Mỗi ngày Dịch một tý

Các bài viết học thuật về dịch lý, thái ất, kỳ môn...
Hình đại diện của thành viên
vo_danh_00
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6289
Tham gia: 10:12, 03/05/10
Đến từ: nam định

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi vo_danh_00 »

đây là phần lập thành sẵn rồi bạn chỉ cần học thuộc, còn nếu như muốn hiểu quy luật nạp giáp ta phải đọc phần đầu tiên nhưng nó hơi phức tạp một tý, xin trích dẫn và giải thích rõ hơn ý của tác giả: cần nhìn vào đồ hình nạp giáp để hiểu rõ
"Lãi Hải Tập" nói: "Thuyết về Nạp Giáp, từ Giáp là 1 đến Nhâm là số 9, đó là số Dương bắt đầu và cuối hết vậy, vì vậy quay về Càn, Dịch thuận số vậy. để nạp thiên can thì can dương nạp vào quẻ dương nên ta lấy các can dương trước: giáp là 1, bính là 3 mậu là 5 kỷ là 7 và nhâm là 9 "số lẻ là dương" , quy tắc là dương thì theo chiều thuận nên ta thấy quả càn nạp giáp có Giáp ở nội quái là khởi đấu và nhâm ở ngoại quái là kết thúc
tương tự với can âm
Ất là số 2 đến Quý là số 10, số Âm bắt đầu và hết ở đó, vì vậy quay về Khôn, Dịch nghịch số vậy. can âm làm theo chiều nghịch
Càn nhất sách, một lần tìm mà được nam là Chấn; Khôn nhất sách, một lần tìm mà được nữ là Tốn (1),
cái nhất sách này bạn hãy hiểu là nó ở hào đầu tiên của quẻ: càn toàn hào dương nên "nhất sách" thì chỉ có một hào dương ở hào đầu tiên thôi. sách lần nữa thì hào dương ở hào thứ hai và cũng chỉ có một hào thôi, thê ta mới có càn --> chấn--> ly --> cấn sau 3 lần "sách"
vì vậy Canh nhập Chấn, Tân nhập Tốn. Càn lại sách tìm lần nữa, mà được nam là Khảm .Khôn, lại sách tìm lần nữa mà được nữ Ly, vì vậy Mậu quy về Khảm, Kỷ xu theo Ly. Càn sách tìm lần thứ 3 mà được nam là Cấn; Khôn sách tìm lần thứ 3 mà được nữ là Đoài, vì vậy Bính theo Cấn, Đinh theo Đoài.
hic cái này nói bằng lời khó hiểu ~X( bạn hãy vẽ ra một cái sơ đồ các quẻ dương và các can dương là hiểu ngay chú ý chiều thuận là chiều ngược chiều kim đồng hồ
sau đây là nạp địa chi: chú ý rằng lấy cái bản đồ địa chi để biết phương hướng

Dương sinh ở Bắc mà thành ở Nam, vì vậy Càn bắt đầu ở Giáp Tí mà kết thúc ở Nhâm Ngọ. Âm sinh ở Nam mà thành ở Bắc, vì vậy Khôn bắt đầu ở Mùi mà kết thúc ở Quý Sửu. Chấn Tốn sách tìm một lần (từ Càn Khôn), vì vậy Canh Tân bắt đầu ở Tí Sửu (tức là Chân bắt đầu ở Canh Tí, Tốn bắt đầu ở bắt đầu ở Tân Sửu). Khảm Ly sách tìm lần nữa (lần thứ 2 từ Càn Khôn), vì vậy Mậu Kỷ bắt đầu ở Dần Mão (tức là Khảm bắt đầu ở Mậu Dần, Ly bắt đầu ở Kỷ Mão). Cấn Đoai ba lần sách tìm (từ Càn Khôn), vì vậy Bính Đinh bắt đầu ở Thìn Tỵ (tức là Cấn bắt đầu ở Thìn là Bính Thìn, Đoài bắt đầu ở Tỵ là Đinh Tỵ".

:) dò dẫm mãi tôi mới hiểu nổi cái quy luật của nó, mong là các bạn cũng vậy, khi hiểu rồi chả cần nhin toàn đồ tự mình cũng nạp giáp được :-bd
Được cảm ơn bởi: 1100, ngocthaotien3012
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
vo_danh_00
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6289
Tham gia: 10:12, 03/05/10
Đến từ: nam định

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi vo_danh_00 »

khà khà phần khó nhất đã qua, từ nay chỉ toàn nhưng điều logic như nhưng con toán học vậy, để dự đoán được bạn phải nắm chắc các phần trên để tự lập quẻ :)
nếu không bạn vẫn có thể đoán mà không biết cách lập quẻ nếu nắm rõ các phần sau :)

7. Động Biến

Sáu hào không động thì chẳng biến. Hễ động thì biến.

0 là Dương, động thì biến Âm - -
X là Âm, động thì biến Dương ---


Giả như quẻ Càn, hào 1 động hóa thành quẻ Tốn

---=> ---
---=> ---
--- => - -

Nếu quẻ Càn, hào 1 và hào 3 động thì hóa thành quẻ Khảm

--- => - -
---=> ---
--- => - -

Giả như quẻ Khôn, hào 2 động biến thành quẻ Khảm

- - => - -
- - => ---
- - => - -

Nếu quẻ Khôn, bao hào đều động thì biến thành quẻ Càn

- - => ---
- - => ---
- - => ---

Giả như chiếm đặng quẻ Thuỷ Thiên Nhu, biến ra Thiên Thuỷ Tụng

-X- => --- Thê Tài Tí Thuỷ => Huynh Đệ Tuất Thổ
--- => --- Huynh Đệ Tuất
-X- => --- Tử Tôn Thân Kim => Phụ Mẫu Ngọ Hỏa
-0- => - - Huynh Đệ Thìn Thổ => Phụ Mẫu Ngọ Hỏa
--- => --- Quan Quỷ Dần Mộc
-0- => - - Thê Tài Tí Thuỷ => Quan Quỷ Dần Mộc

Ba hào trên là quẻ Khảm, tức là Khảm ở ngoài: Thân Kim, Tuất Thổ, Tí Thuỷ, cho nên hào thứ 4 là Thân Kim, hào thứ 5 là Tuất Thổ, hào thứ 6 Tí Thuỷ; biến ra quẻ Càn, tức là Càn ở ngoài: Ngọ Hỏa, Thân Kim, Tuất Thổ; cho nên Thân Kim biến ra Ngọ Hỏa, Tí Thuỷ biến ra Tuất Thổ. Hào giữa không động nên không biến.

Ba hào dưới là quẻ Càn, tức là (nội) Càn ở trong: Tí Thuỷ, Dần Mộc, Thìn Thổ, cho nên hào thứ nhất là Tí Thuỷ, thứ 2 là Dần Mộc, thứ 3 là Thìn Thổ; biến ra quẻ Khảm là (nội) Khảm ở trong: Dần Mộc, Thìn Thổ, Ngọ Hỏa; cho nên Tí Thuỷ biến ra Dần Mộc, Thìn Thổ biến Ngọ Hỏa. Hào giữa không động nên không biến.

Những hào mới biến ra, theo lục Thân, thì lấy theo lục Thân của quẻ CHÍNH (quẻ đầu) mà lấp vào. Xem lại cách an lục Thân quẻ trên sẽ rõ.
Được cảm ơn bởi: 1100, ngocthaotien3012
Đầu trang

ngocthaotien3012
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 353
Tham gia: 22:25, 26/11/10

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi ngocthaotien3012 »

hiihi, a vo_danh hướng dẫn nhiệt tình quá, hy vọng là em sẽ có thể tự luận giải được. Cám ơn anh nhé ^^
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
vo_danh_00
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6289
Tham gia: 10:12, 03/05/10
Đến từ: nam định

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi vo_danh_00 »

khà khà cái này trích trong sách đấy:
Tập tin đính kèm
tang san tron bo.rar
(116.34 KiB) Đã tải về 611 lần.
Được cảm ơn bởi: 1100
Đầu trang

ngocthaotien3012
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 353
Tham gia: 22:25, 26/11/10

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi ngocthaotien3012 »

sách dày quá, mà lưng em còn dày hơn ^^
Đầu trang

ngocthaotien3012
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 353
Tham gia: 22:25, 26/11/10

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi ngocthaotien3012 »

hum qua, anh chưa luận hết dùm em quẻ sơn phong cấu , động hào 5 thành thuần khôn đó nhớ ko nà ^^
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00
Đầu trang

ngocthaotien3012
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 353
Tham gia: 22:25, 26/11/10

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi ngocthaotien3012 »

hic, hic , vo_danh_00 lặn biệt tâm lun oy... bùn quá :-((
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
vo_danh_00
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6289
Tham gia: 10:12, 03/05/10
Đến từ: nam định

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi vo_danh_00 »

quẻ lập đã thành động biến suy việc nhưng mốn coi thành bại cát hung của việc phải phụ thuộc "dụng thần".
Vậy dụng thần quan trọng vô cùng, nó chỉ công việc hay sự việc ta muốn coi, qua phần này ta biết phải lấy hào nào làm dụng thần:

8. DỤNG THẦN

Hào Phụ Mẫu: Chiếm cho cha mẹ, thì lấy hào Phụ Mẫu trong quẻ làm Dụng Thần.

Hoặc cho ông bà của ta, cha mẹ của chú bác, của cô dì, phàm lớn hơn cha mẹ ta, hay là bằng như chú bác cô dì, cùng là Thầy, cha mẹ vợ, cha mẹ của vú nuôi bái nhận, tam phụ bát mẫu. Hoặc tôi tớ hay người làm chiếm cho chủ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần.

Chiếm về trời đất, trời mưa, thành ao, tường rào, nhà cửa, ghe xe, áo quần, khí cụ (đao, kiếm...), bô vải, tạp hóa, cùng là tấu chương, văn thư, văn chương, thi cữ, thư quán, văn khế, giấy tờ, đều lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Vật loại rất nhiều, tại người thông biến. Nói tóm lại, các vật loại có tính cách tỷ hộ hay tỷ trợ thân ta, tức là nuôi nấng, che chỡ, đỡ đần cho ta đều thuộc hào Phụ Mẫu.

Phụ Mẫu là hào khắc Tử Tôn, là Kỵ Thần của Tử Tôn.

Hào Quan Quỹ: Chiếm công danh, quan phủ, việc quan, lôi đình (sấm động), quỷ thần, xác chết, vợ chiếm cho chồng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần.

Chiếm yêu nghiệt, loạn thần, đạo tặc, tà xí, những điều nghi kỵ lo âu, những lo sợ, tai họa, cũng đều lấy hào Quan Quỷ làm Dụng Thần. Vật loại cũng nhiều, nói tắc lại là những món câu thúc, khắc chế, thân ta đều thuộc hào Quan Quỷ.

Hào Quan Quỷ là hào khắc Huynh Đệ, là Kỵ Thần của Huynh Đệ.

Hào Huynh Đệ: Chiếm anh em, chị em ruột, cùng là những bà con trong họ, như con cô dì chú bác, anh em rễ, anh em bạn, trời gió, đều lấy hào Huynh Đệ làm Dụng Thần.

Anh em là người ngang hàng, đồng loại. Người kia đắc chí thì người nọ xâm lăng, thấy Tài thì đoạt. Cho nên chiếm Tài vật, lấy hào này làm thần cướp của, cướp tài; chiếm mưu sự, lấy nó làm thần cách trở; chiếm vợ hầu, tôi tớ, lấy nó làm thần hình thương khắc hại.

Chiếm cho anh rễ, em rễ, lấy Thế hào làm Dụng Thần mỗi khi tôi (tức Thánh Dã Hạc) đều thấy nghiệm.

Chiếm cho anh em chú bác và cô cậu, lấy hào huynh đệ làm Dụng Thần thì không nghiệm, rồi phải lấy Ứng hào làm Dụng Thần.

Ghi Chú: Tôi (Kh.K.MinhTâm) có gặp quẻ anh em chú bác cô cậu ứng vào hào Huynh Đệ. Lại ứng luôn cả vào hào Huynh Đệ cho anh em vợ, hay anh em rễ. Theo tôi nghĩ vấn đề chính là mình có thân thương những người ấy và xem họ như anh em của mình hay không thôi. Bởi nếu nói đúng theo Nguyên Lý Tài là vợ thì anh em, chị em của vợ tức ngang vai với vợ, vậy nên phải lấy Tài làm Dụng Thần. Anh em của mình là Huynh Đệ, thì chồng của chị em mình là Quan Quỷ vì người câu thúc sai khiến chị em gái của mình. Hoặc như chị em dâu, thì anh em của mình là Huynh Đệ, thì Tài là vợ của Huynh Đệ, vậy nên phải lấy Tài làm Dụng Thần. Tuy nhiên, thực tế thì nhiều khi lại ứng ngay vào hào Huynh Đệ, do đó cần phải xét quẻ mới có thể đoán chắc được. Theo tôi thì tuỳ thuộc vào câu hỏi rất lớn, ví như hỏi rằng:"Chị B (chị vợ) bệnh có qua khỏi không"? Thì chắc sẽ ứng vào Huynh Đệ. Nhưng nếu hỏi rằng: "Chị của vợ tôi là B bệnh có qua khỏi không"? Thì chắc Thần sẽ ứng vào hào Tài. Tuy nhiên, lắm lúc phải bảo chính người trong cuộc xủ mới chắc, mới mong bách phát bách trúng.

Hào Thê Tài: Chiếm cho Thê Tài, tôi tớ, tay sai, phàm những người của ta sai khiến, đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.

Chiếm hóa Tài, châu báu, vàng bạc, kho vựa, tiền lương, nhất thiết các món để dùng, nào là tài vật, nào là thập vật, khí minh (trời nắng sáng), đều lấy hào Tài làm Dụng Thần.

Hào Thê Tài là hào khắc hào Phụ Mẫu, là Kỵ Thần của Phụ Mẫu.

Hào Tử Tôn: Chiếm cho con cháu, con cái, con rễ, con dâu, môn đồ, phàm theo hàng với con cháu của ta, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.

Chiếm cho trung thần, lương tướng, y sĩ, y dược, tăng đạo, cửu lưu thuật sĩ, binh tốt, trăng sao, đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.

Chiếm lục súc (chó mèo heo gà nuôi trong nhà), cầm thú, cũng lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần.

Tử Tôn là Thần phúc đức, là thần chế Quỷ, là Thần giải phiền rầu, ưu nghi, mà cũng là Thần bác (khắc chế) quan, tước chức. Nên gọi phước Thần, mọi việc chi gặp nó thì vui vẻ. Chỉ có chiếm công danh, thì kỵ nó mà thôi.

9. Dụng Thần, Nguyên Thần, Kỵ Thần, Cừu Thần

Dụng Thần tức là Dụng Thần thuộc các loại đã kể trước.

Nguyên Thần là hào sinh Dụng Thần. (Ví như Dụng Thần là Tí Thuỷ, thì Thân Dậu Kim sinh Tí Thuỷ gọi là Nguyên Thần, tức là Thần gốc sinh ra Thuỷ).

Kỵ Thần tức là hào khắc Dụng Thần. (Ví như Dụng Thần là Tí Thuỷ, thì Thìn Tuất Sửu Mùi Thổ là Kỵ Thần của Tí Thuỷ).

Cừu Thần tức là hào khắc Nguyên Thần, không cho sinh trợ Dụng Thần, trở lại sinh Kỵ Thần để Kỵ Thần khắc hại Dụng Thần. (Ví như Thân Dậu Kim là Nguyên Thần của Tí Thuỷ, thì Cừu Thần là Tỵ Ngọ Hỏa, khắc Thân Dậu Kim và sinh trợ cho Thìn Tuất Sửu Mùi Thổ).

Giả như Kim là Dụng Thần. Sinh Kim là Thổ, Thổ là Nguyên Thần. Khắc Kim là Hỏa, Hỏa là Kỵ Thần. Khắc Thổ, sinh Hỏa là Mộc, Mộc là Cừu Thần.

Bất luận chiếm việc nào, trước coi hào nào là Dụng Thần. Đã đặng Dụng Thần, coi có vượng tướng không? Có Nguyên Thần động mà sinh phò chăng? Có Kỵ Thần động mà khắc hại chăng?

Giả như tháng Thìn, ngày Mậu Thân, chiếm cho cha mới đau; đặng quẻ Càn vi Thiên, biến ra Phong Thiên Tiểu Súc.

Càn Vi Thiên ***** Tiểu Súc
--- Phụ Mẫu Tuất Thổ Thế
--- Huynh Đệ Thân
-0- Quan Quỷ Ngọ --- Phụ Mẫu Mùi Thổ
--- Phụ Mẫu Thìn Thổ Ứng
--- Thê Tài Dần Mộc
--- Tử Tôn Tí Thuỷ

Một người cầm quẻ này đến hỏi tôi. Tôi trả lời:

- Bệnh mới phát gặp xung thì mạnh. Quẻ này thuộc về quẻ lục xung.
- Nhưng cha tôi đau nặng lắm, xin Thầy coi ngày nào mạnh?
- Trong quẻ này, Thìn Thổ, Mùi Thổ, Tuất Thổ, ba từng Phụ Mẫu là ba hào Thổ, phải chọn hào nào vượng mà dùng. Nay Thìn Thổ Phụ Mẫu, trúng Nguyệt Kiến (tức hào Thìn gặp tháng Thìn), tức là dùng Thìn Thổ làm Dụng Thần. Hiện giờ bệnh trầm trọng là vì ngày Thân xung Dần Mộc thành ám động, Mộc động để khắc Thìn Thổ.

Khách liền hỏi:

- Trong quẻ Ngọ Hỏa phát động, Dần Mộc tuy cũng ám động, mà trở lại sinh Ngọ Hỏa, thành ra sinh Thìn Thổ. Kinh Bốc nói: "Kỵ Thần và Nguyên Thần đồng động, thì lưỡng sinh (hai chỗ sinh). Nay thầy chỉ nói: "Dần Mộc khắc Thìn Thổ, mà chẳng nói: "Ngọ Hỏa sinh Thìn Thổ, là tại sao?
- Ngọ Hỏa tuy động hóa ra Mùi Thổ, Ngọ Hỏa và Mùi hạp. Ngọ Hỏa tương hạp, chẳng sinh Thìn Thổ, cho nên Thìn Thổ bị Dần Mộc khắc, chẳng đặng Ngọ Hỏa sinh. Cho nên bệnh thế rất trầm trọng. Phải chờ ngày Sửu xung trừ Mùi Thổ, thì Ngọ Hỏa hết hạp, mới có thể sinh Thổ. Chừng đó tai nạn sẽ thối.

Quả nhiên đến ngày Sửu, bệnh nhân chổi dậy.
Được cảm ơn bởi: 1100
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
1100
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2803
Tham gia: 19:18, 19/09/10

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi 1100 »

Hóng hớt xem có tiếp thu dc tí nào ko ? :D
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
vo_danh_00
Thất đẳng
Thất đẳng
Bài viết: 6289
Tham gia: 10:12, 03/05/10
Đến từ: nam định

TL: Mỗi ngày Dịch một tý

Gửi bài gửi bởi vo_danh_00 »

xem tới dụng thần rồi mới thấy đoạn đầu của tăng san gần với nó:

Phàm học bói, có thể học đến chỗ cao xa, mà cũng có thể học những điều sơ cạn, thì trước cần học trang quẻ, biết chỗ động biến, cùng là những quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hay những quẻ lục hợp cùng là quẻ biến lục hợp. Hãy coi kỹ trong chương "Dụng Thần": chiếm cho người nào? Chiếm về việc gì? Rồi mới biết lấy hào nào làm Dụng Thần.

Lại nên xem coi: Thế nào là Tuần Không? Thế nào là Nguyệt Phá? Thế nào là bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, suy vượng? Thế nào là sinh khắc, là xung hình, thì sẽ tự biết quyết đoán họa phúc.

Giả như chiếm quẻ:

CẦU CÔNG DANH: Nếu đặng vượng quan trì Thế hoặc ngày, tháng, hào động làm Quan Tinh (lâm hào Quan Quỷ) sinh hợp với Thế hào, thì cầu danh như là lấy đồ trong túi. Nếu gặp Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, thì cầu thi đậu hay cầu thăng chức, đều là như mò trăng đáy nước.

CHIẾM CẦU TÀI: Nếu đặng Tài Tinh trì Thế, hoặc ngày, tháng, hào động lâm Tử Tôn, sinh hợp Thế hào, hoặc Quan Quỷ trì Thế được Tài động sinh ra nó, hoặc Phụ Mẫu trì Thế, Tài động khắc Thế đều là hứa chắc cầu tài, dễ như bực trưởng giả gải ngứa mà thôi. Nếu gặp Huynh Đệ trì Thế, hoặc hào Huynh Đệ động ở trong quẻ, hoặc Thế trúng Tuần Không, Nguyệt Phá, thì chẳng khác nào leo cây bắt cá.

CHIẾM VẬN HẠN NĂM, THÁNG: Nếu là người hiện đang nhiệm chức quan, thì phải Quan Tinh trì Thế, Tài động sinh ra nó, đều là hứa chắc cát khánh. Nếu gặp Quan Quỷ tương khắc hay ngày, tháng, hào động, lâm Tử tôn xung khắc Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế), hoặc lâm Quan Quỷ xung khắc Thế hào (tức Huynh Đệ trì Thế), hoặc Thế lâm Tuần Không, Thế bị Nguyệt Phá, hay Quan bị Nguyệt phá hoặc lâm Tuần Không, hoặc Thế động hóa ra hồi đầu khắc, hoặc Tử Tôn trì Thế đều là điềm Hung.

Thường dân chiếm Vận Hạn một tháng, mừng được hào Tài hay Tử Tôn trì Thế, hứa chắc một năm hanh thông. Nếu gặp Quan Quỷ trì Thế mà đặng ngày tháng, hào động làm Tài Tinh, sinh hợp Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế) thì sẽ có cát lợi. Nếu không có Tài động sinh hợp Thế hào mà Quan Quỷ trì Thế phải gặp tai nạn, thị phi (hoặc không có công việc làm, hoặc bị mất viêc...). Nếu Thế bị Nguyệt Phá hay hồi đầu khắc phá, Thế lâm Tuần Không, cùng Quỷ động khắc Thế, hay Thế suy nhược lại bị hình, xung, khắc; hoặc Huynh động khắc Thế, sẽ gặp khẩu thiệt, phá tài, hoặc bệnh tật.

Thường Dân chiếm lưu niên (đoán Vận mỗi năm), tháng hợp với Thế hào thì kiết, tháng xung với Thế hào thì hung. Không nên có Thế hào biến Quỷ và hóa ra hồi đầu khắc, định có hung nguy. Lại cũng không nên Tài động hóa Phụ, Phụ động hóa Tài, hoặc Quỷ động hóa Phụ Mẫu, phải có tai nạn cho cha mẹ (người bề trên), hoặc bệnh tật nặng nề. Còn Huynh Đệ động hóa Quỷ, Quỷ biến Huynh Đệ, phòng anh em có tai ách và mình. Tài hóa Quỷ, Quỷ hoá Tài, Tài hóa Huynh, Huynh hóa Tài, chắc có thương khắc vợ hầu, tôi tớ, người làm công. Tử hoá Quỷ, Quỷ hóa Tử, Phụ hóa Tử Tôn, Tử Tôn hóa Phụ, thì trẻ nhỏ sẽ thọ hại.

Thanh Long, Thiên Hỉ (Dụng Thần) trì Thế, sinh Thế, thì có điềm vui. Hể Quỷ phá động sẽ có hiếu phục (có tang tóc).
Phi Xà, Chu Tước gia ngay hào Huynh trì Thế, Quỷ động khắc Thế tu phòng khẩu thiệt, miệng tiếng thị phi, kiện tụng. Huyền Vũ gia ngay hào Huynh trì Thế, Quỷ động khắc Thế tu phòng đạo tặc (bị cướp), hoặc kẻ xấu hãm hại.
(Theo tôi kiểm nghiệm thấy, dù Huynh Đệ trì Thế mà hóa Quỷ thì mình bị khẩu thiệt nhiều hơn, hoặc anh em gặp nạn, còn thân mình chẳng sao. Nếu mình không có anh em thì mới ứng vào mình. Trường hợp Quan trì Thế suy nhược lại động hoá khắc, hóa mộ thì chắc chết, thêm Phi Xà hay Bạch Hổ thì chắc nhập hoàng tuyền, được truy tặng mộ bia. Chắc hơn nữa, nên xủ lại nhiều lần, nếu quẻ đều hiện thế mà không lo tu hành chắc phải chết).

CHIẾM TRÁNH TỤNG SỰ, PHÒNG THỊ PHI, TAI HỌA: như cừu nhân làm hại, và đi sông biển, vào hiểm địa, (ngủ đêm lữ điếm, tá túc chùa miểu), hoặc kinh doanh mậu dịch, mua lầm vật trộm, hoặc thấy nhà gần lửa cháy, hoặc hỏi về ôn dịch lưu hành, phòng hổ lang, phòng trộm cướp, hoặc đi gấp trong đêm, hoặc đã vào trường thị phi, lòng lo hoạn họa, hoặc muốn ngăn ngừa việc chi mà e sinh tai phi, hoặc vào nhà người bệnh, đề phòng truyền nhiểm, hoặc ăn lầm đồ độc e phải chết, hoặc mang trọng tội cầu mong ân xá, hoặc vương bệnh hiểm mà muốn phong nguy, hoặc hỏi xem món vật này hoặc món thuốc kia có nên dùng không, hoặc hỏi về người lạ thú dữ có hại đến mình không, phàm gặp các việc đề phòng mà đặng Tử Tôn trì Thế hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, hoặc Thế động biến ra Tử Tôn, hoặc Thế động hóa hồi đầu tương sinh, hoặc Quan Quỷ động để tương sinh, thì dù thân mình ở trong miệng cọp, hứa chắc được yên ổn như ngồi trong núi Thái Sơn. Duy kỵ Quan Quỷ trì Thế ngờ vực lo lắng khó giải. Quỷ khắc Thế, tai họa sẽ xâm. Thế động hóa Quỷ và hoá hồi đầu khắc, họa đã đến mình, không thể trốn khỏi. Duy Thế hào lâm Tuần Không, không lo. Thế hào bị phá thì không lợi.

CHIẾM BỆNH: Như mình chiếm bệnh cho mình, nếu đặng hào Thế vượng tướng, hoặc ngày tháng, hào động sinh hợp với Thế hào, hoặc Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, chẳng luận bệnh lâu, bệnh mới, hoặc cầu thần, hoặc uống thuốc, tức khắc sẽ an khang.

Bệnh mới hào Thế gặp Tuần Không, hoặc Thế động hóa Không, hoặc quẻ gặp lục xung hay biến lục xung, chẳng cần uống thuốc mà hứa chắc sẽ lành mạnh.

Bệnh lâu quan Quỷ trì Thế hưu tu, hoặc ngày, tháng, hào động khắc hào Thế, hoặc Thế gặp Tuần Không, Nguyệt Phá, Thế động hóa Không, hóa khắc phá, hoặc gặp quẻ lục xung, hoặc quẻ biến lục xung thì dù cho Biển Thước cũng khó chữa.

[Như có người bị bệnh khá nặng mà không biết, đến khi phát hiện bác sĩ cho hay có thể bị ung thư, chờ khám nghiệm trong khi hiện tại lại thấy còn đang rất khỏe. Gia đình rất sợ, gọi hỏi tôi xem sống chết thế nào? Chính đương sự xủ được quẻ Bát Thuần Khôn, ngày Quý Mão tháng Đinh Mùi.

Khôn vi Địa
- - Tử Dậu Thế (ám động)
- - Tài Tí
- - Huynh Sửu
- - Quan Mão Ứng
- - Phụ Tỵ
- - Huynh Mũi

Xem quẻ Thấy Tử Tôn trì Thế lẽ ra phải đoán là bình an vô sự, nhưng vì là quẻ lục xung, mà bệnh trì trệ không biết lâu mau, vì người này đã bị bệnh ì ạch lâu rồi mà không biết, nên tôi đoán rằng: "Nếu là mới bệnh thì nhất định mạnh, còn bệnh lâu thì chắc là chết, tuỳ theo lâu mau thôi. Mong rằng chị ấy mới bệnh thì tháng 7 Âm Lịch Thế lâm vượng địa Hỏa của mùa hè không khắc được nữa thì lành. Còn bệnh lâu thì ngược lại vì Tử Tôn lâm Bạch Hổ". Quả nhiên, chết ngày Đinh Sửu tháng Mậu Thân (7) năm Nhâm Ngọ.

CHIẾM CHA MẸ BỆNH: Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Nếu gặp hào Phụ Mẫu vượng tướng, hoặc ngày, tháng, hào động sinh Phụ Mẫu, hoặc Phụ Động hóa vượng, chẳng luận bệnh đau lâu hay mới bệnh, uống thuốc lập tức bình an.

Bệnh mới đau, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Phụ động hoá Không, hoặc gặp quẻ lục xung, chẳng uống thuốc mà mạnh.

Bệnh đau lâu, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Nguyệt phá, hoặc phụ động hóa Không, hóa phá, Phụ động hóa Tài, Tài hoá Phụ Mẫu, gặp quẻ lục xung, hoặc hào Phụ hưu tù, lại bị ngày, tháng, hào động xung khắc, làm con phải gấp lo chạy thuốc men, bản thân săn sóc, chớ khá rời xa.

CHIẾM ANH EM BỆNH: Nếu đặng hào Huynh Đệ vượng tướng, hoặc đồng với ngày, tháng, hoặc ngày, tháng hào động tương sinh, hoặc Huynh Đệ động hóa vượng, hóa sinh, chẳng luận bệnh củ hay mới, hứa sẽ bình an.

Bệnh mới đau, hào Huynh gặp Tuần Không và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, uống thuốc thì mạnh.

Bệnh đau lâu, hào Huynh gặp Tuần Không, Nguyệt phá, và động mà hóa Không hóa phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Huynh động hóa quỷ, quỷ hóa Huynh hào, hoặc hào Huynh hưu tù, bị ngày tháng, hào động xung khắc, mau gấp uống thuốc, cầu phước. Bằng trể thì khó mà trị lành (chết nhiều hơn sống).

CHIẾM CON CHÁU BỆNH: Hào Tử Tôn vượng tướng, hoặc đồng cung với ngày, tháng, hào động, sinh hợp, hoặc hào Tử Tôn hồi đầu hóa sinh, hóa vượng, chẳng luận bệnh đau lâu hay mới đau, uống thuốc, cầu phước thì mạnh.

Bệnh mới đau, Tử Tôn lại gặp Tuần Không, và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, chẳng uống thuốc, mà mạnh.

Bệnh đau lâu, Tử Tôn gặp Tuần Không, và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Tử Tôn động mà hóa Quỷ, Quỷ hóa Tử Tôn, Phụ hóa Tử, Tử hóa Phụ và ngày, tháng, hào động xung khắc, thì phải mau uống thuốc. Bằng trể, thì khó mà sống.

CHIẾM CHO VỢ HẦU ĐAU: Lấy Tài làm Dụng Thần. Hào Tài vượng tướng, hoặc đồng với ngày, tháng, hào động tương sinh, hoặc hào Tài động hóa Tử Tôn, hoặc động hóa sinh vượng, chẳng luận lâu mau, trị thì thấy lành.

Bệnh mới đau, Tài gặp Tuần Không và động mà hóa Không, hoặc gặp lục xung, quẻ biến lục xung, chẳng cần uống thuốc, dám hứa nạn qua.

Nếu bệnh đau lâu, hào Tài hóa Không, hóa Phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hoặc Tài động biến Quỷ, Quỷ động hóa Tài, Huynh Đệ hóa Tài, Tài hóa Huynh Đệ, trên đời dù có lương y cũng khó trị lành (chết nhiều hơn sống).

Phàm chiếm bệnh cho ba đảng: Phụ Tộc, Mẫu Tộc, Thê Tộc (bà con bên Nội, bà con bên Ngoại, và bà con phía vợ) cùng là quan trưởng, Thầy trò, tôi tớ, người giúp việc, đều phải coi chương Dụng Thần mà chọn cho đúng Dụng Thần, thì có thể xem rõ lành bệnh, hoặc sống chết...

Còn chiếm bệnh cho bằng hữu là kẻ ngoại nhân, thì lấy ứng hào làm Dụng Thần. Đó cũng là lẽ thường, nhưng có khi không ứng nghiệm. Tại sao? Có lẽ vì không phải ruột rà, nên không hết lòng thành mà ra vậy.

(Theo tôi đã nghiệm thấy, đối với bạn bè mà người có niềm tin, và là bạn bè chí thân, hết lòng cho nhau, thì quẻ ra vẫn ứng rõ ràng. Ta có thể dùng Ứng hào, hoặc chọn ngay Dụng Thần là Huynh Đệ, tuỳ theo quẻ, vẫn đoán rất chính xác)
Được cảm ơn bởi: ngocthaotien3012
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức Dịch lý”