thần đến viếng, tiếc rằng ta đón trễ, e không đủ lễ với bậc trung lương”.
Khâm Từ Thái Hậu kể lại rằng: “Tâu tổ mẫu, tiểu hài nhi (chỉ vua Anh Tông) vì say rượu suýt bị tội . Được Đoàn tiên sinh đây dùng văn tài tạ tội cho mới thoát”.
Huệ Túc Phu Nhân cho biết rằng:
“Thủa Hoàng Thượng (chỉ vua Anh Tông) mới ra đời, ta tính số thấy Đồng, Lương, Tang, Mã ở Mệnh thêm Hình… ta đã biết có việc này rồi. Đồng, Lương ham chơi có thể gây ra tai họa. Nhưng là phúc tinh thì không bao giờ bị truất ngôi cả. Có Tang, Hình đắc địa thì sau này càng lớn càng nghiêm cẩn, uy nghi tài ba, thái hậu đừng lo”.
Khâm Từ Thái Hậu kể lại chuyện Đoàn Nhữ Hài được hòa thượng Tuệ Trung và Thượng Hoàng xem số tử vi, rồi quay lại nói với Đoàn Nhữ Hài rằng các Hoàng thân nhà Trần biết được tử vi đều là do Huệ Túc Phu Nhân truyền dạy lại. Huệ Túc Phu Nhân bấy giờ mới hỏi Đoàn Nhữ Hài ngày sinh, Hài thưa rằng Tuỗi Kỷ Mão, tháng 9, ngày 1, giờ Mão.
Huệ Túc Phu Nhân bấm số rồi nói:
“Cái cách của tiên sinh gọi là Nhật Nguyệt tịnh minh thì thế nào cũng phò tá Đế vương. Bậc cao nhất là Tể tương. Lại có Xương, Khúc, Long, Phượng, Kỵ thì văn tài xuất chúng. Có Kình miếu thì vũ lược siêu quần”.
Huệ Túc Phu Nhân am hiểu hơn về tử vi hơn, nên chỉ nói Đoàn Nhữ Hài có số phò tá Đế vương, bậc cao nhất có thể tới Tể tướng, nhưng không khẳng định ông sẽ làm tới Tể tướng như vị hòa thượng Tuệ Trung.
Khâm Từ Thái Hậu hỏi về vận hạn xấu sắp tới của Đoàn Nhữ Hài: “Cung Nô của tiên sinh tại Tý có Tham là Phiếm Thủy Đào Hoa, lại thêm Quyền, Tả, Hồng có gì đáng lo chăng?”
Huệ Túc Phu Nhân đáp rằng:
“Tham cư Nô tại Tý thì thế nào cũng có ngày tỳ thiếp làm rối kỷ cương. Quyền, Tả chế được. Tham 3 độ, Đào 3 độ, Hồng 3 độ ở cùng chung nhau thành 27 độ xấu. Quyền 3 độ, Tả 3 độ thành 9 độ không đủ chế 27 độ xấu. Nhưng Mệnh có Xương, Khúc, Kình thì bình thường chế được mà gia cang vững. Sợ là khi hạn gặp các dâm tinh thì như giặc ngoài đột nhập, trong nhà khó giữ nổi kỷ cương. Sang năm tới đây, đại hạn tiên sinh ở Tỵ, có Cơ, Hình, Mã, Đà, Tang. Tiểu hạn tại Dậu có Riêu, Hao, Hỏa, Hư. Lưu Kình nhập Mệnh, lưu Đà nhập đại hạn. Dâm tinh quá mạnh, cung Nô phát dậy thế nào cũng vì má đào mà gây họa nguy khốn. Phải nhờ lưu Thái Tuế gặp Thái Âm thành Quyền tinh tại cung Hợi giải cho nên thoát nạn”.
Đoàn Nhữ Hài tâu: “Thượng Hoàng xem số bảo thần vì má đào mà bị trảm, nên xé bìa kinh Kim Cương viết cho mấy chữ: ‘Tứ đại giai không, miễn tử’ để khi hữu sự thì dùng đến”.
Huệ Túc Phu nhân mới bảo: “Thượng Hoàng cũng là Nô cung của tiên sinh đấy, tờ giấy ấy là Tả, Quyền đấy, tiên sinh đưa cho ta giữ cho”.
Đúng như dự đoán trong tử vi, tháng 4 năm 1299 vận hạn của Đoàn Nhữ Hài đến. Mối tình của Đoàn Nhữ Hài với cung nữ tên là Giao Châu bị phát hiện. Luật của triều đình lúc đó rất khắt khe với tội ngoại tình, ngay cả đối với thường dân thì dâm phu sẽ bị tử hình, dâm phụ xử thế nào còn tùy người chồng có tha thứ hay không. Vì thế Đoàn Nhữ Hài và cung nữ đều bị khép vào tội xử trảm. Dù rất được lòng Vua, nhưng Đoàn Nhữ Hài vẫn phải đứng trước án tử vì hình pháp đã định, bản thân Vua Anh Tông cũng không có cách nào.
Huệ Túc Phu Nhân hay tin liền đến sân rồng, triều đình đồng loạt bái lạy. Phu nhân nói: “Xin Hoàng thượng và triều đình cho ta góp vài lời quê mùa nên chăng?”
Huệ Túc Phu Nhân tiếp lời rằng:
“Thái Tông nhà ta đức rộng như biển. An Sinh Vương dặn Thượng Phụ (tức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn) cướp ngôi, ngài biết cả, thế mà vẫn trọng dụng Thượng Phụ, nên họ Đông A (tức họ Trần) mới làm nên đại nghiệp phá Thát Đát. Nay Giao Châu bất quá 16 tuổi, Đoàn tiên sinh bất quá 21 tuổi. Tiên sinh chưa vợ. Giao Châu tiến cung đã 6 tháng không gặp thiên tử. Trai tài gái sắc họ cảm nhau là chuyện thường. Nay vì chút ít kỷ cương mà giết một công thần tài đức, làm mất đi đức bao dung của Tiên đế không? Sao bằng tác hợp cho Đoàn tiên sinh đây và Giao Châu thành phu phụ để tuyên đức bao dung của triều đình. Trọn đời họ là kẻ chịu ơn triều đình, nhất tâm khuôn phò xã tắc, quý thay.”
Nhưng Vua Anh Tông đáp rằng: “Hài nhi không chủ trương được việc này. Hình pháp đã định”.
Phu Nhân cho rằng: “Giao Châu là cung phi, thì để cho nội cung xử. Ta là phu nhân của Thái Tông, bậc cao nhất nội cung, để ta lãnh xử. Còn Đoàn tiên sinh làm Xử Mật Viện là người của họ Đông A hơn của triều đình, xin giao cho Thân Vương xử”.
Theo lệ nhà Trần thì các Thân Vương đều về ấp ở, mỗi tháng chỉ cần một vị ở triều đại diện cho các Thân Vương. Vị Thân Vương đại diện tháng 4 năm ấy đã tâu rằng: “Thánh đức của Thái Tôn nhà ta nên giữ lấy. Thần xin tác hợp cho Đoàn tiên sinh và Giao Châu”.
Cảm thấy mấy lời của mình và ý kiến của Thân Vương chưa thuyết phục hẳn các quan trong triều, lúc này Huệ Túc Phu Nhân mới rút trong tay áo ra tấm bìa kinh Kim Cương có bút tích của Thượng Hoàng. Trên đó viết: “Tứ đại giai không, miễn tử”. Lúc này cả Vua và triều đình đều tung hô vạn tuế.
Đoàn Nhữ Hài làm quan được lòng cả Vua Anh Tông và Thượng hoàng Nhân Tông. Sau sự việc đi sứ Chiêm Thành (1303), Vua Anh Tông càng trọng dụng Đoàn Nhữ Hài hơn. Trong cuộc dấy binh chinh phạt Chiêm Thành năm Tân Hợi (1311) của vua Trần Anh Tông, Đoàn Nhữ Hài góp phần quan trọng để giành lấy thắng lợi mà không hề tốn xương máu.
Năm Ất Hợi (1335), dưới triều vua Trần Hiến Tông, biên giới phía Tây Đại Việt bị Ai Lao quấy nhiễu. Quân Ai Lao xâm phạm cả ấp Nam Nhung thuộc đất Nghệ An. Lúc này, Đoàn Nhữ Hài đang chỉ huy quân Thần Vũ và Thần Sách, kiêm chức Kinh lược Địa sứ Nghệ An nên được trao chức đốc tướng. Xuất thân là quan văn, Đoàn Nhữ Hài đã đánh giá sai tình hình và có phần chủ quan khi đánh giá tình hình.
Ngày giao chiến, mây mù che tối, quân Ai Lao phục sẵn voi ngựa, hai mặt giáp công. Quân của Đoàn Nhữ Hài bị đánh thua tan tác, bản thân ông sa xuống nước chết đuối. Sau khi ông tuẫn tiết, Thượng hoàng Minh Tông bình rằng Đoàn Nhữ Hài đã thất trận chỉ vì muốn lập kỳ công, có nói: “Thế mới biết sự mong muốn của con người không thể vượt quá giới hạn được!”
Trần Hưng
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

“ĐAU THƯƠNG” – CÕI THƠ ĐIÊN CỦA MỘT NGƯỜI RẤT TỈNH

HẢI SINH
Nói đến Hàn Mặc Tử là nói đến nhà thơ lạ nhất của Phong trào Thơ Mới, người “cai trị Trường thơ Loạn của các nhà thơ Bình Định”. Nói đến thơ ông, người ta nhớ đến thơ Cổ điển trong Lệ Thanh thi tập, thơ Lãng mạn trong Gái quê… nhưng, hơn tất cả là nhớ đến Thơ Điên trong Đau thương. Có thể nói chính Thơ Điên chứ không phải gì khác là phần đặc sắc nhất đã làm nên cái “lạ” kia, làm nên tên tuổi và ngôi vị Hàn Mặc Tử.
Bệnh hủi và những cuộc tình mộng tưởng, cuộc tình tan vỡ đã đưa chàng thi sĩ trẻ tuổi của chúng ta trải nghiệm đến tận cùng nỗi đau của nhân gian. Đó là điều không may nhất của đời người nhưng lại là một phúc ân lớn với chàng thi sĩ này. Đau thương đã thấu nhập, chiếm lĩnh và bật lên thành xương tuỷ của hồn thơ. Nó bộc lộ thành những thi ảnh kì dị, âm điệu của tiếng gào, tiếng thét, tiếng rú và một lớp ngôn từ cực tả trong dạng thức độc đáo của sáng tạo – “thơ Điên”. Trong trường hợp ấy, con người “siêu thức” xuất hiện như một lẽ tự nhiên, một cứu cánh nâng Hàn Mặc Tử vượt thoát khỏi những cái tầm thường, mực thước để đến với một vũ trụ vẫn còn nhiều bí ẩn của “Linh Hồn Thanh Khiết”.
Trong lời tựa “Điêu tàn” – vẫn được xem là bản tuyên ngôn chung của Trường Thơ Loạn mà Hàn Mặc Tử là “kẻ cai trị”- có viết: “Cái gì của nó cũng tột cùng. Nó gào vỡ sọ, nó thét đứt hầu, nó khóc trào máu mắt, nó cười tràn cả tuỷ là tuỷ. Thế mà có người tự cho là hiểu được nó, rồi đem so sánh nó với Người, và chê nó là giả dối, không chân thật. Vâng! Nó không chân thật, nó giả dối với Người. Với nó, cái gì nó nói đều có cả“. Cái gì nó nói đều có cả đó là nguyên tắc chân thật, nguyên tắc lớn nhất của một người đã thức tỉnh ở chiều cao tâm linh với nguyên lý tỉnh mà không biết mình tỉnh (theo S.Freud”). Bằng nghiên cứu phân tâm học, Freud đã chứng minh được vai trò của cái vô thức với sáng tạo, nhất là với sáng tạo nghệ thuật. Theo đó, đối với người nghệ sĩ lúc sáng tác là lúc tỉnh táo nhất, chân thật nhất với chính bản thân mình và với cả độc giả. Chân thật với bản thân mình là chân thật cao nhất, khó nhất và tỉnh táo nhất. Vì vậy, thơ Điên là hình thức tỉnh táo nhất của con người thi sĩ Hàn. Đó là lúc ý thức như mờ đi, lùi lại phía sau, nhường phần lớn quyền điều hành quy trình sáng tạo cho tiềm thức, vô thức, đặc biệt là siêu thức.
Trước tiên là chân thật với chính cảm xúc của mình. Nguồn cảm xúc tìm thấy trong hình thức thơ Điên chính là Đau Thương. Những Đau đớn thân xác, với một cơ chế nào đấy, chuyển hoá sang địa hạt tinh thần, hoá thân vào nỗi Đau khổ tinh thần và cất lên thành thơ.
Về bản chất, Đau thương ở Hàn Mặc Tử là một niềm tuyệt vọng lớn. Cho nên trong thơ Hàn, ta có thể cảm nghe được cả một thế giới bên trong vô hình đang lâm vào tuyệt vọng qua những tiếng rên rỉ rớm máu của thân xác bên ngoài. Cho nên đó cũng chính là cái nỗi cô đơn đặc biệt: nỗi cô đơn quá tải. Vậy là, Đau thương ở Hàn là một thứ siêu nghiệm. Đau thương vừa là dạng thức vừa là cung bậc của cảm xúc thơ thường trực trong hồn thơ Hàn Mặc Tử. Điên chính là sự hiện hình, sự cất tiếng chân thành nhất, tỉnh táo nhất của Đau thương.
Chế Lan Viên – một thi hữu của Hàn – ngay từ đầu đã tiền hô hậu ủng, và đến khi viết giới thiệu cho Tuyển tập của người tri kỉ xấu số, vẫn giữ vững ý kiến bênh vực sắc bén của mình. Ông dẫn ra một tiếng thơ có một vẻ rất “điên”, và chỉ ra yếu tố nào đã đem lại sức sống chân chính cho nó: “Chúng ta cần có người tả trăng là trăng. Nhưng cũng cần có người vượt lề thói tập đoàn mà xẻ trăng làm hai nửa (…) Cần truyền thống nhưng cũng cần biến dị, cần nói những điều chưa ai nói (…) Hôm nay có một nửa trăng thôi / Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi/… Không phải ma thuật, kĩ thuật gì của óc đang lạm phát ngôn từ. Lòng có bị cắn đôi, đời có bị tan vỡ, tình có bị đứt đoạn, nghĩa là có một thảm sử gì làm trữ kim, làm đảm bảo, thì mới có thể phát ra những từ ấy.” Hàn Mặc Tử “điên” như thế đấy và cũng tỉnh như thế đấy.
Nhờ thứ trữ kim này người ta chẳng những thấy được cái lí của những hình thức kì dị, quá xa lạ, mà còn xuyên qua rào cản của những cảm giác kinh dị để nhận chân những nỗi niềm thơ chân chính của thi nhân. Thơ Điên vì thế là tiếng kêu rỏ máu của con chim sắp lìa trần, là tiếng nói của những hụt hẫng tan hoang, là tiếng nói của một thân phận bị dồn đẩy đến miệng vực của nỗi chết, chới với bên miệng vực ấy mà ngoái nhìn đời, nuối đời, níu đời. Mỗi tiếng thơ khác nào một lời nguyện cuối, một lời tuyệt mệnh. “Tôi còn trìu mến biết bao người / Vẻ đẹp xa hoa của một trời/ Đầy lệ đầy thương đầy tuyệt vọng/ Đây giờ hấp hối sắp chia phôi”, “Ta trút linh hồn giữa phút đây/ Gió sầu vô hạn nuối trong cây/ Còn em sao chẳng hay gì cả/ Xin để tang anh đến vạn ngày“… Cảm xúc chia lìa vĩnh biệt luôn choán ngợp cõi lòng, vò xé tâm can. “Lòng thi sĩ chứa đầy trang vĩnh biệt.”, “Than ôi ! Hỡi biệt li chan chứa/ Tưởng cùng em vui hưởng thú tiêu dao/ Anh sắp đi và hai hàng lệ ứa/ Cả đau thương dồn dập xót tâm bào”,… Bước vào Thơ Điên là bước vào cái thế giới quằn quại của tinh thần. Nó là biểu hiện của những giằng xé quyết liệt giữa bóng tối của Bệnh tật, Chết chóc, Ma quỉ với ánh sáng của Tình Yêu, Sự Sống, Thần Thánh… giữa Địa Ngục hắc ám với Thiên Đường quang minh…
Đau Thương của Thơ Điên cất lên từ thân phận thảm sử của Hàn Mặc Tử. Không có cái căn cốt là giá máu mà Hàn đã đánh đổi cho mỗi tiếng thơ của mình thì chưa chắc Thơ Điên đã đi xa hơn việc chạy theo một cái mốt tân kì để có thể làm rớm máu tâm can người đọc ở tận thế kỉ này. Và Đau thương đã tự tìm đến những hình thức của nó theo kiểu Hàn Mặc Tử.
Trong thơ trữ tình, việc chủ thể phân thân, hoá thân vào các đối tượng hết sức khác nhau để cất lên những tiếng nói trữ tình phong phú khác lạ không còn là điều xa lạ nữa. Ở thơ Điên, sự phân li của chủ thể ở đây không theo lối tuyến tính mà theo lối đồng hiện: một xác thân nhiều nhân cách. Toàn những “nhân cách” phản trái nhau. Một chủ thể sinh hoá màu nhiệm kì khôi – Cả một miệng ta trăng là trăng/ Cả lòng ta vô số gái hồng nhan/ Ta nhả ra đây một nàng/ Cho mây lặng lờ cho nước ngất ngây… Mỗi mảnh vừa là một phân thân của Cái Tôi kia lại vừa là một cái Tôi khác tự lập – Kìa ai gánh máu đi trên tuyết/ Với lại ai ngồi khít cạnh tôi/ Mà sao ngậm cứng thơ đầy miệng/ Không nói không rằng nín cả hơi… Xác thân là một Tôi, Hồn lại tách ra thành một Tôi khác, đùa cợt, rượt đuổi, trêu tròng nhau, thậm chí thôn tính lẫn nhau – Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng… / áo tôi là một thứ ngợp hơn vàng/ Hồn đã cấu đã cào nhai ngấu nghiến… Dẫn hồn đi ròng rã một đêm nay/ Hồn mệt lả còn tôi thì chết giấc, Ôi điên cuồng! Ôi rồ dại! rồ dại/ Ta cắm thuyền chính giữa vũng hồn ta… Việc tạo ra kiểu chủ thể này ít nhiều thấy cả trong thơ Bích Khê, Chế Lan Viên, Hoàng Diệp, Xuân Khai… Và người ta cho rằng Văn hoá Chàm cùng với những bóng ma Hời phổ biến ở vùng thành Đồ Bàn đã nhập vào thế giới thi ca của Trường Thơ Loạn kia. Điều này có lẽ có thực. Song ở Hàn Mặc Tử, cái ngoại nhập mờ hơn cái nội sinh. Chính đời sống thực thể đặc biệt của Hàn Mặc Tử, nhất là ở giai đoạn sau, lúc nào cũng chập chờn bất định giữa Thực tại và Chiêm bao, lại có lúc cận kề cái chết hay xuất hồn siêu thăng vào cõi khác, là cái vốn nội sinh đã đồng hoá những ngoại nhập đó thành cái chủ thể sinh hoá kì dị này. Nó cũng là một thứ siêu nghiệm mà chỉ những người như Hàn Mặc Tử mới trải qua. Và, không có cái chủ thể sinh hoá một xác thân nhiều nhân cách quái đản ấy làm sao có chủ thể Thơ Điên? Người làm thơ không tỉnh thì làm sao viết được thơ như thế. Chỉ có điều người đó tỉnh mà không biết mình tỉnh.
Nếu không có kênh hình ảnh này, chưa chắc “Đau thương” đã phải là Thơ Điên. Cũng vì thế, ai đã đọc Thơ Điên, không thể không thấy vẻ kì dị, kinh dị tràn ngập ở đó. Người này thấy Hàn hay nói đến sự rơi rụng, tàn rữa của thân xác. Người khác thấy Hàn thường chuyển vô số cảm nhận thuộc các giác quan khác về một khí quan là cái miệng với những động thái ăn, nuốt, đớp, nhả, mửa, khạc… vốn rất kị giơ với thi ca truyền thống. Nhất là ai cũng đã từng bị choáng váng trước những vẻ kinh dị hãi hùng của Trăng – Hồn- Máu. Không ít người gọi đó là vẻ đẹp kì dị: “… Tôi toan hớp cả váng trời / Tôi toan đớp cả miếng cười trong khe”, “Ta cắn lời thơ để máu trào”, “Ta há miệng cho hồn thơ trào vọt”, “Cười no nê sặc sụa cả mùi trăng”, “Ta khạc hồn ra ngoài cửa miệng”, “Hồn vội mớm cho tôi muôn ánh sáng”, “Gió rít tầng cao trăng ngã ngửa/ Vỡ tan thành vũng đọng vàng khô/ Ta nằm trong vũng trăng đêm ấy/ Sáng dậy điên cuồng mửa máu ra…”. Đó là cả một cuộc nổi loạn trong cảm giác của thi ca. Với những vẻ kinh dị này, Thơ Điên đã xé rào để tìm kiếm cho thơ những miền cảm giác mới – cảm giác mạnh, đẩy cái kinh dị đến tột cùng. Dù nó có phần xa lạ với Người.
Vẻ kinh dị trong thơ Hàn Mặc Tử không quá xa lạ. Người ta đã từng tiếp nhận cái kì ảo trong truyền thống ở những chuyện ma quỉ dân gian, ở những “Lĩnh Nam chích quái”, “Việt điện u linh”, “Truyền kì mạn lục”, cả đây đó trong “Truyện Kiều”… của Ta và “Liêu trai chí dị” của Tàu. Và đương thời Hàn cũng không phải là hiếm đồng minh trên con đường phiêu lưu vào thế giới của cái kinh dị. Ngoài những thi hữu thân cận, có thể thấy cả Thế Lữ, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Bùi Hiển, v.v… Đến lượt mình, Hàn Mặc Tử và các thành viên của trường thơ Loạn cũng tìm thi hứng và nói rất thoải mái đến những xác chết, sọ dừa, đầu lâu, mồ hoang, giếng loạn, xương khô, sự trần truồng, sự dâm đãng… Tuy nhiên, trong khi các thi hữu của mình như Chế Lan Viên, Bích Khê nghiêng về sự tuân thủ những quan niệm lí thuyết, a là tuân theo những mô thức do họ phác ra từ trước, thì riêng Hàn Mặc Tử lại có một đời sống thực thể rất gần với cái thế giới kinh dị đó. Ông thường xuyên rơi vào tình trạng cô đơn tuyệt đối, tinh thần bị vây khốn giữa một cõi sống đơn độc, luôn bị ám ảnh bởi nỗi chết của riêng mình và dường như lúc nào cũng có thể cảm thấy mười mươi cái bóng đen đúa, cái âm khí lạnh ngắt cùng đôi mắt rùng rợn của tử thần, cho nên tinh thần của thi sĩ luôn lạc giữa cái trùng vây của những biểu tượng kinh loạn nhất của thế giới khác. a là bản thân cõi tinh thần của Tử đã là kinh dị. Nhưng ở “Đau thương” ta còn thấy cả một thái cực hình ảnh khác nữa – những hình ảnh lộng lẫy, thơ mộng. Riêng Trăng đã có “Trăng tự tử”, “Trăng ngã ngửa vỡ tan thành vũng đọng vàng khô”, “Trăng sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”… nhưng cũng có “Trăng vàng, trăng ngọc“, có “Ngả nghiêng đồi cao bọc trăng ngủ/ Đầy mình lốm đốm những hào quang“, có “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó/ Có chở trăng về kịp tối nay“… Đây là “chút lòng ưu ái cũ” với vẻ đẹp đời thường chăng? Đó là giây phút tĩnh lặng, ngấm sâu, ẩn nấp của cái kinh dị ư? Chỉ chắc chắn một điều rằng chính nó làm nên vẻ huyền diệu, âm u và hấp dẫn của thơ Hàn.
Không ít người nghiên cứu về thơ Hàn Mặc Tử đã cảm nhận được một vẻ “kì cục” ở đôi bài là mạch thơ “cóc nhảy”, “đầu Ngô mình Sở”. Trước hết là từ kiểu tư duy đặc biệt của Tử, mà Hoàng Ngọc Hiến gọi bằng “siêu thức”. Trong một trạng thái như thế, lí trí và ý chí của thi sĩ không thể nắm vai trò áp đặt cái quyền lực lôgic thông thường như tứ thơ hay cốt truyện thì những sản phẩm thơ của Hàn Mặc Tử sao có thể tuân theo một lôgic thông thường. Cố nhiên, để nó vẫn là thơ chứ không phải là một mớ chữ hỗn loạn, tất phải có một lôgic riêng.
Mỗi bài thơ của Hàn thường hiện ra như một dòng tâm tư bất định: tình điệu liên tục chuyển vần, hình tượng liên tục chuyển “kênh”. Bước vào mỗi bài thơ Hàn Mặc Tử, người đọc không khỏi có cảm giác phân tâm: trí dường như ngơ ngác không theo kịp mạch vận động bất định của các hình ảnh, nhưng lòng lập tức bị xâm chiếm, bị cuốn đi bởi cảm xúc đau thương với những sắc điệu cung bậc khác nhau, khi thì tràn trề, khi thì ẩn kín đằng sau những hình ảnh ấy. Phi lôgic ở bề mặt, nguyên phiến, nguyên điệu ở bề sâu, đó chính là Siêu lôgic – nét thi pháp thơ Điên điển hình của “Đây thôn Vĩ Dạ”. Chỉ đơn cử ở khổ thơ thứ hai:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.”
Những cảnh vật thiên nhiên thường gắn kết không bao giờ tách rời mà ở đây lại tách nhau ra, đi theo đường riêng. Gió theo đường của gió. Mây theo đường của mây. Hoa bắp lay theo đường hoa bắp bỏ mặc dòng nước buồn trong im lặng, không một gì soi bóng. Thuyền cũng lìa với người. Trăng chưa chắc đã về với tối nay. Nhưng tất cả lại thống nhất, liên đới với nhau trong nỗi buồn đau chia ly, tan tác.
Thơ Điên có một lớp ngôn từ cực tả, không giống ai. Thơ Điên đã dung chứa trong nó một lớp ngôn từ đối nghịch gay gắt. Có cả những tiếng rên siết thê thiết của một xác thân bị dày vò tàn huỷ: “Trời hỡi làm sao cho khỏi đói / Gió trăng có sẵn làm sao ăn”; “Trời hỡi bao giờ tôi chết đi”… Dễ hiểu vì thi sĩ Thơ Điên này chủ trương rằng: “không rên siết là thơ vô nghĩa lí“.
“Đau thương” là cõi thơ Điên được xây dựng bằng trải nghiệm cá nhân trong sáng tạo từ những bất hạnh riêng của thân phận thi sĩ. Nó là sản phẩm của một sự khủng hoảng và một khát khao, một nỗ lực sáng tạo. Chúng ta đều biết Thơ Mới là tiếng nói trữ tình của Cái Tôi cá nhân. Thế giới Cá nhân là một phát kiến mới mẻ. Nếu Thơ Mới là hành trình đi mãi vào địa hạt của Cái Tôi, thì Thơ Điên đã đi tới hang cùng ngõ hẻm Cái Tôi cá nhân và ở đó nó bắt gặp và hoà nhập vào một cái vô thức, siêu thức của nhân loại. Nếu Thơ Mới là nỗi Cô đơn của con Người, thì Thơ Điên là cái trạng thái chót cùng hoàn toàn quá tải của Cô đơn – ấy là Đau thương, là Tình yêu tuyệt vọng. Nếu Thơ Mới thể hiện một nguồn sống mãnh liệt của Cá nhân, thì Thơ Điên muốn tìm tới dạng thức tột cùng của sự mãnh liệt ấy- mãnh liệt đến cuồng dại. a là đa phần Thơ Mới là Kinh nghiệm còn thơ Điên muốn tới một thứ Siêu nghiệm. Thơ Điên vừa giống vừa không giống với những gì đã có. Điều ấy xác định đóng góp độc đáo của Hàn Mặc Tử cho nền thi ca của chúng ta – một cõi thơ Điên của người thơ rất tỉnh, tỉnh mà không biết mình tỉnh./.
Đầu trang

Ngon_gio_Dong
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1301
Tham gia: 17:04, 01/04/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi Ngon_gio_Dong »

Anh Tulang vừa rồi có xem U20 VN chơi ở World Cup ko ? Hay quá anh nhỉ !
Đầu trang

hoangloi8978
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1215
Tham gia: 22:07, 08/10/10

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi hoangloi8978 »

Bố em vừa cho em 1 chiếc iPhone 7. Mừng quá anh Tulang và cả nhà ơi!!!
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
tulang
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2373
Tham gia: 15:00, 20/07/11

Re: Một nửa vầng trăng dành cho ai đó ! - Phần II

Gửi bài gửi bởi tulang »

Ngon_gio_Dong đã viết: 16:51, 29/05/17 Anh Tulang vừa rồi có xem U20 VN chơi ở World Cup ko ? Hay quá anh nhỉ !
Anh bận quá ! Vừa đọc những dòng này của em thì ... "Đội tuyển U20 Việt Nam chính thức dừng bước tại vòng bảng, sau khi để thua Honduras ở trận đấu cuối" ... Mà thôi, như vậy cũng hay ... Hy vọng để làm gì ... Khi biết chắc sẽ thất vọng ...
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Câu lạc bộ - Giao lưu - Kết bạn”