HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Các bài viết học thuật về dịch lý, thái ất, kỳ môn...
Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

HOÀNG CỰC KINH THẾ
Quyển 8 - Hạ
Chính âm luật số đi đến 7 mà thôi. Mặt Trời lấy ngày Hạ chí mọc, ra mà ở Dần, vào mà ở Tuất. Đối với ba giờ Hợi Tý Sửu, thì mặt Trời ở vào Đất, mà mắt thường không nhìn thấy nó. Đây là 3 số chẳng đi, lấy 3 số này ví với 3 giờ mặt Trời ở vào Đất. Do vậy, số Sinh ra vật cũng như thế, chẳng phải ở số chẳng đi, có số mà do không nhìn thấy đó vậy. Pháp vận mở khép, đấy là luật "Trời trong Đất đục". Trước mở sau mở đấy là mùa Xuân, thuần mở là mùa Hạ, trước mở mà sau đóng là mùa Thu, mùa Đông thì mở mà không có tiếng. Phương Đông làm tiếng cho mùa Xuân, dương làm tiếng cho mùa Hạ. Đó, cái mà thấy lấy làm vận cho cái của nó vậy, ngậm hơn là tiếng mùa Đông vậy. Dương chủ mở để ra, âm chủ khép để vào.

Thanh và âm xướng họa cùng muôn vật số thông, cử lấy chính âm mà theo ở bên trong của nó, cử luật số lấy ở bên trong của nó. Thanh dương thuộc Trời, trời 10 can, phàm 10 thanh dương theo thanh đó vậy, chỉ đi đến 7 mà thôi, còn 3 số sau của nó, thì không thanh không chữ. Tiếng âm vậy, thuộc Đất vậy, Đất 12 chi, gồm 12 tiếng âm, âm lẻ theo tiếng âm, như hoa Hắc hương phương Đông, cũng như ở loài chạy, cũng chỉ đến 9 mà thôi, còn 3 số sau của nó cũng không âm không tự vậy.

Cất thanh thấy âm, dưới nó mặt Trời ra Dần vào Tuất, lấy 10 can tiếp 12 chi, bắt đầu từ Giáp Dần đến cuối là Nhâm Tuất, cũng là đến 9 mà thôi. Còn lại 3 số trời Quý Hơi- Giáp Tý- Ất Sửu, thì như thôi chẳng đi. Từ Dần đến Tuất (trinh) làm 9, mà mặt Trời thôi ở 7, là số trời tiếp đất. Mỗi 10 bỏ 3, nói 7 đất theo trời đó vậy - 3 giờ của nó, mặt trời vào dưới đất, vật tượng ảm đạm, mắt không thấy, tai không nghe, chẳng phải tiêu thanh, tiếng gió im lặng, ở 3 giờ cuối đó sao.

...Còn tiếp...
Sửa lần cuối bởi binbinbush vào lúc 14:49, 28/05/10 với 1 lần sửa.
Nguyên nhân: Sửa font
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Ở ngoài 9 âm thì 3 số chẳng đi, ở ngoài 7 thanh thì chỉ 2 số mà thồi (?). Ví như 3 giờ này, mặt Trời chưa định giờ Hợi Tý Sửu tiếp ở Can nào, mà chỉ nói tới Địa chi. Cho nên, Trời lại theo Đất vậy.

Ôi, số sinh vật 256 của 104 ngày của nó, vật chẳng hay sinh, cũng như mặt Trời có 3 giờ chẳng đi vậy. Cũng chẳng phải chẳng đi, số có mà coi như chẳng thấy, chính âm luật số Trời 4 thanh dùng 7, nhật-nguyệt-tinh-thần đều như thế, 160 mà trừ 48 được 112. Đất 4 âm dùng số Hỏa Thổ 12, tháng 9, thạch 42, mà trừ 40 thì còn 152, hợp đấy làm 264, thêm vào số thể 8 ở dụng số 256 vậy.

Xét luật số Sinh ra vật có thể biết vậy, phép nói về ý vận đấy, âm có mở khép, thanh có Đạo ở trong, mở ấy âm ở dương (rõ rệt lên) 1 thì 3 đương đấy. Khép ấy, âm ở ức chế 2 thì 4 đương đấy. Âm vốn Đất mà sao lấy theo luật Trời ?, Đó là cùng họa thanh theo Trời đó vậy. Bên trong, thì thanh ở nhẹ mà đương 1 đấy, khi ở đục thì thanh ở nặng 2 mà 4 đương đấy, thanh vốn ở Trời mà lấy theo "Lã" ở Đất, cũng xướng tiếng âm theo Đất đó vậy. Cho nên, ngay ở thanh, khi mở phát ra, ứng cho Xuân Hạ, khi thu đóng lại thì ứng ở Thu Đông. Trước đóng sau mở làm mùa Xuân, đến Hạ thời thuần mở vậy. Trước mở sau đóng, làm mùa Thu, đến Đông thời đóng mà không thanh vậy. Một thanh phương Đông thuộc mùa Xuân, bảy thanh dương thuộc mùa Hạ, dẫn thanh phương Đông lấy đức đỏ, chẳng phải trước đóng sau mở đó sao.
(Nghĩa: trước khi đến nơi thì vẫn đóng, mà khi đến nới thời lại mở - trước khi ra thời vẫn mở, ra tới nơi thì lại đóng)

...còn tiếp...
Sửa lần cuối bởi binbinbush vào lúc 14:50, 28/05/10 với 1 lần sửa.
Nguyên nhân: Sửa font
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Thanh dương lấy tia – sáng đẹp dẫn, chẳng phải là thuần mở mà chẳng đóng đó sao ? Lấy cử lên 2 chữ mà biết vận làm như vậy là rất mực thước. Nếu ngậm hòn Trời đóng mà như không, lấy cái của nó mà làm thanh cho mùa Đông đó sao ? Mà mùa Thu thì trước mở sau đóng, theo loại của nó mà tìm. Xét mùa Đông ở 1 chữ, lấy đều tông để dẫn, đóng mà không thanh, thì cũng như thanh phương Đông ở khi trước đóng sau mở ấy, nguyên là đồng một phép vận, 1 phương Đông, 2 mùa Đông, gần mà phụ nhau. Đông chí Xuân phân, trời nguyên (đầu), vật nguyên (đầu) ứng quẻ mà dấy lên khí ở 2 nguyên, vì cũng gần mà cùng nhau làm thở hít vậy, là rất mực thước. Tóm lại, dương mở âm khép, chủ ở ra vào, mở mà ra thì mở phát ra làm Xuân làm Hạ, xướng vậy mà thanh đấy, bên trong thì lấy mà họa theo. Khép mà vào thì thâu đóng làm Thu làm Đông, xướng vậy mà thanh đấy, đục đấy mà lấy để làm họa theo. Gồm lại đều coi đồ ở khi bắt đầu lại, mà sau 2 chí Đông Hạ, lấy tỏ rõ như đấy vậy.


Âm Dương sinh mà chia 2 nghi, 2 nghi giao mà sinh 4 tượng, 4 tượng giao mà sinh 8 quẻ, 8 quẻ giao mà sinh muôn vật. Cho nên 2 nghi sinh trời đất ở Loài, 4 tượng sinh trời đất ở Thể, 4 tượng sinh mặt Trời Trăng ở loài, 8 quẻ định mặt Trời Trăng ở Thể, 8 quẻ sinh muôn vật theo ở loài. Quẻ trùng định âm dương của Thể, căn cứ theo ở loài mà sinh theo thứ tự. Thể này là để tượng trưng khi giao, suy theo loài thì tất xem ở gốc sinh, xem cái Thể tất bởi ở tượng, khi cái sinh thời chưa lại, thì theo đấy mà suy ngược tượng của thời đã thành, như vậy là nói thuận xem đấy.


Cho nên mặt Trời mặt Trăng đều cùng 1 loài, đều ra đồng cung mà lại có cái khác biệt. Cớ cái khác biệt nhưng vẫn đồng một tượng, suy từ đây để hay lấy trước vật, lấy trên vật thay Trời mà biến thì như Đất ứng với vật, thì thời âm biến mà ứng với dương, vật thời dương biến mà ứng với âm, cho nên mùa (thì) có thể ngược mà biết, vật đáng thuận thì nên lấy dương trước mà âm theo sau, âm ngược mà dượng thuận, có biến tất phải có ứng. Cho nên, biến ở trong thì ứng ở ngoài, biến ở ngoài thì ứng ở trong, biến ở dưới thì ứng ở trên, biến ở trên thì ứng ở dưới. Trời biến thì mặt Trời ứng theo, cho nên cái biến này theo Trời mà ứng đấy. Đây là theo phép của mặt Trời. Lấy Nhật (mặt trời) ghi chép ở Tinh, lấy Nguyệt hội ở Thần, thủy sinh ở thổ, hỏa núp ở thạch, bay ấy đậu vậy, đi ấy nương ở cổ, tim phổi cùng liền nhau, gan mật cùng thuộc nhau, không gì khác, đạo biến ứng là ở đây vậy.


Thái cực ở động tĩnh sinh âm dương, vốn 1 khí mà chia 2 tượng giao mà sinh 4 tượng, lại giao mà sinh 8 quẻ, lại giao mà sinh muôn vật. Cho nên Trời với Đất phân loài theo âm dương, 2 loài rằng: sinh âm dương cứng mềm, thể chia Thái Thiếu, 4 tượng lấy định: mặt Trời dương, mặt Trăng âm cùng làm một loài. Gốc 4 tượng sinh mặt Trời có vào có ra để chia ngày và đêm. Sinh mặt Trăng có đầy có vơi để phân chia hối sóc. 8 quẻ trời đất thì 4 quẻ phân chia bay chạy cỏ cây, mà có tính tình hình thể đều ở cái khác nhau, sinh vật theo ở loài, cũng gốc từ 8 quẻ, 8 mà chồng lên nhau gồm 64, biến hóa khác thể thì đều bởi quẻ chồng lên quyết định. Sinh loài lấy theo thứ tự, trời đất vốn hai dạng sinh, nhật nguyệt vốn 4 tượng sinh, muôn vật vốn 8 quẻ sinh. Quẻ vốn là tượng, tượng vốn là hình tượng, khi sinh vốn suy theo loài ở vị lai (chưa đến), bởi vậy mà suy ngược lại đấy, đã sớm thấy cái số của nó sinh ngược như thế. Thể lấy tượng để giao, 4 tượng đã đặt ra mà đất với trời giao, 8 quẻ đã dựng lên mà Trăng với mặt Trời giao, quẻ chồng lên nhau đã nhận, mà muôn vật đều cùng giao. Giao thì có tượng, có tượng thì có thể, bởi tượng xem ở thể đã thành nên nói thuận mà xem đấy, nhận được mệnh bởi cái sở giao của nó cũng như vậy. Cho nên lần tới lấy xem mặt Trời mặt Trăng vốn làm 1 loài, đồng ra 4 tượng, mà mặt Trời là Thái dương, tương đương ngôi Càn, mặt Trăng là Thái âm, tương đương ngôi Đoài, cái mà khác thời của nó cũng từ đây, mà cùng suy ánh sáng sinh ngày và đêm theo tượng của nó, thời lại chưa thường, mà chẳng đồng suy theo cái thời khác nhau của nó, để mà lấy ngược lại khi biết loài của muôn vật, đều thuận xem cái thể của muôn vật, mà trời đất sinh vật ở số lại ẩn trốn số của nó, vậy thay !.


Đến lấy 1 hội mà biến 1 tháng, 12 hội mà biến 1 năm, ngày xem mặt Trời mà biết 4 mùa thay đổi, mà biết 4 mùa ở biến, đêm xem Trăng mà biết 6 hậu ở hóa. Việt Châu bàn: đồng ra mà lại có khác nhau, nhưng tượng thì lại đồng, ý càng tinh mà thật đáng suy nghĩ. Trời quay bên tả, mặt Trời quay bên hữu, tiến lui 366 thì đến chỗ biến, nhân từ đây mà suy: 1 vòng năm gồm 4 biến. Trời đi khởi từ Phục mà tiến tới Ly (khởi Phục ở ngôi 1, tiến 12 quẻ gồm: Di, Truân, Ích, Chấn, Phệ hạp, Tùy, Vô vọng, Minh di, Bí, Ký tế, Gia nhân, Phong; tới Ly là quẻ thứ 13, đầu cuối gồm 14 quẻ), mặt Trời đi khởi từ Bác mà lui tới Khảm (khởi Bác ngôi 1, mà lui 16 quẻ, tới Khảm là quẻ thứ 17, đầu cuối gồm 18 quẻ), thì bèn 1 biến, đất ứng đấy mà lấy vật hòa vậy mà sinh.


Trời tiến mà tới Càn, thì mặt Trời lui cũng đến Càn, thì bèn hai lần biến, đất ứng đấy vật chựu lấy, khen vậy mà lớn. Trời tiến mà tới Khảm thì mặt Trời lui mà đến Ly, thì bèn 3 biến, ứng đất đấy mà vật lấy chựu, đích xác vậy mà thành. Trời tiến đến Khôn thì mặt Trời cũng lui đến Khôn, thì bèn 4 biến, đất ứng đấy mà vật lấy làm tan tác vật tiêu. Thánh đức nói: “Trời nói gì đâu, bốn mùa (thì) đi vậy, trăm vật sinh vậy”. Đi bèn biến, sinh bèn trưởng (lớn) mà thành, thành mà tiêu, Vật ứng với Mùa thì tương đương với Đất ứng với Trời.


Lấy mùa (thì) mà nói, bên hữu âm biến thì bên tả dương ứng theo. Lấy vật mà nói, khí dương biến thì hình âm ứng theo. Cho nên, lấy mùa (thì) để suy ngược lại là đúng vậy, Xuân mà biết Thu, Hạ mà biết Đông. Vật tất xem thuận, Nếu không phải cất dấu thì chẳng thể sinh, chẳng phải trưởng thành, lấy Đất ứng với Vật, dương thời rước đấy, âm thời theo đấy, sinh trưởng ở dương, rước mùa (thì) mà dấy lên thâu tóm để thành ở âm, tùy theo mùa (thì) mà mất vậy. Trời làm biến mùa, âm thời ngược đấy, dương thời thuân đấy. Thu Đông làm âm ngược cất dấu cách dùng của nó, Xuân Hạ làm dương thuận mà ra cái khí của nó. Phàm có biến tất có ứng, ứng ở bên ngoài. Biến ở thời ứng ở trong, như hào 4 ứng thời hào Sơ biến, hào 2 ứng thời hào 5 biến theo ở từng loài. Đồ xét Trời gồm 4 quẻ trong, Đất gồm 4 quẻ ngoài. Trong mà có tính tình hình thể ở biến, ngoài có bay chạy cỏ cây ở ứng. Ngoài mà bay chạy cỏ cây ở biến, thời trong tính tình hình thể ở ứng. Cho nên, dưới biến trên ứng, trên biến dưới ứng, Đoài Càn Tốn Khảm trên, Cấn Khôn Chấn Ly dưới (2156 trên, 7843 dưới), ngày đêm mưa gió biến ở dưới, nắng rét sương sấm ứng ở trên, nắng rét sướng sấm biến ở trên, ngày đêm mưa gió ứng ở dưới. Trời ứng thì mặt Trời biến, cho nên mặt Trời cũng ở Trời mà cùng biến. Xem ở tả hữu chia hàng, cùng tả hữu giao hàng, mà Trời với mặt Trời ở cùng biến ứng có thể biết được như vậy. Cho nên, biến ấy theo Trời , thời ứng đấy bắt chước ở mặt Trời, mặt Trời đi ở sao chép từ ở Sao, Trăng đi ở họp ở Thần, âm dương đều theo loài của nó. Càn Đoài Ly Chấn đều chuyên bên hữu, lấy phép theo mặt Trời vậy. Đến Khôn, nước vậy mà sinh ở Khảm thổ Cấn hoả, mà núp ở Tốn thạch, rắn mềm đều theo loài của nó, cái mà bèn quay bên tả theo Trời đó sao ? Đến ở loài bay ấy đậu nhờ ở cây, loài chạy ấy nương nhờ ở cỏ. Khôn Cấn biến ở dưới, Tốn Khảm ứng ở trên. Xem vật mà đáng để nghiệm, tim với phổi ở liền kề nhau, gan với mật cùng lệ thuộc nhau. Càn Đoài ứng ở trong, Chấn Ly ứng ở ngoài, tức thân mình có thể biết, gồm ấy đều là đạo ứng biến. Người, Vật, Trời, Đất cùng đồng 1 tính tình hình thể thanh âm, phản thiết (đêm âm hai chữ hợp với nhau, rồi đọc tắt đi để biết âm chữ khác - nội suy), không gì chẳng phải là ở đấy vậy.



Được khí Trời thì động, được khí Đất thì tĩnh. Dương ở loài của nó thời tròn, mà thành hình thời vuông. Âm ở loài của nó thời vuông, mà khi thành hình thì lại tròn. Loài nào thuộc về ở Trời thời gốc thân ở trên, loài nào thuộc về ở Đất thời gốc thân ở dưới, cho nên biến cùng

ứng với nhau, thường phân đối vậy. (ứng biến cùng nhau, lệ thường phân đối)


Thực vật vốn tĩnh, Xuân Hạ phát sinh, được dương khí của Trời mà động, tới Thu Đông thời lá rụng, được âm khí của Đất mà tĩnh vậy. Động vật thời ban sớm được khí trời động, ban đêm được khí đất tĩnh. Trên biến dưới ứng, cho nên ở loài thuộc dương tượng theo Trời mà tròn, thành hình của nó thời theo tượng của Đất mà vuông. Dưới biến trên ứng, ở loài thuộc âm tượng theo Đất mà vuông, thành hình của nó thời theo tượng Trời mà tròn. Động vật đầu ở trên vốn tượng Trời gốc thân ở trên thuộc loài của nó. Thực vật gốc thân ở dưới, vốn tượng Đất gốc thân dưới thuộc loài của nó. Càn Đoài Tốn Khảm ở trên, Khôn Cấn Chấn Ly ở dưới, đó là các quẻ đối phản, quẻ này biến thì quẻ kia ứng, khí giao là cố nhiên, tả hữu cũng xem như thế.
Dương giao ở âm mà sinh loài móng chân sừng vậy. Cứng giao với mềm mà sinh loài gốc rễ vậy. Âm giao với dương mà sinh loài lông cánh vậy, mềm giao với cứng mà sinh loài cánh thân cây vậy. Trời giao với Đất, Đất giao với Trời, cho nên có lông vũ mà để chạy, có chân mà để bay, trong cỏ có cây, trong cây có cỏ, đều lấy theo loại mà suy, thời sinh loài vật chẳng thể quá ở đây. Chạy ấy tiện ở dưới, bay ấy lợi ở trên, theo loại của nó vậy.


Trời dương giao đất âm sinh loài có đề (móng chân loài thú) sứng mà không có cánh, theo ở phân loại chạy mà chẳng bay, đều âm làm chủ ở bên trong. Đất cương giao với đất nhu, sinh loài có gốc rễ, mà chẳng hay lớn làm cành thân cây, cỏ mà chẳng phải cây, thì đều nhu làm chủ ở bên trong. Đất âm giao trời dương, sinh loài có lông cánh mà không sinh loài có đề giác (sừng), theo ở phân loại thì bay mà chẳng chạy, đều dương làm chủ ở bên trong. Đất nhu mà giao với đất cương, có cành thân mà chẳng hay làm nhỏ gốc rễ, theo phân loại cành thân thì gốc rễ chẳng nhỏ, đều dương làm chủ ở bên trong. Bay chạy lấy theo sinh cương nhu ở trong đất vậy, cỏ cậy lấy sinh, ấy chính của nó vậy, mà lại có biến vậy. Trời ở âm dương giao, Đất ở cương nhu giao. Trời ở giao âm dương, loài lông vũ ấy bay mà gồm thêm cả chạy, chân ấy chạy mà gồm thêm cả bay, rễ cỏ mà lại cành thân làm cây, thân cậy mà lại gồm gốc rễ làm cỏ. Do loại ấy mà suy ở loài chạy, ở loài lông vũ mao sâu tựa cỏ, sương dài tựa cậy, bay ở lông vũ, yểu tựa cỏ, cánh cứng tựa cây, cỏ ở loài bò dài tựa chạy, cỏ ở loài nối kín tựa bay, cây ở gốc (vuông thẻ tựa chạy), cây ở rễ mạnh tựa bay. Ngàn đối ngàn biến, chẳng phải 1 loài, mà loài chạy ấy bèn ở dưới, loài bay ấy bèn ở trên, đều theo gốc loại của nó ở trời đất mà thôi.


Động vật từ đầu sinh, thực vật từ rễ sinh. Từ đầu thì sinh mệnh ở đầu, từ rễ thì sinh mệnh ở rễ. Người cư ngụ hình ở loài chạy, sao vậy ? Đất ở con lớn vậy. Thể tất giao mà sinh sau, cho nên dương cùng cương giao mà sinh tim phổi, âm cùng nhu giao mà sinh gan mật, nhu cùng âm giao mà sinh quả cật cùng bàng quang, cương cùng dương giao mà sinh lá lách dạ dày. Tim lại sinh mắt, mật sinh tai, lá lách sinh mũi, quả cật sinh mồm, phổi sinh xương, gan sinh thịt, dạ dày sinh tủy, bàng quang sinh huyết. Cho nên, Càn làm Tim, Đoài làm lá lách, Ly làm mật, Chấn làm thận, Khôn làm huyết, Cấn làm thịt, Khảm làm tủy, Tốn làm xương, Thái làm mắt, Trung phu làm mũi, Ký tế làm tai, Di làm mồm, Đại quá làm phổi, Vị tế làm dạ dày, Tiểu quá làm gan, Bĩ làm bàng quang. Trời đất có 8 tượng, người có 16 tượng, sao vậy ? Hợp trời đất mà sinh người, hợp cha mẹ mà sinh con, cho nên có 16 tượng vậy. Tim ở phổi, mật ở gan, sao vậy ? Nói tính ấy tất về ở trời, nói thể ấy tất về ở đất, trong đất có trời, trong đá có lửa, ấy lấy tim mật tương đương đấy vậy. Tim mật ở rũ đảo lên sao vậy ? Cỏ cấy đấy, thể đất vậy, người cùng cỏ cấy đều sinh phản lại, lấy đấy mà nói rũ đảo lên vậy.


Chạy bay được sinh từ ở đầu, cho nên mồm ở đầu, khí theo mồm, đầu ở sở tại, tức là mệnh vậy. Cỏ cậy được sinh từ ở gốc, cho nên mệnh ở gốc, khí theo giáp (mai, như mai rùa) gốc ở sở tại, tức là mệnh vậy. Hình người cũng ngụ ở loại ấy. Vật ở động ấy, động ấy thuộc Chấn, cho nên đất ở con lớn. Phàm thể được sinh do ở giao, âm dương chẳng giao, máy sinh lấy nghỉ, vả lại không trời đất, cho nên sinh trời đất giao, giao thời tất đôi (chẵn), đôi mà giao vậy, thể bèn sinh vậy, Càn Tốn ở rất trên, dương cùng cương giao, duy có tim kịp phổi ở trên tạng phổi. Đoài Khảm thứ ở trên, âm cùng nhu giao, duy có gan với mật, ở tim phổi ở thứ. Khôn Chấn ở rất thấp, nhu với âm giao, quả cật với bàng quang ở dưới tạng phủ. Cấn Ly dưới nửa, cương với dương giao, duy có tỳ kịp vị, ở chỗ rất thấp ở trên. Tim thời sinh mắt, tim ở trên mắt cũng ở trên. Mật thời sinh tai, mật thứ tim, tai cũng thứ mắt. Lá lách thời sinh mũi, trên lá lách thời mũi cũng trên thận thời sinh mồm, thận dưới mồm cũng dưới. Phổi thời sinh xương, phổi trên xương cũng trên. Gan thời sinh thịt, gan thứ phổi, thịt cũng thứ xương. Vị sinh tủy, vị thứ bàng quang, tủy cũng thứ huyết, bàng quang dưới mà huyết cũng dưới. Nên, Càn làm tâm, Càn mà trên, Khôn làm Thái thời làm mắt. Đoài làm tỳ, tỳ mà trên, Tốn làm Trung phu thời làm mũi. Ly làm đởm, Ly mà trên, Khảm làm Ký tế thời làm tai. Chấn làm thận, Chấn mà trên, Cấn làm Di thời làm mồm. Khôn làm huyết, Khôn mà trên, Càn làm Bĩ thời làm bàng quang. Cấn làm thịt, Cấn mà trên, Chấn làm Tiểu quá thời làm gan. Khảm làm tủy, Khảm mà trên, Ly làm Vị tế thời làm thận. Tốn làm xương, Tốn mà trên, Đoài làm Đại quá thời làm phổi. Việt Châu chú: Thái làm mắt, tức là Càn làm tim mà giao ấy vậy. Bĩ làm bàng quang, Khôn làm huyết, mà chẳng giao ấy vậy. Cấn làm thịt mà chẳng giao, chẳng phải Tiểu quá ở làm gan đó sao ? Đoài làm tỳ mà giao, chẳng phải Trung phu ở làm mũi đó sao ?

Ký tế làm gan tức Ly làm mật mà giao ấy vậy. Vị tế làm thận, tức là Khảm làm tủy, mà chẳng giao ấy vậy. Tốn làm xương mà chẳng giao, thời tất lấy Đại quá mà làm phổi. Chấn làm thận mà giao, thời tất lấy Di làm mắt vậy.


Giao ấy sở dĩ làm cách dùng, ấy cho nên tạng 4 đầu 4, Trời ở 4 quẻ chủ đấy, chẳng giao sở dĩ làm thể, ấy cho nên phủ 4 thân 4, Đất ở 4 quẻ chủ đấy. Hợp thời trời 4 đất 4, ở giao cùng chẳng giao mà 16 tượng đủ vậy. Cho nên ở trời đất đều 4, tượng của nó có 8, mà trong ngoài đều 8 tượng thời 16 tượng vậy. Người vốn hợp trời đất mà sinh, như cha mẹ hợp mà sinh con, cho nên người có 16 tượng vậy.


Tim ở phổi, mật ở gan, tim mật làm tính, tất về ở trời, gan phổi làm thể, tất về ở đất. Thể ấy tính chứng ở nhà, tính ấy thể ở chủ, chủ ở nhà, tính dấu ở thể. Cho nên thể thời đất mà như đá, tính thời trời mà như lửa. Ở đấy, ấy trong đất có trời, trong đá có lửa, là lấy tim mât ở phổi gan, tượng ấy đấy vậy, thời tim mật bèn rũ lộn xuống dưới phổi gan. Nên xem ở cỏ cây vốn tượng đất, mà sinh thể đều đất, gốc sinh mà hướng lên trên, đó là phản sinh, gốc đất của nó bèn mà sinh, nhưng vẫn rủ xuóng dưới mà hướng xuống đất, bảo rằng vốn đất của nó gần dưới ấy vậy. Người cũng loại ấy, tim mật rủ ngược, tính về trời mà vốn vẫn chẳng lìa ở đất ấy sao ? Ôi, người chân đạp đất, đầu đội trời, mà vốn đất gần dưới, tim mật có thể thấy vậy.


Mồm mắt ngang mà mũi tai dọc, sao vậy ? Thể hẳn giao vậy, nên khi động thì dọc mà phản ngang, ví như giồng trồng cây, nên ngang mà phản dọc, đều do cách gieo vậy.


Mồm mắt thể ở động, mũi tai thể ở tĩnh. Động tượng, động vật, nên dọc mà phản lại ngang, tính tượng thực vật, nên ngang mà phản lại dọc. Vì vốn trời mà được như thế, thể giao ở đất, vốn đất mà tĩnh, thể giao ở trời chẳng giao chẳng sinh. Vậy, bẩm chựu trời đất ở sinh, đều theo loại lấy gieo mà thành thể vậy.


Trời có 4 mùa, đất có 4 phương, người có 4 chi. Tất cả đều 4, bèn 4 mà 3 đấy thì 3 tháng, phương 3 loài, chi 3 tiết (đốt). Cho nên tức trỏ đốt ở 3 phân tích có thể lấy xem trời 4 của 3 làm 12 là 1 vòng vậy, tức lại cái vết bàn tay ở 4 phân tích, có thể lấy xét đấy, 4 của 2 đấy thời 8 mà sánh 4 phương, 4 mà 3 đấy thời 12 mà sinh 12 chân vậy. Lý trời đất đủ trong bàn tay. Tượng trong bàn tay hợp ở trên đồ như trỏ bàn tay vậy. Vài lời nói bèn đủ cùng sửa trị.


Động ấy thể ngang, thực (thực vật) ấy thể dọc, người nên ngang mà phản lại dọc vậy (người khi tĩnh thì ngang, mà khi động thì dọc). Bay ấy có cánh, chạy ấy có chân, hai chân là chỉ (chân ngón chân) (hai tay người là hai cánh vậy, hai chân là chỉ 2 là ngón chân là chân). Bay ấy ăn cây, chạy ấy ăn cỏ, người đều gồm đấy mà lại ăn bay chạy vậy, cho nên rất quý hơn muôn vật vậy. Gốc thân tóm ở tim, khí tóm ở thận, hình tóm ở đầu, hình khí giao mà thần giao ở trong đạo 3 tài vậy.


Động vật bay chạy, thể giao mà ngang, thực vật cỏ cây, thể giao mà dọc. Người gửi ở loài động, nên theo cái ngang của nó, mà phản lại làm dọc, gồm hai thể 1 thân vậy, cho nên người ấy, âm dương cương nhu ở hợp vậy, khác ở các vật. Vật bay cần cánh, vật chạy cần chân, người thời tuy 2 động cũng như 2 cánh bay, 2 chân đi cũng như 2 chân chạy vậy. Bay ấy cái ăn của nó duy cây, chạy ấy cái ăn của nó duy cỏ, người ăn cả 2 lại gồm bay chạy, cho nên quý hơn vật. Song quý nhân vật, chẳng quý đuổi theo vật ấy, đuổi theo vật thời xuẩn mà hèn vậy. Người có hình, khí có thần, thần thời tim tóm đấy, khí thời thận tóm đấy, hình thời đầu tóm đấy, hình với khí giao hợp, mà thần cũng giao ở trong thần khí, thời thần làm ở sinh, thâu tóm cả trên dưới. Ôi, đầu trên thận dưới mà tim ở giữa, trời trên đất dưới mà người ở giữa, đó là 1 thân mà tượng trọn vẹn, đạo ba tài vậy.


Bốn chi của người đều có mạch vậy, 1 mạch 3 bộ, 1 bộ 3 hậu, để ứng số trời vậy. Chi người có 4, cùng loại với trời 4 mùa, cùng loại với đất 4 phương, mà đều có mạch. 1 mạch chia 3 bộ trên giữa dưới. Ở mỗi bộ lại chia 3 hậu, tay chân đều 3 âm 3 dương, cộng làm 12 kinh lạc, 3 của 12 hợp số thẻ Càn để ứng với số trời, cho nên xem đồ số có thể thông ở sách thuốc.


Tim cất dấu thần, thận cất dấu tinh, tỳ cất dấu hồn, mật cất dấu phách, vị chựu vật mà hóa, truyền khí ở phổi, truyền huyết ở gan, truyền nước gạo ở ruột, bàng quang vậy. Thần của Trời đậu ở mặt Trời, thần của Người phát ra ở mắt, ngủ thời đậu ở tim, thức thời đậu ở thận, tượng trời sở dĩ như vậy do bởi đạo ngày và đêm vậy.


Thần ấy làm chủ tướng người, thứ đến ở Tỳ, Ngũ kỷ ở Thận, hậu của nó ở Gan, chính ngủ ở Tim. Ở Trời ngủ lớn ở mùa Hạ, thần của người còn ở Tim, khí hình thình thời hồn phách thịnh, khí hình suy thời hồn phách cũng theo mà suy. Hồn theo khí mà biến, phách theo hình mà sinh, cho nên hình còn ở thời phách còn, hình hóa thời phách tan. Tạng ấy Trời đi vậy, Phủ ấy Đất đi vậy. Trời Đất đều đi thời số sách làm 8 quẻ. Nước ở thận người làm tuyết, lửa ở thân người làm thịt, đởm với thận cùng âm, tâm với tỳ cùng dương, tâm chủ mắt, tỳ chủ mũi. Khí mũi mắt thấy đấy, lời nói ở mồm tai nghe đấy, lấy theo loại mà ứng vậy. Sách Tố vấn: phổi chủ da lông mao, tâm tỳ chủ mạch thịt, gan gân thận xương, trên mà dưới, ngoài mà trong vậy.


Giao tức là dùng vậy.


Tạng ấy tức là tàng (dấu) vậy, tâm thận tỳ can dấu ở thần với tinh, hồn với phách vậy. Thần chủ ở mắt, sinh ở tâm, cho nên tâm dấu thần, tượng Thái dương, tinh lấy ở mồm, mồm sinh ở thận, cho nên thận dấu tinh, tượng Thái âm. Hồn thông ở mũi, mũi sinh ở tỳ, cho nên tỳ dấu hồn, tượng Thiếu dương. Phách phụ ở tai, tai sinh ở đởm, cho nên đởm dấu phách, tượng Thiếu âm. Đó, 4 tạng ấy ứng Trời ở 4 tượng, dấu Đất ở 4 thể, mà làm chủ người ở 4 Kinh. Duy danh giới vị trên dưới ở giữa, làm truyền đạo đón đưa ở phủ truyền khí ở phổi, truyền huyết ở gan, truyền thức ăn ở ruột non bàng quang, như ở Đất tiếp Trời đó vậy.


Lấy thần nói đấy, thần của Trời đậu ở mặt Trời, mặt Trời mọc thời thần chiếu sáng 4 bề, mặt Trời lặn thời thần kép mà chiều. Thần người phát ở mắt, thần ở thức và ngủ, như mặt Trời ở mọc lặn. Thần đậu ở tâm biết soi lý vật, khi ngủ thần đậu ở thận, giữ hợp nguyên mệnh. Người và Trời cùng tượng 1 thức 1 ngủ ở cách chia, 1 ngày 1 đêm ở đạo vậy, ấy cái mà làm dương tôn thần mà sao ! Cho nên, hình khí của người lấy thần làm chủ khi thức, còn khi ngủ thì ở thận, thời ở ngủ kỹ mà hầu khi ngủ còn ở tỳ, đương đậu của nó ở thận, như mặt Trời ở chính Tý, trở lại mà Tý (tỳ), cái mà chính tây sao. Ở tâm cái chính của Thần là hầu thức, còn ở gan cái của nó đương đậu ở tâm, như mặt Trời ở chính Ngọ ra, mà gan của nó chính Mão sao ! Gan mật làm đởm, gan mật cung phụ cùng đậu, có thể vậy. Mùa Hạ, Trời ở thức lớn vậy, thần người cùng mặt Trời đều chính soi đương Ngọ thời còn ở tâm, cũng nhà Trời ở mùa Hạ vậy. Hồn phách người thịnh suy coi ở khí và hình, hầu ở biến theo khí, khí thịnh thì hồn thịnh, khí suy thì hồn theo đó mà suy. Phách ở sinh theo hình, hình thịnh thì phách thịnh, hình suy thì phách cũng theo mà suy, cho nên phách phụ thuộc vào hình, cùng còn hay cùng tan theo hình đó sao ! Phách theo ở hình cùng hóa mà thôi. Nghĩa tế bảo rằng: hồn ấy thần ở thịnh vậy, phách ấy quỷ ở thịnh vậy, ý đồng ấy tạng (tim, gan, tỳ, phổi, thận) lấy dẫn dương sánh giao ở Trời đi. Tâm tỳ thận đởm, Càn Đoài Ly Chấn, 4 quẻ chủ đấy. Phủ lấy cương nhu giao phối ở Đất đi, phế vị can bàng quang, Khôn Cấn Khảm Tốn, 4 quẻ chủ đấy, như Trời ở âm dương cùng Đất ở cương nhu, đắp đổi nhau sánh giao ở Trời Đất đều đi, bèn ứng 8 quẻ, Khôn làm nước thời ở thân người làm huyết, Cấn làm Hỏa thời ở thân người làm thịt, lấy lệ suy đấy: Tốn là đá xương, Khảm là thổ tủy, lại đáng biết vậy. Đởm cùng thêm Ly cùng Chấn, Thiếu dương Thiếu âm vậy. Ngôi dưới 4 quẻ đồng thời làm âm, tâm cùng tỳ, Càn cùng Đoài vậy, Thái dương Thái âm vậy. Ngôi trên 4 quẻ đồng thờilàm dương, tâm chủ mắt, tỳ chủ mũi, lệ đấy, thì đởm chủ tai, thận chủ mồm vậy. Đến khí ra ở mũi, mắt bàn thấy đấy, tỳ theo tâm, dương theo ở loại. Nói ra ở mồm, tai bèn nghe đấy, đởm theo thận, âm theo ở loài, lấy loài mà theo vậy. Tố vấn nói: phổi chủ da lông mao, tâm cùng tỳ chủ mạch cùng thịt, gan chủ gân, thận chủ xương, phổi trên thứ đến tim đấy, thận dưới thứ đến gan đấy. Ấy trên mà dưới, rằng da lông mao mạch ngoài thứ đấy, xương ở trong gân thứ đấy. Ấy ngoài mà trong, rằng trên cùng thứ trên, ở dương ở bộ mà tóm ở ngoài cái mà làm chủ nó, thời da lông mao mạch thịt, dưới cùng thứ dưới, ở âm ở bộ mà tóm ở trong, cai mà làm chủ nó, thời gân cùng xương vậy. Bèn tâm chủ huyết, dương chế ngự âm, thận chủ xương, âm giúp dương, lại cái giao của nó cùng làm chủ vậy.
Được cảm ơn bởi: NGUYENCUONG
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Giao thì lấy làm dùng, chẳng giao thì lấy làm Thể.
Trời đất đều đi mà tạng phủ sánh, 4 tạng trời vậy, 4 phủ đất vậy. Trời ở âm dương, Đất ở cương nhu, gồm đi mà giao dùng, thời phủ tạng đều sánh vậy. Trời giao ở Đất, dương cùng cương gồm đều đi, thì tim cùng phổi sánh giao. Đất giao ở Trời, , như cùng âm đều đi, thận cùng bàng quang sánh giao, cương cùng dương đều đi thì tỳ cùng vị sánh giao, bên ngoài thân lấy 4 mà sánh giao, ấy lấy 8 tượng đủ vậy.
Mắt mồm lồi mà ra, tai mũi có lỗ lõm mà vào, khiếu ấy dùng để tiếng, để ngửi khí. Lời ấy coi sắc khác biệt mùi. Vật thời hay đóng đấy, 4 cái ấy, dẫu tượng ở 1, mà đầy đủ thực ở 4. Lồi (đột) mà ra, lõm (khiếu) mà vào, tai lấy chựu tiếng, mũi lấy ngửi khí, khiếu (lỗ) ấy vào vậy. Mắt lấy xem sắc, mồm lấy phân biệt mùi vị, đột (lồi) ấy ra vậy. 2 lỗ 2 lồi, 1 tượng mà thực đủ 4, 1 mà 4 đủ vật ngoài hoặc hay đóng đấy, mà vốn tượng thì đôi ngậm đấy, thời bảo rằng, người có 16 tượng ấy, đủ của nó vậy.
Muôn vật đều có thái cực, tượng hình đôi, 4 tượng 8 quẻ ở thứ, cũng ví như: có xưa nay ở tượng. Tượng có hình thì có thể. Thể ấy, chia tách ở hình mà thôi. Có tính thì có tình, tình ấy chia tách ở tính mà thôi. Lửa lấy tính làm chủ, thể thứ đấy. Nước lấy thể làm chủ, tính thứ đấy. Quẻ đều có tính có thể, song đều chẳng lìa cửa Càn Khôn, như muôn vật chựu tính ở Trời, mà đều làm tính của nó vậy. Ở người thời làm tính người, ở cầm thú thời làm tính cầm thú, cỏ cây thời làm tính cỏ cây. (đặc tính)
Bàn thông muôn vật làm sinh làm thành, muôn loài đều sinh ở nhất nguyên, ở Thái cực. Chia âm dương ở 2 hình tượng, giao mà thành Thái Thiếu ở 4 tượng, diễn mà thành trinh (chính đính), hối (hối hận) ở 8 quẻ, mà thứ bậc ở 1 sinh 2, ở 2 sinh 4, ở 4 gấp mà thành 8. Đương sinh mà thành thì làm “nay”, đã thành mà nát thì làm “xưa”. “Nay – Xưa” thay đổi chuyển vần, sinh thành thứ tự, vật đều có đấy. Cho nên, tách ở hình mà làm Thể, có hình ở 2 thì có Thể ở 4. Chia ở tính mà làm tình, có tính ở 2 thì có tình ở 4, đây là mối lớn của nó vậy. Cấn làm lửa, lửa thì chủ ở tính mà thể làm thứ. Khôn làm nước, nước thì sinh ở thổ (thổ chứa nước ở trong lòng), mà tính làm thứ.
64 quẻ nguyên hanh lợi trinh, lệch hay toàn đều đủ ở 1 tính âm dương, cương nhu, già trẻ, đều thành 1 thể. Tính và Thể đều ra ở Càn Khôn. Khôn bẩm Cấn ở dương mà âm cũng phù vào dương ở bởi cái thành của nó, bẩm nhu ở Khôn mà cương cũng ngụ ở nhu, ở thể tự lập của nó, ấy làm mà chẳng lìa cửa Càn Khôn. Song, Tính nhờ ở Thể mà Càn thâu tóm ở Khôn. Lấy tới Tính mà bàn muôn vật tính mà đều chựu ở Trời, chẳng phải chẳng động Càn 1 mà ra mà vào cùng chựu muôn cỏ cây, thời đều làm tính của nó vậy. Ôi, Càn mở Khôn đóng, Chấn ra Tốn đều đồng bẩm, mà lối lệch toàn chựu theo chia thiêng liêng mà ngu xuẩn. Cửa Càn Khôn lớn vậy.
Phát ra ở tính thì hiện ra, bộc lộ ra ở tình, phát ra ở tình thì hiện ra ở sắc. Lấy theo loại mà ứng đó vậy.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Tính, tình, hình, thể phát ra, sánh với Càn Đoài Ly Chấn. Thanh, sắc, hơi, mùi của nó cũng đều theo loại mà chia, thuộc ở Khôn Cấn Khảm Tốn mà phát hiện ở đôi. Nghĩa chủ ở chia mà liền phát ra, bộc lộ ra, gốc tính ở trong là cái mà thấy động ở ngoài rõ rệt, nhỏ mà thấy rõ, (chia cắt lát càng nhỏ thì càng rõ, càng chính xác tin cậy), cho nên tính phát ra thì thấy hình hiện sắc, tính ở tình gốc ở Càn, từ bên trong phát ra ấy, sắc được giao ở Khôn Càn, theo bên ngoài cái mà thấy lấy hình, thể, mùi, hơi cũng đều lấy theo loại để ứng, cho nên phát ra bởi dương, ứng với cái thấy bởi âm, phát vậy - gốc ở âm mà dương động, thấy vậy - ứng ở dương mà âm rõ rệt. Chẳng phải ở dương phát ra mà âm không theo thấy vậy. Hoặc bảo rằng thấy sắc tính tình ở suốt ở hình thể vậy. Loại cũng ứng theo nhau.
Nước gặp rét thời hết, nước gặp lửa thì cũng hết, theo cái thấy của nó vậy.
Càn nóng Đoài rét, Khôn nước Cấn lửa. Rét vì ở trời âm, lửa vì ở đất cương. Nước ở đất làm nhu giao với trời âm, thì rét kết mà khí của nó chẳng bị giệt. Như lấy đất nhu ở nước, gặp đất cương ở lửa, thì cùng loại mà lại sợ nhau, thắng thì thể sẽ hết. Cho nên, lửa gặp nước thì sẽ tắt, nước cũng gặp lửa mà ra uy ra oai, theo ở cái sở thắng của nó vậy. Duy có rét kết mà thành băng, gặp lửa sáng rực làm tiêu tan, như vậy lửa vẫn thù nước, chưa thường làm công chẳng lớn vậy.
Lửa ở trời là lửa không có thể vậy. Lửa ở đất là lửa có thể vậy. Lửa không có thể nhân theo vật để làm cái thể. Lửa ở vàng đá nóng hơn lửa ở cỏ cấy, nhân theo vật mà nó đương nhiên như thế.
Càn là mặt Trời là lửa, như vậy lửa của mặt Trời cũng là “lửa không có thể”. Cấn làm lửa ở đất, lửa của đất là “lửa có thể”. Lửa “lửa không có thể” của mặt Trời, nhân theo vật để lấy làm thể cho mình, vàng đá cỏ cây đều là vật vậy, mà đều được tính lửa của mặt Trời, lấy thành thể của nó. Lấy “lửa không có thể” ấy hợp với thể ở “lửa có thể”, mà lửa có thể ấy, lấy cái thể của mình, để chia với lửa không có thể. Chẳng phải lửa có thể ấy lấy để chia, mà bởi nhân theo vật đã biết thể lửa vàng đá bởi nóng hơn lửa cỏ cây, lấy làm căn cứ để phân chia theo lửa có thể của nó vậy. Việt Châu chú: loại Dương lấy lửa trong mặt trời, nhân theo vật mà làm, mà phát huy tác dụng, theo đấy cũng lấy Cấn tiếp Càn như thế mà làm, xem vậy.
Có suối nước ấm nóng mà không có lửa lạnh, âm hay theo dương mà dương chẳng hay theo âm vậy.
Lửa sinh ở thấp ẩm, nước sinh ở khô ráo.
Nước chảy hướng tới nơi thấp ẩm, lửa hướng tới nơi khô ráo, vật theo loài của nó, cố nhiên mà suy, thì cái cùng cực của nó phản lại cái sinh ra nó ở lý lẽ mà thôi, thời lửa sinh phản lại ẩm thấp, nước sinh phản lại khô ráo. Cho nên, mặt Trời đến mùa Hạ, đất vôi đương nặng ẩm thấp sinh ở nóng vậy, mặt Trời đến mùa Đông, mà đất vôi thường nhẹ khô sinh ở rét vậy.
Dương được âm mà làm mưa, âm được dương mà làm gió, cương được nhu mà làm mây, nhu được cương mà làm sấm. Không có âm thì không hay có mưa, không có dương thì không hay có sấm. Mưa là nhu vậy thuộc âm, âm chẳng tự hay độc lập nên đợi dương mà sau mới dấy lên, sấm là cương vậy thuộc thể, thể chẳng hay tự dùng, ắt phải đợi dương mà sau mới phát ra. Mây đến với nước, lửa, đất, đá, mỗi loại có khác nhau, loại khác cũng như vậy.
Mưa gió mây sấm đều 4 loài tượng ứng, mà mưa là dương được âm, gió thì âm trước dương, mây là cương thắng được nhu, sấm là nhu thắng được cương. Dương thái quá không có âm, thì chẳng hay làm mưa, âm nặng thái quá không dương thì chẳng hay làm sấm (chẳng sinh nổi sấm). Song, mưa thuộc nhu Khôn âm, tất đợi Càn dương, tới hợp mà mưa bèn ứng. Đó, âm chẳng tự độc lập mà đợi đương thì gió mới nổi lên, đáng biết vậy. Sấm Tốn cương thuộc thể Chấn, tất đợi Chấn dương động mà sấm bèn phát lên, chia lấy Sấm đương Tốn cương làm thể mà chẳng giao ở Chấn, thời cũng chẳng hay tự cùng. Tóm đấy quẻ Trời làm dương, âm chẳng phải dương chẳng hay động vậy. Đến như ở mây đều theo loại, đất đều có nước lửa đất đá ở khác. Nước mây đen, lửa mây đỏ, đất mây vàng, đá mây trắng, lấy sắc mà tỏ rõ vậy. Khác như nước mưa dầm, lửa mưa sương, đất mưa bùn lầy, đá mưa đá, đây là lấy theo chất để chia vậy. Nước gió mát, lửa gió nóng, đất gió hòa, đá gió rữ, đây là lấy theo khí để phân biệt vậy. Nước sấm mây, lửa sấm sợ hãi, đất sấm liền, đá sấm sét, lấy theo tiếng bàn vậy. Sương phụ vào mưa, đáng 2 đáng 1, ấy đều đủ 4 tượng mà ứng chẳng đồng vậy.
Sáng thời có mặt Trời, Trăng tối thời có quỷ thần. Trăng ấy là bóng mặt Trời, tình ấy là bóng của tính vậy. Tâm tính mà đởm tình, tính thần mà tình quỷ. Đèn ở sáng tối ở cõi, nhật nguyệt ở tượng vậy. Tinh (sao) ở rất nhỏ như cát bụi vậy, rơi xuống mà làm gò đấy.
Nhật nguyệt hợp nhau ở sáng, nhật dương mà nguyệt âm. Quỷ thần đồng u (tối) quỷ âm mà thần dương. Nguyệt sáng tỏ phụ thuộc ở theo Nhật, Nguyệt như bóng của Nhật vậy. Tình ở hiện ra do bởi tính, tình như bóng ở tính vậy. Bóng giống hình, nguyệt giống nhật, tình giống tính, thể tâm rỗng thông mà ngậm tính, đởm đậu khí huyết mà sinh tình, tính dương mà làm thần, tình âm mà làm quỷ. Lửa đất làm đền của nó ở cõi có sáng tối (mờ). Sáng tượng Nhật chiếu, mà tượng Nguyệt có Huyền (cung) hối (ngày 30). Tinh (sao) thuộc Ly của nó nhỏ như cát bụi, lấp lánh trắng nhỏ mà thôi, cao mà đẹp ở Trời cho nên thấy nhỏ, rơi xuống thời thành hình gò đấy, dưới mà phụ vào đất bèn thấy của nó to vậy. Vậy thời ở đất không thể thành hình, ở trời thì tinh thuộc Ly tượng to nhỏ có thể biết như thế xem vậy.
Có sấm thì có chớp, có chớp thì có gió. Mưa sinh ở nước, sương sinh ở đất, sấm sinh ở đá, sét sinh ở lửa. Chớp với gió cùng làm cực dương, cho nên có chớp ắt có gió, mây đi mưa rơi chớp phát sấm vậy, cũng đều theo loại của nó vậy. Thổi, phun, hà hơi, thở hơi, gió, mưa, sấm, mây mù, nói cùng loài vậy. Cây ở rắn, chẳng phải sấm chẳng hay chấn động. Cỏ ở mềm, chẳng phải sương chẳng hay thấm nhuần, cấy ấy là con ở sao, lấy quẻ thực tượng vậy.
Sấm chớp gió theo thời đều có, vì mưa sinh ở nước thuộc Khôn, sương sinh ở đất thuộc Khảm, sấm sinh ở đá thuộc Tốn, sét sinh ở lửa thuộc Cấn. Sấm với gió đều thuộc Cấn lửa, ở ngôi cương to lớn dương cùng cực. Cho nên, chớp theo sấm mà gió tức theo chớp, có thời đều có vậy, mây đi thời mưa xuống, chớp phát ra thời sấm vậy, đều lấy theo loại mà có ấy vậy. Thổi mà gió, phun mà mưa, thở mà mây, hơi thở mà sương mù, hò mà sấm, trời và người đều 1 khí, thành tượng cùng loại như thế. Sấm dậy cây rắn bền, sương nhuần cỏ mềm. Tốn sấm của nó lấy hợp cây, Khảm đất của nó lấy hợp cỏ. Song ở cây khí bẩm ở đá, mà đá theo tượng thì sánh ở sao, cho nên nói cây ấy là sao ở con, bảo rằng quẻ của nó thực lìa Ly, tuy vậy tượng là sao nhiều vậy.
Loài cỏ nhỏ vào ở Khôn, lá là âm hoa quả là dương, cành lá mềm mà gốc thân bền vậy. Rất nhỏ như loài cỏ không lấy tới cùng số của nó. Khôn dương số cùng cực vậy, cho nên lấy vào ở khí chia âm dương. Cây thì lá là âm mà hoa quả là dương. Chất chia cương nhu, cành lá ở cây nhu nhuyễn, mà gốc thân cứng rắn vậy.
Người xương lớn mà thể nhiều, cây thân lớn mà cành lá nhiều, ứng số trời đất vậy. Cây kết quẻ mà làm hạt giống, lại trên cây ấy mà kết quả, vốn chẳng phải cây cũ vậy, cây ấy thần ở chẳng 2, đó thực là cái lẽ sinh sinh vậy. Xương người như thân cây, thể như cành lá vậy, xương thân cây đều lớn, cành và lá đều nhiều, đều ứng số trời đất. Trời dương tóm 1 mà lớn, đất âm chia 1 mà nhiều. Nhỏ vậy lỗ sinh mà lại sinh, bởi ở thần chỉ 1 chẳng 2, vậy nên cây kết quả mà rời giống đấy, đều thành cây ấy mà quả kết vẫn như vậy. Cũ ấy là cho đi hình khí, mới ấy là còn hình khí, con giống hình khí cha càng đều hun đúc hóa thuần hậu không chẳng phải đến 1, tức là cây mà sinh sinh chẳng hai, thần của nó lý của nó thấy vậy. Thần ấy khí dương tóm nhờ ở vật vậy.
Vật ở trong cõi đất liền, ở trong nước ấy tất đủ như hình tượng vậy. Đất liền nhiều chạy, nước nhiều bay ấy, gieo vậy. Cho nên, lớn ở đất lửa ấy tất nhỏ ở nước, lớn ở nước tất nhỏ ở đất liền vậy.
Chia vật nước liền đất, đất liền là dương, nước là âm, hình thì theo dương, bóng thì theo âm. Cho nên, hình vật ở đất liền tất đủ ở trong nước, Âm ứng Dương như bóng ứng tượng vậy. Dương là cha ở Âm, đất liền thời nhiều chạy, âm gieo ở dương nước thời nhiều bay. Vật ở nước đất liền đều có cái lớn của nó đắp đổi mà thấy nhỏ. Âm dương phản lại loài, cũng là cái lý thay nhau ở ra mà khó cùng ấy vậy.
Lấy lông mao hổ báo như cỏ, lông vũ loài chim cắt như cây vậy. Cành thân cây là cái thành của đất đá vậy. Sở dĩ chẳng đổi lá hoa nước lửa ở cái thành của nó, cho nên biến mà đổi vậy. Cá ấy là họ ở dưới nước vậy, do mát mà rét. Sâu bọ ấy là họ của gió vậy, do ấm mà nóng, đều ứng khí trời đất sinh, lấy theo tụ hợp vậy. Cỏ núp đấy, lông thú như mầm cỏ, chim đậu ở rừng, lông như lá rừng, khiến loài như thế vậy, theo loài họp mà cảm thế vậy.
Cây ở dưới nước như loài san hô, hoa ở đá như diêm tiêu ấy vậy. Vật dưới nước không khác vật trên đất liền, đều mang tính rét nóng. đại khái thì đất liền làm âm trong dương, mà nước thì làm dương trong âm. Vật ở nước hay đất liền không khác, theo rét nóng mà tính chẳng đồng.
Ngựa trâu đều là loài âm, chia nhỏ ra, thì ngựa làm dương, trâu làm âm trong âm, nên ngựa chủ Càn, trâu chủ ở Khôn.
Loài bay mừng có gió mà nhanh ở trên, loài chạy mừng ở đất mà lợi ở dưới. Loài tằm năm nay là con ngài mà sinh con, đến năm sau con của nó lại sinh sinh ra tằm. Rau cải là loài cỏ, ở năm nay thì gốc mạ lớn, đến sang năm thời mạ mà hết con. Chỗ tạo hóa tỏ rõ cất dấu cách dùng, muôn loài vật lớn nhỏ đều vậy.
Ở nước ấy chẳng nhắm mắt, ở gió ấy thời nhắm mắt. Loài chạy lông my trên dưới liền lông my trên dưới, loài bay lông my dưới tiếp lông my trên, là do lửa thì nóng trên nên my dưới tiếp my trên vậy. Loài sai khiến thế vậy. Đó cũng là cách vật cùng lý ở từ cái nhỏ vậy.
Loại gió loại nước, lớn nhỏ phản nhau.
Gió nước các loài, động vật thực vật đều ở vật, cái lớn nhỏ của nó đều phản nhau. Gió ví như chim sâu bọ ở thể nhỏ, nước ví như thuồng luồng ở thể lớn, động ấy có thể như san hô trong nước quý nặng, mà chẳng lớn như cây thông xứ. Cây thông xứ cũng trong gió thường trồng, mà lại chẳng nhỏ bằng san hô, thời trong thấy từ giống nảy mầm mà to nhỏ phản nhau cùng theo hình to nhỏ, cái phản nhau của nó cốt yếu là phân loại thế vậy.
Ở nước mà có vẩy, loài bay vậy, loài rùa, dái cá ở loài chạy vậy.Thuồng luồng ở nước có họ với loài có vẩy vậy, bèn hay bay, rùa cũng loài vật nước bèn hay chạy. phàm làm vẩy lông mao, loài ở nước cũng có phân chia vậy. Bay ở chạy là loài gà le ấy vậy, chạy ở bay, long mã thuộc ở loài ấy vậy. Gà bay ở chạy, long mã chạy ở bay, loài của nó đều chửng 1.
Họ nước lấy âm làm sinh (hoặc lầm chữ: chủ), thì dương làm thứ. Loài trên đất liền, lấy dương làm sinh (hay lấy dương làm chủ), thì âm làm thứ. Cho nên, loài nước ra khỏi nước thời chết, loài gió mà vào nước thời chết, cũng có loại ra vào ở cả dưới nước và ở trên đất liền như loài rùa, ba ba, le le ấy vậy.
Họ loài dưới nước chủ âm, dương bèn làm thứ. Họ trên đất liền chủ dương, thì âm bèn làm thứ. Nên loài dưới nước sinh ra không có nước thời chẳng sống. Đất liền sinh loài gió mà vào nước cũng chẳng sống. Cũng có loài ra khỏi nước mà sống ví như rùa, ba ba, có loài vào nước mà sống như ngan, le le. Đại khái là tượng dương trong âm, âm trong dương, đều lấy theo loại để tỏ rõ như thế.
Rồng hay lớn hay nhỏ, song cũng có thể chế, chựu chế từ khí âm dương, được thì thời hay biến hóa, biến biến thì lại chẳng hay vậy. Rồng làm thần cho muôn vật, cái thể của nó hay biến hóa, hoá ở dương mà biến ở âm thì hay lớn, biến ở dương mà hóa ở âm thì hay nhỏ. Lớn mà bay, nhỏ mà núp, ai hay chế tác đấy ! Song cũng chựu chế ở khí âm dương, vì chựu khí dương, thì lên đấy mà lớn bay. Còn khi chựu ở khí âm, thì xuống đấy mà nhỏ núp vậy. Đấy đều được thời mà hay biến hóa, mà cái biến của nó ở âm dương làm, chẳng trọn ở hay biến, thời 1 nguyên ở Càn tóm đấy vậy.
Mặt Trời làm tim, Trăng làm đởm, Đoài làm tỳ, thần (vì sao) làm thận, là tạng vậy. Đá làm phổi, đất làm gan, lửa làm vị, nước làm bàng quang, là phủ vậy.
Tâm đởm tỳ thận chia thuộc nhật nguyệt tinh thần, rằng đều ở tạng dương. Phổi gan dạ dày bàng quang chia thuộc đá đất lửa nước, rằng đều ở phủ âm. Nhưng trước có Đoài làm tỳ, Ly làm đởm ở thuyết, hoặc 2 chữ khắc nhầm, hay là nguyệt tinh theo nhau, mà có thể thuộc về đắp đổi vậy, loại ở gần lấy ở thân mình theo loài vậy.
Mặt Trời vào trong Đất là gây tinh tượng vậy. Mặt Trời, Trời dương vào ở trong Đất là dương giao với âm, có trai gái gây tinh tượng, thuật chẳng phải dùng tình dục cảm nhau mà thế.
Nước thủy triều ở biển ấy là Đất thở hút vậy. Thở ra hút vào này lấy ứng với Trăng, đấy là theo loại của nó vậy. Khí bởi mồm ra vào thời thở, từ mũi ra vào thời hút. Nước thủy triều ở biển, khí ở đất đi ra vào ở thủy thổ, cùng với người thở hút đồng nhau, tức bảo đất có thở hút, đúng vậy. Sở dĩ ứng tháng ở hối, sóc, huyền, vọng mà tiêu trưởng, thời lấy đất ở thái nhu theo trời ở thái âm loại vậy. Cho nên Trăng sáng ở Mão Dậu, nước thủy triều ứng Đông Tây, Trăng sáng ở Tý Ngọ, nước thủy triều ứng ở Nam Bắc.
Mùa Xuân dương được quyền cho nên nhiều hạn hán, mùa Thu âm được quyền cho nên nhiều mưa. Làm mưa làm hạn, thì xem ở âm dương được quyền mà thôi, Dương được quyền làm hạn, Âm được quyền làm mưa, chẳng có hết vậy, hoặc cái biến của nó sao ?
Thân đất vậy gốc ở tình, sở dĩ hay động là vì khí huyết sai khiến như thế. Thân người vốn tính như đất, khí ở dương huyết ở âm vận động, mà khiến cho tính ấy động vậy.
Lấy vật xem vật là tính vậy, lấy ta xem vật là tình vậy. Tính công mà minh, tình lệch mà tối. Người được khí trung hòa thời cứng mềm đều. Dương nhiều thì lệch. Trí người mạnh thì trí vật yếu.
Hoàng cực lấy xem vật vậy, tức là vốn vật ở lý. Xem ở cái gốc của vật, thì cái xem này, chẳng phải ở ta, nên vật ở tính vậy. Nếu bởi ý ta xem ở vật, thời cái xem này, chẳng phải là vật nữa, ta ở tình vậy. Tính bèn công, công bèn minh, tình bèn lệch, lệch đến mờ. Ôi, ở người bẩm có cương nhu mà đều thì được khí trung hòa, âm dương không thiên lệch. Âm dương chẳng đều, thời hoặc dương nhiều hoặc âm nhiều, cương nhu mới lệch mà chẳng ở giữa, lúc này mà lấy xem vật, sẽ trái vật ở chính, tới chính ta ở lệch, chẳng những thấy trí thấy nhân, chẳng đường lối mà mặc lệch khoe sáng, sợ còn nhiều phản lại vị trí người mạnh ra ở giữa trời công minh. Ra ở lệch, thì tự lấy mà làm sáng, mà hại cho tính ở vật. Vật trí yếu vốn không dùng trí mạnh, có thể vậy.
Người được quý là bởi muôn loài tự thân tự trọng, mà được ở cái quý của muôn loài, sở dĩ như vậy do bởi hay dùng ở muôn loài. Người được quý sẽ bẩm ở cái thể của nó, hay tự trọng mà chẳng đuổi theo vật, được bản nhiên ở thể quý mà sung đầy đương nhiên có cách dùng lớn, cho nên người lấy số của muôn vật, muôn loài làm việc quý ở cách dùng, người đủ tính ở muôn vật vậy.
Tính muôn vật đều đủ ở ta, lấy âm dương cương nhu chung loài hoàn toàn xem ở ta làm. Thần của người thời là thần của Trời Đất, người ở tự dõi, sỡ dĩ dõi theo trời đất, có thể chẳng răn vậy thay.
Người bẩm thụ Trời Đất mà sinh ra, thần của người là thần của Trời Đất do bởi tự ở trong mỗi người, cũng là ở trong Trời Đất. Tự dối tức là dối Trời Đất, cho nên đáng răn đấy.
Thần không có nơi ở, mà không nơi nào chẳng ở. Đến như người với thần lòng thông nhau, gốc của nó lấy theo ở 1 vậy. Đạo với 1, thần ở gọi tên mà gượng vậy, lấy thần làm thần, lời nói rất phải vậy.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Tự nhiên muôn vật kỳ diệu, thần vậy, thần không chuyên chú ở một chỗ nào, mà không chỗ nào chẳng ở. Đời xưa, ở người rất mực, tức lòng ta thông ở lòng người khác, vật khác. Lấy ta cùng người cùng vật đều gốc ở Trời Đất sinh lấy làm thần diệu, thông làm 1 loại. Cho nên, lấy 1 phương hướng, rằng Đạo với 1, tức đều là Thần. Không thể gọi tên mà gượng lấy cách dùng ở tên vậy, chẳng mượn ở tên gượng ép, tức là tâm không nơi ở, mà không nơi nào chẳng ở, thần thông rất mực, bảo rằng là thần, rằng cái mà lời nói của người rất mực sao ? Lời nói của thần ở Dịch rất mực vậy.
Phàm xét việc tới cùng cực, hầu 10 ở 7 thời đáng thôi vậy. Do bởi ngày Hạ chí chỉ ở 60, gồm đấy lấy sớm chiều mà chia, có thể tỏ rõ sắc vậy, ngõ hầu 10 ở 7 vậy.
Dịch nói: tri cơ thần của nó sao ! Cơ ấy là việc làm thấy ở mối mà ngõ hầu ở cùng cực của nó ấy vậy. Đại ước việc không đủ 10, hầu 7 thừa 3, thì đáng thôi vậy. Vì số Trời Đất chẳng thể quá 7, một ngày đêm 100 khắc, ngày Hạ chí ban ngày được 60, còn chưa đầy 7 phân. Nếu lấy sớm chiều đáng lấy làm tỏ rõ sắc, đều hai khắc rưỡi thêm đấy, cũng chỉ được 65, ngõ hầu 10 phân ở 7. Trời Đất còn chẳng quá cùng cực, huống hồ việc người làm, cái mà đáng chẳng biết thôi sao ! Cho nên biết cơ ấy là thần, biết cái thôi của nó mà chẳng gượng cầu cùng cực, thời ngõ hầu vậy.
Thanh âm sướng họa ở muôn vật, gốc thông số ở Âm Dương Nghi Tượng, theo ở Trời Đất biến ứng, mà đều suy rõ loài của nó, gần mà ở thân mình, xa mà ở vật, cúi ngửa trên trời dưới đất, lớn nhỏ ẩn rõ, không gì chẳng cất lên hết khái niệm (đại khái) của nó. Cốt yếu lớn tức ở chính âm, thôi đi ở 7, cho nên biết trời đất ở số dùng. Ôi, ở người sự cơ không gì chẳng lấy 10 ở 7 phân mà thôi, tức biết cơ là biết thần của nó, cũng chỉ biết đến thế mà nên thôi, ý lớn 1 thiêng đấy. Nếu lấy luật lã xướng họa thông số suy đấy, thanh (tiếng) trời 10 để lấy cán (thân) lệch xướng. Âm (tiếng) đất 12 đồ, lấy chi (cành) họa. Bắt đầu ở 1 vạn 7024, lấy đấy tự nhân lên, được 28981 vạn 6576, đó là động thực (trồng) thông số mà dùng đấy, thì lấy 256 quẻ ấy vậy. Bởi đấy mà thông ở người với vật, âm dương cương nhu, đều tự giao mà làm vật, đắp đổi giao nhau làm người, làm động vật được Trời chẳng gồm Đất. Thực vật được Đất chẳng gần Trời, đều lệch mà chẳng toàn. Người làm âm dương cương nhu ở hội khí, gồm Nhật Nguyệt Tinh Thần, chất gồm Thủy Hỏa Thổ Thạch, giao mà lại giao tượng, bèn 16 của nó giao, làm quý hơn vật vậy. Cho nên tiếng vật con Trĩ càng kêu trúng Dốc, chẳng trúng Thương, cổ Trâu kêu chẳng trúng Thương chẳng trúng Vũ, thời người cả 5 tiếng đều trúng, cho nên toàn vậy. Duy có giao ấy làm xướng họa, không gì chẳng tròn. Song, người có toàn ở Thể, mà cũng không toàn ở dụng. Vật chẳng quá 7 bậc, đến người mà thôi. Người chẳng quá 7 bậc, đến thánh mà thôi. Ngày chẳng quá 7 phân, đến mặt Trời lặn mà thôi. thanh chẳng quá 7 luật, đến chẳng đi mà thôi. Sự cơ 10 ở 7 mà thôi, gượng mà quá đấy, mất trung chính, là bệnh vậy. Thế cho nên Thông số nói: làm thời thông, chẳng thông thời chẳng làm. Dịch nói: loài lấy ở thông, 7 ngày ở Phục. Có thể nghĩ vậy.
Khuyết nghi - thiếu ngờ.
Càn 48, Đoài 30, Ly 24, Chấn 10, Khôn 12, Cấn 20, Khảm 36, Tốn 40.
Càn với Khôn, 48 cùng 12 cộng 60. Ly với Khảm, 24 cùng 36 cộng 64. Quẻ 4 chính ở hợp, mà số có đầy vơi hoặc nó phải thế vậy. Đoài với Cấn, 30 cùng 20 cộng 50. Chấn với Tốn, 10 cùng 50 cộng 50. Quẻ 4 duy ở giao mà số có đầy với hoặc nó phải như thế sao ! 5 và 6 ở giữa Trời Đất hợp ở chính là 50 đấy. 10 của 6, duy có 50 ngày là 10 của 5 vậy, ấy là đoán phỏng nên để khuyết nghi.
Đoài, Ly, Tốn nên nghĩ lại đấy.
1 sai khiến 12 lấy sinh 3, 3 boe 1 của nó thời 2 vậy. 3 trước9, 9 bỏ 1 của nó thời 8 vậy. 9 bỏ 3 của nó thời 6 vậy. Cho nên, 1 sai khiến 3, 3 lại sai khiến 2 vậy. 3 sai khiến 9, 9 lại sai khiến 8 với 6 vậy. Lấy 2 sinh 4, 8 sinh 16, 6 sinh 12 vậy. 3 gồm 1 thời là 4, 9 gồm 3 thời là 12, 12 gồm 4 thời là 16. Cho nên 4 lấy 1 làm gốc, 3 làm dùng. 12 lấy 3 làm gốc, 9 làm dùng. 16 lấy 4 làm gốc 12 làm dùng.
Dịch là sai khiến mà dùng ấy vậy. Tiến mà dùng mà làm trước đấy vậy. Chẳng dùng thời bỏ đấy. 1 dùng 2 bèn sinh 3. 3 chẳng dùng thời bỏ đấy. 1 dùng 2 bèn sinh 3, 3 chẳng dùng 1 bèn bỏ đấy vẫn làm 2. 9 thì lấy 3 làm trước, 3 của 3 làm 9, 9 bỏ 1 chẳng dùng là 8, 9 bỏ 3 chẳng dùng còn 6 vậy. Lấy Thể trời đất đều 4, bỏ ý dùng 3, thời lấy cái chẳng dùng là 1 ấy mà sai khiến 3 cái đương dùng ấy. Dùng ở 3 ở giữa, đều lấy không thay đổi 3 của nó sai khiến 2 đó sao. 1 năm 4 mùa, 3 mùa gồm 9 tháng, 3 của nó sai khiến 9 đó sao. Ở 9 tháng bỏ đương mùa chưa hết thời được 8 đó sao, cái mà lại lấy 9 sai khiến 8 cùng 6 đó sao ? Vả lại, 8 là số quẻ, 6 là số hào. Ở 3 mà sai khiến ở giữa quẻ thời 8, hào thời 6, bào rằng sai khiến 8 cùng 6, tin chẳng hư vậy. Lấy 3 sai khiến 2, 3 sinh làm 4 gồm 2 thái 2 thiếu. 9 sai khiến 8 cùng 6 vậy, 8 sinh 16 tức là 16 quẻ sinh ở việc rằng vậy. 6 sinh 12 tức Càn Khôn Khảm Ly 4 chính, gồm Di, Trung phu, Đại quá, Tiểu quá, lại gồm Đoài, Chấn, Thái, Ký tế đó vậy, gồm lại làm số chung, mà lần lượt sinh ấy vậy. Vậy thời, 3 với 1 gồm làm 4, 9 với 3 gồm làm 12, 12 với 4 gồm làm 16. Cho nên 4 lấy chẳng dùng ở 1 làm gốc, mà dùng đấy ở 3. 12 lấy 4 bỏ 1 ở 3 làm gốc mà dùng ấy đấy 9. 16 cũng lấy 4 bỏ 1 ở 3 làm gốc mà dùng đấy ấy 12. Vậy, cái mà dùng của nó cùng chẳng dùng ở số đầu lấy ở trước. Lấy vẫn số trước của nó mà biến chút ít vậy.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Lại nghĩ đấy ! 1
Lấy tròn 1 biến thời sinh 6, bỏ 1 thì còn 5. 2 biến thời sinh 12, bỏ 2 thì còn 10. 3 biến thời sinh 18, bỏ 3 còn 15. 4 biến thời sinh 24, bỏ 4 còn 20. 5 biến thời sinh 30, bỏ 5 còn 25. 6 biến thời sinh 36, bỏ 6 còn 30. … , Ấy lấy còn đấy thời 6, 6 bỏ đấy thì 5 còn 1 vậy. 4 thời 3 mà còn 1 vậy. 3 thời 2 mà còn 1 vậy. 2 thời 1 mà còn 1 vậy. Cho nên, 1 sinh 2, bỏ 1 thì còn 1 vậy, 2 sinh 3 bỏ 1 còn 2 vậy. 3 sinh 4 bỏ 1 còn 3 vậy. 4 sinh 5 bỏ 1 lấy 4 làm gốc, 6 bỏ 1 lấy 5 làm gốc, 7 bỏ 1 lấy 6 làm gốc.
Đây dường như đại khái lấy số tròn mà rõ cái biến của nó vậy. Đường kính tròn 1 vòng, 3 kính 1 biến, gấp lấy sinh 6 hào ở biến, sở dĩ vì trong 3 ngoài 3 mà lấy làm 6 đấy vậy. Vì tròn tượng Trời 1 vận biến sinh 6 thời 6 dương theo 1 dương, lần lượt sinh mà gồm khắp 6 tháng, bỏ 1 dùng 5, ước đấy 1 tháng đều 6 ấy 5 ngày, gồm thực co rút số 36 làm 36 bỏ 6 vậy, 2 biến thời 6 sinh 12, 6 âm theo 1 âm lần lượt sinh mà Khôn cùng khắp 6 tháng trước gồm làm 12, khắp 1 năm đó vậy. Bỏ 2 thời còn 1, hai lần bỏ 1 như vậy thời còn 5, bèn làm 10. Lại co rút số 72 làm 66 bỏ 4, hai lần đấy làm 12 bỏ 2 vậy, 3 biến làm 2 thời 6 sinh 18, 4 biến thời 4 biến sinh 24 vậy. 5 biến thời 5 biến sinh 30 vậy. 6 biến thời 6 biến sinh 36 vậy. Mỗi 6 bỏ 1, thì lần lượt mà bớt, mà 64 – 6 = 58 chỉ 15, 24 chỉ 20, 30 chỉ 25, 36 chỉ 30 vậy. Sinh chẳng lìa 6, bỏ chẳng lìa 5, sinh nửa bỏ đi nửa chẳng lìa 6 x 2 = 12, 5 x 2 = 10. Ống lấy cất lên vận Trời ở số tròn 360 còn đấy thời 6. 6 của 6 làm 36, 6 của 60 làm 360 vậy. Bỏ đi thời 5, 5. 36 bỏ đi 1 thời 5 x 6 = 30. 360 bỏ 1 thời 60 x 5 = 300 vậy. 5 thời ở trên 4, 6 mà còn 4. 6 tức là 4 mà còn 1. Rằng ấy Càn Khôn đều 1, 1 đều biến 4, Càn thì có: Thái dương Càn, Thái âm Đoài, Thiếu dương Ly, Thiếu âm Chấn ở 4 Thể. Khôn thì có Thái nhu Khôn, Thái cương Cấn, Thiếu nhu Khảm, Thiếu cương Tốn đều là 4 Thể, trừ gốc sinh đều ở 1 thời làm 4, còn thêm gốc sinh đều ở 1 thời làm 5. Cho nên số Trời có 5, số Đất có 5, đều 4 mà còn 1 ở số vậy. Song âm dương cương nhu đều chia 4 thể, 4 thể dùng chỉ 3, hay nói 3 gồm 4 bỏ 1 của nó, hay nói 4 thời gồm bỏ 1 của nó ở 3. Cho nên rằng, 4 thời 3 mà còn 1 vậy. 2 vậy ấy là 1 ở đối 1. 1 thời lẻ 2 thời chẵn, âm chẵn ở dương, nhu chẵn ở cương. 1 dương mà còn 1 âm, 1 cương mà còn 1 nhu, thời được chẵn làm 2, 2 của nó 1 vậy. Nên, 2 thời 1 mà còn 1 vậy, ấy thời một Trời ở 1, 1 nhân lên 1 bèn sinh 2, 2 bỏ 1 thời còn 1. Rằng trước 1 sinh 2 làm Quái dương ở số 12, cái mà Nguyên tóm Hội đó sao ! bỏ thời vận về 1 Nguyên mà thôi. Mặt Trăng (mặt trong) khởi ở 2, 1 nhân lên 2 bèn sinh 3, 3 bỏ 1 thời lại 2, lấy ở trước 1 sinh 2 lệ đấy, 3 của 12 đương 36 số, Hội của nó tóm Vận đó sao ! bỏ 1 thời lại về 3 Hội mà thôi. Tính khởi ở 3, 1 nhân lên 3 thời sinh 4, 4 bỏ 1 thời lại 3, lấy ở trước 2 sinh 3 lệ đấy. 4 của 36 đương 144, Vận tóm Thế đó sao, bỏ 1 thời lại về 3 vận mà thôi. Thần khởi ở 4, 1 nhân lên 4 thời sinh 5, 5 bỏ 1 thời lại 4, lấy sô Trời có 5, số Đất có 5. 1 mà biến 4 còn 1, 5 vậy, bỏ 1, 4 vậy. Trước rằng chẳng dùng ở 1, bọc ở trong 4, và thể ở 1 đứng ở 4 ngoài của nó lại tóm hội, vận, thế, số mà về 1 nguyên đó sao ! Thế cho nên lần lượt sinh đấy, gốc vậy 2, 3, 4, 5, 6 theo 1, 2, 3, 4, 5 mà sinh mà gốc bèn 1, 1 thấy vậy. Cuối rằng 6 lấy 3 làm gốc, vì tức là tròn 1 biến sinh 6, bỏ 1 thời 5 mà suy đấy vậy. Trở lên đều Ngoại thiên tản mát nói ở thấy, nghĩ lại đấy tự được vậy.

Nghĩ lại đấy ! 2
Lấy Vuông thì 1 biến làm 4, 4 sinh 8, gồm làm 12. 8 sinh 12 gồm làm 20. 12 sinh 16 gồm làm 28. 16 sinh 20 gồm làm 36. 1 sinh 3 gồm làm 4 vậy. 12 sinh 20 gồm làm 32 vậy, 28 sinh 36 gồm làm 64 vậy.
Đây đại khái lại tới số vuông mà tường cái biến của nó. Đường kính (tất) vuông 1 vây 4, chia tách dùng nửa thời còn 2, gấp 2 bèn biến làm 4. Quẻ Thái Thiếu trời đất gồm 4 tượng ấy vậy, hợp trời có 4 đất có 4 làm 8, 1 vị tám quẻ, 4 đều sinh 8, 8 mà gồm 4 bèn làm 12, 60 quẻ sách (thẻ) Càn đương 36 hào dương, Khôn đương 12 hào dương, mà 12 lại tức là số hội 8 sinh 12, số của nó đó sao ! 12 gồm 8 làm 20.
Một vị 8 quẻ, xét hào dương, thì Chấn, Khảm, Cấn số thẻ dương đương 20, (trong đó số thẻ dương quẻ nội là 8, số thẻ dương quẻ ngoại là 12). Tương tự Tốn, Ly, Đoài số thẻ dương tương đương 28 (số hào dương 8 quẻ nội là 16, số hào dương 8 quẻ ngoại là 12, gộp lại là 28), 12 gồm 4 bèn sinh 16, 16 đương 2 vị 8 quẻ trùng số, lại đương trời đất 4 quẻ biến số gồm 12 làm 28 của nó, tức là trước nói rằng Tốn, Ly, Đoài ở thẻ dương 28, 16 gồm 4 bèn sinh 20, 20 đương quẻ ở số thấy trên, bèn lại gồm 16 làm 36, thời Càn ở số thẻ dương vậy, bèn biêt 4 là ở số sinh, 1 và 3 là ở số gồm ấy vậy, Đoài, Ly, Chấn ở số gồm của Khôn đấy vậy. Quẻ bình phần đều 32, 32 ở số sinh 12 cùng 12 ở số gồm vậy, 12 với 12 ở số gồm ấy là Chấn, Khảm, Cấn ở số gồm Khôn ấy vậy. Cả toàn quẻ số 64, 64 ở số sinh của nó là 28, cùng ở số gồm là 36 ấy vậy. 28 cùng số gồm là 36 ấy là Đoài, Ly, Tốn ở gồm Càn ấy vậy. Trở lên cũng đều là thuyết Ngoại thiên thấy trước. Xét cỏ thi tròn, quẻ vuông, số tròn vốn thẻ thi ở biến 1 sinh 6 lấy 1 làm gốc, 6 biến mà 36 theo dương sinh vậy. Số vuông vốn hai quẻ ở biến, 4 gồm 8 làm 12, lấy 4 làm gốc, 4 biến cũng làm 36, theo âm sinh vậy. Nói nghĩ lại đấy, lấy hợp người nghĩ, có thể vậy.



Lại nghĩ đấy ! 3
Tính chẳng có thể chẳng thành, thể chẳng có tính chẳng sinh. Dương lấy âm làm thể, âm lấy dương làm tính, động là tính, tính là thể vậy. Ở Trời thời dương động mà âm tĩnh, ở Đất thời dương tĩnh mà âm động. Tính được thể mà làm tính, thể theo tính mà động. Đấy là lấy Dương thì thư thả mà Âm thì nhanh vậy.
Tính tình hình thể chia sánh với 4 quẻ, mà tính thì thâu tóm tình, thể thì hợp với hình, bèn chia tính dương mà thể âm. Cho nên, tính và thể cùng nên ở, rằng tính, chẳng phải thể mà ở thành, vậy ở đâu ? Sinh rằng ở thể, chẳng phải tính mà sinh đứng ở đâu ?
Nào dương 4 quẻ thể ở âm, âm 4 quẻ thể lại theo dương. Vì tính chủ ở động, thể chủ ở tĩnh. Ở Trời, động thuộc Dương, tĩnh thuộc Âm, ngược lại ở Đất thì Dương lại tĩnh mà Âm lại động. Tính thuộc dương vốn động vậy, được thể ở âm mà tĩnh, tĩnh bèn ưa tính ở yên mà chẳng nảy nóng, động đánh tính ở bản nhiên.
Thể âm vốn tĩnh, tĩnh ở dương mà phải động theo, động cũng tin ở thể ở lành mà chẳng mất cái chính ở thể vốn tĩnh ở cố nhiên, ấy cho nên thể thư thả mà chủ ở tính ở dương, thời tôn mà làm thần ấy ở sai khiến vật mà chẳng thôi ở sai khiến ở vật vậy. Cho nên thư thả, như ở thể chủ ở âm, hoặc trái ở tính ở dương lại nóng nảy mà kíp nhanh có gì ở thư thả vậy. Tính như Nhật ở Trời, thể như Thần ở Trời, nhật đường đi theo quỹ đạo, mà chẳng lìa chỗ thần tượng trời cũng thư thả. Nếu chỗ thần dẫu có đủ, mà nhật dương ở mất độ, mà hối (tới) thực (bị ăn) cũng chẳng nhanh hơn của nó. Vậy thời tính và thể cùng nên mà chủ ở tính bèn dương vậy.

Lại tỏ rõ đấy ! 4
Trời vành vạnh (hồn hồn) ở trên mà chẳng có thể lường, cho nên Đẩu - số để xem Trời vậy. Dẫu như ở dựng của nó là Trời ở đi vậy. Khôi dựng ở Tý, Thuộc dựng ở Dần, Tinh lấy Dần làm ngày vậy. Dẫu có 7 tinh, ấy lấy ngày chẳng quá 7 phân vậy.
Trời hồn khó lường, xem Đẩu số để có thể biết về trời. Đẩu dựng là theo Trời để ấy vậy. Đẩu có Khôi Thược, Khôi 4 Thược 3, tinh của nó đương tinh kỷ ở vị Sửu, Khôi của Đẩu đương ở bên hữu của Sửu làm kiến (dựng), mà đương Tý. Thược của Đẩu đương ở bên tả của Sửu làm kiến mà đương Dần. Tý như nửa đêm, đến Dần thời vào đầu ban ngày, tạo sáng nhiều Nhật mọc ở Mão, Mão làm đầu ban ngày, Dần đương còn tấc đất tạo sáng đương còn ít, nhưng lấy Giờ (thì) mà xem thời Dần đã phân vòng ban ngày vậy. Cho nên, mở vật ở giữa Dần mà đóng vật ở trước Tuất. Rằng, cái mà dùng 7 của nó thế vậy. Đẩu hợp Khôi Thược 4 và 3 gồm 7 tinh, là phần ban ngày, xem ở Đẩu lấy 1 tinh tương đương 1 phần cũng chẳng quá 7 phần. 7 phần ấy là Bí Cấn trở lên ở số quẻ vậy (dưới còn 18 quẻ). Trước đã tỏ tường, mà lại thêm ở Đẩu cũng tỏ tường đấy, chẳng ngờ nữa vậy.
Thái cực 1 vậy, chẳng động sinh 2, thời 2 làm thần vậy. Thần sinh số, số sinh tượng, tượng sinh khí (đồ vật).
Giữa khoảng 1 động 1 tĩnh làm Thái cực. Người vốn biết động mà sinh dương, tĩnh mà sinh âm, làm ở 2 mà chẳng biết tĩnh mà tiếp động, cũng như chẳng thấy động ở giữa. Đấy 1 mà phỏng 2 cột ở cùng cực vậy. Đó là bất động sinh 2, trời đất đương Khôn Phục ở giao, giữa lấy làm cùng cực, dẫu có túi đi sinh cùng cực, tóm cái số biến hóa sinh thành, hồn nhiên cái tượng âm dương cương nhu, ngụ cái khí cụ Càn Khôn 6 Tý. Cho nên 2 thời làm Thần vậy, mà số bởi Thần sinh, tượng bởi số sinh, khí cụ bởi tượng sinh, số - tượng – khí đềi sinh ở Thần, Thần sinh ở bất động, ở 1 mà bọc 2, ấy cái mà làm Thái cực đó sao ! Ấy cái mà làm giữa 1 động 1 tĩnh đó sao !
1 và 8 làm 9 cắt làm 7, 8 cắt vá làm 6, 16 cắt vá làm 12, 24 cắt vá làm 18, 32 cắt vá làm 24, 40 cắt vá làm 32, 48 cắt vá làm 36, 56 cắt vá làm 42, 64 cắt vá làm 48. 1 chia làm 4, 8 chia làm 32, 26 chia làm 64, lấy đến 96 chia làm 384 vậy.
Càn 1 Khôn 8 số 9 vậy. 6 Tý đổi số đều 9 thâu tóm đấy. Cắt vá làm 7 thời 9 bỏ 2 dùng số quẻ Trời đều 3 mà Tỉnh trước sau của nó ở nửa thời 7 vậy. Thể số trời đất đều 4, hợp mà làm 8, 4 của nó dùng 3 thời cắt ấy 2 (cắt ở 8), cho nên còn dùng ở 6 vậy. Tới đồ vuông tròn đều 4 chia ở làm 16, là 4 của nó 4, 4 đều dùng chỉ 3 cắt 1 của nó, thể 4 thời còn 12 vậy. Gồm đôi của 12 làm 24, làm 4 của 6 đấy mà đều cắt 4 ở 1, bỏ 6 thời làm 18 vậy. Nhặt cỏ thi thời làm 18 biến, lại đôi 18 của nó làm 32, ấy 4 của 8 đấy đều 4 cắt ở 1, bỏ 8 thì còn 24 vậy. Trời đi gồm 24 khí, tiến mà 40, 10 của 4 vậy, cắt bỏ 4 ở 1, thời 30 đương giờ ở số chia, tháng ở số ngày, vận ở số thể. Lại thêm 2 lần gồm 12 của nó làm 48, mỗi 4 bỏ 1 bèn cắt 12 gồm còn 36, tương đương Càn 4 x 9, Khôn 6 x 6 ở số thẻ. Lại thêm 2, 4 gồm 14 của nó 4 làm 16, mỗi 4 bỏ 1 bèn cắt 14 làm 42. Lại thêm 24 gồm làm 4 ấy 16, tức là số 8, 8 đương 64, mỗi 4 bỏ 1 bèn cắt còn 48. 48 này là số thẻ có trừ treo 1 ở dùng số quẻ đương 1 vị 8 quẻ ở số hào vậy. Bèn biết Càn Khôn đều 1 mà chia 4 vị, đều 8 mà chia 32, 8 vị đều 8 mà chia 64. 64 là tả hữu ở 4 x 8 ở hợp số, lại đều chia 4, 4 ở tả hữu thời 3 của nó 32 mà làm 96, lại 4 của nó chia đấy bèn làm 384 vậy. Trước cắt vuông làm đồ, sở dĩ vận đi ấy nhiều phương, cắt đấychẳng lìa ở 4 vậy. Trở lên 11 thiên đều đại lược nói thêm trước của nó đủ suy ở số, mà muốn người lại nghĩ đây lại tỏ tường đấy vậy. Này trở làm cái mà Thiệu Tử tự ngờ, vậy thời nhỏ bầy ở trước, cái mà còn nghĩa ngờ sao ! Khuyết nghi rằng, ấy là bảo kẻ học sau, nếu ngờ hãy để thiếu đấy mà tường nghĩ thì được ý của nó vậy.
Tâm làm Thái cực, lòng người nên như nước đúng thời định, định thời tĩnh, tĩnh thời sáng.
Thái cực làm gốc động tĩnh, ở Trời làm lòng cho lòng Trời, ở người đó là lòng của Đạo, nên: tâm làm Thái cực mà mọi muôn việc theo ở vận chuyển vận của nó. Cho nên, lòng người chẳng có thể rối bời lẫn lộn, nên như nước đứng trong suốt ngậm rỗng, thời bàn thể của Thái cực chủ ở 1, khi chỉ có thể định, định thời không bị vật dục bên ngoài dẫn dụ, lấy Càn làm tượng sinh ở trong lòng, chẳng nên gượng làm đợi bị chế mà tự tĩnh. Nước đứng lặng hay soi, lòng tĩnh bàn sáng, chẳng bị vật chiếm, thượng cùng đạo họp, thời khi xem vật thì đều thấy vậy.
Học Tiên thiên chủ ở thành thực, rất thành thì có thể lấy để thông thần minh, chẳng thành thì chẳng có thể lấy được Đạo, chẳng có thể trởi lại với 1.
Dịch nói Tiên thiên mà Trời chẳng trái, học Trời tức là học Thánh vậy. Học Tiên thiên cốt yếu nhất là chủ ở thành thực, lấy cái trung tín của nó để tiến đức, sửa lời lập cái thành thực của nó, lấy cái nghiệp của nó mà không lúc nào chẳng sở, thời không lúc nào chẳng thành thực. Thành thực rất mực, đấy là chí khí như Thần, Trời và Người thông suốt mà không gì chẳng sáng. Cho nên thông được với thần minh, thông ở sự thành cái 1, Đạo được ở rất mực, được ở cái thành thực của nó mà sáng, không thời lòng nhiều lỗi lầm mà bị vật che lấp, ở Đạo bởi đâu mà được vậy.
Tư tính được ở Trời, học vấn được ở người, tư tính bởi từ trong mà ra, học vấn bởi từ ngoài mà vào. Tự thành thực sáng suốt là tính, tự sáng suốt sự thành là họa vậy.
Tư tính gốc ở Trời, học vấn gốc ở người (cái hướng tới là gốc). Trời từ trong mà ra, thì sự thành chẳng gì chẳng thực, sáng không gì chẳng soi tới, tính mà được ở Trời là như thế. Người bởi từ ở người mà vào, trước sáng ở thiện mà thành ở tâm, dẫn tới thành ở thân, cái học được ở người là như thế vậy.
Cái học của Quân tử để nhuận thân mà làm gốc, việc trị người ứng vật đều là nhuận của nó vậy.
Cái học chí cái lý, chẳng rất thành thực chẳng đến.
Tính mệnh có được chí lý, là thành thực rất mực, bèn hay hết tính mà đến mệnh. Thành thực mà chưa có đến, thời tính chẳng hết thì mệnh làm sao mà đến tới. Cho nên cái học chí lý, chỉ có chí thành là hay đến được.
Thành ấy là chí lý ở đủ, không mối không phương đó vậy.
Thành mà không lỗi, Đạo trời ở ta, nối thiện nên tính, lấy thành thực làm chủ đấy. Cho nên thành thực làm tính ở đủ, muốn tìm mối của nó cũng không mối mà tìm, muốn trỏ cái phương của nó cũng không có thể xét hết, đấy là chẳng nghĩ tới mà là tự Thần tới.
Hay nói lẽ Trời động ấy, tạo hóa ở ta vậy, được là Trời ấy, chẳng những nhuận thân, chẳng những nhuận tâm, đến cả tính mệnh cũng nhuận. Noi theo lý thời làm thường, ngoài lý thời làm lạ vậy.
Thân tâm tính mệnh, 1 xuất là Trời, là Trời ấy là tạo hóa tự nhiên ở máy móc vậy. Động có thể noi theo, tạo hóa ở tay vậy. Nhuận ở thân tâm, thể to lòng rộng, cũng nhuận tính mệnh đều chính, giữ hợp lý rất dung thường, noi theo đấy bèn quý, như trở ngại là ở Trời, ấy là trái thường mà là lại vậy.
Người tất có đức khí, mừng giận mà sau đều chẳng trái. Làm Khanh Tướng, làm thất phu, lấy đến học vấn hơn thiên hạ, cũng coi như không có vậy.
Mừng giận chẳng trái, đức khí đôn hậu, là chứng thanh thản, khoan khoái, rộng to, thời chựu được lớn vậy. Bèn hay chẳng dâm, chẳng rối, chẳng kiêu, chẳng bủn xỉn, sang hèn chẳng khen, chẳng bực trong lòng, Đại nhân vậy sao ! Xét cái chiều hướng về của nó, không muốn.
Lấy vật mừng vật, lấy vật bi thương vật, đấy là phát ra cái trung tiết vậy. Bi hay mừng chẳng lấy ta nhân ở vật ứng vật, chưa phát ra không đón rước, quá tức là hóa, nói rằng phát ra đều trúng tiết. Tiết ấy đồ sộ ở lòng ta, đều là bậc hạn lý vật. Trúng đấy làm thời khó, gốc ở tĩnh, chính là xuất Đạo ở hòa, công ở răn cẩn thận.
Trung dung chẳng phải lý Trời xuống Đất ra đo vật, là cái đo lường bên ngoài của tình, chỉ bởi làm an cái của nó là được vậy. Trung dung ở Đạo cùng với phép tắc Trời Đất, mà chẳng phải Trời xuống Đất ra, chẳng qua là ở vật hình người đo Đạo chẳng sai đi, lòng ta ở yêu cái của nó, tức là người cùng vật ở cái nhuận của nó. Trời cùng Đất ở cái tin nó, thời làm được vậy.
Phép Trung dung tự trong ấy Trời vậy, tự ngoài ấy người vậy, học chẳng đến nơi Trời Người, chẳng đủ gọi là học. Trung dung cùng Trời Người gặp nhau, làm yên, làm khuyên, đạo pháp nguyên hợp, từ trong mà ngoài, thành thực thời sáng vậy. Trời làm ở vậy, cho nên rằng ở tính từ ngoài mà trong sáng thời thành thực vậy, người ở làm vậy, cho nên gọi là giáo, cớ là khuyên hầu mà yên, hết người có thể lấy hợp Trời, mà người cùng Trời gặp, học chẳng như thế, sao bảo được là học !
Thái cực là Đạo ở cùng cực, Thái nguyên là Đạo ở đầu, Thái tố là sắc ở gốc, Thái nhất là số ở bắt đầu, Thái sơ là việc ở mới đầu. Cái mà công thành cùng 1 vậy.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Dịch nói Thái cực, là bảo Đạo lập Trời, lập Đất, lập Người, đều bởi từ đó mà ra, đấy 2 dạng chưa chia, 1 nguyên chuyên vận một mình ở máy móc vậy. Cho nên rằng: là Đạo: chuyên một vận ở cùng cực.
Dương nói Thái nguyên cũng 3 tài gốc ở Đạo, suy vượng số ở 3 phương chưa phán ở trước, cực làm ý kín đầu tiên, cho nên rằng Đạo ở đầu. Hoặc nói Thái tố lấy xanh đỏ vàng đen trắng 5 sắc đều gốc ở tố, tức là trời đều đất vàng, sác chẳng lìa tố (trắng nõn), nên rằng gốc sắc. Hoặc nói Thái nhất là lấy số 10, 100, 1000 nhiều ít đều bắt đầu ở 1, tức là trời tham (ba) đất lưỡng (đôi), số chẳng lìa 1, cho nên rằng bắt đầu ở số là 1. Hoặc nói Thái sơ gồm thành, hỏng, được, mất, …, sự vật phát ra ở đầu mối, đều từ cái sơ khởi ban sơ, tức là nghìn biến muôn hóa, việc chẳng lìa ban sơ. Xét đấy đều theo cái thấy của nó mà gọi tên, tên của nó dẫu có khác, mà ý tứ thời đều cùng, kịp đến cuối cùng thành công đều 1.
Việc thiên hạ đều lấy Đạo đến (suy cùng cực), thì mừng lo chẳng hay đến vậy. Lòng mỗi người, nhiều mừng lo không đầu mối. Mừng lo tiếp xúc với vật mà đến ở lòng người, bởi cái sức Đạo nông vậy. Thấy Đạo chẳng sáng, tin ở Đạo chẳng dốc sức, việc làm chẳng lấy Đạo, thời thà tĩnh mà suy lấy cùng cực. Vậy nên, chẳng khỏi sai khiến ở vật. Duy có hay thấy, hay biết là ở tâm, tức là Đạo, thiên hạ không việc gì làm ngoài Đạo. Việc làm lấy Đạo suy cùng cực, dù việc ở mừng lo gì đi nữa, hay bởi bên ngoài sai khiến bên trong đó sao !
Bát canh ăn lúc đầu, để có thể hòa vị. Riệu uống lúc đầu, vị có thể nhạt. Đấy, tạo hóa cũng có thể hòa có thể nhạt vậy. Bát canh khởi đầu, riệu uống lúc khởi đầu, vốn chẳng hòa chẳng nhạt, mùi vị bởi sinh dần nhiều ra. Tạo hóa lúc ban sơ, cũng như bát lúc đầu, cũng như nguyên tửu, vốn chưa có hòa, có thể theo mà hòa, vốn chưa có nhạt có thể theo mà nhạt. Thiệu ta, ngày Đông chí nửa giờ Tý, cũng lấy từ nguyên tửu để mà so sánh đấy, từ Phục trải 15 quẻ tới số 16 quẻ Lâm, trải 23 quẻ tới vị số 24 quẻ Thái, trải qua 30 quẻ tới vị số 31 quẻ Càn, thời canh càng tốt riệu càng ngon, đã hòa cái nhạt. Từ Cấu đến Khôn, lại dần dần trở lại gốc vậy.
Chẳng ta và vật thời hay vật với vật. Thánh nhân lợi ở vật mà không tạ. Vật chẳng to là chẳng lấy ta cưỡng vật, hay vật với vật thời nhân có vật phó cho vật vậy. Cho nên, Thánh nhân nhân có vật mà lợi đấy, với ở ta thời không thấy cái 1. Ôi, trời chẳng tự trời, gồm vật làm trời, đất chẳng tự đất, gồm vật làm đất, thánh nhân chẳng tự làm thánh, đồng với vật bèn làm thánh, ấy đều không có ta mà thôi.
Mặc ý ta thời là tình, tình thì hay che lấp, che lấp thời tối vậy. Nhân có vật thời là tính, tính thì thần với thần thời tối. Nhân có vật thì là tính, tính thì thần với thần thời sáng. Dẫu trời dẫu đất, chẳng đi mà đến, chẳng bị âm dương của nó bức bách, ấy là thần vậy.
Mặc ý ta thì yêu gét bộc lộ ra ở tình, nhân có vật mà bình thì do ở tính mà ra. Tình thì che lấp bởi sự riêng tư của ta, mà tối thì chẳng hay xem được vật để thấy tỏ rõ cái lý của nó. Tính thì thần không ở ta, mà ở trời lấy sáng, bèn hay loại vật mà thuận ở cái nên hay không nên của nó. Thần vậy, ấy là ngầm vận chuyển trời đất tạo hóa ở trong tính, chẳng đợi cho vận tự suy đi, tự không gì là chẳng đến, mà chẳng phải âm dương lệch lẻ ở khí, cái mà hay bức bách dấy lên đấy, lấy đấy để soi sáng bèn chọn cái Đạo đến vậy.
Khí thời nuôi tính, tính thời tiếp khí, cho nên khí còn thời tính còn, tính động thời khí động vậy. Tính tức là lý vậy mà khí tiếp đấy, nuôi tính lấy theo nghĩa như cùng sai khiến, suy cùng cách nuôi vậy. Tính thời tiếp khí, tiếp khí lấy theo nghĩa như tiếp cương tiếp nhu đó vậy. Cho nên, tính lấy ở khí khi đang còn, khí trong đương thời thì tính hiện, khí ấm thời tính hòa. Mạnh Tử nói: “khí sáng sớm cùng với khí ban đêm chẳng lấy để đủ, vẫn còn đầy. Chính khí còn, nuôi tính còn đấy, đã vậy khí lấy theo tính của động. Tính khoan hòa thì khí thư thái, tính nghiêm thời khí nghiêm chỉnh. Chí là tướng của khí vậy, cùng với nhất chí (1 chí) thời khí động, cũng tức là tính mà động thời do khí động ở ý vậy”.
Sén cắt, đấy là tài sức vậy, sáng tỏ đấy là trí thức vậy, khoan hồng (rộng rãi) đấy là đức khí vậy. Ba thứ này chẳng có thể bỏ 1, ở 3 thứ này gốc ngọn gồm đủ mà chẳng có thể thiếu, song tất lấy đức khí mà làm chủ.
Tổ chức trời đất rằng ở Trời, xa cất lên hẳn đến rằng ở chí, gồm bao bọc cái dụng rằng ở lượng. Tượng chuẩn nói Quân tử lấy sinh luân (tổ chức). Bấy giờ trời đất mờ mịt, cái mà mở mang đều giúp đỡ ấy rằng tài Thánh nhân, kẻ sỹ chẳng có thể chẳng rộng đường quyết chí, họa ở xa cất lên mà chắc chắn sẽ đến, rằng có chí quả quyết chí chung đến vậy. Cỏ hoang chẳng dỗi để rét (lao nhọc), có đức bao dung thì mới có thể lớn, rằng có lượng rộng vậy ở rất mực vậy.
Người thiện hay ác hiện ra ở lời nói, phát ra thông qua việc làm, mới gặp người mà biết đấy. Song, mầm nảy ở trong lòng, bộc phát ra ở sự tư lự, quỷ thần đã được mà biết đấy vậy. Đó, người Quân tử lấy làm cẩn thận cho mình lúc ở một mình vậy.
Người thấy lúc hiện rõ, quẻ thần thấy lúc còn nhỏ, thiện ác phát hình ra ở lời nói việc làm là lúc đã hiện rõ, thiện ác nảy mầm ở trong lòng, ở sự nghĩ ngợi là lúc vi nhỏ. Người quần tử cẩn thận lúc ở một mình, chẳng giả thác ở lúc hiện rõ, chẳng thể dối ở lúc vi nhỏ. Thiệu ta nghĩ ngợi chưa dấy lên, nên quỷ thần chẳng hay biết, chẳng bởi ta còn bởi ai. Cẩn thận rất mực vậy.
Đúng lúc rồi mới nói, đó là ứng biến mà nói, nói ra vì chẳng bởi ở ta nữa vậy.
Trời đúng thì tạo cho muôn vật sự sống, chẳng nói mà tin. Người ứng biến phát ra ở lời nói, phát ra tất phải đúng lúc, đó là lời nói chẳng phải ở ta, cũng như trời chẳng nói mà 4 mùa vẫn đi, vật sinh ở ý vậy.
Vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã, hợp lại mà nói thời là 1 chia ra mà nói đấy thời 2, hợp mà nói đấy thời 2 chia mà nói đấy thời 4. Dẫu như ở có ý, thành ở có ta, có ý rồi sau mới có tất (hẳn), tất sinh ở ý, có cố (bền) rồi sau có ta, ta sinh ra ở bền (cố). Ý có tâm, tất hẹn trước, bền vững chẳng hóa nổi, ta có rồi vậy.
Ý, tất, cố, ngã, hợp mà làm 1, cũng cùng gốc mà sinh, chia mà 2 gốc liền lối ra lối vào vậy. Hợp mà 2, hợp tất ở 1 ý mà ở trước việc, hợp ta ở cố (bền) cho nên 1 lại ở sau việc. Chia mà 4 thì bởi từ ý sinh tất (hẳn), bởi từ tất sinh cố, bởi từ số sinh ngã, mà gốc ở 1 có ở riêng ta, quang nhau làm sinh ấy lấy 4 vậy. Cho nên, ở lúc khởi đầu, ý thành ở ngã, cố thời đều có tâm ở lụy vậy, ngã hơn ý không mờ thì đều không, đó là đức ở thuận vậy. Thánh nhân ở vật không để có tâm, hện cái gì ở trước, tùy ở vật mà hóa, chẳng biết có thể theo cùng với Trời để mà động không vậy !
Cái học chí cái lý, chẳng phải rất thành thực thời chẳng thể đến. Cái học lý của vật, hoặc chẳng thông cái lý của nó, do bởi chẳng có thể lấy cái thấy gượng làm thông vì bởi có ta, có 3 thì mất cái lý của vật mà lẫn vào với cái thuật (chước) vậy.
Tư lự suy nghĩ hóa trước, quỷ thần chẳng nhìn thấy. Chí Đạo, đạo rất mực thuận lặng, Tiên thiên chẳng trái, đó là cái học chí cái lý du ! Ôi, chí cái lý thì hẳn chí phải thành, dẫn tới chí của nó rất mực. Nếu phiếm xem cái lý của vật, phần nhiều khó thông cái lý của nó, còn như gượng gạo thăm dò để tìm cái mà thông, lại là của cái có ta tự ý, ở cái riêng của ta, mất lý lẫn vào thuật. Cho nên, học phải tinh thực suất thông mới làm tự đắc, tự đắc rất mực, ngõ hầu ở thần.
Tâm 1 mà chẳng chia thì hay ứng muôn vật, đó quân tử sở dĩ lòng rỗng mà chẳng động vậy. Tâm hay thuận nhất, thần minh chẳng thể chia, chẳng bởi chướng ngại ở một vật, bèn cảm ứng ở muôn vật. Cho nên, Hư công thuận ứng ấy là quân tử chủ tĩnh ở tâm học vậy. Chẳng phải chế mà chẳng động, mà tự không động càng ở rối nhiễu vậy.
Việc không cứ lớn nhỏ, đều có Đạo ở trong, nên hay yên phận ở Đạo, chẳng hay yên phận thời là không Đạo. Làm việc ở cân nhắc, nhất thiết theo ở Đạo, Đạo ở ngoài bản phận mà không sai lấy một sợi tóc, hay yên với phận của mình, thời theo được với gốc của nó. Cho nên cái đi lớn là ở cùng cực, tính phân định của nó, quân tử lấy làm quý vậy.
Đổi chỗ mà ở thời không có ta vậy !
Chỉ có một mình ta, chẳng gặp cái nhất của ta, bởi tùy ở cái chế của nó, nhân theo thì (mùa) mà đổi, khó lấy nhân tử, có thể lấy Vũ Tắc, trong ta không ta, hoãn gì gấp gì, tính của nó phân định, bèn không tổn ích. Lời nói phát ra thực thành thật, thì lòng chẳng nhọc mà dỗi, người theo lâu mà tin đấy. Làm sự dối trá, muốn để dối người, người với ta như 1, lâu hẳn sẽ lộ, chỉ đến bại mà thôi. Người quý bởi có đức, tài thì còn đấy vậy, tài chẳng có thể cậy, cậy tài là bại, đức chẳng có thể thiếu. Quân tử tài cũng hơn người, lấy đức làm chủ mà thôi.
Mặt Trời mặt Trăng sự có dài lâu mà thôi, người còn ở xa mà chẳng thấy cái gần của nó. Trinh quán, trinh minh ấy rằng dài lâu, trời đất chẳng nát, mặt trời trăng chẳng hủ. Lập đức, lời nói, công ngàn đời làm thọ, không bờ còn xa, thấy gần có gì ?
Ở đồng ruộng thì làm việc của đồng ruộng, nơi miếu đường việc làm ở miếu đường, không đâu không vào mà chẳng tự đắc. Ở âm tìm chí, đồng ruộng vừa đấy, dựng nghĩa suốt Đạo thấy nơi miếu đường. Một mình lấy thiện làm vui, biết để giúp người, không đâu không vào, cái mà lấy thể dụng một gốc, ra ở một chí ở thánh nhân vậy.
Trí số hoặc hay thi hành ở một sớm, vì có lúc mà cùng hết, chỉ thành thực rất mực cùng với trời đất đồng lâu. Trời đất không, thời chí thành đáng thôi. Nếu trời đất chẳng hay không, thì chí thành cũng chẳng hay thôi vậy. Trí số nhỏ vậy, chẳng thể 1 sớm 1 chiều mà cùng hết. Chí thành không Càn, thì chẳng dùng trí số với trời đất cùng xưa nay. Trời đất không thôi, chí thành sao lại thôi.
Trong nhà làm xe, thiên hạ có thể đi, bánh xe hợp cho nên vậy. Nếu thuận nghĩa lý, hợp nhân tình, thời mặt Trời Trăng của nó soi đến có thể đi vậy. Việc làm noi theo nghĩa lý, xe làm noi theo độ số, lấy đi ra hợp bánh xe. Nghĩa lý nếu thuận, nhân tình lấy tin, phàm chỗ mặt Trời Trăng chiếu tới, đều là lòng nghĩa lý đáng đi vậy.
Thu trí thiên hạ làm trí mình, thu điều thiện thiên hạ làm điều thiện mình thời rộng vậy. Tự dùng thời nhỏ. Trí lớn thu mọi trí, thiện lớn thu mọi thiện, dùng người thời rộng rãi, tự dùng thời nhỏ, ấy cho nên vạt áo rộng lớn, thiên hạ gồm chựu. Chí ở Đạo ấy, tóm mà nói đấy. Chí ấy lòng ở kín. Đức ấy được ở mình có hình, cho nên có thể giữ chủ đức ở nhân, cho nên rằng y (nương).
Tóm nói đấy rằng chí ở Đạo, lòng với Đạo vào vững kín, chẳng thể có nhất đi được rằng ở chí. Có được ở mình mà ở số của nó, tượng của nó, Mùi của nó, thần của nó, đều thấy có hình có thể căn cứ ấy rằng căn cứ ở đức. Nhân vậy ấy, đạo chở du ! Cái mà cất dấu ở cách dùng để mà ra đức, ở cái muốn của nó nhân mà vào, ở tình sáng mạnh bền ở sức, mà đầy đủ hoàn toàn hồn hậu thuần tuý, rằng ở thời đức chủ ở nhân, nương nhau cùng hóa, mà đều chẳng thấy chứng cứ ở nhau, ấy là trên vậy.
Nhan Hồi không lỗi thứ hai, Khổng Tử nói rằng: “có điều bất thiện, chưa thường chẳng biết, biết đấy chưa thường lại làm như thế” Đó một mà chẳng hai vậy. Hàn Du lấy làm hầu phát ra ở lòng bàn tay dứt đi, ấy là lỗi cùng Nhan Hồi vậy. Lỗi với phải làm ý riêng vậy, hya đến ở Đạo vậy thay. Hoặc nói cùng chẳng thiện cũng hơn cùng ác du ! Thánh nhân thời chẳng như thế lòng riêng lỗi cùng thiện ác đồng vậy. Nhan Hồi chẳng lỗi lầm thứ hai rằng 1 mà chẳng hai lần. Khổng Tử sáng tỏ ở hòa Phục Sơ 9, cho Nhan thị ấy là sáng vậy. Hàn Dũ bảo hầu phát ra ở lòng, ấy còn chưa thấy lỗi bèn hay dứt đi. Đã không lỗi đợi lại lỗi, ấy suy cùng làm ra chuộng ở ý riêng. Học giả nên giữ riêng thấy vậy, hay đến với Đạo dẫu rằng cùng thiện hơn cùng ác. Thánh nhân không riêng, thiện ác đều chỉ như cách chia của nó, lấy cùng đấy mà chẳng lỗi cùng vậy.
Làm học nuôi lòng lo ở chẳng bởi thẳng Đạo, bở lợi dục. Bởi thẳng với Đạo dùng rất thành thực, thời không gì chẳng thông. Trời đất ở Đạo thẳng mà thôi, nên lấy thẳng mà tìm đấy. Như tìm trí số bởi lối tắt lấy tìm đấy, ắt là khuất trời đất mà theo nhân dục, cũng chẳng đáng vậy.
Cái cốt yếu học làm nuôi lòng là ở bỏ lợi dục, muốn bỏ lợi dục nên bởi đường thẳng. Cho nên học giả lo, chẳng hay có phải bỏ lợi dục, bởi đường thẳng không vậy. Nếu hay biết tâm thể vốn thẳng mà không dục, tất muốn nói cái thể vốn thẳng, chẳng lấy vật dục quấy rối, do bởi cái hình của nó tư lự thấy ở việc vô vi đấy, chẳng thông thần minh mà về nguyên thiện đó của nó, cùng ấy là đức trời không càn lỗi ở thành. Nhất thiết trí riêng số nhỏ, nhân tiện lấy nhanh ở làm đều chẳng dùng của nó. Hầu máy móc tiêu biến hóa mà tư lự nảy mầm ở gốc dứt động tĩnh, rằng chính mà làm thời lòng ở rộng dãi yên ổn, vì thẳng vốn Đạo trời đất, học làm nuôi tâm, nên lấy và tìm ở đấy mà thôi. Bỏ mà dùng trí số, bởi lối tắt để tìm, khuất trời đất theo nhân dục, đó là ứng tâm thể, không đáng ở cái học nuôi tâm ít lòng dục ham muốn vậy.
Việc không cứ lớn nhỏ, đều có lý trời người, sửa thân người, gặp hay chẳng gặp ở trời. Được mất chẳng động lòng, cái mà lấy thuận theo trời vậy. Làm hiểm cầu ở may, đấy là trái với trời. Tìm đấy ấy ở người, được hay không là ở trời, gượng lấy hẳn được, ấy trái lẽ trời, trái là tai vạ trời ắt đến. Việc không cứ lớn nhỏ là có trời người, người chủ ở sửa theo trời khi gặp, chẳng lấy được mất làm động lòng, bình dị ở đợi mệnh. Nếu bởi lối tắt làm hiếm cầu may, trái trời lắm vậy. Thuận trời ấy sức người mà trời ứng, trái trời ấy gượng tìm mà tai vạ đến vậy.
Nhan tử chẳng rời giận, chẳng hai lần lỗi, rồi giận hai lần lỗi đều là tình, mà chẳng phải tính. Chẳng đến ở tính mệnh, chẳng đủ bảo là hiếu (muốn thích) học. Giận với lỗi đều ở tình của nó phát ra, dân mà rời thời chẳng trúng tiết, lỗi mà lại vẫn cứ làm, thời biết mà lại làm, cái mà tình làm mất cái chính (ngay thẳng), lại lấy uốn nắn lại tính mà giết hại đấy vậy. Cho nên, người thường tình trái tính, đại hiền tính chế tình. Tình trái tính cho nên rời và lần thứ hai, tính chế tình nên chẳng rời chẳng thứ hai.
Biết Dịch ấy bất tất dẫn dùng giảng giải, mới là biết Dịch. Mạnh Tử làm sách, chưa từng kịp đến trong sách Dịch, mà Đạo dịch của nó còn vậy. Song người như vậy ít thấy. Người hay dùng Dịch ấy là biết Dịch, như ông Mạnh Tử đáng bảo là khéo dùng Dịch ấy vậy.
Biết Dịch là ở hay dùng, dẫn suông giảng giải, sao là biết vậy. Mạnh Tử làm sách chẳng kịp đến Dịch, mà Đạo dịch còn ở trong, cho nên khéo làm dùng Dịch. Hỏi chỗ ông Mạnh Tử dùng Dịch, rằng xin học đức Khổng, tức là xin học Dịch vậy, Dịch ấy là Thánh ở thời vậy. Khác như thế vận lấy 500 năm làm trị loạn ở giao, mối Đạo lấy Nghiêu Thuấn đến Khổng làm nghe thấy ở hội, ấy đều chỉ ở Hoàng cực kinh thế, hay là Thiệu ta đem chí đến mong ông Mạnh du !
Dịch làm thành sách, hầu lấy thuận tính mệnh theo tự nhiên. Khổng Tử dứt 4 điều theo 1 lòng lấy suốt đến mệnh. Nhan Tử sửa lòng thường không thích học, Tử Cống chứa nhiều để làm họa, tức đọc để đi tìm Đạo, chẳng hay khi lòng mở chỉ thấy giết, ủy mình vào lý, chẳng chựu mệnh ấy vậy. Xuân Thu theo lý tự nhiên mà chẳng lập ý riêng, cho nên là sách tận tính vậy.
Dịch thuận lẽ tính mệnh, theo ở tự nhiên. Khổng Tử đến mệnh cho nên không ý. Tất cả, ngã, theo lòng thuận phép mà suốt ở 1. 1 tức là Thái cực đại nguyên (gốc lớn), bởi chỗ lập mệnh của nó vậy. Nhan tử thời thích học, cho nên lòng chẳng trái điều nhân, thường mệnh không hay để yên, không cách ở Đạo, ôi học thánh mà ngõ hầu vậy. Tử Cống một mình chẳng chựu mệnh, chứa nhiều hay chống đối ông Nhan, học chuyên nhiều chứa Đạo lấy liệu chừng trúng: còn như dùng biết số. Cho nên chẳng hay mổ giết ý kiến riêng, uỷ mình dùng lý tính mệnh vậy, dứt trái tự nhiên. Khổng làm Xuân Thu theo lý, chẳng lập ý riêng, thuần dùng tự nhiên. Cho nên Xuân Thu bảo là sách tính mệnh, cùng Dịch đồng ý.
Rõ rệt chứng nhân, dấu ở cách dùng. Khổng khéo dấu cách dùng của nó. Trời đất rõ rệt nhân mà dấu cách dùng, thánh nhân đồng đấy. Khổng dùng làm rõ rệt ở điều nhân, quá ấy hóa của nó, bỏ cách dấu, dấu cách dùng, cái mà còn lại ấy là thần.
Ô Bá Di, ô Liễu hạ Huệ được thánh nhân ở một mối. Bá Di được thánh nhân ở trong sách. Liễu Hạ Huệ được thánh nhân ở hòa. Khổng thì lúc trong, lúc hòa, lúc làm, lúc thôi, cho nên được làm thành nhân ở thời. Di Huệ là thánh lệch, đều lấy 1 mối, hoặc trong hoặc hòa, đều đến rất mực của nó. Song chẳng hay dùng thì đều đi. Duy có Khổng là thánh ở Thời, gồm cả thành, hóa, theo, ở, làm, thôi, đều lấy ở Thời mà thôi. Thánh nhân khó ở chỗ chẳng mất nhân nghĩa trung tín, tức là sửa theo trời mà người theo ý ở đấy. Cốt yếu của nó ở tuyệt 4, bèn hay tập hợp nên, thánh nhân rất mực mà chẳng dễ nói.
Người hẳn trong trọng, trong trọng thời ngoài khinh, khi trong khinh tất ngoài trọng, thích lợi thích danh, không gì là chẳng đến rất mực. Lý nghĩa là bên trong, lợi danh là bên ngoài, trong ngoài khinh trọng, thường làm hơn lẫn nhau, nếu lấy danh lợi làm thích, ngoài trọng trong khinh, chẳng đến của nó là cái gì vậy.
Được cảm ơn bởi: vanti67
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Lấy nghĩa làm trọng thời làm tượng bên trong, lấy lợi làm trọng thì làm tượng bên ngoài. Nghĩa và lợi hiện rõ ở xét trong ngoài, so sánh khinh trọng. Lấy nghĩa làm trọng, thì hay trọng bên trong mà ngoài đều khinh vậy. Nếu lấy lợi làm trọng, thì chỉ ngoài trọng mà trong lại khinh vậy.
Nay chữa người, hay chữa ở bệnh tật, chẳng được gọi là lương y (thầy thuốc giỏi). Chữa người, cái mà chẳng hay chữa ấy, là lương y trong thiên hạ. Hay xử người cái mà chẳng hay xử ở việc, thời hay vì người cái mà chẳng hay làm ở việc vậy. Việc không khó, xử được lý của nó mà lòng không lệch cách dùng, là khéo xử ở đấy. Người ta lo tự đầy đủ, đầy đủ thời với thời vậy, ví như ô Vũ chẳng tự mãn hạ (đầy đủ đối đãi) của nó mà lấy làm hiền, dẫu có học mà như chẳng đủ, chẳng đáng tới chỗ sâu để làm cao được. Học mà tự mãn, mãn thời thôi không chỗ tiến, khí cục nhỏ cho nên vậy. Vua Vũ là Đại thánh nhân chẳng tự mãn hạ, thiên hạ chẳng ai cùng tranh tài tranh công, cho nên hiền hơn ngàn đời. Kẻ học như có thừa cái thường mà cũng như chẳng đủ, như tới chỗ sâu làm cao, cao của nó là bao nhiêu, thời mãn thôi đấy, là lo bên trong đấy vậy.
Phàm xử mất ở được và trước, thì cái được cũng chẳng đáng mừng. Như xử được ở mất ở trước, thì cái mất khó xử vậy, tất đến ở rơi rụng lúa. Mất ở cái đã được trước, coi cái mất mà lo ở cái đã được. Cho nên, cái đã được cũng chẳng lấy làm mừng được ở cái mất trước, khoe cái được với được thường hay quên mất, vậy nên mất Trời thì rời theo, mất cái cầm giữ thường khó xử vậy.
Ba người đi cũng có thầy vậy, đều làm bạn với người hiền ở một làng, người hiền thiên hạ lấy làm chưa đủ, lại bàn đến chuộng người đời xưa không mấy hơn người đời nay. Người chẳng mãn thì đã tự thấy đủ, không ở chẳng đáng rộng cái ích. Làng, nước, thiên hạ đều làm bạn, còn như thấy chưa đủ, mà vẫn chuộng bàn người đời xưa, đến đấy thời còn gì hơn vậy.
Người về dù có dụng tâm, ắt có cái được của nó, chỉ có khác nhiều ít, ở trí thức có nông sâu. Ăn no suốt ngày thời không dụng tâm của mình thì khó lắm vậy. Nếu hay dụng tâm, tùy họa tuy được, được có nhiều ít, lấy trí thức làm nông sâu, mà đã trăm đã ngàn, hay quả quyết ở Đạo thời chỉ có tâm hay dùng mà thôi.
Thiên hạ nói kẻ đọc sách chẳng ít, hay đọc sách ấy ít, nếu được là trời thực vui, sách nào chẳng đáng đọc, chỗ cứng rắn nào chẳng đáng phá, lẽ nào chẳng đáng tinh. Nói hết thẩy đọc sách, thực đọc ấy không nhiều, đến được ở trong lòng cái lý của Trời thực vui, tự nhiên mà sinh vui, thời khó đọc ấy đọc, khó giải ấy giải, khó tinh ấy tinh, sao lại chẳng được cái của nó, ta thực vui vậy.
Nay có người lên hai tầng đài, hai đài ấy bằng nhau, thì chẳng thấy cái cao của nó, một đài cao thì sau mới biết cái thấp kém của nó. Một nước, một nhà, một thân đều đồng nhau. Xét xử một thân, thì hay xử theo một nhà. Xét xử một nhà thì hay xử theo một nước. Xét xử một nước thì hay xử theo thiên hạ. Tâm làm gốc của thân, nhà làm gốc của nước, nước làm gốc thiên hạ. Tâm hay vận động thân, nếu chẳng muốn cái thân của nó hay làm sao !
Chia đài bằng nhau mà lên, thì chẳng thấy cao thấp. Đài có một cái cao, thấp kèm theo tự thấy. Một nước, một nhà, một thân khi xem xét, đều như đài có cao thấp, hay tự ở cái thấy. Song, đài có cao thấp, kẻ lên nhất bậc, từ một thân tới nhà, tới nước, hay tới thiên hạ, xét xử ấy tùy phân hay xét xử thời đồng nhau, đồng nhau cái của nó, là cái cùng một gốc của nó vậy. Bản tâm là mình, bản thân mình là nhà, cũng là nước, là thiên hạ, lần lượt cùng cấp bậc vậy. Duy có thân theo tâm vận động, nếu tâm chẳng muốn có, thì cái thân bởi đâu mà đi, tự thấy cao thấp đấy, tìm ở trong bản tâm mà ngõ hầu tự biết vậy.
Tinh thần con người quý ở cách dấu ở khi dùng đấy, nếu kheo ở ngoài, thời cái bại hoại, chẳng thể ít có. Ví như dao sắc, vật tới thời cắt đấy, nếu cậy dao sắc mà đi tìm vật để cắt, thì dao và vật đều thương hại vậy.
Cái cung vốn có mạnh yếu, nếu một cung mà hai người dương, thì kẻ có sức lấy cung làm yếu, kẻ không có sức lấy cung làm mạnh. Cho nên, kẻ có sức chẳng lấy ở sức mình, mà lấy cung làm yếu ; kẻ không có sức, chẳng đủ lấy ở sức mình, mà đành lấy cung làm cứng. Sao nghĩ chẳng nhiều vậy, một cái cung chẳng phải có cứng có yếu, do bởi sức hai người mạnh yếu chẳng đồng nhau đó thôi.
Sức mạnh yếu có phân có chia, một cây cung làm sao phân chia, có sức bảo cung yếu, không có sức thì bảo cung mạnh, chẳng nghĩ tới sức mình có thừa hay chẳng đủ, mà nói yếu mạnh ở cung, sao lại vu cho cung mà tốt cho mình. Phàm xét việc như xét người với vật, với cung vậy.
Đầu trang

Hà Uyên
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 607
Tham gia: 14:20, 02/05/09

TL: HOÀNG CỰC KINH THẾ - QUYỂN 8 - HẠ

Gửi bài gửi bởi Hà Uyên »

Nay có một bát cơm ở trước, hai người cùng nhìn quá thấy, nếu cùng nhường nhau thì đều được ăn, cùng cướp thời tranh nhau, chẳng những tranh mà thôi, hoặc chẳng được ăn, đó 2 người đều ấy đều là tình người, biết đấy ấy ít, biết đấy thời việc thiên hạ đều như thế vậy. Một bát cơm đương lúc hai người đói, nhường nhau thời hai người đều được ăn, cướp mà tranh nhau thời đều chẳng được ăn, tình người hết vậy, kẻ biết lại ít.
Học lấy việc người làm lớn, kinh sách nay là việc người xưa vậy. Học chẳng phải nói suông, thực ở việc người, kinh điển chép việc người vậy. Chứng đời xưa tức là dậy đời nay vậy. Việc tất phải lượng sức, lượng sức cho nên hay lâu. Việc có thừa ở sức, sức thời chẳng kể xiết, sức thừa ở việc, việc không gì chẳng cất lên. Lượng sức thời hay lâu, chẳng lượng sức mà ngày tháng làm đấy, khó lâu dù tam vậy.
Thuốc lành chẳng đáng lìa khỏi tay, lời nói thiện chẳng đáng lìa khỏi miệng. Thuốc lành lợi cho bệnh, lời nói lành lợi cho việc làm, đều chẳng nên khắc lìa, mà cần thiết ở miệng cũng như ở tay.
Trời nghiệt ngã 10 ở 1 còn có thể trái. Người nghiệt ngã 10 ở 9 chẳng có thể trốn tránh. Trời làm nghiệt ngã còn có thể trái đấy ít, người làm nghiệt ngã chẳng có thể trốn tránh ấy nhiều. Không đức ấy trách người oán người, dễ đầy, đầy thời thôi vậy. Mệnh thời không đức mà tránh trông người. Khí nhỏ dễ đầy, thời thôi không biến bước. Con đường đi chẳng có thể chẳng rộng, rộng thời ít ngại. Đường rộng ít ngại, đi thời thản nhiên, độ lượng rộng cũng đồng, chơi vật phẳng lặng.
Người học làm mất cái tự chủ, thời tưởng tượng quá lắm.
Học chẳng đáng chẳng tự chủ trương. Tìm Đạo mà mồm tai làm trước theo người, sao có thể yên lặng để nhớ. Song, cũng chẳng thể quá tự chủ trương. Tìm Đạo mà theo tâm, gượng sức thăm tìm tòi, thời có gì là tự đắc. Tự đắc lặng nhớ ở học, hai sự đó chẳng mất, người học thường lo đấy, phàm vậy.
Biết đấy mà làm biết đấy, chẳng biết mà làm chẳng biết, tính của Thánh nhân vậy. Nếu chẳng biết mà gượng biết, chẳng phải ở tình mà sao. Mất tính mà còn tình là chứng ở người thường vậy. Biết đấy chẳng biết, chớ dối mà chi, tính của Thánh không thực thời còn thế. Nếu chẳng biết gượng làm biết, thời dùng tình nhiều càn rỡ mà dối che quá vậy. Tính thời Thánh, tình thời người thường vậy.
Kẻ có ngựa mượn người cưỡi, bỏ mình để theo người vậy. Vật công chẳng xin, thiện công cùng nhau. Bỏ mình theo người, sao người nhớ mến, ví như có ngựa cho người mượn cưỡi, tức có thể mong như vua Thuấn.
Ai hay ra chẳng bởi cửa, cửa là Đạo vậy. Chẳng bởi đạo chưa có mà hay nên việc, chẳng bởi cái cửa ấy, là loại mở cái khe nhỏ vậy (Tốn). Ra hẳn bởi cửa, bỏ đạo sao nên việc, mở khe nhỏ chẳng bởi việc, giống vậy.
Nghe nhiều chọn theo cái điều thiện của nó, thấy nhiều mà nhớ, nhớ cái riêng biệt. Dẫu như có thấy nhiều, tất có lấy riêng biệt đấy. Nghe thấy quý nhiều, chọn mà theo, biết nhớ mà riêng biệt, biết tìm ở cốt yếu, cho nên học giả chẳng quý suông nhiều.
Học Đạo nhường thầy lấy điều nhân tiến người. Nhường người chẳng ai bằng thấy người, đương điều nhân chẳng nhường cất tiến ở người, Đạo hay ở mạnh.
Lưu Huyền hỏi về “vô vi”, thưa rằng đúng thì sau mà nói, thời người chẳng chựu lời nói của nó. Vui mà sau cười, thời người chẳng chán cái cười của nó. Nghĩa mà sau lấy (sau nghĩa mà lấy), thời người chẳng chán cái lấy của nó, rằng cái mà “vô vi” vậy.
Vô vi không phải không làm, như đúng thì nói, không phải chẳng nói. Vui cười chẳng phải chẳng cười. Nghĩa lấy không phải chẳng lấy, cốt yếu ở không có thể chán mà thôi, không có thể chán thời hai lần quên ngựa. Cho nên, Thiệu ta nên dẫn sự đó, để đáp Lưu Huyền hỏi. Ví rằng có làm mà hai lần quên đấy thời như không làm.
Vàng nên trăm lần rèn rồi sau tinh, người cũng như thế. Vàng ren mà tinh, học rèn mà đến, tài đức rèn mà to, mong đến bậc thánh bậc hiền, đều theo rèn được.
Đạo dùng binh ắt đợi nhân dân giầu, kho đụn giầu, kho phủ đủ, danh chính binh mạnh, trời thì thuận, đất được lợi, rồi sau có thể cất lên làm. Nước chẳng bỏ việc binh, dùng đấy có Đạo, dân giầu mà kho phủ đầy đủ, binh sức đã mạnh, quân danh lại chính. Đã thuận, thì được lợi ở trời, được lợi ở đất, có thể bàn cất lên. Không thời chẳng đủ 1, chưa có thể khinh thường mà dùng vậy.
Ô Bá Di vì nghĩa mà chẳng ăn thóc nhà Chu, đói rồi đến chết, cũng chỉ làm được đến điều nhân mà thôi. Tìm người được người, vì nghĩa xấu hổ ăn thóc nhà Chu, chựu để đói hơn là no, chựu để chết hiền hơn sống, Bá Di tìm gì khác vậy thay.
Lão Tử biết sâu Dịch ở thế ấy vậy, năm ngàn lời, đại để làm sáng cái lý của vật, cùng lý cách vật, tức là lấy học Dịch, Thiệu ta đương đấy. Bon Trang Tuần học cũng xa rộng, mà mất ở lời biện bạc. Cái mà trước tán (làm sách), hoặc mất ở lời biện bạch. Thánh hiền chẳng muốn biện bạch, biện bạch thời chuộng nói suông.
Trang Tử cùng Hụê Tử chơi ở bên bờ hào. Trang Tử nói cá du ra chơi thung dung, ấy là cá vui vậy, ấy hết tính mình, hay hết tính vật vậy. Chẳng phải cá thời còn thế. Thiên hạ ở vật đều như thế. Như Trang Tử đấy, rằng đáng thông theo vật, xem cá mà phân vật, khéo thông cái lý của vật vậy.
Trang Chu hùng biện (biện bạch mạnh mẽ), ngàn năm có một người mà thôi. Như bảo đinh mổ trâu, rằng con nhện nhìn 4 phía, đấng Thánh xem ở nước Lỗ việc lương, nói rằng: nước đi Đạo không ở riêng. Đều lời nói chí cái lý vậy.
Trang Tử hùng biện, một mình chia mà nói nhiều chí lý, lời nói mổ trâu nước đi, so sánh Đạo với Thần, ngàn năm không hại. Trang Tử làm ra Thiên đạo chích, làm sáng tỏ cái chí ác (rất ác) của nó. Dẫu có bậc chí thánh, cũng chẳng hay hóa được, là vì thượng trí với hạ ngu chẳng rời nhau vậy.
Khổng Tử là bậc chí thánh, chẳng hay hóa được Đạo chích chí ác, thượng trí hạ ngu chẳng rời. Trang Tử chẳng phải nhờn đáng thánh, phát minh chí luận mà thôi.
Một vị nho nước Lỗ, rằng Khổng Tử vậy (thấy ở Trang Tử). Trang Tử tề vật (một thiên sách Trang Tử), chưa khỏi ở so sánh lượng, so sánh lượng thời hay tranh chấp, hay tranh chấp thời chẳng bằng lòng, chẳng bằng lòng thời chẳng hoà.
Tề vật luận, bằng vật ở cái chẳng bằng, này kia so sánh, chưa khỏi vật với vật tranh chấp nhau, hầu mất bình thản ôn hòa ở cái đến. Mạnh Tử bảo ở vật chẳng bằng, là tình của vật vậy. Đếm tình tìm bằng cách Mạnh thì lớn, tìm bằng cách Trang thì nhỏ.
Trang Tử hào khí, như việc lương ở nước Lỗ, nói ở rất mực đấy. Nói việc Đạo chích không có thể nài nỷ được, dẫu có thánh nhân cũng chẳng như vậy sao, ngư phủ nói việc chẳng thể cưỡng, dẫu có thánh nhân cũng chẳng có thể cưỡng. Đó là nói về lý có làm hay không làm, thuận với lỳ thì không làm, cưỡng lại thì có làm.
Trang Tử nói: anh bếp dẫu không trị bếp, Thi “*” Chúc chẳng vượt chén mâm mà thay đấy. Đó quân tử nghĩ ra chẳng phải ngôi của nó, ngôi không làm ở ý vậy.
(Thi: là thần thi, khi xưa tế lễ, dùng 1 đứa trể ngồi lên ngai, để cho thần nương vào. Chúc: là bản chúc, người cầm bản chúc đối trước thần thi mà đọc)
Thi Chúc chẳng vượt mâm để trị bào, nghĩ làm chẳng ra khỏi ngôi, mà muốn ngoài ngôi của nó như không mà thôi. Lời nói Trang Tử cùng với đại Dịch Trung dung cùng phát minh.
Tài quý phát ngôn như Bá Di, Bá Di hay nhường, mất nước được nhân tài, Văn Trang Tử nói: dễ vui ấy tất nhiều thương đau, tỏ ra kinh thường đấy tất cướp thích. Nói: thiên hạ đều tranh lợi bỏ nghĩa. Một mình ta ở đó sao. Thánh nói: bỏ cái tranh chấp của nó, lấy cái mà nó bỏ, chẳng cũng là quân tử du !. Loại như thế là nói lý nghĩa vậy. Tâm tích ở phán xét lâu, loại như thế, lời nói tạo hóa vậy.
Dễ vui nhiều thương đau, làm ra khinh thường là thích cướp, cũng thôi lấy bỏ tranh chấp, khinh lợi quý nghĩa, nói vốn lý nghĩa cũng thông tạo hóa. Tích ở tâm phán xét lâu. Cách ngôn văn của Trang Tử, đáng chép vậy.
Nói: “tài nan”, tài là khó, là bảo gì vậy ?
Rằng tới việc lớn, rồi sau thấy tài khó vậy. Sao chỉ nói tài? Rằng tài ấy là chất lành của trời. Học giả cái mà lấy thành tài của mình vậy. Người xưa, có kẻ chẳng bởi học vấn mà nên công nghiệp vậy. Duy có cái mà không học, thì chưa hết cái tốt lành. Người mà không học, thời chẳng hay soi rõ lý. Lý mà soi không tỏ, thời hay cố chấp mà chẳng thông.
Học để rộng tài, dẫu có việc lớn mà may mắn thành, trọn chẳng hết tốt lành. Người chẳng tới việc lớn, chẳng thấy tài khó. Tài chẳng thử đấy, tới việc lớn, thời đâu biết họa quý.
Người có tài hơn người tất lấy cương mạnh, hay trúng cương, thời đủ lấy lập nghiệp. Ở vào lúc hoạn nạn, nếu dùng những cái khác, lại làm tà ác, đã có lòng dục, tất không cương mạnh được vậy. Tài hơn người tất cương, thằng trung hay cương sự nghiệp của nó bởi ở cách lập, hoạn nạn của nó bởi ở định nghĩa lý, chí khí định chẳng phải cậy khí huyết ấy ví vậy. Giả như nhiệm dùng khí huyết, chẳng phải đức trời ở cường, lại làm tà ác. Đức thánh nói: Trinh vậy, có lòng dục, dục tất không cương, cương tất không dục. Càn mạnh mẽ chẳng Thái, đáng lấy thấy cương vậy.
Quân tử bảo rõ ở nghĩa là người hiền, tiểu nhân bảo rõ ở lợi mà thôi. Nghĩa lời đều quên cả, duy thánh nhân hay đấy. Quân tử sợ nghĩa mà chẳng làm cái của mình, tiểu nhân thực chẳng sợ. Thánh nhân thời động làm chẳng vượt qua phép tắc, nào nghĩa ở sợ du !
Bảo rõ nghĩa là người hiền, quân tử đoái sợ chính nghĩa, có chẳng làm của mình bảo rõ ở sâu, cho nên theo ở sức mà chẳng giám trái. Tiểu nhân chỉ biết có lợi, xu lợi hại nghĩa, thực không kiêng sợ, sợ gì vậy. Thánh nhân đều quên nghĩa lợi, động làm chẳng vượt qua khuôn phép, khuôn phép tức là cái nghĩa ở ngoài phương, tức là hợp thẳng ở giữa ở kính, trước chẳng phải sợ nghĩa tự chẳng vào, sợ kính của nó, thuận có thường, đáng lấy sợ nghĩa vậy.
Việc thiên hạ bắt đầu quả ở trong, cồn như vụt ở khinh. BẮt đầu quá ở hậu, rồi như vụt ở bạc, huống chỉ bắt đầu lấy khinh, ắt bắt đầu lấy bạc ấy du ! Cho nên, mất ít ở trọng, mất nhiều ở khinh, mất ít ở hậu, mất nhiều ở bạc. Ấy quân tử lấy chẳng lo quá ở trọng, thường lo quá ở khinh, chẳng lo quá ở hậu, thường lo quá ở bạc.
Học chẳng đến ở vui, chẳng đáng bảo là học.
Biết chẳng như thích, thích chẳng như vui, học đến chỗ rất vui, thân tâm tính mệnh tự nhuận có của nó, chưa đến vui chẳng đáng bảo là học ở thành.
Cái học ghi hỏi, chưa đủ lấy làm sự nghiệp. Thi thố ra làm sự nghiệp, bởi ở chứa cái học, học chẳng đến sâu, tự đắc mà siêng lấy ghi hỏi, thì chưa đủ để lập sự nghiệp. Văn đi từ xa, cũng như sự nghiệp muôn phần ở 1, chẳng phải lấy ký vấn chựu lấy vậy. Ở học chẳng thôi, cho nên Vương thông rằng suốt đời mà thôi. Học mà thì, thì tập, cùng Càn chẳng thôi. Lời nói của Vương Thông: “suốt đời mà thôi” cũng rộng, cũng cứng cỏi, chí kinh thế lâu xa vậy.
Trở lên nói về Tâm học, Tiên thiên sáng chẳng trái tâm cùng Trời hợp, thành thực sáng tỏ đều đến, cái mà xem vật lấy tâm, cái mà kinh thế lấy tâm, học chẳng phải ký vấn, học thông xưa nay cất lên tin Dịch, Thư, Thi, Xuân thu, gồm Hoàng, Đế, Vương, Bá ở cách dùng, ban khắp theo nhân vật của nó. Cái mà làm tâm học, tức là đối đãi đi lại ở Thiên căn - Nguyệt quật, mà đủ 36 cứng ở Xuân, ở trong tâm vậy. Chuộng ở học xa tất Thiệu vậy.

Đồ Tiên thiên vị quẻ Phục Hy.
Đồ Hậu thiên vị quẻ Văn Vương.
Đồ Lạc thư xét Ngũ hành sánh vị quẻ.
Được cảm ơn bởi: su-tu
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức Dịch lý”