Em xin cảm ơn anh nhiều ạ, phần trả lời của anh hay quá, đọc em biết thêm được rất nhiều điềuNeBoTat đã viết: ↑07:24, 09/01/19 Chào bạn, Suchio. Mình trả lời bên dưới:
(1) Khử bì: Ở đây mình đoán là bạn hỏi về can tàng trong tứ mộ, nên mình sẽ trả lời theo hướng này. Nếu không đúng cái bạn hỏi thì bạn làm rõ câu hỏi, mình sẽ nói lại. Khi có Thìn - Tuất, Sửu - Mùi xung khử bì thì các can tàng trong mộ xem như là bị xung tán mất.
(2) Bán hợp nguyên cục VS. gặp xung, hình, hại tại hành vận: Lấy ví dụ cho dễ nói. Chẳng hạn nguyên cục có Mão - Mùi bán hợp. Hành vận gặp Sửu xung, ưu tiên bán hợp. Hành vận gặp Dậu xung, ưu tiên lục xung. Hành vận gặp Tý hình hại cùng lúc, ưu tiên hình hại. Hành vận gặp Thìn hại, ưu tiên bán hợp (Manh Phái sẽ ưu tiên hại).
Chẳng hạn nguyên cục có Hợi - Mão bán hợp. Hành vận gặp Tỵ xung, ưu tiên lục xung. Hành vận gặp Dậu xung, ưu tiên lục xung. Hành Hành vận gặp Tý hình, ưu tiên bán hợp. Hành vận gặp 2 Tý hình, ưu tiên hình. Hành vận gặp Thìn hại, ưu tiên bán hợp (Manh Phái sẽ ưu tiên hại). Hành vận gặp Thân hại, ưu tiên bán hợp.
Phía trên chỉ là kinh nghiệm của mình thôi. Vấn đề độ ưu tiên các lực tương tác can chi, ngoài một số trường hợp quá hiển nhiên, còn lại vẫn tranh cãi rất nhiều, đặc biệt là hình và hại.
(3) Ngũ hành tên tính theo nghĩa hay số nét hán tự: Thường theo cách truyền thống xưa nay của các cụ, ngũ hành tên lấy theo bộ thủ. Ngoài ra còn có một số cách ít thông dụng hơn là lấy ngũ hành theo số nét hoặc âm đọc. Việc lấy ngũ hành theo số nét có điểm yếu là có quá nhiều hệ số, nhiều chỗ mâu thuẫn nhau, nên khó thống nhất.
Khi chọn tên, mình vẫn chọn theo qui tắc âm đọc và ngữ nghĩa. Bởi vì tên gọi một người là gọi theo tiếng Việt, viết cũng tiếng Việt, nên không có lí do gì lại đi tính bằng âm đọc tiếng Hán hoặc số nét tiếng Hán. Ngoài ra mình còn xem yếu tố phụ là bộ thủ tiếng Hán, cùng với bố cục của bát tự. Tên phải đặt phù hợp với bộ cục bát tự nữa.
Ví dụ như chữ Minh (明), đầu tiên là ngũ hành thuộc thuỷ (âm đọc), sau đó lấy ngữ nghĩa thì có thêm hoả. Có thể nói là thuỷ đới hoả. Có người thì cho là Minh hành hoả. Nói chung những vấn đề này tranh cãi khá nhiều, mỗi người một cách. Bên Trung Hoa họ có thống nhất, nhưng Việt Nam chưa có sự thống nhất này.
Mình lấy ví dụ nick của mình để bạn thấy rõ hơn cách mình chọn. Đầu tiên bát tự của mình: Giáp Tý - Bính Tý - Đinh Hợi - Ất Tỵ. Tỵ - Hợi xung, hoả bại. Thân nhược, dụng mộc hoả.
Nê Bồ Tát: trích trong "Nê bồ tát cũng có ba phần hoả". Ngoài việc tự răn bản thân, về mặt bát tự, lí do mình chọn nick này như sau.
Thứ nhất, Nê Bồ Tát, xét về âm đọc là 2 phần hoả, một phần thuỷ, thuỷ hoả tương chiến đúng tượng bát tự của mình.
Thứ hai, "Nê bồ tát cũng có ba phần hoả", hoả này là loại hoả tiềm tàng, nhưng không diệt, là tượng âm hoả - tâm hoả, mà chỉ có "ba phần" (chưa đủ một nửa), chính là mệnh của mình: Đinh hoả nhược.
Thứ ba, tượng bằng bùn làm thì phải nung, nung rồi thì bùn từ thấp thổ thành táo thổ, cho nên mình dùng táo thổ bao ở bên ngoài bảo vệ cho Đinh hoả ở bên trong. Bởi vì mệnh của mình thuỷ kỵ hoành hành, cho nên mình lấy táo thổ vệ Đinh hoả, hoả thổ tương sinh. Đây là tượng của chữ Mùi. Trong mệnh mình chữ Mùi là Thiên Ất Quý Nhân.
Thứ tư, tượng đất nung thường rỗng ruột. Âm thực Dương hư, lấy rỗng làm dương, mộc hoả là noãn là dương, kim thuỷ là hàn là âm; mộc hoả là hỷ dụng của mình.
Thứ sáu, tượng rỗng ruột bên trong là tượng trung hư, là tượng quẻ Phong Trạch Trung Phu. Quẻ này mộc là gió ở trên, kim là con lạch, con kênh bên dưới, kim không tổn mộc được, lại có tượng trên dưới hòa hợp, không xung đột; mộc là phong, mà theo quẻ này phong làm cho thuỷ động, tức là phong (mộc) có lực: mình lấy tượng quẻ này để bảo vệ cho mộc hỷ thần trong mệnh.
Thứ bảy, quẻ Phong Trạch Trung Phu được chữ "lợi thiệp đại xuyên": không sợ thuỷ kỵ thần. Gặp thuỷ, luôn có thuyền chở qua sông, gặp hung hoá cát.
(4) Tên làm dụng thần điều hậu: có thể được, vì vậy mới có môn danh tính học. Nếu bạn quan sát kĩ, thường tên do cha mẹ đặt sẽ ăn khớp với bát tự. Tức là nó sẽ thể hiện điểm mấu chốt (cơ giam) của bát tự, đồng thời ai mệnh tốt, tên sẽ đặt đúng hỷ dụng, ai mệnh xấu, tên sẽ đặt ngay kỵ thần. Bạn thử nghiệm xem.
Dạ em có xem qua một tài liệu viết là Hợi hay Mùi xung Tỵ Sửa hoặc bán hợp với Mão mà không có Giáp Ất lộ dẫn sẽ không hóa bị khử bị tan tạp khí, Hợi tan mất Giáp Mùi tan Đinh Ất nhưng một tài liệu khác lại xét là còn Mộc Sát nên em mún hỏi anh để rõ hơn ạ
Tứ tụ của em phục ngâm Thân Tý: Nhâm Thân - Nhâm Tý - Nhâm Thân - Canh Tý, đại vận Ất Mão sang năm Kỷ Hợi em sợ 2 Tý hình 1 Mão thêm 2 Thân hại 1 Hợi nữa thì chắc là biến căng lắm, hy vọng tham hợp quên hình hại nên hỏi anh xem có được vậy không
Tứ trụ của em Kim hàn Thủy lạnh không có Hỏa, có thầy cho em biết Kim cực hàn thì không sinh Thủy làm cách cục không được thông quan, tên của em có 2 từ đều có ý nghĩa hành Hỏa, cấu tự đều thuộc bộ Mộc, em hỏi anh để biết tên em có thể điều hậu sưởi ấm để Kim sinh Thủy thông quan hay phải bổ sung thêm từ bên ngoài ạ, vì Hỏa là Dụng thần điều hậu nhưng là Kỵ thần cách cục của em
Anh vui lòng cho em hỏi thêm tí thôi ạ
1. Thần Sát trong Cung Mệnh hay Thai Nguyên có ảnh hưởng đến Cách cục thế nào ạ?
2. Tứ trụ Tứ Quý Hợi không có tam hợp tam hội mà toàn Thủy thì có được xem là Nhuận Hạ không anh?
Em xin cảm ơn anh rất nhiều, chúc anh có một năm mới vui vẻ mà ngập tràn may mắn hạnh phúc