BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Hỏi đáp, luận giải về tử vi
Hình đại diện của thành viên
Suỵt Suỵt
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 723
Tham gia: 23:36, 08/05/18

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi Suỵt Suỵt »

Answer đã viết: 04:05, 15/10/19
Suỵt Suỵt đã viết: 23:36, 14/10/19 Dạ cho mình xin hỏi một câu ngu ngốc. Ở Việt Nam hay Trung Quốc người ta cúng kiếng nhang đèn cho vong linh, còn ở các tôn giáo khác hay nền văn hoá khác không có tục như vậy thì vong linh đói "chết" luôn ạ? :-?
Đúng là hỏi [ngu] có khác. =))

Под вдохновением свыше апостол Павел записал отрезвляющие слова: «Жертвы, приносимые другими народами, жертвуются демонам, а не Богу» (1 Коринфянам 10:20, 21).

Sứ đồ Phao-lô được soi dẫn viết lời cảnh báo mạnh mẽ này: “Đồ người ngoại-đạo cúng-tế là cúng-tế các quỉ, chớ không phải cúng-tế Đức Chúa Trời”.—1 Corinthians 10:20-21.


Вот шокирующий пример — новость из Мексики 1487 года: «В небывалой захватывающей церемонии жертвоприношения в ацтекской столице, Теночтитлане, 20 000 человек расстались со своими сердцами, которые были принесены в жертву Уицилопочтли, богу войны».

Vào năm 1487, một ví dụ gây sửng sốt là bản tin sau đây đến từ Mexico: “Trong cuộc cúng tế nổi bật nhất chưa từng diễn ra tại Tenochtitlan, thủ đô của Aztec, người ta móc trái tim của 20.000 người để cúng tế cho Huitzilopochtli, thần chiến tranh”.
Em chỉ nói cúng kiếng vong linh thôi ạ, không phải Đức Chúa hay Chư Phật đâu. Nhưng dù sao cũng cảm ơn bác khen em ngu, đúng là em như vậy thật. =P~
Được cảm ơn bởi: anhthu5993, Esmeralda, 12010277
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Suỵt Suỵt
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 723
Tham gia: 23:36, 08/05/18

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi Suỵt Suỵt »

12010277 đã viết: 01:26, 15/10/19
Suỵt Suỵt đã viết: 00:18, 15/10/19
12010277 đã viết: 23:45, 14/10/19

Có ông bạn người châu á sống ở châu âu. Thuê phòng kiểu gì mà nó cứ luôn mồm bảo là phòng nó bị ma ám. Nó cứ phải khấn vái đều đều thì ma mới sang phòng bên cạnh. Từ lúc nó khấn chăm như vậy thì ông chủ nhà trọ ko thể cho ai thuê cái phòng trống đó lâu được :)) ai thuê phải đều gặp vấn đề.

Có phải là ma quỷ ở châu âu cũng tồn tại như ở châu á? Hay là con người xâu chuỗi các tình tiết ko liên quan thành có liên quan?
Ma quỷ thì đâu cũng có thôi, chỉ ít hay nhiều. Mình đọc nhiều bài về ma ám ở các nơi trên thế giới, show truyền hình "Săn ma" xem cũng sợ hú hồn. Có điều mình vẫn băn khoăn mỗi nơi lại có cách đối xử với vong khác nhau rồi rốt cuộc nơi nào đúng. :-?
Mình còn số điện thoại một bà cụ hành nghề "mê tín dị đoan" đây. Cụ ấy từ người lạ thành người quen là do cụ chia sẻ góc nhìn phi-khoa-học với mình (chắc do mình là người á, cụ nghĩ mình dễ cảm thông các chuyện siêu nhiên?). Nghe những gì cụ nói và ảnh cụ chụp các hiện tượng kì bí ở châu phi thì nghe hợp lý lắm.

Nói dông dài thôi, mình mà biết Suỵt có câu trả lời thì mình trộm công trình nghiên cứu rồi đi xin cái giải Nobel tâm linh học rồi =))
Share ảnh đi chế, mình rất muốn xem thử. [-O<
Mình có câu trả lời thì đã không đau đáu nửa đời người, lỡ một ngày được giải đáp thì khẳng định không tới lượt chế xin giải Nobel. :))
Được cảm ơn bởi: 12010277
Đầu trang

Answer
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1022
Tham gia: 04:06, 29/11/17

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi Answer »

Suỵt Suỵt đã viết: 11:03, 15/10/19
Answer đã viết: 04:05, 15/10/19
Suỵt Suỵt đã viết: 23:36, 14/10/19 Dạ cho mình xin hỏi một câu ngu ngốc. Ở Việt Nam hay Trung Quốc người ta cúng kiếng nhang đèn cho vong linh, còn ở các tôn giáo khác hay nền văn hoá khác không có tục như vậy thì vong linh đói "chết" luôn ạ? :-?
Đúng là hỏi [ngu] có khác. =))

Под вдохновением свыше апостол Павел записал отрезвляющие слова: «Жертвы, приносимые другими народами, жертвуются демонам, а не Богу» (1 Коринфянам 10:20, 21).

Sứ đồ Phao-lô được soi dẫn viết lời cảnh báo mạnh mẽ này: “Đồ người ngoại-đạo cúng-tế là cúng-tế các quỉ, chớ không phải cúng-tế Đức Chúa Trời”.—1 Corinthians 10:20-21.


Вот шокирующий пример — новость из Мексики 1487 года: «В небывалой захватывающей церемонии жертвоприношения в ацтекской столице, Теночтитлане, 20 000 человек расстались со своими сердцами, которые были принесены в жертву Уицилопочтли, богу войны».

Vào năm 1487, một ví dụ gây sửng sốt là bản tin sau đây đến từ Mexico: “Trong cuộc cúng tế nổi bật nhất chưa từng diễn ra tại Tenochtitlan, thủ đô của Aztec, người ta móc trái tim của 20.000 người để cúng tế cho Huitzilopochtli, thần chiến tranh”.
Em chỉ nói cúng kiếng vong linh thôi ạ, không phải Đức Chúa hay Chư Phật đâu. Nhưng dù sao cũng cảm ơn bác khen em ngu, đúng là em như vậy thật. =P~
В одной энциклопедии описывается, как хананеи (которые поклонялись предкам) почитали дух умершего: «Пиры... устраивались в семейной гробнице или на могильном холме и сопровождались ритуальными пьянками и половыми сношениями (в том числе, возможно, и кровосмешением), в которых, как полагали, участвовал умерший» («The International Standard Bible Encyclopedia»).

Cuốn International Standard Bible Encyclopedia (Bách khoa tự điển Kinh Thánh tiêu chuẩn quốc tế) miêu tả cách người Canaan tôn kính vong linh người quá cố như một phần của việc thờ cúng tổ tiên: “Tiệc tùng... được cử hành nơi mồ mả gia đình hoặc tại các mô đất mai táng với sự say sưa và tình dục theo nghi lễ (có thể bao hàm sự loạn luân) mà người ta cho rằng người chết cũng tham dự”.
Đầu trang

TheLinh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1910
Tham gia: 10:06, 12/07/17
Đến từ: Xứ Ogyen

Quỷ Nhập Tràng.

Gửi bài gửi bởi TheLinh »

Quỷ nhập tràng là một hình thức của xác chết biết đi, mượn xác người chết mà đội mồ sống lại. Hình như ở châu lục nào cũng có những loài tương tự như quỷ nhập tràng. Phương Tây có ma cà rồng, Ấn Độ có Vêtala, Trung Quốc có cương thi, thi biến… còn ở VN thì gọi là quỷ nhập tràng.
Điểm đồng nhất với nhau về các loại trên là tìm đến những người vừa mới chết, mượn thể xác họ sống dậy để làm những việc mà bình thường khả năng nó không làm được (vì không có thân tứ đại).
Thật sự là Thanh không có hiểu biết sâu về ma cà rồng của phương Tây, hy vọng có vị nào hiểu biết hơn sẽ trình bày đầy đủ và sâu sắc ở những bài nối tiếp. Xuất xứ của ma cà rồng phải chăng từ Rumani , gắn liền với tên tuổi của Bá tước Dracula- nhân vật có thực trong lịch sử quốc gia Rumani thời xưa, một nhân vật có thực mà sự độc ác vô song đã trở thành huyền thoại? Vùng đất của ma cà rồng mở rộng đến Bungari- xứ sở hoa hồng, Hung gary, Balan, Mônđavi… Tại sao những người chết lại có thể trở thành ma cà rồng? điều này vẫn đang chờ câu giải đáp của các vị nghiên cứu huyền thuật, ma quỷ phương Tây. Tuy nhiên, một điều không thể phủ nhận là linh khí đất đai ở những nơi đó tạo ra chủng loại này. Ở những nghĩa địa lâu năm trong các làng ven núi các vùng Rumani, Balan, người ta nghe có những tiếng động ở dưới đất. Khi mở những ngôi mộ ra, họ thấy những xác chết- cả đàn ông và đàn bà đều hãy còn tươi tắn như đang sống, máu hồng làm thắm những đôi môi của họ, phải chăng họ đã dùng máu để nuôi sống thể xác? Để có thể tự cứu vãn linh hồn và cuộc sống của mình, dân làng đã đóng cọc vào tim các xác chết, sau đó bỏ làng dọn đến cư ngụ ở những làng khác, vì những làng xung quanh cũng có nghĩa địa, nhưng tại sao không hề có hiện tượng này. Trong quyển tiểu thuyết “Dracula” của nhà văn Bram Stoker, ta thấy bá tước ma cà rồng Dracula khi đi sang đất nước khác đã cho chở theo những chiếc thùng chứa đấy đất ở lâu đài mà hắn ở. Phải chăng những thùng đất ấy là nguồn sống của chủng loại này?
Những vùng giáp Vân Nam – Trung Quốc và Tây Bắc nước ta, có một số làng bản có người chết, họ không chôn xuống đất mà đục vách núi đặt quan tài vào hoặc đưa quan tài vào những động đá sâu thẳm trên dải Hòang Liên Sơn rộng lớn. Phải chăng những vị đạo sĩ, thầy mo ở đó đã nhận ra điều gì bất bình thường từ trong đất?
Cách chống ma cà rồng thường là nước Thánh, các vật đã được làm phép Thánh, Thánh giá, tỏi… biện pháp trừ tận gốc ma cà rồng là đóng cọc vào tim, cắt đứt đầu, nhét tỏi vào miệng xác chết và cuối cùng là thiêu hủy ( mấy vụ này là do đọc sách với lại xem phim mà kể lại, không phải do kinh nghiệm thật).
Vêtala ở Ấn Độ cũng là một loại quỷ nhập tràng. Ngày xưa, Ấn Độ có phong tục quấn vải vào xác chết, đem thây vào rừng, treo lên cành cây hoặc để dưới gốc cây cho đến khi rữa nát. Nơi để xác chết được gọi là Thi Lâm Một loài quỷ sống ở đó đã mượn những xác còn mới để sống dậy trở thành Vêtala, ăn thịt những xác thối xung quanh. Chuyện kể rằng, có một tay nhà buôn gần sạt nghiệp, được vị đạo sĩ huyền thuật tặng cho câu chú luyện Vêtala hy vọng đổi đời. Anh ta phải ra nghĩa địa, ngồi lên bụng xác chết mà trì tụng bảy đêm, cho đến khi nào xác chết cử động được và chịu hàng phục thì anh ta sẽ toại nguyện. Trì đến đêm thứ bảy, xác chết bổng mở mắt nói cười, anh nhà buôn hỏang hốt vọt mình bỏ chạy. Nhưng dù anh có đi đến đâu, con quỷ Vetala trong cái xác vẫn chạy theo tìm bén gót. Cho đến một ngày, anh quẫn trí nhảy lầu tự vẫn… (Tài liệu về loại quỷ này mình cũng không có, chỉ một ít cóp nhặt được từ trong sách vở dân gian của Ấn Độ trước đây mà thôi).
Ở Trung Quốc, phép luyện cương thi đã có từ lâu, nhưng phổ biến nhất là vào giai đọan cuối TK XIX, đầu TKXX khi Trung Quốc chuyển dần từ thời phong kiến sang thời kì Trung Hoa Dân quốc. Mục đích luyện cương thi của các đạo sĩ ban đầu là chính đáng. Có những người đi làm ăn buôn bán, làm quan kinh lý xa nhà, bạo bệnh mà chết dọc đường. Nếu mang xác chết về đến quê nhà e rằng đã trở thành đống xương mục nát. Vả lại, đường xa, xác chết bốc mùi làm sao chịu thấu. Các thầy đạo sĩ đã dùng phép luyện cương thi, mở cõi trung giới trục thỉnh một số chủng loại nơi này nhập vào xác chết, giúp cho xác chết đông cứng, di chuyển được theo chuông ngủ cổ của thầy. Do cương thi sợ ánh sáng mặt trời nên các thầy chỉ di chuyển vào đêm, vừa tránh dương quang vừa dễ di chuyển mà không phiền phức. Khi đưa về đến quê nhà, thường thì đạo sĩ sẽ tẩn liệm đàng hòang rồi mới làm phép giải thi, đưa các chủng loại ấy trở về cõi trung giới. Việc giúp người chết hồi quy cố hương của các đạo sĩ tạo điều kiện cho các chủng loại trên tạo lập công đức ngõ hầu siêu sinh, tiến hóa.
Tuy nhiên, càng về sau những đạo sĩ bất chính đã lợi dụng phép luyện cương thi để làm vật hại người, làm điều mờ ám như buôn bán thuốc phiện, chuyên chở thuốc súng… hàng được dấu trong mình cương thi, thậm chí họ còn giả cương thi để mang hàng. Mà mấy ai ngày xưa dám ngăn chặn đạo sĩ để khám xác chết bao giờ? Mãi về sau sự việc vỡ lỡ, nhà nước cấm đóan, phép luyện cương thi dần dần mai một…
Quỷ nhập tràng xuất hiện trong các câu chuyện dân gian, xuất hiện cả trong các tác phẩnm văn học lớn. Sách “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng linh có câu chuyện “Thi biến”. Câu chuyện như sau:
“Huyện Tín Dương – Trung Quốc có một người làm nghề buôn bán hàng quán, cho khách trọ đêm, cách thành đô năm sáu dặm. Một hôm trời tối, có bốn người khách buôn gõ cửa xin trọ, nhưng quán của ông đã không còn phòng. Bốn người khách không biết đi đâu nên mới van xin. Sau một lúc cân nhắc, ông chủ quyết định để các vị khách của mình vào nghỉ ở phòng trong. Nơi quàng xác đứa con dâu mới chết. Lúc ấy, con trai ông đi mua quan tài chưa về. Trong nhà trong còn đủ giường chiếu, xác chết được phủ chăn giấy nằm ở phía sau tấm trướng. Mấy người khách buôn mệt mỏi đặt mình xuống là ngủ ngay, chỉ có một người còn mơ màng. Chợt anh ta nghe phía linh sàng có tiếng động, mở mắt ra nhìn, anh thấy xác người phụ nữ lật chăn bò dậy, bước xuống đất tiến về phía giường ngủ bốn người. Anh ta sợ quá kéo chăn trùm kín đầu, nín thở lắng nghe. Xác chết lần lượt đến thổi vào từng người, sau đó quay trở lại linh sàng. Người khách buôn vội lay các bạn dậy nhưng họ đã lạnh cứng. Hỏang hốt, anh bò dậy tháo chạy ra ngoài, thây ma đang nằm liền vùng dậy đuổi theo. Anh chạy đến đâu, xác chết đuổi theo đến đó, chạy đến một ngôi chùa, phía trước có một cây bạch dương to đầy một ôm tay. Anh lái buôn liền chạy vòng quanh cây với xác chết như chơi trò cút bắt. Đuổi nhau mãi như thế đến khi anh ta mệt nhoài đứng thở hồng hộc, chợt thây ma bổng nhảy xổ lên vươn hai tay chộp qua cây, khách kinh hãi ngã vật ra bất tỉnh. Trong chùa nghe tiếng la hét vội đốt đèn chạy ra, nhìn thấy người khách nằm cứng đờ vội đưa vào trong cứu chữa. Đến trời tờ mờ sáng, khách tỉnh dậy kể đầu đuôi sự việc, mọ người ra ngoài xem, quả nhiên thấy xác người đàn bà đang đứng ôm vòng thân cây. Hai tay quắp chặt vào cây như móc câu, ngập cả móng. Đến khi kéo ra được, thân cây lủng sâu như đục lỗ…”
Ở Việt Nam, quỷ nhập tràng thường xuất hiện ở những vùng quê hẻo lánh, vùng đồi núi Trung du vắng vẻ bóng người. Trước đây, khi dân cư còn thưa thớt, thỉnh thỏang người ta vẫn kể cho nhau nghe những câu chuyện nửa hư nửa thực về loài quỷ này.
Học giả Toan Ánh cũng có một câu chuyện thật về quỷ nhập tràng ở vùng quê miền Bắc….
Cách nay hơn bảy mươi năm, ở làng Dũng Quyết, huyện Quế Dương xứ Kinh Bắc có người đàn ông tên Tòng bị bệnh chết. Trong khi đang chờ khâm liệm, ông chợt sống lại, không nói không cười, thân thể cứng đơ, đôi mắt trừng trừng như mất hồn không hề nhắm. Từ khi ông sống lại, gà vịt trong nhà mất tích một cách khó hiểu, cho đến khi con cháu trong nhà phát hiện ông đang xé xác con chó để ăn sống bộ đồ lòng. Gia đình rước ông Tự Xung ở huyện Vô Giang về chữa trị, nhưng ngay cả Tự Xung cũng bị ông Tòng cắn đứt miếng thịt vai. Bùa phép không hiệu quả, ông Tòng cứ sống như một thây ma… Cho đến một ngày, sư bà trụ trì chùa Nguyệt Giáng xuất hiện. Bà không chữa trị, chỉ lấy Phật Ấn dán ở hai đầu chái nhà, trên nóc nhà, sau đó lặng lẽ tụng kinh trì chú. Sau ba ngày đêm trì tụng, thây ma ngã gục xuống, thối rữa nhanh chóng, lúc nhúc dòi bọ…
Còn đây là câu chuyện do thầy Tư Nhang kể lại…
Năm 1957, ở huyện Bù Đăng Bù Đốp- tỉnh Sông Bé có đứa bé gái con dân tộc thiểu số. Khi sinh ra nó không có xương sống, không đi được, không nói được,chỉ trườn bò mà thôi. Nuôi đến 3 tuổi thì nó chết. Người ta đem xác nó để ngài rừng 1 ngày thì nó sống lại, bò về nhà. Ở nhà thấy kì lạ lại tiếp tục nuôi nấng. Từ đó, mỗi tối khi mọi người ngủ, nó lại bò đi bắt gà và gia súc để ăn bộ đồ lòng. Về sau cả làng rình phát hiện đòi giết ,ông Cai Tổng vùng đó theo Tây học nên không đồng ý. Cả nhà liền đóng chiếc cũi lớn, bỏ nó vào khiêng sâu lên núi bỏ cho mất tích. Từ đó về sau làng không xảy ra chuyện gì lạ nữa.
Quê của Thanh ở miền Tây, ở đó dân Cái Bè vẫn còn truyền miệng nhau câu chuyện về bà cụ trên 70 tuổi bệnh chết nửa ngày rồi sống lại. Bà cũng không nói năng gì, thấy ai ăn gì là chạy đến giật lấy bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến. Có lúc bà ngồi tự gặm lấy tay mình đến tróc thịt bày gân xương ra trắng hếu, máu chảy ròng ròng mà bà ta còn tỏ vẻ ngon lành lắm. Cả nhà hoảng hốt băng bó cẩn thận, bà lại tiếp tục gặm đến tay kia. Đành phải trói bà lại vào thành giường và rước thầy pháp tới chữa. Rước đến cúng buổi sáng thì buổi tối trong nhà nghe tiếng khóc than rì rào không ai ngủ được. Quá sợ hãi, cả nhà bắt bà đem vào nhà thương điên, ba ngày sau bà chết…
Đó là những câu chuyện truyền miệng trong dân gian, yếu tố thực hư chưa phân biệt rõ. Tuy nhiên, cái mà ta cần biết không chỉ là chuyện kể. Sâu xa hơn là sự nghiên cứu tìm tòi về chủng loại này. Theo sở học cá nhân Thanh, quỷ nhập tràng xuất hiện là do bởi những yếu tố sau:
1/ Linh miêu nhảy qua xác chết:
Đây là giả thiết nhiều người truyền tụng nhất. Nhưng linh miêu là có thiệt. Nó là con của một con mèo mun cái bị rắn hổ ngựa quấn lấy vào ngày tết Đoan NGọ trong năm. Đặc điểm của linh miêu khác hẳn với những con mèo khác. Nó mình dài, đuôi dài, mõm dài hơn bình thường so với những con mèo khác. Cách bắt chuột của linh miêu cũng không bình thường. Nó thường leo lên xà nhà cao đứng trên đó nhìn xuống bằng đôi mắt sáng quắc như quan sát, nhìn ngó sinh hoạt của mọi người trong nhà. Nó không bắt chuột mà chuột tự bò ra nạp mạng như bị thôi miên. Từ trân xà nhà cao, nó lao xuống vồ chuột nhanh như chớp. Trong người linh miêu có một thứ từ điển ma mị, khi nó nhảy qua xác chết, sức mạnh ma quái của nó vô hình chung phá mở cánh cửa trung giới , lôi kéo các chủng loại nào đó về nhập xác mà sống dậy.
Những người Chăm gốc Chà ở quận 8, khi nhà có tang thường bắt hết chó mèo trong nhà trói gô lại hoặc nhốt chúng vào lồng thật kỹ lưỡng.
2/ Do thầy bùa trục luyện :
Ở vùng Trà Sư- Thất Sơn, có một số thầy tu luyện được pháp này. Không biết có giống với phép luyện cương thi bên Trung Quốc hay không nhưng hiện tượng thì không khác mấy. Nhửng chủng loại bên ngoài tá nhập vào thể xác đã chết rồi, làm việc theo sự sai luyện của thầy. Giống này, trong giới huyền thuật gọi là ĐUÔN. tại sao gọi là ĐUÔN? Giống như con đuôn ăn rỗng ruột đọt dừa , khi nhập vào xác chết, nó ăn lần trong ruột xác chết để kéo dài sự sống trên thế gian, ăn đến khi xác rỗng hoàn toàn thì người thầy tìm một xác mới để trục luyện chúng sang. Ph ép luyện này tàn độc, chỉ khi nào căm thù nhau lắm đến mức không đội trời chung,người thầy mới sử dụng. Buổi tối, thầy làm phép trục, ĐUÔN sẽ đến nhà kẻ thù của thầy để xé xác kẻ đó.Thanh có đọc được tài liệu trước 1975 về phép luyện này của một thầy phù thủy miền Bắc, muốn sai khiển được ĐUÔN, thầy phải giữ trái tim người chết thật kĩ, dùng trái tim ấy là vật sai khiến ĐUÔN. Chẳng may pháp đàn bị phá hủy, nạn nhân tiếp theo sẽ chính là người thầy tế
luyện. Làm phép này, người thầy đã bước một chân vào địa ngục rồi đó.
Trong một lần về núi, được nghe một thầy Chà kể lại rằng: Có một người bệnh nặng sắp chết, bác sĩ chẩn đóan ung thư đến giai đọan cuối không còn sống được quá 24 giờ. Cả nhà cuống cuồng, kẻ thì lo rước thầy, người thì lo hậu sự. Có một ông thầy đến xem và khẳng định sẽ kéo dài sự sống cho bệnh nhân đến khi con cháu ở nước ngoài về đủ. Sau khi làm phép, thầy lấy một số tiền rồi biến mất. Quả thật đúng như lời thầy, người bệnh khỏe mạnh trở lại, đi đứng như thường khác hẳn những ngày trước chỉ nằm 1 chỗ. Điều đặc biệt nữa là không nói không cười, ăn uống mạnh bạo chẳng khác gì thanh niên, lại thích ăn tiết canh, thịt bò tái. Đến khi con cháu nước ngoài về đầy đủ, người nhà cũng chẳng thấy vẻ gì là bệnh họan. Trải qua gần 1 tháng, một hôm có vị sư tu theo hạnh khất sĩ tình cờ khất thực ngang nhà, ông đứng ngó vào nhà chăm chú, không chịu bỏ đi cho dù người nhà đã cúng dường. Chờ đến giờ cơm, sư tự nhiên vào nhà hướng về người bệnh chắp tay lần thầm chú nguyện. Bỗng người bệnh bật ngửa ra đất chết tươi. Trong chốc lát, cả nhà bịt mũi chạy làng vì thân thể người bệnh chợt trường phình lên thối rữa nhanh chóng. Vị sư khi không gánh chuyện thế gian, bị người nhà bắt lại toan giải lên công an vì tội “giết người”…
Ông thầy muốn lấy le với gia đình, chắc chắn đã trục binh hoặc những vị bên trung giới vào giữ xác. Vô hình chung thể xác người bệnh biến thành quỷ nhập tràng. Nếu không có vị sư khất thực thì … không biết hậu quả sẽ ra sao.
3/ Người chết có uất khí, khi chết lại nhằm ngày giờ linh:
Trước khi chết, uất khí không tan, người chết không bao giờ chịu đi vào Âm Dương đạo. Thế nào cũng thành ma ở lại thế gian. Nếu chôn xác nhằm vào cuộc đất “có vấn đề” như đã trình bày ở trên, việc thành quỷ nhập tràng là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, loại này ở VN ít thấy ( hoặc có mà Thanh không biết).
Người chết đi vào ngày giờ linh nếu không bị thần trùng thì cũng làm quỷ, một trong những loại ấy là quỷ nhập tràng. Sự thật, hồn người chết đã đi mất từ bao giờ. Nhưng thể xác còn ở lại thế gian cho linh giới chiếm giữ. Người nhà không biết, cứ tưởng hòan dương, lo cung phụng tẩm bổ, chữa trị tiếp tục cho đến khi chân tướng thật của quỷ hiện ra.
Quỷ nhập tràng có những đặc điểm khá rõ. Sau đây là kinh nghiệm bản thân về chủng loại này:
- Xương sống của người nhập tràng thường cứng, nên thường ngồi không nằm. Đêm thức trắng không ngủ, mắt không bao giờ thấy nhắm dù ngày hay đêm.
- Người bị nhập, bước lên kẽm gai, miểng chai đâm lthủng thịt vẫn không hề hay biết, cảm giác.
- Ngồi nơi nào, thì sau khi rời đi, chỗ đó có nước vàng nhớt, hôi thối đọng vũng.
- Lấy gương để trước mặt người bị nhập, thì nó quay đi không dám ngó vào gương.
- Quỷ nhập tràng hay sợ tới gần bếp lửa đang cháy ( trong kinh nghiệm dân gian của Toan Ánh thì quỷ nhập tràng sợ nước), chúng ăn rất nhiều mà khi đi cầu vẫn còn nguyên tất cả vật thực. Có lẽ thể xác đã chết, các bộ phận không còn hoạt động nên không thển tiêu hóa được.
- Nhà có người bị quỷ nhập tràng thì bao giờ cũng có cảm giác lạnh, thoang thỏang mùi hôi thối, cho dù ở nhà có lau dọn xông hương cỡ nào đi nữa.
- Không giống các vị thần thường thích thể xác thanh tịnh, đồng nam đồng nữ, đối tượng nhập của quỷ nhập tràng thường là người lớn tuổi, có gia đình, thể xác bệnh họan uế trược.
- Nhà nào có hiện tượng này thì giai đọan đó gia đình làm ăn suy sụp, đỗ vỡ.
- Trong thời gian nhà có người bị, thức ăn rất mau thiu. Khi nấu nướng xong, khỏang 2 giờ sau là trở nên nhạt nhẽo, hư hoại, có mùi.
- Lúc người bị nhập đã chết hẳn, thì đêm đ1o trong nhà nghe như là tiếng mèo đuổi chuột, tiếng bình bông bị vỡ hoặc chén bát để trong kệ cũng tự nhiên vỡ nứt.
- Một điều quan trọng nhất là quỷ nhập tràng không sợ bùa chú, ngũ lôi hoặc binh gia. Chỉ có Mật chú của chư Phật hoặc có chư tăng đạo hạnh tụng kinh cầu nguyện nó mới xuất ra. Trước đây, Thanh và huynh đồng đạo Bửu Sơn đi chữa bệnh cho chị một đạo hữu. Đến nơi mới biết bà ta đã trở thành quỷ nhập tràng. Cứ kiếm xó tối mà ngồi, hai con mắt trong bóng tối sáng long lanh, không khí xung quanh hôi thối và lạnh lẽo…Hai đứa cứ làm phép trị tà nhưng chẳng thấy bà ta có động tĩnh gì. Thanh và huynh Bửu Sơn chuyển sang trì Đại Bi chú, công năng thấy rõ. Bà ta tỏ vẻ sợ hãi, bịt tai nép mình vào góc cầu thang… Một tuần lễ sau bà ta chết…
Những câu chuyện trên đây có sưu tầm, có thực tế. Những điều trải nghiệm chưa hẳn là chính xác hòan tòan. Rất mong các vị cao nhân hiểu biết hơn bổ sung kiến thức ngõ hầu cho mọi người được học hỏi.
Được cảm ơn bởi: Suỵt Suỵt, Esmeralda, Nguyenlinh243
Đầu trang

TheLinh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1910
Tham gia: 10:06, 12/07/17
Đến từ: Xứ Ogyen

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi TheLinh »

Vậy là hoàn thành những câu chuyện dài của tác giả Thanh Pali.

Tiếp đến mình sẽ post các bài tự truyện của tác giả Đại Hồng Cát.
Đầu trang

12010277
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1355
Tham gia: 23:54, 31/07/13

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi 12010277 »

Suỵt Suỵt đã viết: 11:07, 15/10/19
12010277 đã viết: 01:26, 15/10/19
Suỵt Suỵt đã viết: 00:18, 15/10/19
Ma quỷ thì đâu cũng có thôi, chỉ ít hay nhiều. Mình đọc nhiều bài về ma ám ở các nơi trên thế giới, show truyền hình "Săn ma" xem cũng sợ hú hồn. Có điều mình vẫn băn khoăn mỗi nơi lại có cách đối xử với vong khác nhau rồi rốt cuộc nơi nào đúng. :-?
Mình còn số điện thoại một bà cụ hành nghề "mê tín dị đoan" đây. Cụ ấy từ người lạ thành người quen là do cụ chia sẻ góc nhìn phi-khoa-học với mình (chắc do mình là người á, cụ nghĩ mình dễ cảm thông các chuyện siêu nhiên?). Nghe những gì cụ nói và ảnh cụ chụp các hiện tượng kì bí ở châu phi thì nghe hợp lý lắm.

Nói dông dài thôi, mình mà biết Suỵt có câu trả lời thì mình trộm công trình nghiên cứu rồi đi xin cái giải Nobel tâm linh học rồi =))
Share ảnh đi chế, mình rất muốn xem thử. [-O<
Mình có câu trả lời thì đã không đau đáu nửa đời người, lỡ một ngày được giải đáp thì khẳng định không tới lượt chế xin giải Nobel. :))
Mình ko muốn xin bả. Ảnh đẹp và ảo lắm. Chụp bằng máy ảnh cơ nên mình mong ko phải đồ giả. Cái mình nhớ rõ nhất là cái ảnh bả có cái kim tự tháp trên nóc có một loạt sao xếp thành hình ovan hay gì đó.
Được cảm ơn bởi: Suỵt Suỵt
Đầu trang

TheLinh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1910
Tham gia: 10:06, 12/07/17
Đến từ: Xứ Ogyen

BÁU VẬT CHÙA MIÊN - DAI HONG CAT

Gửi bài gửi bởi TheLinh »

BÁU VẬT CHÙA MIÊN - DAI HONG CAT
Những ngôi chùa Miên thường có rất nhiều báu vật. Ví như Chùa Tháp, Chùa Vàng, Chùa Bạc…..nổi tiếng vì hàng trăm tượng Phật bằng Vàng, bạc, kim cương, ngọc bích.v.v… Sự quý giá của các bảo vật đó được ca tụng trong hàng ngàn trang sách báo, các tour du lịch tham quan mang về cho đất nước sở tại hàng triệu triệu đô…..Thế nhưng, những ngôi chùa đó chưa bao giờ có được Báu vật phi thường…..
ĐHC còn nhớ lúc đó đang ở Miền Đông, trong một trang trại của Đại gia N.K. Trang trại của ông ta hầu như có tất cả, núi non, sông suối, rừng cây, chim thú quý như Công, Hạc, Trĩ sao, Hổ, Gấu, Hươu nai, Kỳ đà, Cá sấu….Ông ta còn xây cả một trạm thủy điện riêng để tự cung cấp điện cho trang trại. “Oách” như vậy chưa đủ, đại gia N.K còn xuống tận Miền Tây “rinh” nguyên một căn nhà cổ 3 gian cực to hàng trăm năm tuổi về “trồng” tại trang trại để lâu lâu tổ chức cúng giỗ ông bà cho thật trang trọng. Từ khi đại phát tài, đại gia N.K càng tin tưởng vào địa lý phong thủy, ông ta cùng ĐHC xuống Miền Tây cải táng các ngôi mộ của ông bà tổ tiên trong dòng họ, thu thập tất cả mang về trang trại, cho xây một khu lăng thật to, thật hoành tráng để “có ông bà bên cạnh phù hộ con cháu làm ăn phát đạt đời đời”. Đại gia N.K không ngần ngại chi hàng tỉ đồng để làm việc này và sau hơn một năm công việc đã gần như hoàn tất.
Hôm đó ĐHC đang ở trong ngôi nhà cổ 3 gian với những hoa văn được điêu khắc cực kỳ công phu sắc sảo, thiếp bằng vàng thật nên lâu ngày vẫn còn rực rỡ. Ngồi trên bộ “tràng kỷ” xưa còn hơn trái đất, ung dung uống ly nước dừa quê hương mát rượi thì Mã Trường Lạc ở đâu lù lù xuất hiện…
Mã Trường Lạc có cái tên cúng cơm rất đẹp nhưng giới “đào mồ cuốc mả” chỉ gọi y đơn giản là Lạc “mả”. Y dáng người thấp lùn, cái bụng tròn vo, tướng đi lặc lè. Điểm đại quý của y là cái đầu to, trên đó gắn cái mũi y như mũi kỳ lân, mắt rất sâu, hai hàng lông mày mọc rất dài, rất đậm. Lạc “mả” khá có tiếng trong giới buôn đồ cổ, nổi tiếng liều lĩnh, sẵn sàng đào trộm những ngôi mộ cổ nếu biết trong đó có đồ quý. Thành tích cộm nhất của y là dám vào một bảo tàng nổi tiếng cắt phăng cái đầu của một pho tượng quí để mang đi bán cho một thương gia người Thái. Y từng lên tận Sơn La, Lai Châu… qua tận Lào, Miên để tìm trống đồng cổ…. Có nhiều tiền, lại có cái tài ăn nói siêu hạng, y lấy được một cô hoa khôi người Tuyên Quang da trắng, chân dài, cao hơn y cả cái đầu. Sau này vì có xích mích gì đó với giang hồ đất Bắc nên y vọt vào Sài Gòn lấy thêm một cô vợ vừa trẻ, vừa đẹp, vừa nổi tiếng theo đúng típ “ăn 5 sao, ở 5 sao, lấy vợ siêu sao”. Được một thời gian thì tiền bạc hết nhẵn, lại đẻ thêm một đống nợ. Lạc “mả” đánh liều “khua môi múa mỏ” với đại ca T.B để người này đưa tiền cho y xuống đất An Giang tìm “cái cục nho nhỏ nhưng bán được hàng mấy triệu đô”.
Đại ca T.B là dân quận tư, giám đốc cả mấy công ty chuyên về xây dựng và san lấp mặt bằng, có xe ben, xe cuốc đủ cả. Nhưng nghề chính của ông ta là cho vay nặng lãi và đòi nợ mướn…Có trong tay những hợp đồng xây dựng và san lấp cỡ lớn, đại ca T.B mượn ngân hàng được tiền tỉ tỉ. Ông ta dùng tiền đó cho vay nóng và giúp giải ngân cho những công ty đang nợ để lấy hoa hồng. Tiền đẻ ra tiền, chẳng mấy chốc đại ca T.B trở thành đại gia T.B. Nhưng ông ta rất khôn ngoan, không bao giờ kinh doanh vũ trường và cờ bạc, mảnh đất độc quyền của “anh Năm”. Bất hợp pháp trong cái vỏ bọc vô cùng hợp pháp nên đại ca T.B ngày càng trở nên giàu có, đàn em theo về đông như kiến.
Đi lên đi xuống đất An Giang suốt mấy năm, tiêu hết “mấy cân thóc” của đại ca T.B mà chỉ mang về được mấy cục sắt gỉ, Lạc “mả” cảm thấy sắp bị chui xuống mả nên lo sốt vó…..
Lạc “mả” không đi một mình mà y dẫn theo một người, người này còn khá trẻ nhưng hình dung tiều tụy mà thần sắc lại rất u ám. Sau vài câu xã giao thông thường, Lạc “mả” đi ngay vào chuyện chính “nói thật với bác, nhà em xuống An Giang để tìm đồng đen cho đại ca T.B, nhưng chỉ toàn gặp quân lừa đảo với đồng đen giả” – “sao nghe đồn chú tìm được một pho tượng nữ thần đẹp lắm” – Lạc “mả” lật đật nói tiếp “chuyện này thật không dám giấu, tìm mãi không được đồng đen, em gặp một bọn ở Tri Tôn nói là trong lúc đào ao thấy một pho tượng đẹp lắm nên nghĩ là nếu mang pho tượng này về bán thì cũng gỡ gạc được chút đỉnh, có tiền trả cho đại ca T.B” – y ngừng lại, uống một hớp nước, thở phì phò rồi nói tiếp “bọn chúng dẫn em đến nơi, thấy pho tượng còn ngập dưới sình liền kêu một thằng nhảy xuống lấy búa đục một miếng ở bệ của pho tượng mang lên xem thì thấy đúng là mảnh gạch của Phù Nam, liền đưa cho tụi nó 2 cây vàng, móc pho tượng lên. Pho tượng dính sình đen thui, lật đật cho vào bao bố chở đi ngay vì sợ công an xã đến làm khó dễ. Không dè về đến khách sạn, mang ra rửa thì thấy chỉ có cái bệ là tụi nó lấy gạch Phù Nam dán lại, còn pho tượng thì bằng đất nung mới làm. Em tức quá đập bể pho tượng luôn…” ĐHC cười thầm “gian hùng như Lạc “mả” mà còn có lúc bị lừa, đúng là y bị con ma đồng đen nó ám nên mới thành ra như vậy”.
Lạc “mả” nói tiếp: “trong lúc đi lang thang ở Chợ Mới, vô tình gặp được người này, nói chuyện với anh ta thấy câu chuyện cũng có vẻ rất thật nên dẫn về đây xem nhà bác có giúp gì được không”. Xem ra Lạc “mả” cùng đường nên tìm cách lôi ĐHC vào, nếu may thì tìm được đồng đen cho y, còn không thì cũng có cái để nói với đại ca T.B hòng thoát nạn. Người mà Lạc “mả” dẫn tới không phải người Việt mà là một nhà sư người Cao Miên, anh ta khoảng 23 – 24 tuổi, gốc là người Việt nên nói được tiếng Việt lõm bõm. Theo như lời kể thì vào khoảng năm 79, khi bộ đội Việt Nam tiến qua giải phóng Campuchia thoát khỏi bọn diệt chủng PônPốt thì có một số người đi theo sau, thừa khi nước đục thả câu …..Ngôi chùa của anh ta lúc đó chỉ còn có mỗi sư trụ trì cũng đã già lắm rồi. Chùa chỉ là một ngôi chùa nhỏ nên chẳng có cái gì quý cả, chỉ có một pho tượng Phật nhỏ bằng vàng. Sư trụ trì cất giữ rất kỹ nhưng không hiểu vì sao bọn người kia biết được, chúng tìm được pho tượng, bắn chết sư trụ trì, mang pho tượng chạy đi trước khi dân làng và bộ đội Việt nam kịp đến. Pho tượng được mua đi bán lại,…. cuối cùng lọt vào tay bà Chín V, một bà trùm buôn bán vàng ở Châu Đốc. Bà Chín V là người Việt gốc Miên, là một phật tử rất sùng đạo, bà hay qua lại bên Miên nên thấy pho tượng thì nhận ra đây chính là pho tượng bị cướp ở ngôi chùa nhỏ, liền mang qua Miên, cúng dường trả lại cho chùa. Các sư ở chùa nhận lại được pho tượng thì mừng lắm. Sau bao nhiêu năm lưu lạc pho tượng linh thiêng lại trở về nơi đất Phật. Đúng là có Phật Tổ phù hộ. Nào ngờ Hia (Sư huynh) xem kỹ lại thì nói pho tượng tuy là đúng nhưng cái ruột bên trong đã bị mất rồi. Hia không chịu nói đó là cái gì, mà nói cần phải qua Việt Nam để tìm lại vật đó. Hia không biết nói tiếng Việt nên dẫn anh ta theo. Hai nguời nhờ một “Pi-âm”(cảnh sát Miên) dẫn đường qua Việt Nam. Sau đó lên Châu Đốc tìm bà Chín V nhưng bà ta đã đi Trung Quốc, phải mấy tháng nữa mới về. Hia (Sư huynh) nói anh ta tạm ở lại nhà bà Chín V, Hia đi khoảng vài ngày sẽ về, anh ta chờ mãi, chờ mãi….cả mấy tháng trời mà Hia cũng không về. Anh ta quyết định ra đi tìm Hia (Sư huynh), lang thang khắp nơi, hết vùng Châu Đốc,Tịnh Biên, Tri Tôn, Bảy núi….rồi tới Chợ Mới, Phú Tân, Tân Châu, Bác Đai,…. qua tận Hồng Ngự, Sa Đéc .v.v….cả hơn hai năm nay mà cũng chẳng tìm thấy Hia đâu, muốn trình báo công an Việt Nam thì lại sợ không ai tin, sẽ bị trục xuất về nước vì lúc qua hai người đi theo đường của những người đi buôn nên chẳng có giấy tờ gì. Lạc “mả” nói “nhà sư này kể rằng Hia của anh ta võ nghệ, pháp thuật rất cao, tại sao lại biến mất như vậy mà không nhắn nhủ gì lại ? Anh ta nhớ lúc còn nhỏ, thấy pho tượng có oai lực phi thường, những người bị trúng phải tà ma, bùa ngải mê man gì thì chỉ cần đến gần pho tượng là hết liền. Pho tượng để trong chùa thì không bao giờ có ma quỷ, âm hồn, chuột bọ, rắn rít dám bén mảng tới. Nhiều tay tà sư bùa ngải cao thâm thấy pho tượng thì rất sợ hãi, cao bay xa chạy.
Lạc “mả” nghi ngờ cái “cục nhưn” của pho tượng chính là đồng đen nên mới dẫn nhà sư theo. Y nói “Theo nhà em biết thì đồng đen khắc tà rất mạnh nên người xưa mới cho vào bên trong ruột tượng Phật, người nào bị trúng phải tà khí, bùa ngải, ma nhập v.v…chỉ cần đứng cạnh là hết liền chứ chưa cần phải cúng kiếng gì cả - đồng đen cứng vô cùng, lửa đến gần nó thì dạt ra, dùng búa tạ đập nó cũng không để lại dấu vết, nó chỉ to bằng đầu ngón tay cái nhưng nặng đến hàng mấy ký lô. Người xưa cho vào trong ruột tượng, pho tượng nhiều khi lại sơn đen nên nhiều người không biết nói là tượng đồng đen chứ thực ra chỉ có viên đồng đen nhỏ bên trong ruột thôi, nó cứng phi thường như vậy nên không thể khắc, đúc gì được”. Lạc “mả” kết luận nếu câu chuyện của nhà sư là thật thì có thể truy theo tung tích những kẻ cướp tượng ngày xưa biết đâu có thể tìm ra nó.ĐHC không mặn mà gì cái chuyện đi tìm đồng đen ở An Giang của Lạc “mả”, chuyện này thật quá nguy hiểm. Vùng đất này rất nhiều pháp sư bùa ngải người Việt hoặc người Miên thuộc hàng cao thủ, lỡ gây thù chuốc oán với họ thì kể như tàn đời. Còn giáo phái Hòa Hảo có những vùng thuộc lãnh địa riêng của họ, người ngoài bất khả xâm phạm…. Các băng buôn lậu hàng hóa, vàng, vũ khí, ma túy đang hoành hành ở An Giang. Do đó công an hình sự và bộ đội biên phòng cũng càn quét rất rát, đi xuống vào thời điểm này e rằng “ An Giang đi dễ khó về”.
Tuy nhiên một sự việc bất ngờ ngoài ý muốn đã làm thay đổi mọi sự. Thấy nhà sư người Miên thần sắc rất u ám nên ĐHC khuyên anh ở đây nghỉ ngơi một thời gian. Dẫn anh ta đi xem trang trại, anh tỏ ra rất thích thú nhưng không nói gì nhiều. Được khoảng ba ngày thì chiều hôm đó, sau khi tắm xong, nhà sư lên tấm phản nằm rồi anh ta không bao giờ tỉnh dậy nữa. Cái chết đột tử của nhà sư người Miên đúng là một tai họa, anh ta chẳng có giấy tờ gì trong người, chỉ biết anh ta tên là Chau-Bona-Rutsa ….Ngôi chùa anh ta ở thuộc tỉnh Tà-keo. Đồ đạc của anh để lại cũng chỉ mấy bộ đồ cũ, bình bát và một cái xà-rông... May mà Đại gia N.K “tiền nhiều như nước trong nguồn chảy ra” lo liệu nên sau hơn một tháng mọi việc cũng êm xuôi, tạm thời chôn nhà sư trong trang trại, bao giờ tìm được ngôi chùa sẽ cải táng sau.
Cái chết kỳ bí của nhà sư người Miên cần phải để tâm suy nghĩ, lúc chết miệng anh ta hơi rỉ nước đen, lòng bàn tay, bàn chân có ánh xanh xanh…..Khi ĐHC nói với Lạc “mả” rằng nhà sư bị trúng phải ngải độc mà chết thì thấy Lạc “mả” “mặt xanh nhớt như tàu lá chuối”, rõ ràng y có chuyện còn giấu, quan hệ của y và nhà sư không hẳn giản đơn như vậy. Nhưng nhà sư chết rồi, anh ta không thể nói ra được nữa. Bị trúng ngải độc thường là phải chết liền, nhà sư này còn sống được thêm cả năm mười ngày nữa chứng tỏ kẻ ra tay pháp thuật phải rất cao cường, đã đạt đến trình độ muốn người ta chết lúc nào là chết lúc đó. Phen này Lạc “mả” cõng rắn về nhà, không đi với y về An Giang thì cũng không được.
Chiều hôm đó, sau khi uống tuần rượu tạm biệt Đại gia N.K, ĐHC và Lạc “mả” lên đường. Đại gia N.K rất nhiệt tình, cho tài xế lấy “con” Camry đời mới đưa ĐHC và Lạc “mả” xuống An Giang. Trên đường đi, xe ghé ngang qua Sài Gòn hoa lệ, đường phố thật đông đúc và náo nhiệt, đến nhà hàng Bát Đạt tại Chợ Lớn vào khoảng 8h tối, ăn món “Súp bát bửu” để phục hồi khí lực. Từ khi nghe lý do cái chết của nhà sư, thần sắc Lạc “mả” xem ra “xuống màu” trông thấy. Y đi đứng nói năng không còn tự tin như trước, hai con mắt lúc nào cũng dáo dác, ngó trước ngó sau. Ngồi ăn tối mà Lạc “mả” cứ suy nghĩ đâu đâu, không còn họat bát như trước.
Đến bắc Vàm Cống thì đã hơn 2h sáng. Trên chuyến phà chỉ có xe của ĐHC và một vài người buôn gánh bán bưng nữa. Đêm trên dòng sông Hậu thật thanh bình, phẳng lặng. Làn gió thổi nhẹ nhàng, mát rượi, sóng nước lăn tăn như gợi nhớ về những ngày quá khứ……
Ở thế kỷ trước, An Giang có một nhân vật rất nổi tiếng ở vùng núi Cấm, đó là ông “Bảy Hổ”. Bảy Hổ là một pháp sư nổi tiếng “dao chém không đứt, đạn bắn không thủng, đi nhanh như chớp giật”. Lúc nhỏ anh ta chỉ là một thanh niên bình thường, nhưng rất đam mê võ thuật. Anh Bảy qua bên Miên tầm sư học đạo, sau vài năm đã trở thành cao thủ. Võ Miên nhìn chung cũng như tất cả các môn võ thuật khác, có đòn tay, đòn chân, đòn công, đòn thủ……Nhưng cái đặc biệt của võ Miên là cú đá bằng ống quyển. Dùng ống quyển có thể đá tan bia vỡ đá, gãy bứt ngang thân cây chuối lớn. Cao thủ võ Miên đá gãy xương sườn đối thủ là chuyện bình thường. Nếu dùng tay mà đỡ cú đá “ống quyển” thì gãy tay như bỡn. Học võ Miên xong, anh Bảy còn qua Thái lan học thêm võ Thái. Võ Thái Lan tương tự võ Miên nhưng chú trọng đánh cận chiến và cú đá đầu gối. Cú lên gối mạnh đến mức có thể làm chết cả một con trâu. Cao thủ võ Thái khi đánh thường “nhập nội”, dùng tay khóa đòn đối thủ, sau đó lên gối, chấn vào chớn thủy làm đối thủ vỡ tim,ná thở. Còn nếu bạt ngang vào be sườn sẽ làm giập gan, vỡ lách, gãy xương sườn. Lên gối trúng hạ bộ thì đối phương chết là cái chắc. Học xong võ Thái, anh Bảy còn qua Miến Điện,….tuy gần Miên, Thái nhưng võ Miến Điện lại khác hẳn, nhiều chỗ dị biệt hơn nhiều. Võ Miến chú trọng dùng đòn tay, cạnh bàn tay, mũi bàn tay. Có thể dùng mũi bàn tay đâm thủng thân cây cây chuối lớn. Lúc đánh thì xòe bàn tay như cánh quạt vậy. Lối đánh của võ Miến Điện rất nhẹ nhàng, không ào ạt, bão táp nhưng độc hiểm vô cùng.
Sau khi gồm thâu tuyệt học, anh Bảy trở về đất Việt. Những tưởng sau bao nhiêu năm luyện tập sẽ trở thành cao thủ vô địch, nào ngờ trúng phải độc thủ của một pháp sư, biến thành dở điên dở dại….chỉ còn chờ chết. May được thầy Kheng-sivan thương tình cứu chữa mới sống lại. Anh Bảy theo thầy Kheng-sivan học nghề thuốc chữa bệnh, bùa chú, phép thuật hơn chín năm thì thành tài. Trong lúc học, cô con gái của thầy Kheng thấy anh Bảy đẹp trai, chịu thương chịu khó thì thầm thương trộm nhớ…..
Vùng Bảy núi lúc bấy giờ còn hoang sơ lắm, các cao nhân về đó quy ẩn rất nhiều. Bỏ biết bao nhiêu năm tầm sư học nghệ như vậy mà xem ra anh Bảy cũng còn quá nhiều đối thủ. Đúng là núi cao thì có núi cao hơn. Tham vọng của anh Bảy là phải vô địch thiên hạ….miễn là bằng bất cứ giá nào. Cuối cùng anh nghĩ phải luyện bằng được bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” thì mới mong đánh bại được tất cả cao thủ trong thiên hạ. Bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” chính là tầm tối cao của Thiên Linh Cái. Một thứ bùa cực độc, cực ác, vì thế thầy Kheng-sivan đâu chịu dạy cho đệ tử. Anh Bảy đành phải giở đến chiêu mà thiên hạ thường vẫn làm nhưng vô cùng đắc dụng….đó là cô con gái rượu của thầy Kheng….
Sau khi chôm được y bát, anh Bảy trốn về núi Côtô …Cách luyện “Thiên Linh, Thiên Nhãn” vô cùng tàn độc. Phải dùng hai cái bào thai một nam một nữ đúng 79 ngày tuổi – lúc đó bào thai vừa tượng hình giới tính – mà phải lấy bằng cách mổ bụng người đàn bà khi họ còn sống thì cái uất khí của họ mới nhập vào bào thai làm cho bào thai trở nên tàn độc vô cùng. Sau đó phải luyện trong bảy năm, mỗi năm dùng máu của đồng nam, đồng nữ tắm cho nó để nó có thêm “linh khí”. Đến năm thứ bảy thì hai cái bào thai khô quắt lại, nhỏ chỉ bằng hai lóng tay, luôn ở trong tư thế ôm nhau. Lúc đó phải làm lễ cưới cho nó thì nó mới chịu theo phò. Anh Bảy luyện thêm một sợi Càtha bằng vàng nặng đúng 10 lượng 9 phân để đeo cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” ở ngực. Có cặp bùa này thì đao thương bất nhập, đạn bắn không thủng, ra tay nhanh như chớp giật không ai có thể đỡ nổi. “Thiên Linh, Thiên Nhãn” còn có thể báo trước được mọi tai họa, tiêu diệt hết các lọai phù chú, bùa ngải khác. Sau khi luyện thành công “Thiên Linh, Thiên Nhãn”, việc đầu tiên của anh Bảy là tìm đến thầy Kheng-sivan và ra tay giết hại, độc chiếm vùng núi Cấm.
Anh Bảy trở thành Bảy Hổ từ đó, là con hổ dữ của vùng Bảy núi. Cặp “Thiên Linh, Thiên Nhãn” ám linh hồn của Bảy Hổ, làm cho y càng ngày càng trở nên hung dữ tàn bạo hơn bao giờ hết. Trở thành một tên trùm cướp hùng cứ ở vùng núi Cấm. Nhà nào giàu có, ghe chài nào đi qua đều phải nộp lệ phí cho Ông Bảy Hổ. Thấy con gái nào đẹp, vừa mắt là Bảy Hổ bắt về cưỡng hiếp. Cái lối bắt gái của Bảy Hổ rất độc, y chỉ cần cho người xuống nhà cô gái mà y chấm, nói với cha mẹ hoặc chồng cô ta một tiếng thì tối hôm đó gia đình phải mang cô gái đến nộp, trái ý là Bảy Hổ giết sạch không tha. Nhiều cao tăng, pháp sư muốn trừ diệt Bảy Hổ, nhưng chưa đến nơi thì y đã biết rồi. Bảy Hổ giết họ rồi chặt đầu, đóng cọc để trong hang đá tu luyện bùa phép. Không còn ai có thể là đối thủ của Bảy Hổ được nữa.

.......Còn Tiếp.
Đầu trang

TheLinh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1910
Tham gia: 10:06, 12/07/17
Đến từ: Xứ Ogyen

Re: Báu Vật Chùa Miên.... (Tiếp theo.)

Gửi bài gửi bởi TheLinh »

........

Lúc bấy giờ đã bước sang thời người Mỹ đổ bộ vào Miền Nam, lúc đó Thiếu tá “Nam” là tư lệnh lực Lượng QĐVNCH cả một vùng Tri Tôn, Tịnh Biên, Chợ Mới…..Nghe rất nhiều chuyện về Tướng cướp Bảy Hổ, Thiếu tá “Nam” muốn dùng sức mạnh vũ khí của người Mỹ để tiêu diệt Bảy Hổ. Cuối cùng thì Bảy Hổ cũng lọt vào ổ phục kích. Lính VNCH đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp, tay cầm súng Cacbin hỏa lực kinh người. Hàng trăm lọat đạn chĩa vào người Bảy Hổ bắn mà chẳng ăn thua gì. Bảy Hổ phóng băng băng như chỗ không người, giết lính của Thiếu tá “Nam” như ngả rạ…. Lính VNCH cuối cùng phải rút lui trong thảm bại.
Quân du kích của MTDTGPMNVN lúc bấy giờ họat động rất mạnh, nên Thiếu tá “Nam” tạm dẹp ý định tiêu diệt Bảy Hổ, mà quay ra đối phó với VC. Bỗng một hôm đang ngồi trong tư dinh thì cánh cửa mở toang, Bảy Hổ từ ngoài đi vào, uy phong lừng lững……
Bảy Hổ bước vào, nhìn Thiếu tá “Nam” cười gằn gặn, y nói “Vĩnh Nam, hôm nay tao cho mày biết thế nào là sức mạnh của Bảy Hổ”. Nói xong, Bảy Hổ móc trong người ra một quả lựu đạn mini, đi ra ngoài sân “ nếu mày có bản lãnh thì cưa đôi với tao trái lựu đạn này”. Thiếu tá “Nam” như chết đứng, còn binh lính cũng bao vây xung quanh, súng đạn sẵn sàng nhưng ruột thì run như cầy sấy. Bảy Hổ giật chốt trái lựu đạn, đám lính hoảng vía nằm rạp hết xuống. Một tiếng nổ đinh tai nhức óc, qua cơn khói bụi mù mịt, mọi người thấy Bảy Hổ vẫn đứng sừng sững, cười ha hả…. Sau chuyện này, danh tiếng của Bảy Hổ trở nên như huyền thọai, đâu đâu cũng khiếp sợ và thán phục. Còn Thiếu tá “Nam” thì nhục nhã ê chề. Nhưng ông ta cũng chưa chịu thua, âm thầm vạch kế họach để đối phó với Bảy Hổ.
Sau bao cuộc tìm kiếm, cuối cùng Thiếu tá “Nam” cũng mời được một Đạo sĩ tu mấy chục năm trên núi Thất sơn xuống để trừ Bảy Hổ. Đạo sĩ là người Hán, vì bất đồng với nhà Thanh nên mới bỏ qua Việt Nam. Ông ta tu theo phái Côn Luân, lúc nhỏ luyện “Đồng tử công” nên thân thể cứng như sắt thép, đao thương bất nhập. Lại có thể tùy ý “xúc cốt” thu nhỏ người lại theo ý muốn. Sau này đạo sĩ luyện thành “Tiên thiên hỗn nguyên khí công” nên có thể ngưng tụ hơi thở, tạo thành sức mạnh phá tan tường đồng vách sắt….Đạo sĩ đồng ý xuất sơn tiêu diệt Bảy Hổ để trừ hại cho dân lành. Cuộc chiến của hai người đúng là trời long đất lở, cát bay đá chạy, suốt từ buổi sáng đến đêm khuya cũng chưa dứt. Sáng hôm sau trời quang mây tạnh, Thiếu tá “Nam” cho người lên núi thì thấy xác đạo sĩ mềm như bột nhão, cái đầu thì đã bị Bảy Hổ cắt mang đi rồi. Sau chuyện này, Thiếu tá “Nam” không bao giờ còn có ý tiêu diệt Bảy Hổ nữa mà để mặc y tung hoành ngang dọc. Không việc gì mà Bảy Hổ không dám làm, không tội ác nào Bảy Hổ không dám nhúng.
Một hôm khi đang ngồi bên bàn làm việc, bỗng có tên lính vào đưa cho Thiếu tá “Nam” một cái bọc nhỏ. Tên lính nói “có một nhà sư gửi cái này cho thiếu tá”. Thiếu tá “Nam” mở ra xem thì thấy đó là một pho tượng la-hán nhỏ, bằng đất nung bán đầy ngoài chợ. Tên lính nói tiếp “nhà sư đó nói là pho tượng này có thể giết được Bảy Hổ”. Nhìn pho tượng, Thiếu tá “Nam” bất giác bật cười ha hả - Súng đạn Huê kỳ hùng mạnh như vậy, tài nghệ Đạo sĩ phi thường như vậy mà còn không giết được Bảy Hổ, huống hồ là cái pho tượng tầm thường này - Thiếu tá “Nam” tiện tay để luôn pho tượng bên bàn làm việc, mọi việc rồi cũng quên bẵng đi, không ai còn nhắc đến nữa.
Bảy Hổ sau cuộc đại chiến với đạo sĩ phái Côn Luân, mặc dù chiến thắng nhưng cũng bị thương trầm trọng. Bị đạo sĩ đánh mù hết một mắt, Bảy Hổ trở thành Hổ chột càng trở nên ác độc vô cùng. Dưỡng thương phải hơn nửa năm mới lành, Bảy Hổ nghĩ không phải ngẫu nhiên mà đạo sĩ tới tìm mình, cuối cùng y cũng biết là do Thiếu tá “Nam” mời tới thì vô cùng căm tức. Y nghĩ nếu giết thiếu tá “Nam” thì cũng không hả được mối thù mà như vậy thì dễ cho ông ta quá nên Bảy Hổ rình rập chờ cơ hội để ra tay một cách tàn độc nhất.
Cái ngày ấy rồi cũng đến,đó là cái ngày mà con gái Thiếu tá “Nam”trên Sài Gòn xuống thăm cha….
Tuy rất bận nhưng thiếu tá “Nam” cũng dành cả một buổi tối để hai cha con có dịp ngồi tâm sự. Đang nói chuyện thì Bảy Hổ lù lù xuất hiện, hiển nhiên đám lính bảo vệ đã bị đập chết hết rồi. Là một quân nhân nên Thiếu tá “Nam” lúc nào cũng mang theo súng, ông móc khẩu Rulô bắn liền 5 phát, đạn trúng vào người Bảy Hổ chẳng ăn thua gì, y chỉ cần gạt nhẹ một cái là Thiếu tá “Nam” văng tuốt ra xa, đầu đập vào tường choáng váng. Bảy Hổ chụp lấy cô con gái của Thiếu tá “Nam”, xé toạc quần áo. Y muốn hãm hiếp và giết chết cô gái trước mặt thiếu tá để ông ta đau khổ tột cùng. Bất lực trước cảnh tượng đó, Thiếu tá “Nam” ráng sức đưa khẩu Rulô bắn phát đạn cuối cùng, viên đạn trúng vào người Bảy Hổ, bật văng vào vách tường rồi lại dội ra trúng luôn vào pho tượng La-hán để trên bàn, đổi hướng bay xuyên luôn vào con mắt chột của Bảy Hổ, chui tuốt vào trong đầu.
Bảy Hổ ráng phóng được về núi Cấm, trao lại tấm bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” cho một trong mấy người vợ của y rồi mới chịu chết. Người đàn bà này sau đó trốn qua Miên……

ĐHC ngồi trong một cái am nhỏ trên núi Thất sơn, hỏi Thạch Holk “Ông thấy Mười Hổ so với Bảy Hổ thì như thế nào?” - Thạch Holk nói “Mười Hổ có năm điều hơn Bảy Hổ”- “Ông có thể nói cho tôi nghe được không” - “Ông nghe rồi thì nhớ là phải quên đi, có như vậy may ra ông mới dám đứng trước Mười Hổ”
-Thứ nhất : cặp “Thiên Linh, Thiên Nhãn” bây giờ mạnh hơn lúc trước nhiều vì nó được tắm thêm máu của Bảy Hổ.
-Thứ hai : Bảy Hổ là tên thất học, ngu dốt – còn Mười Hổ tốt nghiệp đại học, có bằng bác sĩ do Pháp cấp đàng hoàng. Y nói được 4 thứ tiếng Anh, Pháp,Việt, Miên . Tầm suy nghĩ sâu xa hơn Bảy Hổ nhiều.
-Thứ ba : Bảy Hổ chỉ là tên cướp núi bị chính quyền truy nã. Còn Mười Hổ nay là Giám đốc Công ty XNK nông thủy hải sản, lúa gạo. Giữ chức Chủ tịch hội đồng quản trị, mặc áo Veston, xách cặp táp, đi xe Mercedes, lên xuống Sài Gòn hội họp, ra nước ngoài như đi chợ. Nhiều khi còn lên tivi báo cáo điển hình nữa.
-Thứ tư : Bảy Hổ là kẻ Đại ác, mở miệng ra là nói chuyện tàn ác như giết, cướp, hãm hiếp nên mọi người biết mà tránh xa – Còn Mười Hổ thì ngược lại, mở miệng toàn nói chuyện nhân nghĩa đạo đức. Sau lưng thì giết người nhưng trước mặt thì toàn làm chuyện từ thiện. Thâm chí còn được chính quyền tặng bằng khen nên nhiều người tìm đến kết thân với y.
-Thứ năm : Bảy Hổ kiêu căng, ngạo nghễ đi đâu cũng chỉ hành sự một mình nên rất bất lợi – Còn Mười Hổ đàn em rất nhiều, ngoài cả trăm nhân viên trong công ty, Mười Hổ còn có nhiều đệ tử giang hồ sẵn sàng vì y liều chết.
ĐHC hỏi “Mười Hổ có phải là con của Bảy Hổ không ?” – Thạch Holk cười nói “việc này chỉ có mẹ của y mới biết được chính xác. Nhưng Mười Hổ giống Bảy Hổ ở sự tàn bạo, độc ác, hơn Bảy Hổ ở chỗ nham hiểm, thâm độc, vì thế nhân gian mới có câu “Mười Hổ độc hơn rắn hổ” là như vậy.
Trời bắt đầu chuyển về chiều, những đàn két về tổ bắt đầu kêu vang rừng núi. ĐHC nhìn ra xa xa, một cảnh trời mây sông núi thật là tuyệt đẹp. Ôi chao, ước gì rũ bỏ hết mọi bụi trần, được bình yên mà tu tâm trên núi như ông Thạch Holk này…..
Đêm xuống thật nhanh, Thạch Holk nấu một nồi cơm gạo trắng mời ĐHC. Ông ta quanh năm suốt tháng ăn cơm với muối, hôm nay đặc biệt có khách nên nấu thêm một tô canh đậu hủ trần. Bữa cơm đạm bạc nhưng thật ngon miệng, ĐHC hỏi “những đệ tử của Mười Hổ thì như thế nào ?” Thạch Holk nói “Có 4 người là quan trọng nhất” - Đó là “Lâm Dơi, Sơn Cẩu, Huyền Hòm”, ba người này khét tiếng ở Long Xuyên và Châu Đốc. – “thế còn người thứ tư ?” – “người này không ở đây, bà ta ở bên Miên” – “đó là một người đàn bà ?” – “đúng, là kẻ ghê gớm nhất trong số những đệ tử của Mười Hổ ”.
“Lâm Dơi thì như thế nào ?” – “ Y tên thật là Lưu Đại Lâm, trùm vùng Châu Đốc, ngày ngày chỉ ngồi thâu tiền bến bãi, tiền nhang đèn cúng kiếng cũng đủ có bạc tỷ,…..Sở dĩ y có biệt hiệu là Lâm Dơi vì trên ngực có xăm hình một con dơi cực lớn đang hút máu. Lâm Dơi không biết chữ nhưng bù lại liều lĩnh và tàn bạo không thua gì Mười Hổ”.
“còn Sơn Cẩu thì như thế nào ?” – “nghe đồn y là em cùng cha khác mẹ với Mười Hổ, Sơn Cẩu chuyên tổ chức các vụ cướp đường thủy, buôn người qua biên giới. Cái tài đặc biệt của Sơn Cẩu là lặn nước như rái và phóng dao nhanh như chớp”.
“thế còn Huyền Hòm ?” - Thạch Holk không nói gì, ông cởi áo ra, ĐHC kinh ngạc vì là một nhà tu mà trên ngực ông ta lại có xăm hình, mà lại là hình một cái hòm….
Thạch Holk nói “Huyền Hòm cũng có một cái hình y hệt như thế này” – ĐHC nhìn cái hình trên ngực Thạch Holk, một cái hòm đen sì sì nhìn từ phía trước, trên có một ngọn đèn cầy leo lét, xung quanh mờ mờ như có 6 người đàn bà tóc xõa, có một hàng chữ Miên phía dưới nhưng đã bị người dùng lửa xóa bỏ. Thạch Holk nói tiếp “nhìn kỹ thì mới thấy cái hình của Huyền Hòm ngọn đèn cầy nằm ở phía bên phải, còn của tôi nằm ở phía bên trái” – “Thì ra hai người là tả hữu hộ pháp ?” – Thạch Holk thở dài nói “phải, hai mươi năm trước tôi và Huyền Hòm cùng theo phò Mười Hổ” – Thảo nào mà Thạch Holk biết rành về Mười Hổ như vậy, bây giờ ông ta đã từ bỏ Mười Hổ, trốn lên núi tu hành, cũng là một điều may cho ông. – “Hồi đó tôi và Huyền Hòm chuyên qua bên Miên chở gỗ lậu về cho Mười Hổ, mỗi chuyến chở bằng ghe chài hàng trăm xích-te gỗ quý, ông ta giàu lên là nhờ chuyện này. Mười Hổ cho xăm đạo bùa này vào ngực tôi và Huyền Hòm là để khi đi vào rừng cọp beo rắn độc thấy thì sẽ bỏ đi, còn nếu bị lạc hay bị nạn trong rừng thì Mười Hổ sẽ biết mà tới cứu”. – Thạch Holk nói tiếp “Mười Hổ gọi đạo bùa này là Lục Linh, ý chỉ 6 người đàn bà mờ mờ đang khiêng hòm. Còn cái hòm tượng trưng cho lòng trung thành tuyệt đối với Mười Hổ cho đến lúc chết. Khi tôi từ bỏ Mười Hổ, tôi phải vào chùa sám hối và dùng một thanh sắt nung đỏ xóa đi những dòng chữ này vì nếu dòng chữ còn thì tôi sẽ không bao giờ thoát khỏi ông ta. Sau khi xóa chữ, tôi bị ốm tưởng chết, may có một đạo sĩ cứu. Từ đó tôi nguyện tu ở trên núi này, mười mấy năm nay chưa hề bước xuống chân núi”.
“Nếu muốn tiếp cận với Mười Hổ thì ông cần phải gặp Huyền Hòm trước – Thạch Holk nói – Huyền Hòm hiện là chủ công trường khai thác đá. Tôi có thằng cháu tên Thạch Nguôn, hiện đang làm nghề vác đá thuê, nó sẽ dẫn ông đi”.
Mấy hôm sau, ĐHC và Lạc “mả” cùng lên Châu Đốc để tìm bà Chín V, nếu gặp được bà ta sẽ biết được ngôi chùa Miên ở đâu, có khi may mắn còn biết được người bán pho tượng là ai…. Không dè tiệm vàng của bà ta đã đóng cửa từ lâu, hỏi loanh quanh cánh xe ôm thì được biết bà Chín V hình như “dính” vào một vụ buôn lậu vàng lớn lắm nên đã bị CA An Giang “lượm”, hiện đang ở “Khám Lớn”. Hy vọng tìm được bà Chín V tắt ngóm, bà ta đang bị tạm giam thì còn lâu mới gặp mặt được. Đành phải đi núi Cấm để tìm gặp Huyền Hòm. Nghe đến tên người này, Lạc “mả” xanh mặt, y từ chối khéo “ để em qua bên Ba Chúc nghe ngóng tin tức xem sao”.
Công trường khai thác đá thật ồn ào, tiếng giựt mìn, tiếng xe ben, tiếng đập đá, tiếng chửi thề……hòa trộn tạo thành một thứ âm thanh đinh tai nhức óc. Thạch Nguôn dẫn ĐHC đến khu lán của Huyền Hòm, y đang nằm trên chiếc võng, xung quanh có ba đệ tử. Nghe nói có người của Thạch Holk đến, Huyền Hòm tỏ ra rất niềm nở, y mời ĐHC ngồi xuống, cùng uống rượu. “Lâu lắm rồi đệ không nghe tin của huynh ấy, anh em hồi xưa lúc nào cũng sống chết có nhau”.
Trời nắng chói chang, Huyền Hòm đứng lên, cao sừng sững, dễ phải đến 1m9. Y cởi trần, da đỏ như màu đồng hun, trên ngực có xăm hình cái hòm y như hình trên ngực Thạch Holk thật, nhưng dòng chữ Miên thì vẫn còn nguyên như minh chứng Huyền Hòm vẫn là đệ tử trung thành cho đến chết với Mười Hổ. Huyền Hòm đầu vuông, mặt vuông, vai vuông, tay vuông, chân vuông, cả người y cái gì cũng cho người ta cái cảm giác là vuông chằn chặn. Y đi chân đất, bàn chân y to và dày khủng khiếp, nhìn là biết “đã dẫm nát bao cát đá”. Còn bàn tay của y chắc còn lớn hơn cả bàn chân……nó gân guốc, sần sùi, chai sạn, chắc là cả núi đá “đã đi qua” bàn tay này. Huyền Hòm đi ra ngoài, sau đó y quay lại ngay, tay xách một cái can to sụ “hôm nay anh em mình phải uống hết can rượu này để mừng huynh Thạch Holk vẫn còn sống khỏe”.
Cuộc nhậu đến gần xế chiều mà khí thế vẫn còn bừng bừng, ba tên đệ tử của Huyền Hòm uống cứ như hũ chìm. Một đứa tên “Bình ngố” cất giọng - “…Biên cương lá rơi Thu Hà em ơi, đường dài mịt mù em chưa đến nơi, mây nước còn cơn lửa binh, khóc than chi chuyện chúng mình, nói nữa cho thêm tội tình,…. trời ơi bởi sa cơ giữa chiến trường thọ tiễn….nên Võ Đông Sơ đành chia tay vĩnh viễn Bạch Thu Hà…Bạn tình ơi đừng có hoài công mòn mỏi đợi chờ……”- tiếng vỗ tay, tiếng gõ ly rầm rập - Huyền Hòm hứng chí chỉ cái bao xi măng 50kg dựng phía trước lều nói “mấy thằng vác đá thuê ở đây thằng nào cũng phải dùng một tay nhấc được cái bao kia thì đệ mới cho làm”. Y quay ra nói với đàn em “tụi bay chạy kêu thằng Ngác lại đây coi” – một lát sau có một chú bé đen đủi chạy tới – Huyền Hòm nói “ thằng nhóc này vừa câm vừa điếc, lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác nên gọi nó là thằng Ngác, nó tuy nhỏ con nhưng cũng dùng một tay vác nổi bao xi măng này”. Chú bé xem ra khỏe thật, cậu ta nghiêng vai, dùng một tay bợ lấy bao xi măng nhấc lên cái rụp. Huyền Hòm khoe “mỗi ngày đệ cho thằng Ngác năm chục ngàn để nó mang về nuôi mẹ già”. Y xem ra rất vui vẻ, lừng lững đi đến bao xi măng, nhấc bổng nó lên một cách nhẹ nhàng nhưng không phải dùng tay mà là dùng….hai hàm răng cắn lại.
Nhìn bề ngoài, An Giang thật trù phú và thanh bình, cây cối, ruộng vườn xanh bát ngát. ĐHC ở tại nhà của anh Năm Ai, một người quen biết cũng đã lâu. Anh Năm Ai trước đây làm rất nhiều nghề, nhưng nay anh chạy xe ôm cũng tạm đắp đổi qua ngày. Còn Lạc “mả” thì ở nhà trọ tại Long Xuyên, y ở đây đã lâu nên hành tung luôn bất định. Thỏa thuận là Lạc “mả” và ĐHC sẽ chỉ gặp nhau lúc nào thật cần thiết và phải thay đổi chỗ liên tục để tránh bị theo dõi. Lúc ấy mỗi lần muốn nhắn tin nhanh là phải viết giấy rồi thuê cánh xe ôm “chạy như ma đuổi” chứ chưa có cái “cục gọi” như bây giờ. Đã hơn hai tháng mà chẳng được việc gì…. Buổi sáng, thường ĐHC cùng anh Năm Ai chạy xe quanh quẩn vùng Thoại Sơn, Ba Thê, núi Sập….hay qua gò Cây Thị, nhiều khi không tìm được đồng đen mà may mắn tìm được pho tượng hay cái bình đất nung nào đó. Nhưng những vùng này hầu như đã bị người dân đào phá tan hoang cả…
Chiều chiều, ĐHC hay cùng Năm Ai và vài người trong xóm “lai rai 3 xị”. Mồi ở đây thật vô cùng phong phú, nhưng ngon nhất là món cá lóc đồng nướng đất sét cuốn với rau sống, bánh tráng, vừa thơm vừa ngọt. Nhiều khi có mớ cá kèo nấu lẩu chua lá giang cũng ngon tuyệt. Lâu lâu thằng nhỏ con anh Năm Ai đi đào được mấy con lươn, mà lươn ở An Giang rất đặc biệt, vàng ươm, dài sọc, to cỡ bằng cổ tay là chuyện thường. Lúc đó làm món lươn nấu với bắp chuối non thì nhậu quên thôi. Nơi đây đúng là xứ sở của cải lương, hầu như ai cũng biết ca cổ. Anh Năm Ai ngà ngà là lại xách cây đờn kìm ra “làm” vài bản. Anh khoái nhất là bài “Lòng dạ đàn bà”, “Tướng cướp Bạch Hải Đường”, “A tiên”, “Căn nhà màu tím”…..Giọng anh Năm Ai ca cũng mùi lắm, mỗi khi anh xuống xề là bà con vỗ tay đôm đốp. Lúc đó anh vớ lấy ly rượu uống cạn queo rồi khà một tiếng….Phụ nữ ở đây là dân “gạo trắng nước trong” nên nước da ai cũng trắng ngần, tóc đen mun, răng đều như bắp. Cô con gái lớn của anh Năm Ai khoảng mười bảy mười tám tuổi, ban ngày thì đi học, hôm nào được nghỉ ở nhà thì anh Năm Ai kêu cô bé lại, lúc đó đúng là “cha đàn con hát”. Cô bé đẹp tuyệt trần, cô vén mái tóc lên, hai gò má ửng hồng, khóe miệng tươi như hoa nở, cất tiếng ca :
“Cái chợ có có hồi nào và bao nhiêu tuổi,
mà ai cũng gọi là Chợ Mới quê tôi,
ở nơi đó tôi có một người thương,
chiều chiều nàng ra bờ sông giặt áo……
Ra bờ sông như hẹn lứa đôi ,
mang áo phơi cho anh nhìn mà tình em mong người ơi,
sao nước trôi xuôi dòng sông lững lờ.
Trông bờ sông anh hẹn với em,
mai mốt đây đem cau trầu nhờ người se duyên tình ta,
em chớ lo thêm buồn anh đã thưa cùng mẹ cha.
Duyên chúng ta muôn đời,
như nước trên dòng đầy vơi…….
Chúng tôi yêu nhau đã sáu năm rồi mà chưa thành chồng thành vợ, cha thì gật đầu, mẹ lại quay ngang rồi bảo, thằng Tâm nó có cái tánh cọc cằn sợ sau này con Hồng bị nó ăn hiếp, Nên bà con dùng dằng chưa chịu cho hai đứa cùng nhau kết nghĩa châu……trần. Hàng xóm bàn tới bàn lui làm em buồn thiệt là buồn……”
Cái nắng chiều vàng nhạt chiếu lung linh lên gương mặt của người thiếu nữ trong căn nhà lá nhỏ. Gió bên ngoài thổi về mát rượi, thoang thoảng mùi hương lúa mới, mùi đất ẩm, mùi cỏ dại…...làm tâm hồn trở nên ngây ngất…!
Một hôm, trong lúc đang ngồi bù khú thì Lạc “mả” đến, y ghé tai ĐHC thì thầm “tối nay Đại ca T.B xuống đây, hẹn gặp tại Long Xuyên có việc gấp lắm, nhà bác nhất định phải đến đó”. Lạc “mả” đi rồi, trong lúc say sưa, bất ngờ anh Năm Ai nói “cái tay hồi nãy đến tìm anh thường hay đi chung với một nhà sư trẻ người Miên, sao lúc này chỉ còn đi một mình ?” – “Bộ y hay đi chung với nhà sư lắm hả ?” – “Hầu như mỗi ngày, trước đây có lần tôi còn chở nhà sư đi vòng vòng khắp Long Xuyên, Chợ Mới, Tri Tôn…..nghe ông ta kể là đi tìm “hia” gì đó…”. Qua lời anh Năm Ai kể thì ra Lạc “mả” còn giấu rất nhiều chuyện, y đã từng gặp Mười Hổ, thậm chí còn dắt nhà sư người Miên đến gặp Mười Hổ….. ĐHC đã lờ mờ nhận ra kẻ đã ra tay giết nhà sư này….Bỗng nghe anh Năm Ai nói tiếp “nhà sư trẻ rất tội nghiệp, ông ta không có một xu trong túi, vừa đi tìm “hia”, vừa phải làm thuê để sống. Có lần chở ông ta đi tìm “hia”, ông ta không có tiền, đành phải chở không, tôi còn mời ông ta vào quán, ăn bún, uống nước”. Anh Năm Ai tuy nghèo nhưng quả là người rất tốt, anh Năm Ai lại nói “có lần nhà sư nói “hia” của ông ta trước khi ra đi có để lại cho ông một cái khăn ấn phòng trừ tà gì đó…..Ông ta còn mang ra cho tôi xem, chiếc khăn màu đỏ, bên trong vẽ hình chi chít, thêu chỉ vàng rất đẹp”. ĐHC giật mình, nhớ lúc khâm liệm nhà sư đâu có thấy cái khăn ấn này…? – Vậy cái khăn đã đi đâu mất ?
Hiển nhiên Lạc “mả” tỏ ra sáng giá nhất trong vụ này. Tấm khăn ấn của người Miên nhiều khi được họ thêu viền bằng những sợi vàng thật nên nó có độ bền với thời gian rất lâu. Nhưng cái quý của nó là ở chỗ vị thầy phù phép vào có công năng như thế nào. Cái khả năng Lạc “mả” lấy chiếc khăn để đem bán cho…. Mười Hổ là rất nhiều. Y nổi tiếng là liều mạng, bất chấp hậu quả từ trước đến giờ. Phải rất cẩn thận với Mã Trường Lạc vì y sẽ mang ĐHC ra đánh ván cờ “thí chốt bắt xe” sắp tới.
ĐHC nhờ anh Năm Ai chở ra núi Thất Sơn tìm gặp Thạch Holk một lần nữa. Từ khi gặp ĐHC ông Thạch Holk lại bị duyên trần níu kéo trở lại. Nghe kể về câu chuyện đồng đen, Thạch Holk suy nghĩ một hồi rồi nói “ Cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” tuy tàn độc và mạnh vô địch như vậy nhưng cũng có một vật khắc chế được nó, chính là viên đồng đen giấu trong ruột pho tượng này. Nếu gặp pho tượng, cặp bùa sẽ bị đốt cháy tiêu. Cái khả năng Mười Hổ đứng sau lưng vụ này là rất nhiều vì y từ nhỏ sống ở bên Miên, đi nhiều nơi, quen biết rất nhiều” – Ông ta suy nghĩ một hồi rồi nói tiếp –“trước đây, ngoài ông ta với Huyền Hòm, còn có mấy người nữa theo phò Mười Hổ” – “họ là ai, hiện giờ ở đâu?” – “Có một tay anh chị là “Hoàng Búa”, người này không phải dân An Giang mà là ở Bình Dương xuống, nghe nói sau này đã bị kết án tử hình. Ngoài ra còn có “Hà Sang” và “Ngọc Cần Thơ”. Hai người này một đã bị chết, một hình như qua bên trường gà “Hai Dương Tử” thì phải” - Thạch Holk hồi còn buôn gỗ ở bên Miên cũng có nghe nhiều về đồng đen, ông ta nói “ đồng đen rất hiếm gặp, chỉ có một vài ngôi chùa bên Miên mới có. Trước đây, một ngôi chùa ở tận Bat-Tam-Poong có một pho tượng cũng có một viên đồng đen trong ruột nhưng chỉ bằng đầu ngón tay út. Có một tên trộm đã đánh cắp được pho tượng, mang giấu lên ngọn cây dừa nhưng chỉ qua một ngày là cây dừa bị vàng từ gốc đến ngọn nên mọi người đã tìm lại được. đồng đen rất đặc biệt, muốn cầm giữ được nó thì phải ngậm ngải và đọc chú, nếu không sẽ bị nó làm bại xụi toàn thân, mắt mờ, bạc tóc, thậm chí bị chết……mang thả nó xuống bể nước, nó sẽ lọc bể nước trong veo và mát lạnh như nước mưa vậy. Nước này uống vào sẽ làm tinh thần sảng khoái vô cùng. Nghe nói có một tấm bùa cần đến viên đồng đen để làm trung tâm, tấm bùa này hình tròn, khắc bát quái và chữ phạn, hình người rắn và con thú hai đầu. Nếu Mười Hổ có được tấm bùa này thì y sẽ quyết chí tìm bằng được đồng đen để luyện nhằm thực hiện âm mưu độc tôn của mình”.
Câu chuyện xem ra đã gần rõ ràng, một tên cáo già như Mười Hổ hẳn là đã nhận ra thời điểm tốt nhất để ra tay cướp pho tượng là lúc nào. Lạc “mả” mang nhà sư người Miên đến giới thiệu với Mười Hổ thì chẳng khác nào giao trứng cho ác. Chỉ tội nghiệp nhà sư, đã phải trả một cái giá quá đắt cho sự tin người của mình.
Lạc “mả” hẹn gặp với Đại ca T.B tại khách sạn Hàng Châu, một trong những khách sạn “hàng hiệu” của An Giang. Trong căn phòng có để sẵn bộ salon, Lạc “mả” xem xét rất kỹ, y sợ CA An Giang đặt máy ghi âm. Từ ban công có thể nhìn xuống đường và quan sát xung quanh.
Khoảng gần nửa đêm thì một chiếc Land Cruise sáng chói đậu xịch trước cửa. Đại ca T.B cùng với hai người nữa đi vào khách sạn. Đại ca T.B tuy đã trở thành Đại gia nhưng cách ăn mặc vẫn đượm chất “giang hồ mã thượng”. Ông ta mặc một cái quần rằn ri sáu túi, đi giày lính theo kiểu “thủy quân lục chiến”, khoác một cái áo màu ….cháo lòng dày cộm. Ông ta lại còn búi tóc đuôi gà, làm cái mặt đen thui, vằn vện, dấu vết của những ngày làm đại bàng ở “Z30D”, “Kênh làng thứ bảy”, “Đồng Tháp K3”, “Tử địa Cồn cát” hiện lên càng rõ. Hai kẻ đi cùng thoáng thấy là đã rùng mình ớn lạnh. “Cường Rỗ” có cái mặt vàng khè như nghệ, hai mắt đỏ ké, nổi những nốt sần sùi do nhiễm độc thủy ngân, dấu vết của những ngày lăn lộn trên khắp các bãi đào vàng từ Nam chí Bắc. Còn tên đi bên cạnh, nếu lấy cục nước đá đặt vào thay thì e rằng nó còn nóng hơn cái mặt của “Dũng Bắc”.
Đại ca T.B không nói tiếng nào, móc trong túi ra khẩu K59 đen sì, kê ngay vào đầu Lạc “mả”.
Lạc “mả” sợ quýu người, lắp bắp nói “….đại ca….đại ca…xin cho thêm một thời gian nữa….tìm được đồng đen thật khó lắm…..có anh ĐHC đây làm chứng….”. Đại ca T.B nhìn lướt qua ĐHC một cái rồi ông ta thu súng lại, đút vào túi, hầm hầm hỏi Lạc “mả” “thế tiền đi đâu hết rồi ?” – Thấy Đại ca T.B thu súng về, Lạc “mả” yên tâm phần nào, nhưng cũng còn nói lắp bắp “….còn….vẫn còn nhiều…đại ca yên tâm, nếu không có đồng đen em sẽ ráng tìm mấy pho tượng hoặc vàng về cho đại ca, ở đất An Giang này vàng….vàng…….. nhiều lắm…..lắm….”.
Đại ca T.B chỉ ra oai với đàn em vậy thôi chứ “nổ” ở khách sạn Hàng Châu này thì có mà “lên dĩa” sớm. “Mấy cân thóc” đưa cho Lạc “mả” đối với ông ta có đáng gì, ông ta xuống đây là vì một việc quan trọng hơn nhiều, đó là thiết lập một đường dây liên tỉnh từ An Giang lên Sài Gòn.
“Dũng Bắc” rất ngạc nhiên khi thấy ĐHC cùng ngồi với Lạc “mả” ở khách sạn Hàng Châu, nhưng y còn ngạc nhiên hơn nữa khi thấy ĐHC ngồi chung với Sơn Cẩu và Huyền Hòm, cặp mắt của y chỉ lóe lên một cái là lại lạnh lẽo như cũ. Xem ra thể hiện tình cảm là một cái gì đó vô cùng xa xỉ với con người này.
Đại ca T.B đã về từ sớm, ông ta rất cẩn thận, không bao giờ lộ diện trong những cuộc làm ăn có phần nguy hiểm, “Cường Rỗ” và “Dũng Bắc” luôn là đại diện cho ông ta. Mười Hổ cũng vậy, ông ta cũng không xuất hiện, thay thế là Sơn Cẩu và Huyền Hòm. Huyền Hòm mời thêm ĐHC chẳng qua là muốn thể hiện với đám Sài Gòn là bọn y quan hệ rất rộng, luôn luôn “chiêu hiền đãi sĩ”…….
Sơn Cẩu có biệt danh là “Cẩu” có lẽ do y là em Mười Hổ. Anh là Hổ thì em là Chó……một con chó dữ, một con chó săn mồi nhanh nhẹn và tàn bạo. Khác với tướng mạo thô kệch của Huyền Hòm, Sơn Cẩu mặt trắng, môi đỏ, tướng mảnh mai nho nhã, ăn nói nhỏ nhẹ. Nhìn Sơn Cẩu, khó ai có thể tưởng được y lại là một trùm cướp đường thủy khét tiếng, một kẻ buôn người có tài lặn nước như rái và phóng dao nhanh như chớp. Sơn Cẩu không bao giờ đi một mình hay hành sự một mình, luôn luôn có một đám đệ tử đi cùng như Danh Đừng, Danh Sooc, Tám điên, Bảy Hốt, Hai Ngang, Thạch Thôi…..
Bàn tiệc được dọn ra có phần quá thịnh soạn, cả chục chai XO để lủ khủ trên bàn, hải sản bày la liệt toàn Tôm hùm, Cua biển, Tôm càng cỡ bự…..nhưng bọn “Cường Rỗ”, “Dũng Bắc” chắc có nghe về chuyện bùa ngải của Mười Hổ nên móc nước suối mang theo ra uống, bàn xong công việc là hai tên lập tức đi liền.......

......Còn Tiếp.
Đầu trang

TheLinh
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1910
Tham gia: 10:06, 12/07/17
Đến từ: Xứ Ogyen

Báu Vật Chùa Miên - Đại Hồng Cát.

Gửi bài gửi bởi TheLinh »

Hôm sau, ĐHC nhờ anh Năm Ai chở xuống Bến Tre, tìm mua một con gà đá thật chiến. Anh Năm Ai trước đây cũng đã từng chơi đá gà nên anh biết những lò luyện gà nổi tiếng. Anh chở đi xuống tuốt tận Mỹ Hương, lòng vòng trong cả chục con đường nhỏ, đến nhà của Ba Gà Mổ, một trong những thầy luyện gà nổi tiếng. Cò kè mãi, sau cùng thì Ba Gà Mổ cũng chịu để lại một con gà “độ” cực đẹp với giá “ba chai” có sắc lông đỏ nhưng đuôi lại đen tuyền gọi là con “Tước Ô Vỹ”. Anh Năm Ai nói con gà này bảo đảm dân đá gà nhìn thấy là phải mê liền. ĐHC và anh Năm Ai chạy thẳng về Cần Thơ, tìm đến trường gà của Ông “Hai Dương Tử”. Thăm dò mãi cũng không tìm được ai tên là “Ngọc Cần Thơ” cả, có thể tên này đã thay tên đổi họ. Cuối cùng phải tốn thêm “năm xị” nữa thì mới có người chỉ ra “Ngọc Cần Thơ” bây giờ đã đổi tên là Tư Gà, chuyên làm nghề “đá biện”.
“Đá biện” là một nghề chỉ dành cho những cao thủ trong làng đá gà, nó đòi hỏi người này phải thật rành nghề, biết nhìn gà và tất cả các mánh lới trong nghề đá gà. Ngoài ra còn phải là dân anh chị có số má để không bị dân chơi quỵt nợ, xù độ. Trường gà HDT lúc nào cũng náo nhiệt, nơi đây tập trung hầu hết những dân đá gà có máu mặt. Sau một độ gà thì nghỉ khoảng nửa tiếng, ĐHC tìm gặp được Tư Gà. Nhìn xa xa Tư Gà nom giống hệt….con gà, hai con mắt nhỏ xíu, tròn vo, cặp lưỡng quyền nhô cao với hai má hóp lại. Cái cổ y cao và nổi gân đỏ lựng, cái dáng đi chúi chúi…..chắc kiếp trước y là…..gà nên kiếp này mới có cái nhân tướng giống gà kỳ lạ như vậy. Tư Gà không thèm nói chuyện, thời gian của những tay “đá biện” luôn luôn là vàng là ngọc. Nhưng khi nhìn thấy con “Tước Ô Vỹ” thì cái máu gà trong người y nổi lên. Nhìn sơ là Tư Gà biết ngay đây là con gà độ tuyệt hảo, y vuốt ve con gà một cách trìu mến còn hơn là vuốt tình nhân. Tự nhiên lại có tài lộc đến, Tư Gà nở một nụ cười móm xọm, tay vỗ vỗ vào vai ĐHC, tình cảm hai người bỗng chốc trở nên thân thiết như….anh em ruột thịt. Tư Gà đã không nói chuyện thì cạy miệng cũng không mở, nhưng đã mở ra rồi thì lại nói không ngừng. Y chẳng thèm giấu giếm gì cả, cứ nói ào ào.Theo Tư Gà thì lúc đó Hoàng Búa được Mười Hổ thuê cùng Hà Sang và Ngọc Cần Thơ ( chính là y) theo chân bộ đội VN qua Miên, đến một ngôi chùa để tìm một pho tượng quý. Cả bọn đi đến Cồn Tiên thì Hoàng Búa quay lại Long Xuyên, dẫn thêm một người nữa là Bạch “cô ba”, một tay trộm khét tiếng cả hơn hai chục năm nay. Bạch “cô ba” rất rành đường đi bên Miên và rất giỏi tìm đồ cất giấu. Cả bọn bốn tên tìm được đến ngôi chùa Miên, lúc đó chỉ có sư trụ trì, Bạch “cô ba” nhanh chóng tìm được pho tượng, trong lúc đôi co, Hà Sang bắn chết nhà sư, sau đó cả bọn rút về VN ngay. Trên đường về, lúc vượt sông thì bị Biên phòng phát hiện, Hà Sang bị bắn chết, Bạch “cô ba” bị bắt còn Hoàng Búa chạy thóat, Ngọc Cần Thơ quá sợ liền chạy một mạch về đến tận…..Cần Thơ, thay tên đổi họ, làm đủ thứ nghề, sau này vào trường gà làm nghề “đá biện”. “thế còn pho tượng ?” – “Hoàng Búa lúc chạy thoát đã mang theo” – “sau này ông có gặp lại y không” – “có gặp một lần”.
Hoàng Búa chạy tuốt về được đến bìa rừng, đánh tiếng cho Mười Hổ ra lấy pho tượng. Mười Hổ mừng quá, công trình bao nhiêu năm sắp đặt bây giờ mới hoàn thành. Trước tiên y tháo cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” cất vào một cái hộp gỗ trầm, rồi mang giấu thật kỹ, sợ có hơi đồng đen là cặp bùa bị đốt cháy tiêu. Những bùa ngải khác y cũng cất hết, sau đó cởi hết quần áo, lấy mỡ bò thoa lên người cho chắc ăn rồi mới đi ra gặp Hoàng Búa. Hoàng Búa thấy Mười Hổ đi ra trong hình dong như vậy thì rất kinh ngạc, nhưng y cũng chẳng thèm hỏi, chỉ đưa pho tượng cho Mười Hổ rồi chờ lấy tiền. Mười Hổ cầm pho tượng lên thấy nhẹ bỗng, xem bên trong không thấy cục đồng đen đâu cả thì nghĩ là Hoàng Búa đã chơi qua mặt, chặn lấy riêng cục đồng đen rồi. Y nổi điên cầm luôn pho tượng nện thẳng vào đầu Hoàng Búa. Bất ngờ bị đánh một cú choáng váng, Hoàng Búa móc cây súng định nổ thì Mười Hổ phóng tới đánh bay khẩu súng đồng thời bồi luôn một cú đá “ống quyển” làm Hoàng Búa văng tuốt ra xa, gãy luôn mấy cái xương sườn. Nhưng Hoàng Búa cũng đâu phải tay vừa, y đã từng vào sinh ra tử nên đâu chịu thua dễ dàng. Chỉ thấy lóe lên một cái - Mười Hổ đã tháo gỡ hết bùa ngải nên không đỡ được nhát dao - bị cái lê Mỹ đâm trúng ngay ngực máu phun xối xả. Trúng phải cú đâm trí mạng, Mười Hổ cảm thấy đánh tay đôi nữa có phần bất lợi nên phóng chạy luôn vào rừng mất dạng. Hoàng Búa cũng loạng quạng bò dậy chạy đi, không quên ôm theo pho tượng. Y mang pho tượng lên Châu Đốc bán, sau đó ghé về Cần Thơ, chia cho Ngọc Cần Thơ một ít rồi trốn lên Miền Đông, sau này y tham gia một vụ cướp rồi bị kết án tử hình. Xem ra Tư Gà cũng không hề biết gì về bí mật của pho tượng nên ĐHC cũng không hỏi y thêm gì nhiều nữa.
Sự việc xem ra đến hồi bế tắc, còn lại một tên là Bạch “cô ba” thì nghe nói sau này đã bị sốc ma túy chết từ lâu. Viên đồng đen không biết giờ đã đến phương trời nào?! Mấy ngày liền ĐHC lang thang ở vùng Thọai Sơn, Chợ Mới…. Một hôm đi đến một cái chợ ven sông, leo lên một cái ghe chài đang bán dưa, ngồi chơi với vài người dân sông nước. Nhìn qua bên kia đường xa xa thì thấy một nhà máy xay xát gạo rất lớn, ghe thuyền, xe cộ tấp nập, tò mò hỏi thì được biết đó là của Mười Hổ. Đang ngồi suy nghĩ thì tự nhiên thấy mơ mơ màng màng, cảm giác như có người nhập vào mình……Bỗng như thấy Sư huynh cũng đang ngồi ngay tại chỗ này…..Sau mấy ngày lặn lội tìm kiếm, với pháp thuật cao cường, Sư huynh cũng dường như đã linh cảm được kẻ cần tìm….Trong lúc đang ngồi trên chiếc ghe chài nhìn qua nhà máy xay xát, ông bỗng thấy một chiếc xe hơi dừng lại, trên xe bước xuống hai người, một đàn ông, một đàn bà. Hai người này trông quen lắm, thì ra người đàn ông không phải ai xa lạ, chính là ông bác sĩ vẫn thường hay ghé thăm chùa nói chuyện tâm tình với sư trụ trì. Còn người đàn bà thì chính là bà Chín V chứ còn ai vào đây nữa…..Mười Hổ lúc đó mặc cái áo thun trắng, quần soọc trắng nom rất sang trọng, hình như y đang vui vẻ lắm. Cũng vì mặc bộ đồ đó mà Sư huynh nhìn thấy sợi Càtha trên cổ y, thấy cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” đang đeo trên cổ. Trong thoáng chốc Sư huynh dường như đã hiểu ra tất cả…
Mười Hổ đang đi vào thì bỗng thấy cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” máy động dữ dội rồi nóng lên đỏ rực. Y biết rằng kẻ thù đã đến…..đã đến rất gần….rất gần…..đã vào trong tầm sát của cặp bùa cực độc. Kẻ thù này chưa đáng sợ …chưa thể là đối thủ của y được….
Sư huynh lấy làm tiếc phải chi còn pho tượng phật vàng thì đã tiêu diệt được Mười Hổ. Nhưng không còn thời gian suy nghĩ gì nữa, máu từ tai, mũi, miệng của ông đã trào ra ngoài….. Sư huynh chỉ còn kịp nhảy xuống dòng sông, phút cuối cùng ông chỉ mong dòng sông sẽ mang xác của ông đi thật xa…thật xa, để sư đệ đừng tìm thấy xác, bởi vì người nào đến bên xác ông mà cất tiếng khóc thì cặp bùa “Thiên Linh, Thiên Nhãn” cũng sẽ không tha.
Có người lắc vai rất mạnh, ĐHC giật mình chợt tỉnh, thấy bà chủ ghe đang đứng trước mặt nói “bộ ông trúng gió hay sao mà người xanh mướt vậy, lúc nãy tôi thấy ông lắc lư lắc lư bộ dạng coi kỳ lắm. Ông có muốn cạo gió giác hơi không tôi kêu người cho ?” – ĐHC vội nói “không sao, tôi khỏe lại rồi, chắc lúc nãy tại buồn ngủ quá…..mấy năm trước bà nhớ có nhà sư nào ngồi ở đây không?” – Bà chủ ghe lắc đầu quầy quậy “chuyện mấy năm trước thì làm sao nhớ được”.
Không lẽ bà Chín V lại chính là người đàn bà - đệ tử của Mười Hổ như lời Thạch Holk nói ? nếu vậy thì bà ta thật khéo che dấu. Bà ta hiện giờ đang ở “Khám lớn”, không có cách nào có thể gặp bà ta được. ĐHC thẫn thờ đi xuống ghe chài thì bỗng có một chú bé đến đưa một tấm giấy, mở ra xem thì chỉ ghi có một dòng chữ ngắn ngủi “Lốc ngay, có lệnh cáp-duồn”. ĐHC đã biết quá nhiều nên Mười Hổ cảm thấy cần phải lọai trừ mối nguy hiểm tiềm tàng này. Phải đi ngay vì bọn Sơn Cẩu sẽ đến liền tức khắc.
ĐHC không dám đi đường lộ vì chắc chắn bọn Sơn Cẩu đã phục sẵn, đành phải lội tắt đường ruộng. Đi mãi, đi mãi….đến lúc trời tối thui rồi mà cũng chưa ra khỏi cánh đồng, đồng ruộng đất An Giang này mênh mông thật. Mệt quá, ĐHC leo lên một bờ đất ngồi thì bọn Sơn Cẩu từ đâu kéo đến. Xem ra ĐHC đã sai lầm vì đi đường ruộng thì sao lại cái đám “giang hồ đất ruộng” này. Bọn Danh Đừng, Danh Sooc, Tám điên, Bảy Hốt, Hai Ngang, Thạch Thôi…đến đầy đủ cả, Sơn Cẩu hơn hớn cái mặt, phen này thì ĐHC còn thoát đi đâu được nữa, cả bọn mà xúm lại “cáp-duồn” thì ĐHC sẽ thành miếng thịt băm mất…..Bất ngờ từ xa có một đám người “đi đai” xuất hiện (họ là những người dân nghèo chuyên vác đồ thuê cho đám buôn lậu), đám người này đi rất nhanh, thoáng cái là đã đến ngay cạnh. ĐHC chen ngay vào giữa rồi bất ngờ vùng chạy, dân “đi đai” thấy có người tự nhiên bỏ chạy thì cũng rùng rùng chạy theo. Bộ đội biên phòng đang mai phục gần đó thấy vậy cũng ào ra, bắn chỉ thiên đùng đùng. Bọn Sơn Cẩu thấy có Bộ đội biên phòng thì cũng mạnh ai nấy chạy làm náo lọan cả một vùng. ĐHC chạy mãi, chạy mãi đến mệt đứt cả hơi, nhìn qua bên cạnh thì quá kinh ngạc,…đai nguyên cả cái tủ lạnh khổng lồ trên lưng mà anh ta phóng nhanh như gió…..
Đang chạy thì bỗng nghe ầm một cái, tay đai cái tủ lạnh đã vấp ngã đứng dậy không nổi. ĐHC đến đỡ dậy thì thấy người này đã trúng phải bẫy cài của du kích xã, một mũi chông nhỏ đâm trúng bàn chân, chảy máu đầm đìa. ĐHC xé vạt áo cột vết thương, dìu anh ta đứng dậy chạy tiếp, còn cái tủ lạnh đành phải chịu bỏ lại. Cả hai chạy được một hồi thì may sao thấy có một cái vách tường, bèn cố gắng leo qua. Thì ra đây là một cái vườn chuối rất rộng, ĐHC dìu anh ta loạng choạng đi mãi cũng chưa hết vườn chuối, mệt quá, cả hai dừng lại tạm nghỉ….nằm một hồi ngủ thiếp đi mất. Đang ngủ thì bỗng nghe có tiếng chân chạy rầm rập, tiếng người hô xung phong, ĐHC giật mình tỉnh dậy, toan chạy nữa bỗng nghe bên tai có tiếng thì thầm “đừng chạy, đừng chạy”. Nguyên một đoàn quân lướt qua bên cạnh, họ chạy ào ào, ào ào…..nghe có tiếng súng nổ đì đoàng, tiếng hô xung phong, tiếng gọi nhau í ới. Phen này gặp phải “ma đoàn binh” rồi, gặp phải “đoàn binh” mà bỏ chạy sẽ bị họ rượt mãi cho đến khi chết…. ĐHC ngồi một hồi cho không gian yên tĩnh trở lại, rồi mới nằm xuống ngủ tiếp. Chưa ngủ được năm phút thì lại nghe tiếng chân chạy rầm rập, rồi lại nghe tiếng hô xung phong….đoàn quân lúc nãy đã quay trở lại……
Sáng hôm sau, ĐHC cùng với tay đai hàng lần mò ra khỏi vườn chuối, gặp mấy người dân họ kinh ngạc nói “vườn chuối này nổi tiếng có ma, rất nhiều người lạc vô trong này đã bị chết, sau này đâu còn ai dám vô đây nữa.” ĐHC theo tay đai hàng tên Tư Bổn về nhà anh ta tuốt ở tận bên Vàm sáng…..
Nhà Tư Bổn chỉ là một cái lều trơ trọi giữa cánh đồng hoang vu, xung quanh không một bóng người. Trong nhà chỉ có mỗi một chiếc chõng vừa để nằm ngủ, vừa làm chỗ ăn cơm. Ban ngày thì nắng và nóng như đổ lửa, Ban đêm thì lạnh, nằm ngủ gió thổi lồng lộng. Vùng đất này dường như chưa mấy ai khai phá. Trong lúc Tư Bổn ở nhà dưỡng thương, ĐHC đi lang thang khắp nơi, phát hiện ra nơi đây thuộc dạng đất gò, có nhiều mảnh gốm cổ nằm rải rác. Trong một bụi gai um tùm, thấy lấp ló một vài tảng đá ong, ĐHC chặt bớt cây ra xem thì thấy những tảng đá này khá vuông vức, giống như đã qua bàn tay chế tác của con người. nếu suy đoán không lầm thì đây có thể là cái bệ của những cái cột nào đấy…..nếu có nhân lực đào rộng xung quanh có khi tìm được những mảnh vỡ của những chiếc cột. Vùng này có lẽ xa xôi, đường đi lại còn quá khó khăn, dân cư lại thưa thớt nên giới khảo cổ chưa biết tới…..hoặc chưa có kinh phí để thăm dò, đào tìm.
Tối hôm đó trong giấc ngủ mơ, hiện ra những ảo giác chập chờn hình ảnh của một kinh thành hoang tàn rộng mênh mông đang ngập chìm trong biển lửa, chắc nơi này hàng ngàn năm trước có lẽ là một kinh đô của một vương triều nào đó, sau gặp chiến tranh nên đã bị tàn phá….Sáng hôm sau, ĐHC quyết định đào thử, vết thương của anh Tư Bổn cầu cả tháng may ra mới lành được, nên anh đành phải ở nhà nấu cơm vậy….
Chẳng có bất cứ một dụng cụ dò tìm gì cả… ĐHC đào bằng trực giác và suy đoán theo những hình ảnh thấy trong giấc mơ. Căn cứ vào vị trí của những cái bệ đá ong, bắt đầu đào những đường dài để dò tìm dấu vết….chỉ có một mình nên đào rất chậm, hơn nữa đất rất cứng, thật ra đất càng cứng thì càng hy vọng nhiều hơn là đất tơi xốp. Đào một hồi thì gặp gốm rất nhiều, toàn là gốm Miên, đào xuyên qua lớp gốm Miên thì bắt đầu gặp gốm cổ Phù Nam, đủ các loại mảnh vụn của chén, đĩa, bình, cà ràng v.v…Đào thêm nữa thì gặp một lớp gạch được xếp hàng ngay ngắn. Gạch Phù Nam rất to và cứng, dò theo những đường gạch nếu may mắn thì nó sẽ dẫn đến một khu bệ thờ hay phòng ốc nào đó….đào liên tục hai ngày hai đêm cũng chưa thấy gì cả,…nhưng thấy khá nhiều tro than, đến trưa hôm thứ ba thì gặp một lớp cát mịn và đá thạch anh, lần tìm trong lớp cát thì thấy một vật dài dài, lấy lên xem thì dường như là cái dây đai, trên có gắn bảy viên đá, chắc là của một chức sắc gì đó trong vương triều. Chất vàng trải qua hàng ngàn năm dưới lòng đất mà hầu như không bị ảnh hưởng gì cả, chỉ cần lau sạch là vẫn ngời sáng. Còn bảy viên đá thì mỗi viên một màu lấp la lấp lánh. Sợi dây đai này hẳn có giá trị liên thành….đúng là Tư Bổn ngồi trên đống vàng mà không biết. Chuyến đi này cũng không đến nỗi uổng phí. ĐHC chưa kịp mừng lâu thì thấy Thạch Nguôn đến, không hiểu tại sao chú bé này lại tìm đến đây được. Thạch Nguôn thì thầm “Ông Huyền Hòm bảo cháu dẫn ông đi ngay, bọn Sơn Cẩu sắp kéo đến đó”…. ĐHC chỉ kịp lấp đất sơ lại, chạy vào chào anh Tư Bổn, nói với anh là bao giờ có tiền sẽ gửi xuống…rồi theo Thạch Nguôn chạy đi liền. Lòng thầm tiếc vùng đất này nếu đào kỹ lưỡng thì còn biết bao nhiêu báu vật nữa…..
Thạch Nguôn dẫn ĐHC chạy đến một cái đầm sen rộng mênh mông, nó nói “Ông phải cố mà bơi qua cái đầm này, đến bên kia là địa phận tỉnh Đồng Tháp thì mới mong thoát khỏi tay Mười Hổ.” – “thế có thể kiếm chiếc ghe nào được không” – “không được, nếu lấy ghe bọn Sơn Cẩu sẽ biết ngay” – “cái đầm này rộng cỡ nào?” – “khoảng chừng mười mấy cây số” – Nói xong, Thạch Nguôn cũng lật đật chạy biến mất. Tình thế nguy ngập lắm rồi, đã thấy thấp thoáng bóng của bọn Sơn Cẩu, ĐHC cột chặt chiếc Đai vào lưng rồi đánh liều nhào đại xuống đầm sen bơi thẳng ra xa.
Bơi mãi, bơi mãi….bơi từ trưa đến gần nửa đêm mà vẫn thấy đầm sen mênh mông phía trước. Cũng may là cái đầm này nông sâu không đều, có chỗ rất sâu, nhưng cũng có chỗ rất cạn, chỉ tới ngang lưng, có thể đứng nghỉ xả hơi được. Bọn Sơn Cẩu giờ này chắc không còn đuổi tới, có thể an tâm được rồi. ĐHC thong thả bơi từ từ, qua một cái lá sen to thì bỗng thấy sát ngay cạnh một cái bóng đen sì, có hai con mắt sáng rực đang nhìn mình. Cái bóng đen to lớn với hai con mắt đỏ lòe nhìn ĐHC chằm chằm….. chắc đây là Lưu Đại Lâm, tức Lâm Dơi, đại đệ tử khét tiếng tàn ác của Mười Hổ chứ còn ai vào đây nữa. Xem ra có thể thoát khỏi tay Sơn Cẩu, nhưng không thể thoát khỏi tay Lâm Dơi được. Trời tối quá, không thể nhìn thấy hình dạng Lâm Dơi như thế nào, chỉ thấy một cái bóng đen to xù với hai con mắt ma quái, Lâm Dơi đúng là con ma dơi, là con quỷ hút máu. Hai con mắt của y đúng là hai con mắt của thần chết, trong đó lấp loáng ánh lửa của địa ngục…. không dè lại gặp Lâm Dơi trong tình trạng “cá nằm trong rọ” như thế này. Y đứng sát ngay cạnh, chỉ cần giơ tay lên đập một cái là ĐHC chết tức khắc. Chết ở cái đầm này thì phải hàng tháng mới nổi lên được, lúc đó cá, lươn…đã rỉa hết thịt rồi, chỉ còn bộ xương trắng phếu không ai còn nhận dạng được. Lâm Dơi nhìn ĐHC chằm chằm, cặp mắt của y vằn lên từng tia đỏ, bỗng Lâm Dơi giở tay lên thật……
Lâm Dơi giơ tay….ngắt một đóa sen đã rụng gần hết lá, đài hoa chín vàng tỏa hương thơm ngào ngạt đưa lên mũi hít hít ngửi ngửi. Bộ điệu của y lúc đó giống hệt con dơi vàng đang hít nhụy hoa….hai con mắt của y bỗng trở nên trống rỗng. ĐHC bơi lướt nhẹ qua người y, chợt hiểu “ Lâm Dơi cả một đời vào sinh ra tử, đánh bao nhiêu trận mới có được cái địa vị trùm vùng Châu Đốc, hàng ngày thu về tiền tỉ phải nộp cho Mười Hổ hết bảy phần thì y căm hận không gì tả nổi. Lòng căm hận này lớn đến mức khi nhìn ĐHC một hồi y đâm ra lại thấy có….cảm tình. Sở dĩ y chưa dám chống lại là vì thế lực Mười Hổ còn đang rất mạnh, y giết ĐHC cũng chẳng được gì mà lại bớt đi cho Mười Hổ một kẻ thù…” ĐHC bơi riết ra thật xa mới quay đầu lại nhìn thì Lâm Dơi đã biến mất từ lúc nào.
Bơi liên tục cả ngày nữa mà vẫn thấy xung quanh là đầm nước mênh mông, chân tay đã vọp bẻ hai lần, toàn thân gần như rệu rã…lúc này chỉ sợ nhất là bị vọp bẻ cơ bụng, lúc đó bụng sẽ cứng ngắc, chân tay cũng không cử động được, người sẽ từ từ chìm xuống nước và chết ngạt, vì vậy cần phải giữ hơi thở thật chậm, thật đều….Tuy nhiên, cứ bơi vô định kiểu này nếu không chết đuối thì cũng chết đói, hoặc chết vì kiệt sức… Đang trong lúc tuyệt vọng thì bỗng nghe tiếng mái chèo khua nước rào rạt, chiếc xuồng của cô gái Đồng Tháp Mười hái sen từ từ đi tới. ĐHC giơ tay lên, cố gắng la nhưng không còn ra hơi được, may sao chiếc xuồng cũng đến, cô gái lấy hết sức cũng kéo ĐHC lên được. Lúc này mới thấy mệt mỏi rã rời, ĐHC không còn nói gì được, xuôi tay nằm dài trên thuyền, từ từ chìm vào giấc ngủ….trong cơn mơ màng, dường như một đoạn phim của quá khứ bỗng hiện rõ ràng lên trước mắt….
Đó là lúc bọn Hoàng Búa xông vào trong chùa, lúc đó chỉ còn mỗi sư trụ trì. Bạch “cô ba” với bản lãnh ăn trộm hơn hai mươi năm nhanh chóng tìm được pho tượng phật vàng. “Báu vật phi thường nếu lọt vào tay những kẻ đại ác thì có khác gì cho chúng như hổ thêm cánh”… không hiểu bằng sức mạnh nào đã khiến nhà sư già giựt được pho tượng từ tay tên cướp chạy ra tuốt ngoài sân. Hà Sang bị bất ngờ, vội đưa khẩu tiểu liên lên bắn luôn một loạt.
Chạy ra đến giữa sân thì bị trúng phải loạt đạn, nhưng sư trụ trì đã lấy được viên đồng đen ra, những giây cuối cùng ông chỉ kịp ném luôn xuống giếng…pho tượng phật vàng văng ra bên ngoài, những tên cướp chỉ cần có vậy, phóng tới lấy pho tượng mang đi mất…..Sư trụ trì đã chết, Sư huynh cũng đã chết, Sư đệ cũng đã chết, bí mật của pho tượng phật vàng không còn ai biết nữa…. Chỉ có cái giếng chùa sau này nước bỗng trở nên trong vắt và mát lạnh hơn bất cứ một cái giếng nào khác. Dân làng chỉ nghĩ có lẽ linh hồn của sư trụ trì đã làm nên điều kỳ diệu đó….họ gọi đó là cái “Giếng Ngọc”…./.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Suỵt Suỵt
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 723
Tham gia: 23:36, 08/05/18

Re: BÁT THUẦN ĐOÀI . TÁC GIẢ - THANH PALI.BÀI 1.

Gửi bài gửi bởi Suỵt Suỵt »

12010277 đã viết: 19:15, 15/10/19
Suỵt Suỵt đã viết: 11:07, 15/10/19
12010277 đã viết: 01:26, 15/10/19

Mình còn số điện thoại một bà cụ hành nghề "mê tín dị đoan" đây. Cụ ấy từ người lạ thành người quen là do cụ chia sẻ góc nhìn phi-khoa-học với mình (chắc do mình là người á, cụ nghĩ mình dễ cảm thông các chuyện siêu nhiên?). Nghe những gì cụ nói và ảnh cụ chụp các hiện tượng kì bí ở châu phi thì nghe hợp lý lắm.

Nói dông dài thôi, mình mà biết Suỵt có câu trả lời thì mình trộm công trình nghiên cứu rồi đi xin cái giải Nobel tâm linh học rồi =))
Share ảnh đi chế, mình rất muốn xem thử. [-O<
Mình có câu trả lời thì đã không đau đáu nửa đời người, lỡ một ngày được giải đáp thì khẳng định không tới lượt chế xin giải Nobel. :))
Mình ko muốn xin bả. Ảnh đẹp và ảo lắm. Chụp bằng máy ảnh cơ nên mình mong ko phải đồ giả. Cái mình nhớ rõ nhất là cái ảnh bả có cái kim tự tháp trên nóc có một loạt sao xếp thành hình ovan hay gì đó.
Hừm. :-?
Dù gì thì trên mạng cũng đầy ảnh ma được xác nhận là thực, xem khá thích =P~
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tử vi”