Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Luận giải, tư vấn trao đổi về dịch lý, độn toán, thái ất
tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

Theo bản dịch của tác giả Vĩnh Cao
Chương 37: TẬT BỆNH
I. Tật bệnh
Dã Hạc nói: Con người mang thất tình đến nỗi sinh trăm thứ bệnh mà phải đi bói để an lòng mình. Nếu tâm an thì còn bói làm gì. Mọi sách đều lầm lẫn khiến người đời nay không có căn cứ, vì đã chọn Dụng thần mà còn lấy Thế thân, Quái thân, Bản mệnh. Lại còn có người chẳng xem Thân mệnh, Dụng thần mà lấy quẻ Minh di, Cổ, Quải, Phong, Đồng nhân, Đại Súc, Nhu mà đoán tất chết. Lại còn bảo rằng: “Tử khí táng môn lâm bản mệnh”, sớm chuẩn bị áo quan, rồi “ Xà động chủ chết, Hổ động chủ tang”, lấy sát tinh, Lục thần mà định sống chết, chẳng nghĩ đến điều nếu ác sát hung thần lâm Mệnh thân mà Dụng thần, Thân mệnh vượng thì đoán sống hay chết. Ta có kinh nghiệm lâu năm, sống hay chết đều dựa vào Dụng thần, ngoài ra đều không đúng. Chỉ có không dùng Dụng thần mà đoán được sống chết là Biến quái và Lục xung.


1. Lục xung biến xung, cửu bệnh nan vu điều trị
(Lục xung biến Lục xung cửu bệnh (chỉ bệnh đã lâu năm) khó điều trị)
- Bệnh đã lâu mà gặp quẻ Lục xung biến Lục xung, bất luận Dụng thần suy hay vượng đều là bệnh bất trị. Nhưng cận bệnh gặp thế tất lành.

2. Quái biến xung khắc tân bệnh diệc chủ nguy vong
(Quẻ biến xung khắc, bệnh mới phát cũng nguy vong)
- Quẻ biến thành Lục xung, cận bệnh cũng nguy nếu là biến thành hồi đầu khắc, như quẻ Tốn mộc biến thành Càn kim, Cấn Khôn biến thành Chấn mộc gọi là biến hồi đầu khắc, tuy chẳng phải Mộ, Tuyệt cũng nguy vong, vì nếu hoá thành thế gọi là hoá khắc. Với hoá hồi đầu sinh, cận bệnh thì tốt mà cửu bệnh thì hung.

3. Dụng ngộ Tuần không cận bệnh hà tu ưu lự
Dụng phùng Nguyệt phá cửu bệnh nan hứa an ninh
(Dụng thần gặp Tuần không, cận bệnh có gì mà lo – Dụng thần gặp Nguyệt phá, cửu bệnh khó được an ổn)
- Từ xưa xem bệnh tật đều lấy Dụng thần làm quan trọng. Xem cho cha mẹ hoặc anh em thì chọn Phụ, Huynh là Dụng thần chẳng hạn… Dụng thần tĩnh mà gặp Không, cùng hóa Không nếu có Nhật Nguyệt, động hào xung khắc tức xung Không, đến ngày thực Không sẽ lành. Nếu gặp xung khắc bệnh tuy nặng nhưng chẳng chết.
Nếu Dụng thần gặp Nguyệt phá thì cần xem suy hay vượng. Vượng thì lành ứng vào ngày thực Phá.
- Bệnh đã lâu mà Dụng thần gặp Tuần không, Nguyệt phá thì dù có vượng cũng không có cách trị.

* Dã Hạc nói: Hải Để Nhãn và Hoàng Kim Sách đều có câu “Chủ Không vô cứu, tu phong trung đạo nhi tồ” (Dụng thần gặp Không chẳng có thể cứu, nên phòng chết giữa đường) là thiếu kinh nghiệm.
Giác Tử bảo: Ta có kinh nghiệm bệnh mới phát (tân bệnh) gặp Tuần không lại kèm thêm Lục hợp, Tam hợp thì biến thành cửu bệnh rồi chết.
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00, barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

4. Dụng hoá Quỷ, Quỷ hoá Dụng thận phòng bất trắc
Kỵ hoá Dụng, Dụng hoá kỵ tối nan điều y.
(Dụng hoá Quan quỷ, Quan quỷ hoá Dụng thận trọng phòng bất trắc
Kỵ thần hoá Dụng thần, Dụng thần hoá Kỵ thần hết sức khó chữa)

- Tự xem bệnh cho mình không nên Thế biến Quỷ cùng hoá hồi đầu khắc. Xem cho anh em, vợ còn thì không nên Quỷ biến thành Huynh, thành Tử, thành Thê và Huynh, Tử, Thê biến thành Quỷ… Lại chẳng nên Huynh biến thành Tài, Tài biến thành Huynh, Phụ hoá Tử, Tử hoá Phụ.


* Dã Hạc nói: Quỷ là Nguyên thần của Phụ Mẫu. Phụ động hoá Quỷ là hoá sinh, bệnh nhẹ tất lành. Cửu bệnh mà Phụ hoá Quỷ, Quỷ hoá Phụ là chủ nguy vong, hoặc Dụng hoá Quỷ là điềm hung. Giả sử có Tuần không thì cận bệnh đoán ra sao. Ta đã từng chiêm nghiệm, xin thử nghiệm xem :


Ngày Canh Dần tháng Thân, xem con mới bị bệnh, được quẻ Hằng biến Giải:



Hình ảnh



Đoán rằng: Quỷ biến Tử Tôn là điềm chết, may nhờ Tử lâm Không, cận bệnh tất lành, nhưng sợ không qua khỏi năm Ngọ.



Quả đến ngày xuất Tuần thì lành. Năm Thìn xem, đến năm Ngọ con bị bệnh đậu mà chết.
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00, barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

5. Dụng Mộ Tuyệt hoá Mộ Tuyệt tu bằng sinh vượng
Nhật Nguyệt khắc, động hào khắc tối phạ hưu tù

(Dụng thần gặp Mộ Tuyệt, hoá Mộ Tuyệt thì cần phải sinh vượng
Dụng bị Nhật Nguyệt khắc, đông hào khắc, sợ nhất là Dụng hưu tù)

- Dụng thần gặp Mộ Tuyệt hoặc hoá Mộ Tuyệt thì xem Dụng vượng hay suy. Nếu Dụng thần vượng thì chẳng lo. Bị Nhật Nguyệt, động hào khắc cũng xem suy vượng. Nếu vượng thì vào lúc xung khử khắc thần sẽ lành, suy thì vào lúc sinh trợ khắc thần sẽ nguy.


6. Tán phá vô viện thoát khí
Kỵ dao Nguyên động Cừu hưng

(Tán phá, không được trợ giúp, thoát khí - Kỵ thần động, Nguyên thần động, Cừu thần động)

- Dụng thần lâm Tán, Phá, không được sinh, thoát khí (chỉ đi sinh hào khác) là bốn loại không có gốc rễ cát ít hung nhiều.

- Kỵ thần động khắc Dụng thần, nếu Nguyên thần động tất có cứu, chỉ sợ Cừu thần động tất hung nguy. Xem chương Nguyên Thần sẽ rõ.


7. Thế trì Quỷ bệnh tổng khinh nhi nan liệu
(Thế trì Quỷ, bệnh nói chung nhẹ nhưng khó trị)

* Có hai cách luận:

- Tự xem bệnh gặp Quan Quỷ trì Thế bệnh khó lành, tuy được Tử động khắc Quỷ ở thân, tuy trước mắt thì lành nhưng chẳng dứt được gốc rễ, nếu không thì lần lữa sẽ sinh bệnh khác. Ấy là bệnh chẳng lìa Thân, Thân không lìa thuốc. Thế lâm quan mà có Trường Sinh, Đế Vượng thì bệnh lâu lành.

- Xem bệnh giúp cho Lục thân, gặp Quan trì Thế là chỉ tình trạng âu lo, mừng được Tử Tôn phát động khử âu lo của ta, khiến Dụng thần suy nhược trở lại bình an.

Ví dụ: Ngày Nhâm Tí tháng Thân, xem con bị bệnh được quẻ Độn:

Hình ảnh

Đoán rằng : Lệnh lang hôm nay sẽ lành bệnh.
Hỏi : Sao biết.
Đáp: Thế trì Quan Quỷ là lo âu ở ông, nay gặp ngày Tí xung khởi tâm âu lo, tất lành.
Quả lành vào ngày này.

* Giác Tử nói : Như tự xem cho mình, hoặc xem cho anh em vợ con của mình thì phép coi như thế. Nếu xem tai ách cho Phụ Mẫu thì Quan là Nguyên thần của Phụ, há nên có Tử động để thương khắc Quan sao? Vợ xem bệnh cho chồng thì Quan là Dụng thần, há để Tử động khắc Quan sao? Không những không thể giải lo âu mà càng thêm lo. Cần phải thông biến ở điểm này.
Được cảm ơn bởi: vo_danh_00, barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

8. Thân lâm Phúc Đức thế tuy hiểm dĩ kham y
(Thân ở Phúc Đức, bệnh thế dù nguy hiểm nhưng cũng trị được)

* Cũng có hai cách giải:
- Tự xem cho mình, Tử Tôn trì Thế không uống thuốc cũng lành, lâm Không Phá thì gặp lúc thực không, thực Phá sẽ lành
- Thay cho Lục thân để bói, bất tất xem suy vượng của Dụng thần cũng biết là yên. Vì sao thế. Vì Tử Tôn là thần vui vẻ, chỉ cần vượng tướng, nếu động thì về sau cũng gặp chuyện vui.


- Như ngày Ất Mão tháng Dần xem vợ bị bệnh, được quẻ Truân biến thành Tiết:

Hình ảnh

Đoán rằng: Vợ ngày Mùi sẽ lành.
Người xem hỏi: Thê Tài không hiện trong quẻ làm sao mà lành?
Đáp: Tử hoá Tử là điềm vui vẻ, chỉ hiềm quá vượng, cho nên phải chờ đến ngày Mùi sẽ ứng, vì Mộc nhập Mộ tại Mùi. Nếu vợ không lành thì làm sao mà vui được.
Quả ngày Ngọ thì bớt, sang ngày Mùi thì lành.



9. Quỷ hoá Trường Sinh, Kỵ hoá Tấn thần tu lự thiêm tai.
(Quỷ hoá Trường Sinh, Kỵ hoá Tấn thần nên lo vì thêm tai hoạ)
- Quỷ hào động bệnh tất nặng, nếu lâm Trường Sinh, hoặc hoá Trường Sinh lại càng nặng. Kỵ thần động hoá Tấn thần cũng cùng ý như vậy. Kỵ thần hoá Thoái bệnh cũng giảm.


10. Phúc dao hoá khắc, quái Phản ngâm bệnh tất phản phục.
(Phúc động hoá khắc, gặp quẻ Phản ngâm bệnh tất tráo trở)
- Tự xem bệnh, hoặc xem bệnh cho anh em, được Tử chế Quan Quỷ tất lành bệnh. Nếu Tử động hoá khắc thì tượng bệnh lành mà sau trở lại. Gặp quẻ Phản ngâm cũng thế.
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

11. Dụng Tuyệt phùng sinh nguy nhi hữu cứu
Chủ suy đắc trợ trọng diệc hà phương
(Dụng thần lâm Tuyệt được sinh dù nguy mà có thể cứu
Dụng suy được trợ giúp cũng có gì đáng lo)
- Dụng thần bị hình xung khắc chế nếu được Nhật Nguyệt, động hào sinh phò là “Tuyệt xứ phùng sinh”, lúc nguy được cứu.
- Dụng thần không nên quá suy yếu, yếu tất thể hư khó lành, nếu được sinh phò củng hợp tuy bệnh nặng nhưng cũng chẳng đến nỗi phải chết.
* Giác Tử nói: Dụng thần cũng chẳng nên quá vượng, Dịch lý quý ở chỗ trung dung.

Ví dụ: Ngày Mậu Ngọ tháng Tị tự xem bệnh cho mình được quẻ Vị Tế biến Khuê:

Hình ảnh

Người xem vốn tuổi 80, xem bệnh mà được quẻ này, nên ta chưa dám đoán.
Bành sinh là thân nhân của người xem thấy quẻ có Thế Ngọ hoả lâm Nhật thần và đang lúc thịnh, lại được động hào Dần mộc sinh, thì không cần thuốc cũng lành, mà sao ta lại trầm ngâm, nên hỏi gấp.
Đáp: Qua khỏi ngày 18 Nhâm Tuất mới khỏi lo ngại.
Quả chết vào ngày Tuất giờ Dần.
Bành sinh hỏi: Quẻ cực vượng sao lại đoán ngày Tuất lâm nguy.
Đáp: Chính vì không nên quá vượng, đầy tất dễ đổ, đó là lí thường tình. Người già cực suy mà đựơc quẻ cực thịnh, giống như đèn sắp tắt vụt sáng, làm sao mà bền được. Đoán ngày Tuất là ngày Hoả nhập Mộ, giờ Dần là giờ với Thế tạo thành Tam hợp.
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

13. Dụng lâm Nhật Nguyệt hưu tầm Phục
(Dụng thần lâm Nhật Nguyệt đừng tìm hào Phục)
- Phàm Dụng thần chẳng hiện trong quẻ, có Nhật Nguyệt là Dụng thần thì khỏi phải tìm hào Phục.

14. Phục thần suy nhược tái nghi chiêm
(Phục thần suy nhược nên tái chiêm)
- Phàm Dụng thần chẳng hiện trong quẻ, nên tái chiêm một quẻ. Ở chương Phục thần đã chú rõ nên xem kỹ.
* Giác Tử nói: Dã Hạc với ta chiêm nghiệm rất nhiều, không thể không ghi lại những kinh nghiệm để lại cho người sau.
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

Ví dụ: Ngày Quí Hợi tháng Thân xem bệnh cho bạn được quẻ Vị Tế:
Hình ảnh

Đoán rằng: Lấy Ứng Tị hoả làm Dụng thần, bị Nhật hình Nguyệt khắc bất lợi vào tháng Hợi, ta không dám đoán, mời thân nhân của người này đến xem.


- Cũng vào ngày này, xem bệnh cho cha được quẻ Quải:

Hình ảnh

Đoán rằng: Quẻ trước Ứng lâm Tị hoả bị Nguyệt hình, Nhật khắc. Quẻ này Tị hoả Phụ Mẫu phục tại Dần mộc bị Nguyệt Phá chẳng sinh được Hoả, nên tháng mười Hợi tất nguy.


Quả chết vào tháng mười, Hợi thuỷ xung phá Tị hoả.
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

- Lại như ngày Bính Tí tháng Thân, nhân bị bệnh đã lâu, xem thử thuốc có thể trừ được bệnh không. Ra quẻ Thăng biến Tiệm:
Hình ảnh

Đoán rằng: Tị hỏa Tử Tôn là biến hào, biến hào thì không thể sinh Thế ở chính quái, nên bệnh không thể trị bằng thuốc. Huống gì ngoại quái phản ngâm tức bệnh trở đi trở lại.
Liền khiến thân thích xem lại một quẻ.

- Cùng ngày, con xem bệnh cho cha được quẻ Phong Lôi Ích biến Tiệm:

Hình ảnh

Quẻ trước Nhật thần hợp Thế, quẻ này Phụ tại Nhật thần nên trước mắt chẳng lo, nhưng không nên Thìn động thương khắc Phụ thủy. Lại kết hợp quẻ Phong Lôi thì Chấn là quan, Tốn là quách, quan và quách đều có, không dám định năm tháng. Nhờ ngươì thân xem lại một quẻ nữa.

- Cùng ngày con gái xem bệnh của cha, được quẻ Đại Tráng:

Hình ảnh

Đoán rằng: Các quẻ đều hợp nhau, cần phải phòng ngừa. Quẻ trước xem thuốc uống thì mùa đông Thủy vượng, không có thuốc để trị. Quẻ thứ hai Tí thủy hoá Thìn thổ hồi đấu khắc, gặp tháng Tí thì vô phương cứu chữa. Quẻ sau cùng Phụ Mẫu Ngọ hỏa bị ngày Tí xung khắc.
Quả sau chết vào tháng Tí mùa đông *


(* Chú thích của dịch giả: Theo lối xem này thì quá thận trọng. Thât ra quẻ nào trong ba quẻ này đều đoán ngay mất vào tháng Tí, chỉ có quẻ đầu vì coi về thuốc uống nên ít rõ nhất, còn hai quẻ sau vì xem bệnh cho cha nên khá rõ. Quẻ thứ hai Phụ Tí động hoá hồi đầu khắc, mà Thế lại trì Tài nên đoán ngay tháng Tí. Quẻ sau cùng không động nên hào Tài vượng tướng sẽ chiếm ưu thế, mà Thế trì Phụ là Ngọ hỏa đã bị Nhật thần khắc rồi, lại bị Tài sẽ khắc, chỉ chờ đến tháng Tí sẽ ứng nghiệm.)
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

Ví dụ: Ngày Tân Mão tháng Sửu xem con bị bệnh đậu mùa, được quẻ Đại Tráng biến Càn

Hình ảnh

Đoán rằng: Gặp quẻ Lục xung biến Lục xung, đậu chưa phát mà đã chết. Lại cũng là Phục ngâm nên chẳng tốt. Tử Tôn tuy được sinh phù nhưng khó giữ được tốt. Xin tái chiêm quẻ nữa.


- Lại được quẻ Cấn biến Thăng:

Hình ảnh

Đoán rằng: Phụ Ngọ hỏa động khắc Tử, khó chế được Ngọ. Lại không nên Quỷ động biến Tử Tôn. Ngày Dần nên phòng.


Quả chết vào ngày Dần, ứng với Dần vì Ngọ hỏa Trường Sinh tại Dần (Dịch giả: Quẻ này Ngọ hỏa Phụ động khắc Tử, tuy Ngọ hoá Hợi thủy hồi đầu khắc, nhưng Hợi vô khí, nên có cũng như không. Chết là vì hào Ngọ này, được Dần mộc động sinh, nhưng Ứng thời lại dùng Quan động hoá Tử Tôn, Quan là Dần mộc thì ứng với Dần. Chẳng cần luận Trường Sinh làm gì). Hợp với quẻ trước Thân kim Tử Tôn Phục ngâm, ngày Dần xung Thân.
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

tieudao123
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 312
Tham gia: 21:39, 31/08/09

TL: Chương Tật bệnh (Tăng San Bốc Dịch)

Gửi bài gửi bởi tieudao123 »

Ví dụ: Ngày Canh Thìn tháng Tuất xem cho cha mới bị đau, được quẻ Ly:

Hình ảnh

Đoán rằng: Cận bệnh gặp quẻ Lục xung tất lành.
Hỏi: ngày nào lành.
Ta khiến tái chiêm một quẻ

- Lại được quẻ Đại Quá biến Khốn:

Hình ảnh

Đoán rằng: Ngày Ất Dậu thì lành. Dậu kim là Quỷ lâm Không, xuất Không thì sinh Phụ Hợi thủy.
Quả ngày Giáp Thân thì dậy được, ngày Ất Dậu thì lành hẳn.

Dã Hạc nói: Những quẻ trên đã dạy phép coi cho người sau. Lấy mấy quẻ hợp lại xét hung cát thì có thể đoán được.
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Xem quẻ Dịch”