Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Hỏi đáp, luận giải về tử vi
Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


Tử vi đẩu số phú giải - 1


Tác giả: Thái – Vân – Trình
Nguồn: Đất - Việt Xuất bản

2. TỬ VI CƯ DẬU TOÀN VÔ UY LỰC GHI CÔNG Cung Mệnh an tại Dậu có Tử Vi toạ thủ là người hèn yếu không có uy lực.

3. TỬ VI CƯ MÃO DẬU KIẾP KHÔNG TỨ SÁT, ĐA VỊ THOÁT TỤC CHI Cung Mệnh an tại Mão, Dậu, có Tử Vi toạ thủ gặp Địa Không, Địa Kiếp, hay Kình, Đà, Hoả, Linh, hội hợp tất là người tu hành, di tu thời đạt tiến, nếu không cũng là người nhìn đời với đôi mắt yếm thế.

4. CUNG THAO ĐẾ ẤN ĐOẠT TRƯỞNG TRANH QUYỀN Cung Mệnh hay cung Huynh Đệ an tại Ngọ có Tử Vi toạ thủ Ấn đồng cung thời là con thứ nhưng sau cũng là trưởng.

5. TỬ VI CƯ NGỌ VÔ HÌNH KỴ GIÁP ĐINH KỶ VỊ CHÍ CÔNG KHANH Cung Mệnh an tại Ngọ, có Tử Vi toạ thủ nên rất tốt đẹp nhất là tuổi Giáp, Đinh, Kỷ, thì được hưởng cả phú lẫn quy, nếu bị thiên Hinh, Hoá Kỵ, hay Kinh Dương, Đà Là xâm phạm, chỉ bình thường.

6. TỬ VI CƯ TÝ NGỌ KHOA QUYỀN LỘC CHIẾU TỐI VI KỶ Cung Mệnh an tại Tý, Ngọ có Tử Vi toạ thủ gặp Khoa Quyền, Lộc, hội chiếu, người có cách này tất được hưởng phú quí song toàn.

7. ĐẾ TOẠ LY CUNG TAM KỲ HÌNH ẤN KHÔI XƯƠNG HỒNG BẬT, MỸ MẠO TÀI HÙNG, HẠN HỮU CỰ SÁT ĐÀ LINH: CHU DU CAM HẬN MỆNH VONG Chu du cung Mệnh an tại Ngọ, có Tử vi toạ thủ gặp Khoa, Quyền, Lộc, Hinh, Ấn, Khôi, Xương, Hồng, Bệt hội hợp là người dung mạo đẹp đẽ lại tài trí và anh hùng, hạn gặp cự, Sái, Đà, Linh, đành ôm hận mà cheat.

8. ĐẾ TINH TẠI THUỶ NAN GIẢI TAI ƯƠNG HẠN HỮU SÁT TINH LA VÕNG HÌNH LAO KHÔN VI THOÁT, MỆNH NÃI DƯƠNG ĐÀ GIA KIẾP VI THÀNH THỌ GIẢM. Cung Mệnh an tại Tý, có Tử vi toạ thủ, sự cứu giải tại ương không hiệu lực, hạn tới cung Thìn, Tuấn gặp nhiều Sát Tinh tất không tránh khỏi quan tung, hình ngục, nếu lại thêm Kinh Dương, Đà La, Địa Kiếp, hội hợp ở Mệnh cung phải quyết toán là không chết non thì nghèo hèn.

9. ĐỀ TOẠ LY CUNG KỴ PHÙNG HAO SÁT, HẠNH NGÔ KHÔI KHOA HỮU TÀI PHỤ CHÍNH Cung Mệnh an tại Ngọ, có Tử vi toạ thủ, gặp Thiên Khôi, Hoá Khoa, hội hợp tất có tài kinh bang tế thế, phò tá vị nguyên thủ, nhưng rất kỵ gặp Đại Tiểu Hao, Kinh Đà, Khòng, Kiếp, hay Kiếp Sát hội hợp thời vô vị.

10. TỬ VI NAM HỢI, NỮ ĐẦM CUNG, NHÂM GIÁP SINH NHÂN PHÚ QUI ĐỒNG Đàn ông tuổi Nhâm, Giáp cung Mệnh an tại Hợi có Tử Vi toạ thủ nên được hưởng giàu sang trọn đời, đàn bà tuổi Nhâm, Giáp cung Mệnh an tại Dần có Tử vi toạ chủ cũng được hưởng như trên, ngược lại nam ở Dần nữ ở Hợi thì bình thường.

11. TỬ VI DẦN NGỌ THÂN CUNG, NỮ MỆNH CHỦ VƯỢNG PHU ÍCH TỬ Cung mệnh an tại Dần, Ngọ, Thân, số đàn bà là người danh giá làm lợi cho chồng cho con.

12. NỮ MỆNH TỬ VI CƯ TÝ DẬU TỴ HỢI GIA TỨ SÁT MỸ NGỌC HÀ ĐIỂM, NHẬT HẬU BẤT MỸ. Cung Mệnh an tại Tý, Dậu, Tỵ, Hợi gặp kinh, Đà, Không, Kiếp, xâm phạm vi như ngọc có vết tất không được hoàn toàn tốt đẹp nên hậu vận vất vả.

13. TỬ VI ĐÁO THỦ NHÀN CUNG, HỰU VỌNG KHÔ MIÊU KHẢ CỨU Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi, có tử vi toạ thủ nên kém tốt đẹp nhưng nếu gặp đa Trung Tinh sáng sủa quần tụ thời như cái nấm khó, có thể cứu được.

14. NGÔI TỬ VI ĐÓNG VÀO CHỐN HÃM QUYỀN CỨU THA THIỂU GIẢM VÔ UY. Sao Tử Vi cư hãm địa thì sự giải không được mạnh mẽ.

15. MỆNH VIÊN BẰNG NGỘ TỬ VI ĐẦU PHÙNG NHƯỢC ĐỊA HẠN SUY CHẲNG SỜN Cung Mệnh Thân có Tử Vi toạ thủ, nếu gặp hạn suy thì cũng không đáng lo ngại.

16. VẬN SUY HẠN SUY, HỶ TỬ VI GHI GIẢI HUNG ÁC Vận hạn suy mà gặp được Tử Vi thì đáng mừng vì giải được hung nguy.

17. TỬ VI DỮ CHƯ SÁT ĐỒNG CUNG, CHỮ CÁT HỘI CHIẾU, QUÂN TỬ TẠI DÃ, TIỂU NHÂN TẠI VỊ CHỦ NHÂN GIAN TRÁ, CÁCH THIỆN Cung Mệnh có Tử Vi và Sát Tinh toạ thủ gặp Cát Tinh hội chiếu là người ca lánh việc thiện, gian mạnh xáo trá thời có địa vị, nếu ngay thẳng tất nghèo khổ cô đơn.

18. TỬ LẠC NHÀN CUNG GIA KHÚC, XƯƠNG, ĐA NGÔN GIẢO HOẠT Cung Mệnh Thân có Tử Vi, Hãm Địa toạ thủ gặp Vân Xương, Vân Khúc là người đàn bà miệng lưỡi chua ngoa.

19. TỬ VI XƯƠNG KHÚC PHÚ QUÝ KHẢ KỲ: Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ gặp Xăn Xương, Vân Khúc hội hợp nên được hưởng giàu sang hơn người.

20. TƯ VI PHỤ BẬT ĐÔNG CUNG NHẤT HÔ BÁCH NẶC Cung Mệnh có Tử Vi, Tả Pha, Hửu Bật toạ thủ đồng cung là người giàu sang uy quyền hiển hách, gọi một tiếng trăm người dạ.

21. TỬ VI TƯ CẦN TAM HOÁ NHƯỢC PHÙNG TỨ SÁT PHONG BÃI HÀ HOA. Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ rất can gặp Khoa, Quyền, Lộc để thêm phần tốt đẹp nếu gặp Kinh, Đà, Không Kiếp hội hợp lại thành xấu xa như cánh hoa bị mưa vùi gió đập.

22. TỬ VI QUYỀN LỘC NGỘ ĐƯƠNG ĐÀ TUY MỸ CÁT NHI VÔ ĐẠO VI NHÂM TÂM THUẬT BẤT CHÍNH Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ gặp Quyền, Lộc hội hợp là Kinh, Đà xâm phạm người có cách này vẫn được hưởng giàu sang nhưng tâm địa bất chính, vô đạo.

23. TỬ LỘC ĐỒNG CUNG PHỤ BẬT CHIẾU, QUÍ BẤT KHẢ NGÔN Cung Mệnh có Tử Vi, Hoà Lộc toạ thủ đồng cung, gặp Tả Phù, Hữu Bật hội hợp, người có cách này rất quý hiển ít ai bi kịp.

24. TỬ LỘC ĐỒNG CUNG, NHẬT NGUYỆT CHIẾU, QUÝ BẤT KHẢ NGÔN: Cung Mệnh an tại Ngọ, có Tử Vi, Hoá Lộc toạ thủ đồng cung, tất cung Tử tức tại Mão có Thái Dương, được cách “Nhật Xuất Phù Tang” cung Nô Bộc có Thái Âm, được cách “Nguyệt Lãng Thiên Môn” nên giàu sang vinh hiển, con cháu nay đàn, kẻ hầu hạ đông đảo.

25. ĐẾ TOẠ MỆNH KHỔ, TIỀU HẬU CÁT TINH, TẮC VIẾT KIM DƯ PHÙ GIÁ Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ Miếu Vượng giáp Tả, Hữu, Thiếu Âm, Thiếu Dương ví như xe vàng rước Vua có tàn lọng che, lại có tiền hô hậu ủng, nên rất quý hiển, người gặp cách này, tất có danh chức quyền quý.

26. TỬ VI VÔ PHỤ BẬT ĐỒNG HÀNH, VI CỐ QUÂN, MỸ TRUNG BẤT TÚC: Cung Mệnh có Tử Vi, Đắc Địa không hội được Tả Phú, Hữu Bật hoặc giáp hoặc chiếu ví như ông Vua cô đơn, không kẻ hầu người hạ nên chẳng làm được việc gì.

27. TỬ VI MẠC PHÙNG KIẾP KHÔNG, HỒNG ĐÀO NHẬP MỆNH GIẢM THỌ Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ gặp Không, Kiếp, Hồng, Đào hội hợp tuổi thọ bị triết giảm.

28. TỬ VI PHỤ BẬT ĐỒNG CUNG NHẤT HÔ BÁCH NẶC CƯ THƯỢNG PHẨM Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ, Phu Bật đồng cung thì làm đến thượng phẩm, một tiếng gọi trăm người dạ nếu cung Tài Bạch hay Quan Lộc có cách này cũng được phú quí.

29. TỬ PHỦ NHẬT NGUYỆT CƯ VƯỢNG ĐỊA ĐOÁN ĐỊNH CÔNG HẦU KHÍ (Như câu 24)

30. VẬT KHAI Ư DẦN, VỤ THÀNH Ư THÂN, TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG VI ĐẮC ĐỊA: Vật bắt đầu ở Dần, thành việc ở Than, Tử Vi, Thiên Phủ đồng cung ở Dần, Thân là được việc nên tốt lắm.

31. TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG VÔ SÁT GIÁP NHÂN HƯỞNG PHÚC CHUNG THÂN Cung Mệnh an tại DẦn, Thân không Sát Tinh tuổi Giáp có cách này được hưởng phúc trọn đời.

32. TỬ VI THIÊN PHÚ TOÀN Y PHỤ BẬT GHI CÔNG Cung Mệnh có Tử Vi hay Thiên Phú toạ thủ hoặc cả hai đồng cung gặp Tả Phú, Hữu Bật hội hợp, thời cả hai phú quí.

33. TỬ PHÚ ĐỒNG CUNG TỐI VI PHÚC HẬU THIẾT HIỀM NỘI TRỞ TRIỆT TUẦN Cung Mệnh an tại Dần, Thân có Tử Vi, Thiên Phủ toạ thủ đồng cung là người rất phú chậu, nếu gặp Tuần Triệt thì lại giảm đi nhiều.

34. CẤN CANH TỬ PHỦ VI PHẬT NHI Cung Mệnh an tại Dần có Tử Vi, Thân có Tử Vi, Thiên Phủ toạ thủ đồng cung thời dáng người to béo như con của Phật.

35. TỬ PHỦ KÌNH DƯƠNG TẠI CƯ THƯƠNG Cung Mệnh có Tử VI hay Thiên Phủ toạ thủ gặp Kình Dương đồng cung là người buôn bán lớn và giàu có hoặc cung Thiên DI có Vũ Khúc toạ thú cũng được giàu sang nhờ kinh doanh.

36. XUẤT PHÁT NHẬP DUY CÁI HÃN TỬ PHỦ ĐỒNG VỊ Cung mệnh an tại Tứ Duy Dần, Thân, Tỵ, Hợi có Tứ, Phủ hội hợp rất tốt đẹp.

37. TỬ PHỦ BẤT KHẢ CƯ HÂM ĐỊA: Sao Tư Phủ không nên cư ở cung Tật Ách hay Nô Bốc.

38. TỬ PHỦ TẠI VIÊN GIA CÁT DIỆU HẦU BÁ CHI TÀI LẠC NHÀN CUNG HÀO GIA CHI TRƯỞNG Cung Mệnh có Tử Vi, Thiên Phủ,, Đắc Địa toạ thủ gặp Cát Tinh hội hợp tất làm tới hầu bá nếu ở nhàn cung Hợi, Tý cũng là hào trưởng trong làng.

39. TỬ PHỦ GIÁP MỆNH VI QUÍ CÁCH Cung Mệnh an tại Dần, Thân, có Thiên Cơ, Thái Âm toạ thủ, nên rất quý không giàu sang cũng vinh hiển.

40. TỬ PHỦ TRIỀU VIỄN THỰC LỘC VẠN CHUNG Cung Mệnh sáng sủa tốt đẹp có Tử Vi, Thiên Phủ hội chiếu là người cả đời giàu sang sung túc nơ cơm ấm áo.

41. TỬ PHỦ TRIỀU VIÊN HOẠT LỘC PHÙNG, CHUNG THÂN PHÚC HẬU CHÍ TAM CÔNG Cung Mệnh an tại “Ngọ có Tử Vi toạ thủ hoặc an tại Tuất có Thiên Phủ toạ thủ gặp Hoả Lộc đồng cung thì cả đời được hưởng giàu sang vinh hiển và làm đến tam công.

42. TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG CƯ MIẾU ĐỊA, TẤT ĐỊNH XUẤT GIAI CÔNG KHANH KHÍ Cung Mệnh an tại DẦn, Thân có Tử Vi, Thiên Phủ toạ thủ đồng cung người có cách này được địa phú, đại quí vào bực công khanh.

43. TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG VÔ SÁT TẤU, GIÁP NHÂN HƯỞNG PHÚC CHUNG THÂN Cung Mệnh an tại Dần, Thân có Tử Phủ toạ thủ đồng cung, không gặp Ác Sát Tinh, tất được hưởng phúc, người tuổi Canh là thou cách chỉ bình thường.

44. TỬ PHỦ ĐỒNG CUNG, TUẦN KHÔNG XÂM NHẬP, ĐẾ VÔ QUYỀN SỞ NAM GIẢI HUNG TINH HẠN NGỘ Cung Mệnh an tại Dần , Thân có Tử Vi, Thiên Phủ toạ thủ đồng cung gặp Tuần, Triệt án ngữ ví như vua không quyền mất heat oai lực hạn gặp hung tinh xâm phạm tất không giải cứu được hung nguy.

45. LƯU HUYỀN ĐỨC ĐẠT THỪA HÁN NGHIỆP, THI Ư TỬ PHỦ KHOA QUYỀN HÌNH, ẤN, HỒNG, KHÔI MỆNH THÂN Lưu Bị kế nghiệp nhà Hán chia thiên hạ hùng cứ một phương nhờ Mệnh Thân có Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Hình, Ấn, Hồng, Khôi họi hợp. Tử Vi Đẩu Số Phú Giải 46. TỬ PHÒNG THAO LƯỢC ĐA MƯU, GIAI ĐO TỬ PHỦ PHÙNG QUYỀN KỴ. Trương Lương là mưu sĩ của Hán Cao Tổ có tài thao lược, mưu cơ giúp Lưu Bang lập nên đế Nghiệp, vì cung Mệnh an tại Dần có Tử Vi, Thiên Phủ toạ thủ đồng cung gặp Quyền, Kỵ hội hợp, Người có cách nrất quyền biến, túc trí đa mưu, tất nhiên sẽ làm nên hiển hách.

47. DẦN MỘC, PHỦ VI HỮU HỘI TAM KỲ, KÌNH, BỆT, CƯ LAI THIÊN MỆNH XUẤT VÕ DO VĂN, QUYỀN HÀNH CƯ PHỤC CHÚNG NHÂN, MẠC PHÙNG KHÔNG KIẾP HƯ VÔ. Cung mệnh an tại Dần, có Tử Vi toạ thủ, Thiên Phủ đồng cung gặp Khoa, Quyền, Lộc, Kinh Dương, Hữu Bật hội hợp Mệnh Thân là số văn tài nhưng gặp thời loạn phải tham dự việc quân cơ, quyền hành quý phục muôn người, tựa như hoàn cảnh Khổng Minh, nhưng gặp không Kiếp bị hỏng, chỉ nên đi tu viết sách là hợp.

48. CHU THÁI HẬU HIẾU HẠNH SẮC TÀI DO HỮU TỬ PHỦ KHOA QUYỀN HÌNH SÁT Bà Chu – Thái – Hậu cung mệnh có Tử, Phủ, Khoa, Quyền, Hình, Sát hội hợp là người hiếu để tiết hạnh đàn bà có cách này rất tốt.

49. TỬ VI VŨ KHÚC, SÁT DIỆU PHÙNG, NHẤT SINH TĂNG LẠI SÍNH ANH HÙNG Cung Mệnh có Tử hay Vũ toạ thủ gặp Sát Tinh hội hợp là thầy tu hay quan lại nhỏ nhưng lại thích làm anh hùng.

50. ĐẾ TOẠ LÀ VÕNG HOÀN VI PHI NGHĨEA CHI NHÂN Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Tử Vi toạ thủ là người thủ đoạn hay làm những việc phi nghĩa.

51. TỬ VI THÌ, TUẤT NGỘ PHÁ QUÂN LƯƠNG THƯƠNG QUÂN TỬ Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Tử Vi toạ thủ gặp Phá Quân xung chiến là hang quân tử bất lương.

52. TỬ VI THIÊN TƯỚNG THÂN PHÙNG PHÁ NGỘ VƯỢNG KÌNH ĐA MƯU YẾM, TRÁ Cung Mệnh có Tử Vi, Thiên Tướng toạ thủ đồng cung cung thân có Phá toạ gặp Vượng, Kinh hội hợp là người đa mưu và xảo quyệt.

53. TỬ PHÁ MỘ CUNG, BẤT TRUNG BẤT HIẾU Cung mệnh an tại Tư Mộ (Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) có Tử hay Phá toạ thủ là người bất trung bất hiếu.

54. TỬ PHÁ MỆNH LÂM Ư THÌN, TUẤT, SỬU, MÙI TẠI GIA CÁT HIỆU PHÚ QUÍ THÂM KỲ. Cung mệnh an tại Thìn, sửu, Mùi có Tử hay Phá toạ thủ gặp nhiều Cát Tinh hội hợp nên được hưởng phú quí, uy quyền hiển hách, danh tiếng lừng lẫy.

55. TỬ VI PHÁ QUÂN VÔ TẢ, HỮU VÔ CÁT HIỆU HUNG ÁC HỒN LẠI GHI ĐỒ: Cung Mệnh an tại Sửu, Mùi có Tử, Phá toạ thủ đồng cung nêu không gặp Tả, Hữu và nhiều cát tinh hội hợp tức là hàng quân chức nhỏ hung ác, ngu muội tham nhũng, qui hầu đạt được mục đích riêng tư.

56. TỬ PHÁ THÌN, TUẤT QUÂN THẦN BẤT NGHĨA Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Tử Vi, Thiên Tướng toạ thủ đồng cung có Phá Quân xung chiếu, hay có Phá Quân toạ thủ, Tử Tướng xung chiếu là bầy tôi phản Vua làm loạn trào đình như An – LỘc – Sơn.

57. TỬ PHÁ, THAM LANG NAM NỮ TÀ DÂM CHÍ DÂM Cung Mệnh có Tử Vị, Phá Quân Tham Lang hội hợp là người dầm data nếu không goá sớm cũng lận đận về đường phu thê nếu gặp đa quý tinh vẫn phát đạt sang giàu và lúc về già khi đã hán cảnh tình duyền thì lại thích đạo lý.

58. TỬ PHÁ MỘ CUNG VÔ ƯU HOẠ ÁCH, VẬN LAI PHỤ, BẬT THỔ CUNG NGUYỆN VỌNG ĐẮC NHƯ CẦU THÂN KIÊM HỒNG LỘC, HOÁ KHOA KHÁNH HỘI LONG VÂN Cung Mệnh an tại Thìn, Tuấn có Tử Vi, Thiên Tướng toạ thủ đồng cung Phá cung chiếu hay phá toạ thủ Tử, Phá toạ thủ đồng cung Tướng cung chiếu thì chẳng lo gì tai hoạ xảy đến: cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi gặp Tá Phú, Hữu Bật công danh được toại ý nếu Thân được Hồng Loan, Hoá Lộc, Hoá Khoa hội hợp tất như rồng gặp mây hội làm nên hiển hách, danh tiếng lừng lẫy.

59. TUẤN ĐỊA HẠ HÀNH TỪ TƯỚNG, TÂN ẤT ÂM NAM THẾ VINH PHÚ HOẠNH GIÁP CANH DƯƠNG NỮ THƯƠNG PHU KHẮC TỬ HOÀNH ĐẠT TỰ THÂN Cung Mệnh an tại Tuất có Tử Vi thiên Tướng toạ thủ đồng cung. Người tuổi Tân, tuổi Ất, Am Nam rất đượcc hưởng giàu sang, vợ con vinh hiển hơn người, tuổi Giáp, tuổi Canh, Dương Nữ thì lại hai chồng, khắc con tự mình lập thân chớ không được nhờ chồng, nhờ con.

60. ĐẾ TOẠ THIÊN LA, THÂN CƯ TRIỆT XỨ, Ư GIÁP KỶ NHÂN, CHUNG NIÊN NAN TOẠI CHÍ, ĐA TRÁI THÊ NHI Cung Mệnh tại Thìn có Tử Vi toạ thủ Thiên Tước đồng cung Thân bí Triệt án ngữ, người tuổi Giáp, tuổi Kỷ suốt đời không được toại chí công danh vợ con đều lận đận.

61. TỬ VI THÌN, TUẤT NGỘ PHÁ QUÂN PHÚ NHI BẤT QUÝ HỮU HƯ DANH Cung Mệnh an tại Thìn, Tuất có Tử Vi toạ thủ Thiên Tướng đồng cung Phá Quân xung chiếu tất chỉ có phú mà không có quí hoặc có quí mà không phá và cái danh đó không được bean.

62. TỬ SÁT ĐỒNG LÂM TỴ, HỢI, NHẤT TRIỀU PHÚ QUÍ SONG TOÀN. Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi có Tử Vi, Thất Sát toạ thủ đồng cung nên được hưởng phú quí song toàn.

63. TỬ VI THẤT SÁT GIA KHÔNG VONG, HƯ DANH THỤ ẤM Cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi có Tử Vi, Thất Sát toạ thủ đồng cung gặp Tuần, Triệt án ngữ nên suốt đời vất vả phải nhờ cha mẹ mới có chút hư danh bề ngoài.

64. TỬ VI THẤT SÁT, HOÁ QUYỀN PHẢN TÁC TRINH TƯỜNG Cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi có Tử Vi, Sát, Quyền toạ thủ đồng cung nên rất rực rỡ, người có cách này rất quý hiển, lại thêm uy danh lừng lẫy nhưng phải biết xoay chiều và quyền biến mới thành công.

65. HỢI CUNG TỬ SÁT GIA KIÊM HÌNH ẤN KHÔI KHOA LẠI NHẬP QUAN CUNG, CƯ VĂN HOÁN VŨ XUẤT SỨ KỲ CÔNG, ĐA ĐẠT DUY HÃM TRIỆT CƯ, PHẾ CÁCH Cung Mệnh an tại Hợi có Tử Vi, Thất Sát toạ thủ đồng cung, cung Quan Lộc có thiên Hình, quốc Ấn, Thiên Khôi, Hoá Khoa hội hợp tất đang làm văn lại kiêm ra võ đạt được nhiều kỳ công hiển hách nếu gặp Triệt lại là phế cách cầm quân xuất trận tất thua chỉ nên làm cố vấn, giáo sư thì lợi.

66. TỬ SÁT TỐN CUNG, ĐỀ HUỀ BÃO KIẾM HOẠ TUYỆT NHẬP XÂM ĐA SÁT CHI NHÂN, HẠNH HỘI HỒNG KHOA, ẤN, MÃ, BẬT, SINH, DỊ LẬP CHIẾN CÔNG VI ĐẠI TƯỚNG Cung Mệnh an tại Tỵ, có Tử Vi, Thất Sát toạ thủ đồng cung ví như Vua có kiếm đeo, gươm dắt gặp Hỏa Tuyệt là người đa sắt nhưng nếu thêm HỒng, Khoa, Ấn, Mã, Bật, Sinh tất là hàng Đại tướng lập được nhiều chiến công kỳ lạ, phi thường nếu bị Tuần, Triệt án ngữ chỉ là hạng đồ tể hay đao phủ.

67. TỬ, THAM, KHÔI, VIỆT PHƯƠNG ĐOÀI LONG THẦN KỲ ĐÃO AI AI CÙNG ĐƯỜNG Cung Mệnh an tại Dậu có Tử Vi, Tham Lang ngộ Thiên Khôi nếu đi tu thời tốt được nhiều người đến cúng.

68. TỬ THAM TÃ HỮU NGỘ TRUNG, CÓ NGƯỜI CON CÁI TRỐN CHỒNG RA ĐI Cung Mệnh an tại Mão, Dậu có Tử, Tham toạ thủ gặp Tả, Hữu hội hợp đàn bà có cách này tất có ngày trốn chồng bỏ con.

69. TỬ THAM ĐỒNG CUNG, CƯ ĐOÀI CHẤN BẤT TRUNG BẤT NGHĨA CẬN GIAN NHÂN Cung Mệnh an tại Mão, Ậu, có Tử Vi, Tham Lang toạ thủ đồng cung là người bất trung bất nghĩa, chỉ gần những phường gian ác, đàn bà có cách này suốt đời lưu laic phong trần.

70. THAM TỬ THUỶ CUNG GIÁP HIỀN TỨ SÁT BẦN KHỔ CHUNG THÂN Cung Mệnh an tại Hợi, Tý, có Tham Lang hay Tử Vi toạ thủ gặp Kinh, Đàm Không, Kiếp nên rất xấu xa mờ ám suốt đời nghèo khổ.

71. TỬ VI VŨ KHÚC, PHÁ QUÂN HỘI DƯƠNG ĐÀ KHI CÔNG DANH CHỈ NGHỊ KINH THƯƠNG Cung Mệnh có Tử Vi, vũ Khúc hay Phá quân toạ thu gặp Kinh, Đà hội hợp là người không màng đến công danh mà lại thích, buôn bán, người có cách này nếu bon chen trên đường hoạn lộ tất gặp nhiều sự phiền lòng còn kinh doanh thong nghiệp thời thành đạt.

72. TỬ, PHỦ, VŨ TƯỚNG, TẢ, HỮU, LONG, PHƯỢNG, KHOA, QUYỀN, LỘC, ĂN, QUÂN THẦN KHÁNH HỘI GHI CÁCH; GIA ĐÌNH KIẾP LOẠN THẾ NAN THÀNH ĐẠI SỰ Cung Mệnh có Tử Vi toạ thủ gặp Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Tả, Hữu, Long Phượng, Khoa, Quyền, Lộc, Ấn hội hợp nên rất rực rỡ như Vua tôi khánh hội ở triều đình người có cách này được hưởng phú quí cực độ, uy danh lừng lẫy tuổi thọ cũng gia tăng nhưng nếu gặp Kinh, Kiếp hội hợp lại không thể tạo được sự nghiệp lớn trong thời hoạn nếu có cũng không bền.

73. HẠN PHÙNG TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG HẠNH ĐẮC HỒNG QUYỀN KHƯƠNG CÔNG HỶ NGỘ VĂN VƯƠNG Hạn có Tử, Phủ, Vũ, Tướng hội hợp gặp Hồng Loan, Hóa Quyền khác nào Khương Tử Nha gặp Văn Vượng.

74. MỆNH ĐẮC TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG HẠN ĐÁO THIÊN LA TỬ TUYỆT CỰ, ĐỒNG SÁT DIỆU LAI SÂM, NGỘ ĐỊA SA TRÀNG, QUAN HẬU TÁNG MỆNH Cung Mệnh có Tử, Phủ, Vũ, Tướng hội hợp hạn gặp Thiên La, Tử, Tuyệt, Cự, Mòn, Thiên Đông tất phải chết ngoài sa trường như Quan Vân Trường ngộ nạn ở Đông Ngô.

75. TỬ VI THÁI ÂM SÁT DIỆU PHÙNG NHẤT SINH TÀO SỬ SÍNH ANH HÙNG Cung Mệnh an tại Dần, Thân có Vũ Khúc, Thiên Tướng toạ thủ đồng cung, Tử Vi hợp chiếu có Thái Âm toạ phủ là người tài giỏi và anh hùng.

76. NỮ MỆNH TỬ VI THÁI ÂM TINH, TẢO NGỘ HIỀN PHU TÍN KHẢ PHÙNG Đàn bà cung Mệnh có Tử Vi, hay Thái Âm, Miếu, Vượng Đắc Địa toạ thủ tất lấy được chồng hiền. Nếu có Thái Dương hãm địa toạ thủ trái lại muộn chồng con, tơ tình dang dở.

77. TỬ VI CƯ HUYNH ĐỆ DIỆC HỮU TRƯỞNG HUYNH NGỘ HOÁ LỘC VI TRƯỞNG Cung Huynh đệ có Tử vi toạ thủ tất có anh chị trên mình nếu gặp Hoá Lộc lại là con trưởng.

78. BẬT VỊ CƯ TÝ HUYNH HƯƠNG, PHẢN PHU LẮM KẺ HỌ HÀNG CHẲNG KHÔNG Cung Huynh Đệ an tại có Tử Vi, Hữu Bật đồng cung là trong họ hàng chị em có người phản chồng.

79. TỬ PHỦ VŨ KHÚC LÂM TÀI TRẠCH CẢNH KHIÊM QUYỀN LỘC PHU ĐỒ ÔNG Cung Điền, Tài có Tử Vi, Thiên Phủ, Vũ Khúc hội hợp gặp Quyền, Lộc tất giàu có vào hàng phú ông nhưng chỉ có phú không có quí nếu thêm Tả Phú, Hữu Bật Lộc Tồn mới hay

80. TỬ PHÚ VŨ TƯỚNG PHU CUNG, GIA HỢP RIÊU ĐÀO Ư GIÁP MẬU THÂN GIANG HỒ CHI NỮ Cung phu có Tử, Phủ, Vũ, Tướng gặp Riêu, Đào hội hợp đàn bà tuổi Giáp tuổi Mậu là giải giang hồ làm quan tắt một bước lên bà.

81. TỬ PHỦ VŨ TƯỚNG PHU VỊ KIÊM TAM KỲ GIA HỘI LƯỢC THAO CHI NỮ, KỴ TÂN KỶ ƯU NGÔ KÌNH ĐÀ CHUNG THÂN CÔ QUẢ Cung Phu có Tư, Phủ Vũ, Tướng hội hợp gặp Khoa, Quyền, Lộc đàn bà là đảm đang thao lược, giúp chồng làm nên danh giá nhưng lại kỵ người tuổi Tân, Kỷ nếu bị Kình, Đà xâm phạm thời suốt đời oan trái cô đơn.

82. PHÚC TẠI THUỶ CUNG ĐẾ CƯ, KIẾP TÌNH SUY TRIỆT GIA LÂM ÁC NHÂN ĐÃNG TỬ MÃN KIẾP, NAN TOÀN Cung Phúc Đức an tại Tý, có Tử Vi hay Cự Môn toạ thủ gặp Địa kiếp, Kinh Dương, Suy, Triệt hội hợp tất là người hung ác làm dữ lại gặp dữ lúc chết không được toàn thây thi thể bị mổ xe.

83. PHỤC CỰ LY, ĐỂ CÁCH TU PHÙNG, NHƯỢC GIA SÁT DIỆU, BẠI TINH THẦN TUẦN TRIỆT, CHUNG THÂN HỶ BẤT CẬP THỜI HOÁN GIAO TAM HOÁ ĐIỀN VIÊN TÚC HƯỞNG VÔ TÀI Cung Phú Đức an tại Ngọ có Tử Vi toạ thủ gặp Sát Tinh, Bại Tình hay Tuần, Triệt án ngữ tất suốt đời không gặp thời mặc dù có tài. Nhưng nếu gặp một trong Tam Hóa tức Khoa, Quyền, Lộc toạ thủ tại Phúc Đức tất nhiên ảnh hưởng vào cung Thê nên nhờ vợ có tài thao lược mà an nhàn sung sướng.

84.PHÚC THỌ CHẤN CUNG, ĐẾ THAM TƯỚNG PHỦ HẠNH PHÙNG CÁT TÚ, TAM HOÁ GIÁ LÂM, PHÚC TĂNG BẤT TUYỆT HỮU KIẾN TRIỆT TUẦN, TỨ SÁT MÔ TINH, TẤT HỮU ĐAO THƯƠNG CHI ÁCH, DƯƠNG MỘ LẠC DI Cung Phúc Đức an tại Mão có Tử Vi, Tham Lang toạ thủ đồng cung Mệnh có Thiên Phú toạ thủ Thiên Tướng chiếu gặp nhiều Cát TInh và Khoa Quyền, Lộc hội hợp là người được hưởng phúc bean bỉ nhưng nếu gặp Tuần, Triệt, Kinh, Đà, Không, Kiếp hội hợp thì bị tai nạn về đao thong và đương mộ tức mộ đàn ông thất lạc.

85. KHÔNG CUNG PHÚC TOẠ, NHI PHÙNG TỬ PHỦ ĐỒNG LƯỢNG CƠ NGUYỆT TU KIẾN HỔ HÌNH TAM HOÁ PHÙNG THỜI LOẠN THẾ, THANH BÌNH KHÁNH HIỀN NHƯỚC KIẾN KHÔNG TINH SÁT DIỆU PHÙ TRẦM ẢO ẢNH, NHÂN SỰ NHÀN LAI CHI PHÚC HẠNH Cung Phúc Đức an thại Thân có Cơ, Nguyệt toạ thủ Đồng, Lương hội chiến tất giáp Tử giáp Phủ gặp Hổ Hình, Khoa, Quyền, Lộc tất loạn lạc thì gặp thời, thanh bình thì vinh hiển nhưng nếu bị Kình, Đà, Không, Kiếp, Tuần, Triệt xâm phạm thì công danh như phù du ảo ảnh, không bon chen danh lợi thời đắc phúc.

86. CẤN ĐỊA PHÚC CƯ TỐI HỶ TAM KỲ ĐẾ CÁCH PHƯỢNG LONG PHỤ BẤT THỊ PHÁT VÕ CÔNG HẦU TƯỚC; MẠC PHÙNG TRIỆT, KỴ MÃ, HÌNH, XƯƠNG, KHÚC, HIỂN THÂN NGOẠI XỨ, ƯU HIỀM ĐINH TỬ Cung Phúc Đức an tại Dần có Tử Vi toạ thủ Thiên Phủ đồng cung Khoa, Quyền, Lộc, Phượng, Long, Phu Bất hội chiến nên rất tốt đẹp người có cách này tất phát võ làm đến tước hầu nếu gặp Triệt án ngữ Kỵ, Mã, Hình, Xương, Khúc, thì hiển đạt nơi xứ người nhưng lại hiếm con.

87. PHÚC TẠI NGỌ CUNG, TỬ ĐỒNG HÌNH PHƯỢNG KIÊM NGỘ TANG HÌNH MÃ KHỐC LỘC QUYỀN: TIỀN NGỘ TANG HÌNH MÃ KHỐC LỘC QUYỀN: TIỀN ĐỒ HỆ VI THÀNH SỰ HỶ NGỘ BẬT KHOA HẬU TUẾ DỊ THÀNH NGHIỆP CHỦ Cung Phúc Đức an tại Ngọ có Tử Vi toạ thủ Kinh Dương, Phượng Các đồng cung gặp Tang, Hình, Mã, Khốc, Lộc, Quyền thời tiền vận lận đận không thành công, nếu gặp Hữu Bật, Hoá Khoa thì bậu vận hạnh thông đắc ý nguyện.

88. PHÚC TOẠ ĐINH SƠN TỨ SÁT ĐỒNG CƯ MỘ DIỆU, LAI KỶ NHÂN SINH MỘ DẠ. CƯ TRIỀU SÁT DIỆU KỴ, LƯU, GIANG ĐỒ NGỘ SÁT HẠNH KIÊM SINH VƯƠNG, LONG KHOA HIỂN TÀI NGƯ PHỦ QUYỀN HÌNH TOẠ CÙNG THỪA HÀNH ÁN PHÁP. Cung Phúc an tại Mùi có Tử, Phá hoặc Liêm, Sát toạ thủ đồng cung người mạng Thổ có Kinh, Đà, Không, Kiếp toạ thủ hay xung chiếu gặp Hoá Kỵ, Lưu Hà tất qua sông bị giết hay chết đuối. Nhưng nếu gặp Trường Sinh, Đế Vượng, Long, Khoa là người có tài đi biển làm thuỷ thủ thời hợp nếu được Quyền, Hình hội hợp lại là quan toà coi về hình án.

89. PHÚC CỨ ĐỊA VÕNG, HẠNH PHÙNG PHỤC BẤT HỒNG QUYỀN TỬ PHỦ MỘ TINH VI TỐI HẢO; ÂM CÔNG HOẠNH PHÁT KIẾN CÔNG LẬP NGHIỆP DỊ THÀNH; KHỦNG KIẾN CỰ, ĐỒNG, KIẾP, TUYỆT XƯƠNG, LINH MỘ PHẦN ĐA PHÁT TẬT NGUYỀN, BẦN CÁCH VÔ MÔN KHẢ ĐẢO Cung Phúc Đức an tại Tuất có Tử Vi hay Thiên Phủ toạ thủ gặp Phụ, Bật Hồng, Quyền hội hợp nên rất tốt đẹp trong họ có âm phần kết phát tất sẽ tạo được sự nghiệp phi thường nhưng nếu có Cự Môn, thiên Đồng toạ thủ thêm Kiếp, Tuyệt, Vượng, Linyh hội hợp tất mộ phần bị động con cháu sinh tật nguyền nghèo nàn không tránh khỏi.

90. GIÁP KỶ NHÂN, ĐẾ CÁCH HOAN PHÙNG KIÊM HỮU ĐỒNG, XƯƠNG, THƯ NHẬN HẠN PHÙNG: TÀI TĂNG PHÚC TIẾN Tuổi Giáp cung Mệnh có Tử, toạ thủ Hạn, gặp Hồng, Loan, Văn, Xương, Tào Thư, Kinh Dương tất danh tài hưng vượng, phúc thọ dồi dào.

91. HUNG TINH ĐẮC ĐỊA PHÁT GIÃ NHƯ LÔI NGƯỢC PHÙNG ĐẾ TƯỢNG DANH ĐẰNG TỨ HẢI. Cung Mệnh an tại Dần, Thân có Tử, Phủ toạ thủ gặp Hung Tinh Đắc Địa hội hợp là người tài giỏi lập được sự nghiệp hiển hách, tiếng tăm lừng lẫy.

92. THÂN CƯ TÀI CUNG HỶ THÀNH ĐẾ TƯỢNG, VÔ CÁCH VĂN ĐOÀN HẬU PHÚ TIỀN VINH; MẠC VỊ GIANG HẢI NGƯ GIA, NAN ĐỀ THUỶ ÁCH LAI KIẾN KIẾP HÀ HẠN ĐÁO. Cung Thân cư Tài Bạch có Tử, Phủ Vũ Tướng toạ thủ (Đế Cách) Sát, Phá, Tham (Võ Cách) hay Cơ Nguyệt Đồng Lương (Văn Đoàn) hội hợp gặp nhiều sao tốt đẹp quần tụ tất tuổi trẻ làm nên, về già lại giàu có nếu hạn gặp Lưu Hà, Địa Kiếp thì chớ nên đi sông, biển mà gặp tại nạn.

Tử vi đẩu số phú giải 1 | Lý Học Đông Phương
Được cảm ơn bởi: công chúa mùa thu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Tử vi đẩu số phú giải - 2

Tác giả: Thái – Vân – Trình
Nguồn: Đất - Việt Xuất bản

2. NAM THIÊN PHỦ GIAO LONG VÃNG ĐỤC Đàn ông cung Mệnh có Thiên Phủ toạ thủ là người tiếnh nết can thận ít nói, làm việc gì cũng suy nghĩ chín chắn ví như thuồng luồng qua vực.

3. THIÊN PHỦ TỐI KỴ KHÔNG TINH NHI NGỘ THANH LONG PHẢN VI CÁT TƯỢNG Cung Mệnh có Thiên Phủ toạ thủ rất kỵ gặp Tuần, Triệt, Thiên, Địa không xâm phạm ví như kho trống rỗng nhưng nếu gặp Thanh Long thị lại tốt đẹp.

4. PHỦ CƯ ĐỊA VÕNG NHƯỢC LÂM TUẦN KHÔNG CƠ NHÂM ĐINH TUẾ MÃN THẾ SỰ BẢO HOÀI NAN PHÙNG VÂN LỘ Cung Mệnh an tại Tuất có Phủ toạ thủ gặp Tuần án ngữ người tuổi Nhâm, Đinh suốt đời không đạt ý muốn công danh lận đận.

5. THIÊN PHỦ KỴ NGỘ KHÔNG TINH LẠI NHẬP TÀI CUNG TÁN HAO VÔ ĐỘ Thiên Phủ rất kỵ gặp Thiên, Địa không xâm phạm cung Tài Bạch có cách này thì khó giữ được của, tiền tài hao hụt.

6. THIÊN PHỦ LÂM TUẤT, HỮU TINH PHÙ, YẾU KIM VI TỬ Cung mệnh an tại Tuất có Thiên Phủ toạ thủ người tuổi Giáp, Kỷ nếu gặp quí tinh hội hợp thời giàu sang vinh hiển vàng đeo ngọc giắt không có quí tinh chỉ bình thường.

7. THIÊN PHỦ TUẤT CUNG SÁT TẤU, GIÁP, KỶ NHÂN, YẾU KIM HƯU THẢ PHÚ Cung Mệnh an tại Tuất có Thiên Phủ, người tuổi Giáp, tuổi Kỷ nên đi buôn thì giàu có nếu gặp Kinh, Đà, Không, Kiếp thời xấu.

8. THIÊN PHỦ CƯ NGỌ TUẤT, THIÊN TƯỚNG LAI TRIỀU GIÁP NHÂN NHẤT PHẨM CHI QUÝ Cung Mệnh an tại Ngọ, Tuất có Thiên Phủ toạ thủ Thiên Tướng hợp chiếu người tuổi Giáp rất quý hiển làm đến nhất phẩm các tuổi khác cũng có quan chức và được hưởng giàu sang.

9. PHỦ, TƯỚNG TRIỀU VIÊN, THIÊN CHUNG THỰC LỘC Cung mệnh an tại Dần, Thân có Phủ, Tướng, HOá Lộc ở Tài hợp chiếu là thượng sách tiền của dư an dư để nhưng nếu Lộc không ở đồng cung với Phủ, Tướng thì kém tốt.

10. THIÊN PHỦ, THIÊN TƯỚNG NÃI VI Y LỘC CHI THẦN, VI SÃI VI QUAN ĐINH CHỈ HẠNH THÔNG CHI TRIỆU Cung Mệnh có Phủ toạ thủ Tướng chiếu hay Tướng toạ thủ Phủ chiếu gặp nhiều Trung Tinh sáng sủa, hội hợp làm quan thì được nhiều bổng lộc mọi sự hạnh thông, đi tu thời lên chức hoà thượng, nhiều người đến cúng bái, nhất là người tuổi giáp có cách này rất quí hiểm.

11. DẦN PHÙNG PHỦ TƯỚNG VI ĐĂNG NHẤT PHẨM CHI VINH Cung Mệnh an tại Dần, Ngọc, Tuất gặp Phủ, Tướng hội hợp, không gặp các Sát Tinh người tuổi Giáp giầu sang vinh hiển làm quan đến nhất phẩm.

12. PHỦ TƯỚNG ĐỒNG LƯƠNG TÍNH TẤT HẢO; SÁT KIẾP KHÔNG THAM, TÍNH BẤT THƯỜNG Cung Mệnh có sao Phủ, Tướng, Đồng, Lương thì tính nết hiền lành phúc bàn. Có sao Thất Sát, Kiếp, Không, Tham Lang toạ thủ thi tánh nết danh cãi bất thường.

13. PHỦ DỮ VŨ KHÚC ĐỒNG ĐỘ TÍCH NGỌC ĐÔI KIM Cung mệnh có thiên Phủ, Vũ Khúc toạ thủ đồng cung gặp nhiều sao tốt tất giàu sang tiền chôn bạc cất gặp sao xấu thời làm nghề thâu ngân thì hợp.

14. PHỦ, VŨ TÝ CUNG HÍAP ĐINH, NHÂN TOẠ PHÚC VƯỢNG DANH BA HUNG LAI TUẦN, KIẾP DANH SỨ NHÂN KHI, U CANH NHÂM TUẾ TÀI PHÚC TRƯỜNG HÀNH Cung Mệnh an tại Tý có thiên Phủ, Vũ Khúc toạ thủ đồng cung người tuổi Giáp, Đinh được hưởng phúc lại thêm danh tiếng lừng lẫy nếu bị Không, Kiếp, Tuần, Triệt xâm phạm thì cái danh đó bị hoen ố và người đời kinh bỉ. Nhưng với người tuổi Canh Nhâm thì không bị mang tiếng xấu vẫn có tài lộc và hạnh phúc được bền vững.

15. THIÊN PHỦ LỘC TỒN XƯƠNG KHÚC CƯ VẠN CHI TƯ Cung Mệnh có Thiên Phủ, Lộc Tồn toạ thủ Cương, Khúc hội hợp là người giàu có vào hàng phú cách.

16. THIÊN PHỦ CƯƠNG KHÚC TẢ HỮU CAO ĐỆ ÂN VINH Cung Mệnh có thiên Phủ toạ thủ Cương, Khúc, Tả Hữu hội hợp tất được hưởng giàu sang vinh hiển hơn người.

17. PHỦ PHÙNG ĐÀ TUẾ TỴ CUNG CUỒNG NGÔN LOẠN NGỮ NÓI RÔNG THÁNG NGÀY Cung Mệnh an tại Tỵ có thiên Phủ toạ thủ gặp Đà La, Thái Tuế là người ăn nói không kịp suy nghĩ, có nói không, không nói có.

18. HẠN PHÙNG PHỦ TƯỚNG KIÊM HỮU VIỆT LINH TU PHÒNG LỘ KHỔN ỨNG THÍ ĐẠT CAO Hạn gặp Phủ, Tướng, Việt, Linh hội hợp nên đề phòng đi xa có hại nhưng đi thì thời đỗ cao.

19. THIÊN PHỦ VỦ KHÚC CƯ TÀI TRẠCH CẢNH KHIÊM QUYỀN, LỘC PHÚ ĐỒ ÔNG. Cung Điền Tài, có Thiên Phủ, Vũ Khúc toạ thủ đồng cung gặp Quyền, Lộc hội hợp tất giàu sang phong lưu.

20. TÀI CƯ TÀI VỊ NGÔ GIẢ PHÚ XA Cung Điền, Tài có Phủ, Vũ, Miếu Vượng toạ thủ nên rất giàu có.

21. THIÊN PHỦ CƯ TÀI BẠCH DIỆC THỊ ĐA TÀI NGỘ THIÊN BINH TẤT CHI HAO TỔN Cung Tài Bạch có Thiên Phủ toạ thủ là người có tiền nhưng nếu gặp Thiên Hình lại hay hao tài tốn của.

22. PHÚ PHÙNG KHÔNG XỨ TÀI XUY THUỶ CHUNG NAN BẢO TƯ CƠ LƯU TRUYỀN Cùng Tài Bạch có Thiên Phủ toạ thủ gặp Thiên, Địa Không hay Tuần, Triệt án ngư thì tiến tài bị suy kém suốt đời không giữ được tổ nghiệp.

23. THIÊN PHỦ LÂM GIẢI ÁCH NHI VÔ BỆNH Cung Tật Ách có Thiên Phủ toạ thủ là người ít tất bệnh.

24. PH Ủ TƯỚNG CƯ THÊ VỊ, PHI GIÁ BẤT THÀNH Cung thê có Phủ, Tướng hội hợp tất phải cưới xin linh đình, môn đăng hộ đối.



Tử vi đẩu số phú giải - 3


Tác giả: Thái – Vân – Trình
Nguồn: Đất - Việt Xuất bản

2. VŨ KHÚC MIẾU VIÊN OAI DANH HÁCH BIẾN Cung Mệnh có Vũ Khúc, Miếu địa toạ thủ gặp nhiều sao sáng sủa hội hợp tất làm nên hiển hách danh tiến lừng lẫy người tuổi Thìn, Tuất, Sửu, Mùi rất hợp nếu an tại Thìn, Tuất là thượng cách, an tại Tửu, Mùi thức cách, tiền bần hậu phú.

3. THÂN CƯ VŨ KHÚ HẮC TỬ TRUNG TÀNG Cung Mệnh, Thân có Vũ Khúc toạ thủ thì trong mình có nhiều nốt ruồi.

4. VŨ XƯƠNG TY HỢI DINH LỤC GIÁP SUÝ BIÊN ĐÌNH Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi có Vũ Khúc, Văn Cương toạ thủ đồng cung người tuổi Giáp là tướng biên khu trấn giữ bời cõi.

5. VŨ KHÚC NHÀN CUNG ĐA THỦ NGHỆ Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi có Vũ Khúc toạ thủ là người có tài về thủ công nghệ hay làm thợ rất khéo tay.

6. SAO VŨ TƯỚNG Ở ĐẦU CUNG ẤY NGHỀ BÁCH CÔNG AI THẤY CŨNG DÙNG Cung Mệnh an tại Dần, Thân có Vũ Khúc, Thiên Tướng toạ thủ đồng cung là người có tài về thủ công nghệ.

7. VŨ TƯỚNG DẦN THÂN NHI NGÔ LỘC QUYỀN, PHÚ GIA VƯƠNG KHẢI Cung Mệnh an tại Dần, Than có Vũ, Tướng toạ thủ đồng cung gặp Lộc, Quyền tất giàu có như Vương Khải.

8. VŨ KHÚC THAM LANG TÀI TRẠNH VỊ HOẠNH PHÁT TƯ TÀI Cung Điền, Tài có Vũ Khúc, Tham Lang toạ thủ đồng cung của cải tiền tài vào như nước.

9. VŨ KHÚC THAM LANG GIA HOÁ KỴ, KỸ NGHỆ CHI NHÂN Cung Mệnh có Vũ, Tham toạ thủ gặp Sát TInh, Hoá Kỵ hội hợp thường là người chuyên về kỹ nghệ, hoặc là kỹ sư nếu không cũng là thợ khéo.

10. VŨ, THAM, THÌN, TUẤT, MẬU, CANH, DƯƠNG NỮ VÔ HẠNH HỮU TÀI; KIẾP KHÔNG HUNG KIẾN HỮU PHÙNG HÀ NHẬN VẬN LÂM ; MỆNH VỊ NAN TOÀN Cung Mệnh an tại Thìn, có Vũ Khúc toạ thủ Tham xung chiếu hay Tham toạ thủ Vũ xung chiến người tuổi Mậu, Canh, dương nữ thì tài giỏi nhưng thiếu đạo đức hạn gặp không, Lưu Hà, Kinh Dương tất tính mạng khó bảo toàn.

11. TIỀN BẦN HẬN PHÚ VŨ THAM ĐỒNG THÂN MỆNH CHI CUNG; TIỀN PHÚ HẬU BẦN, CHỈ VÌ VẬN PHÙNG KIẾP SÁT Cung mệnh, Thân an tại Sửu, Mùi có Vũ, Tham toả thủ đồng cung tất trước nghèo sau giàu nhưng nếu cung Than gặp Kiếp Sát, Địa Kiếp, thiên Không, Hao Tuyệt, ngược lại trước giàu sau nghèo.

12. VŨ KHÚC CUNG TUẤT, HỢI, THƯỢNG TỐT PHÁ THÁI ÂM PHÙNG THAM LANG Cung mệnh an tại Tuất có Vũ toạ thủ Tham xung chiếu Thái Âm nhị hợp hay an tại Hợi, Vũ, Phá toạ thủ, Tử Tham hợp chiếu, Thiên Cơ, Thái Âm nhị hợp thêm Hoá Kỵ và Sát Tịnh thời tuổi trẻ phải lận đận vất vả. Nhưng với Tuổi Giáp Kỷ, Nhâm thêm Hoả Tinh thì hợp cách, lại được hưởng giàu sang.

13. VŨ KHÚC PHÁ QUÂN PHÁ TỔ PHÁ GIA LAO LỰC Cung mệnh an tại Tỵ, Hợi có vũ, Phá toạ thủ đồng cung là người phá sản của cải cha mẹ nên xa gia đìnmh hay xuất ngoại thời hay.

14. VŨ SÁT PHÁ LIÊM CƯ MÃO ĐỊA MỘC YÊM LÔI KINH Cung Mệnh an tại Mão có Vũ, Sát toạ thủ đồng cung hay Phá, Liêm toạ thủ đồng cung nên đề phònj sét đánh điện giật.

15. VŨ PHÙNG PHÁ DIỆU NAN BẢO ĐI LẠI TÀI SẢN NGHIỆP Cung Mệnh hay Điền, Tài an tài Tỵ, Hợi có Vũ Phá toạ thủ đồng cung tất khó giữ được cư nghiệp của cha mẹ.

16. VŨ, PHÁ, TRỊNH, THAM XUNG HỢP KHÚC TOÀN CỐ QUI Cung Mệnh có Vũ, Phá, Trinh, Tham hội hợp gặp Cát Tinh nên rất tốt đẹp.

17. VŨ, PHÁ, CƯ TỴ, HỢI ĐÃNG TỬ VÔ LƯƠNG Cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi có Vũ, Phá tọa thủ đồng cung phàm nhân là người xảo trá vĩ nhân, là người gian hùng.

18. VŨ, PHÁ LƯƠNG NGỘ XƯƠNG, KHÚC THÔNG MINH, CƠ SẢO ĐỊNH VÔ CÙNG Cung Mệnh an tại Tỵ, Hợi có Vũ, Phá toạ thủ đồng cung gặp Xương, Khúc là người rất khéo léo thông minh duyên về kỹ nghệ máy móc rất hợp.

19. VŨ KHÚC, LIÊM TRINH, THAM, SÁT CANH TÁC KINH THƯƠNG Cung Mệnh có Vũ Tham tọa thủ Liêm Sát hội hợp nên canh tác thong mại thời tốt.

20. VŨ KHÚC KIẾP SÁT HỘI KINH DƯƠNG NHÂN TRÌ ĐẠO Cung Mệnh có Vũ Khúc, Kiếp Sát tọa thủ gặp Kinh Dương chiếu tất là người gian ác giết người không gớm tay.

21. VŨ KHÚC, DƯƠNG ĐÀ KHIÊM HOẢ TÚ, TÁNG MỆNH NHÂN TÀI Cung Mệnh có Vũ Khúc toạ thủ gặpKinh, Đà, Hoá, Linh hội hợp thời phải đề phòng bị cướp giết.

22. VŨ KHÚC, VÂN KHÚC VI NHÂN ĐA HỌC ĐA NĂNG Cung Mệnh có Vũ, Miếu, Vượng, Đắc Địa toạ thủ gặp Văn Khúc đồng cung là người học rộng, đa tài và thông minh.

23. VŨ KHÚC LÂM CÔ THẦN HÀN NGUYÊN TẦN TẦN KHỨ QUI Cung Mệnh có Vũ Khúc gặp Cô Thần như Hàn nguyên có pháp thuật tài giỏi quí dữ.

24. VŨ KHÚC LỘC MÃ GIAO TRÌ PHÁT TÀI VIỄN BỘ Cung Mệnh có Vũ Khúc tọa thủ gặp Lộc, Mã hội hợp tất đi xa phát tài, kiếm tiền một cách dễ dàng, lập được cơ nghiệp xa quê hương bảo quản.

25. VŨ KHÚC KHÔI VIỆT CƯ MIẾU VƯỢNG, TÀI CHỨC CHI QUAN Cung Mệnh có Vũ Khúc Miếu, Địa toạ thủ gặp Khôi, Việt hội hợp tất là người làm quan trong chính quyền, thường coi về tài chánh.

26. VŨ KHÚC THIÊN DI, CỰ THƯƠNG CAO MÃI Cung Thiên Di có Vũ Khúc toạ thủ ra ngoài buôn bán sẽ trở nên giàu có.

27. TỬ VI HỘI VŨ KHÚC Ư TỬ TỨC QUI VI THỨC HÒE Cung Tử Tức ở Thìn, Tuất, Sửu, Mùi có Vũ Khúc toạ thủ tất sinh quí tử.

28. VŨ KHÚC THỦ TỬ CUNG BẤT TẮT CÔ THẦN NHI HỮU TẠI Cung Tử Tức có Vũ Khúc không hiểm òn thời cũng khắc con.

29. VŨ, CƠ, LỘC, MÃ, QUẢ, LOAN HÔN NHÂN THỦ ẤY MÓI TRÒN THẤT GIA Hạn gặp Vũ Khúc, Thiên Cơ, Hoá Lộc, Thiên Mã, Quả Tú, Hồng Loan hội hợp tất có tin mừng về cưới xin.

30. PHÚC TẠI SỮU CUNG, CƯ TOẠ, VŨ, THAM, DIỆC, CẦN TẢ, HỮU, PHƯỢNG, LONG MỘ, TỌA NAM, HIỀN DANH TÀI, LAI TAM HOÁ, HỔ RIÊU NỮ TẤT GIANG HỒ HIỀN HÁCH DANH GIA Cung Phúc Đức an tại Sửu có Vũ, Tham toạ thủ, đồng cung gặp Tả, Hữu, Phương, Long, Mộ tất trong họ con trai làm nên vinh hiển, tiếng tăm lừng lẫy, thêm Khoa, Quyền, Lộc, Hổ, Riêu thời con gái lưu lạc giang hồ mà làm nên danh giá.


Nguồn:Tử vi đẩu số phú giải 1 | Lý Học Đông Phương
Được cảm ơn bởi: pht230, tamlac, công chúa mùa thu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Tên bài viết "Cơ sở phái Tử Vân"

Tác giả: Không đề tên
Dịch và chú thích: VDTT
Giảng nghĩa cơ sở cách xem Tử Vi
Những điểm học tập quan trọng

Lịch sử hình thành và phát triển của Tử Vi không rõ ràng, mà cũng không cần chú ý quá. Hoàn toàn không biết cũng chẳng ảnh hưởng gì đến nhận thức Tử Vi. Nếu hứng thú thì có thể tìm thấy tư liệu phát triển 40 năm gần đây, nhưng đó cũng chỉ là chuyện trà dư tửu hậu. Phát triển trọng yếu bắt đầu khoảng mười năm trước, khi Tuệ Tâm trai chủ giới thiệu Tử Vi trên Trung Quốc thời báo cho đến ngày nay. Bộ phận phát triển này hết sức có giá trị. Để giới thiệu và nghiên khảo, người viết có thời gian sẽ ở phần sau giới thiệu, tên bài là “Sự phát triển của khoa Tử Vi trong mười năm qua: Từ duy tâm luận đến tâm vật hợp nhất”. (dịch giả chú = dgc: Bài này đã dịch đăng trên tuvilyso. Đoạn này giúp cho ta biết tác giả bài này không phải là ông Tử Vân. Vậy thì hẳn phải là một người muốn xiển dương cách luận Tử Vi của ông Tử Vân, hy vọng là nắm vững cách luận này).

Trong việc tập luyện Tử Vi, theo lý giải hôm nay của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả), thì các điểm quan trọng có thể phân thành vài loại: Một là tính chất tinh đẩu, hai là biến hóa của tứ Hóa, ba là biến hóa của các cung.

Một: Tính chất tinh đẩu

Khi an lá số Tử Vi, trên lá số các danh từ như Tử Vi, Thiên Cơ, Thái Dương, Cự Môn, Thiên Phủ Hỏa Tinh, Văn Xương v.v… đều chỉ các sao. Nói chung, những sao này chỉ là “phù hiệu tượng trưng”, không hề đại biểu rằng các “sao” này có quan hệ với khoa thiên văn học, bởi vậy một số người nói Tử Vi dùng “sao ảo” (dgc: phóng dịch từ Hán Việt “hư tinh”) là cốt đại biểu ý ấy.

Tử Vi nghe nói có hơn trăm sao, kỳ thật thường dùng không quá khoảng 40 sao, còn lại xem cho đẹp mà không mấy khi dùng. Việc này sẽ đề cập thêm sau. Sao của Tử Vi có tính chất đa diện, ở mỗi cung khác nhau được diễn giải khác nhau, nhưng đặc tính cơ bản thì chẳng có gì thay đổi, chẳng hạn: Thiên Cơ đại biểu linh hoạt, cơ động, hoạt bát, tư lự v.v…; ở cung mệnh biểu thị người thông minh, cơ trí, linh hoạt…; ở phu thê biểu thị người có cảm tình bất định, dễ đổi thay; ở tài bạch là người linh hoạt, có nhiều cách làm ra tiền v.v…

Về tính chất sao đặc biệt chú ý “cách cục”. Cách cục là kết quả do một số sao cùng hội chiếu mà sinh ra, tác dụng có điểm tương tựa phản ứng hóa học, so với phản ứng “vật lý đơn thuần” -sao độc thủ- thì quan trọng hơn nhiều, chẳng hạn “Cự Kình Hỏa chung thân ích tử” đại biểu người hành sự tâm lý gấp vội, kịch liệt, không được việc, tự tìm phiền não, đến mức chẳng lùi được nữa. Có điểm cần đặc biệt chú ý: Các cách cục này phải được tứ Hóa dẫn động mới tính, bằng không thì không có tác dụng; Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phương pháp nhớ đặc tính các sao thì như bát tiên quá hải, mỗi người hiển thị một phép thần thông (dgc: Ý muốn nói mỗi người phù hợp một cách học nhớ khác nhau), nhưng người viết có một số phép nhớ nhanh, biết đâu có thể giúp cả nhà một tay, sẽ trình bày sau.

HAI: Biến hóa của tứ Hóa

Tác dụng của tứ Hóa là đặc điểm của khoa Tử Vi, mười phần quan trọng, nhưng lại liên hệ cực kỳ mật thiết với đặc tính của các sao. Tứ hóa là bốn đặc tính hóa Lộc, hóa Quyền, hóa Khoa, hóa Kỵ. Nói giản dị: Hóa Lộc là thuận lợi, hưởng thụ, đạt được; hóa Quyền là kiên định, chấp trước, quyền lực; hóa Khoa là thanh danh, học vấn; hóa Kị là khốn khó, trở ngại, không dễ dàng.

Điểm quan trọng của tứ Hóa là ở chữ “hóa”. Hóa ý là “biến thành”, hoặc là tăng cường một loại tín hiệu nào đó. Cho nên lấy Cự Môn làm thí dụ thì: Cự hóa Lộc đại biểu vì miệng lưỡi mà có tiền tài, nên có thể là người diễn giảng, dạy học, cố vấn pháp luật v.v… Nếu hóa Quyền thì đại biểu lời nói có quyền uy, hễ nói là làm, nói được ngưòi nghe v.v... hóa Kị thì biểu thị lời nói phạm kẻ khác, vì lời nói mà xảy chuyện phong ba v.v… Chú ý một chút, đặc tính không hóa Khoa của Cự Môn. Người có mồm có miệng chẳng phải đến nơi nào cũng nổi danh sao?

Tứ Hóa cần phải nối kết vào cung vị mới xem được việc, cho nên hai yếu tố này khó mà tách rời nhau; nhớ kỹ, nhớ kỹ! Thậm chí chỉ dựa theo sao được hóa của tứ Hóa và cung vị đã có thể đoán một số chuyện quan trọng, sự kiện này sẽ được thuyết minh trong phần cung vị biến hóa.

Gần đây một số người đã bỏ Quyền Khoa, chỉ dụng Lộc Kị. Những người này do Liễu Vô cư sĩ đại biểu. Kỳ thật cách xem của ông không hoàn chỉnh. Ngoài hóa Lộc hóa Kị ra, hóa Quyền và hóa Khoa cũng có tác dụng nhân sinh trọng đại. Không tất yếu nhất định dựa vào việc này phê phán người ta.

Bảng tứ hóa như : Giáp Liêm Phá Vũ Dương, Ất Cơ Lương Vi Nguyệt v.v… thì nhất định phải nhớ. Cách an tứ hóa có một số quy tắc, như hiện tại đã được chỉnh lý (dgc: không rõ nghĩa). Phần này có thể tham khảo tư liệu, như : Tử Vi đẩu số đạo độc – Tinh diệu giải thuyết thiên, Trần Thế Hưng, Tiêm Đoan xuất bản xã, trang 170 đến 187.

BA: Biến hóa của cung vị
Lá số Tử Vi cộng lại có 12 cách, nhưng có 13 cung, phân biệt là mệnh, thân, huynh đệ, tử nữ (dgc: tức tử tức), tài bạch, tật ách v.v… Trong đó thân có thể ở 6 cung vị là mệnh, phu thê, tài bạch, thiên di, sự nghiệp (dgc: tức quan lộc), phúc đức. Mỗi cung vị đại biểu một phương diện hoặc quan hệ. Tử Vi chia đời sống ra 12 phương diện để nghiên cứu; tỷ như cá tính, tình bạn, liên hệ anh chị em, ái tình; tình thân về phương diện luân lý, như phụ mẫu, tử nữ hoặc là cái nhìn về việc truy cầu tài phúc, quan hệ nhân tế, quan niệm công danh mạnh hoặc yếu, phẩm chất nơi cư trú, đòi hỏi sinh hoạt tinh thần v.v… là đời sống, nên nghiên cứu đời sống cũng khởi từ những điều ấy.

Vì cung vị đại biểu sự phát sinh của vụ việc, cho nên có lúc đại biểu dấu tích trùng trùng của tâm thái. Nếu kết hợp với tứ Hóa thì có nhiều vụ việc phát sinh; chẳng hạn: Một người cung phu thê hóa Kị, nhưng đại hạn phu thê hóa Lộc, sự kiện này thông thường biểu thị người ấy dễ sinh chuyện ngoại tình; có thể giải thích rằng quan niệm về cảm tình không đúng, lại có cơ hội hưởng thụ tình cảm. Nếu đã thành hôn thì dễ sinh chuyện ngoại tình; nếu chưa thành hôn dễ bỏ nhau hoặc phát sinh hiện tượng lo sợ (dgc: dịch tạm thôi vì không rõ “đảm tâm đích hiện tượng” ở đoạn này ám chỉ gì; hay muốn nói trong khi yêu mà lòng bất ổn?)

Ba yếu tố trên là trọng điểm của khoa Tử Vi, khi đoán mệnh thực tế, thiếu một trong ba là không được. Chỉ cần có quan niệm không đúng là đoán mệnh dễ sai lầm. Nhưng ngày nay ngàn vạn cần hiểu rằng chỉ bằng ba yếu tố kể trên vẫn không đủ luận đoán chính xác, bởi còn phải du nhập điều kiện, trạng thái nữa.

Du nhập điều kiện, trạng thái là khác biệt giữa quan niệm Tử Vi nay và xưa. Muốn hiểu rõ lá số phàm khi với người khác có quan hệ hoặc liên quan thì phải có tư liệu của người đó mới mong luận đoán một cách hợp lý. Thí dụ: Làm bạn với một người, nếu không có tư liệu của người đó thì chúng ta chẳng thể tiên đoán trạng huống giao vãng về sau (dgc: Thực ra chỉ có thể nói là nếu không du nhập dữ liệu thì lời đoán của trạng huống giao vãng về sau sẽ có xác xuất thấp hẳn đi). Lại thí dụ: Muốn biết cảm tình giữa ta và các anh chị em của ta thì phải du nhập tư liệu của anh chị em vào. Phép du nhập dữ liệu này gọi là “Thái Tuế nhập quái”, hết sức hữu hiệu và chính xác. Phép này được ông Tử Vân đề cập trong sách lần đầu tiên. Ông nói: Theo chi năm sinh của người ta mà đưa vào lá số, căn cứ tam hợp của cung vị, tính chất của tinh đẩu, tứ hóa mà đoán liên hệ giữa người ấy và chủ nhân lá số. Cách này giúp Tử Vi bước một bước dài ra ngoài, bởi vì trong đời sống thật có rất nhiều việc liên hệ đến người khác, sau khi du nhập dữ liệu của người ta vào thì có thể đoán những hành động hỗ tương giữa người với ta thêm chính xác. Cho nên hiểu phép Thái Tuế nhập quái là kỹ xảo giúp việc luân Tử Vi tiến thêm một bước. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Phép đoán Tử Vi
Dùng Tử Vi luận mệnh vận có hai trạng huống. Một là vĩ quan (dgc: Cái nhìn rộng lớn), khởi từ vận mạng trọn đời, rồi đến vận 10 năm (đại hạn), cuối cùng đến lưu niên (vận một năm). Một loại khác gọi là vi quan (dgc: Cái nhìn nhỏ hẹp), mục tiêu là đoán những gì xảy ra trong một ngày, một giờ. Nói chung, hai trạng huống này phương pháp giống nhau, chỉ là việc áp dụng tính chất tinh đẩu cần đổi chút ít.

Vì vĩ quan tương đối thật dụng, lại có nhiều khả năng giải quyết những câu hỏi trong tâm người ta, nên nói chung luận mệnh chủ là vĩ quan. Khi vĩ quan thành thục rồi thì tự nhiên có thể xử dụng vi quan luận mệnh.

Nếu làm theo vĩ quan thì cần suy tư rất nhiều vấn đề rồi mới có thể đoán sự việc diễn biến ra sao kết quả thế nào.

Bộ phận thứ nhất: Lá số nguyên thủy
Cầm lá số, đầu tiên cần xác nhận năm tháng ngày giờ sinh chính xác hay không (dgc: Điểm này được ông Tử Vân nhấn mạnh trong nhiều sách. Rất nhiều trường hợp đoán sai chỉ vì lá số đã sai từ đâu, nên việc thiết lập năm tháng ngày giờ sinh không chỉ là bước đầu mà là một trong những bước quan trọng nhất của diễn trình đoán mệnh), rồi nắm vững kết cấu của toàn thể lá số, nắm vững tính chất tinh đẩu, xem có tạo thành cách cục không, xem sự dẫn động của tứ Hóa vì có liên hệ đến việc cách cục được phát động hay không.

Xem lá số nguyên thủy bắt đầu với cung mệnh, vì mệnh là trung khu của các cung còn lại. Cung mệnh quyết định tính cách, đặc tính đối với “tâm thái” của các cung khác; đây là một điểm quan trọng, cần chú ý.

Tiếp đó xem cung thân, vì thân có tác dụng tăng cường hoặc điều chỉnh nên là một cung cần tu chính. Ở đây cần nói rõ tác dụng tăng cường là: thân cư cung nào thì điểm quan trọng cần chú ý của đời người là cung đó. Tỷ dụ: Người có thân trùng hợp phu thê (dgc: tức thân cư phu thê) thì mục tiêu truy cầu trong đời chủ yếu là sinh hoạt gia đình hạnh phúc mỹ mãn; lại tỉ dụ thân trùng hợp với thiên di (dgc: tức thân cư thiên di) tất mục tiêu cuộc đời là quan hệ nhân tế viên mãn hoặc là được người khác tôn trọng và bội phục, thành thử các phương diện khác nếu không như ý thì cũng chẳng quan tâm lắm. Tác dụng tu chính tức là: Tính cách cá nhân lần hồi với tuổi tác chuyển biến sang đặc tính các tinh đẩu của cung thân. Tỉ như mệnh vô chính diệu (không có chính tinh, giải thích sau) nhưng thân có chính tinh thì có thể, sớm thì lúc trên hai mươi tuổi, chính tinh ở cung thân dần dà phát sinh tác dụng.

Xem đặc tính sao trong lá số không chỉ xem cung mệnh có các sao nào, vì quy tắc của Tử Vi là phải nhập hết tam phương tứ chinh vào tham khảo mới đúng. Lý của tam phương tứ chính sẽ bàn sau. Tam phương ý nói ngoài cung gốc của mệnh ra, sao trong tài bạch thiên di và sự nghiệp đều ảnh hưởng tính cách con người. Quy tắc này dẫn đến một đặc điểm của khoa Tử Vi: Mười bốn chính tinh đại thể được chia thành vài tổ hợp sao. Chẳng hạn: Tử Phủ Tướng một nhóm, Sát Phá Tham một nhóm, Cơ Nguyệt Đồng Lương là một nhóm, tối hậu Thái Dương và Cự Môn thành một nhóm. Trong đó Tử Phủ Tướng và Sát Phá Tham v.v… có thể hội chiếu nhau, Cơ Nguyệt Đồng Lương tất có thể hội chiếu cùng Nhật Cự. Ở đây hội chiếu ý chỉ: Khi một sao xuất hiện tất tam phương tứ chính cũng có một số sao, theo quy tắc Tử Vi mà nói, hội chiếu nghĩa là các sao này có khả năng sinh ra tác dụng. Lý kia là tứ chính, tức là tác dụng tam phương cộng với cung giáp. Ý nghĩa của giáp chỉ hai cung bên cạnh cung mệnh, tức tác dụng của cung anh chị em (dgc: cung huynh đệ) và cung phụ mẫu. Khi hai sao đôi xuất hiện ở hai cung huynh đệ và phụ mẫu thì sinh tác dụng; tỉ như: Văn Xương, Văn Khúc, một ở cung phụ mẫu, một ở cung huynh đệ thì có thể sinh tác dụng; tỉ dụ khác: Kiếp Không, Hỏa Linh, Phụ Bật, Lộc Tồn và Hóa Lộc giáp v.v… đều tính là “sao đôi”.

Tất cả chúng ta có thể nghĩ, Tử Vi dàn xếp như vậy có lý chăng, lý ở đâu? Cung mệnh sao lại cần xét thêm tác dụng của tài bạch, thiên di, sự nghiệp, có khi thêm tác dụng của phụ mẫu và huynh đệ. Nếu nghĩ kỹ về các loại quan hệ này thì có thể hiểu rõ thêm quan niệm xã hội của Tử Vi. Nếu suy nghĩ về sinh hoạt trong xã hội thực tế, nhất định có thể giúp bạn hiểu “đời người” rốt cuộc là gì.

Tỉ như: Theo Tử Vi cung phu thê xấu tốt do: phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức, có khi huynh đệ và tử tức cũng có tác dụng, sự kiện này làm sao lý giải? Đại khái có thể như sau: Thành bại của hôn nhân, ngoài quan niệm hôn nhân của bản thân ra (tức đặc tính các sao trong cung phu thê), còn được quyết định bởi những nhân tố khác, như địa vị xã hội của hai bên tức quan niệm “môn đăng hộ đối” (cung thiên di), như sự nghiệp thành công hay không cũng ảnh hưởng thành bại của sinh hoạt gia đình (cung sự nghiệp tốt hoặc xấu), lại như sự hòa hợp và nhu cầu tâm linh là cái phúc nông cạn hoặc sâu dày ảnh hưởng đến sự ổn định của tình cảm và hôn nhân; tối hậu vấn đề tình dục hoặc sinh dục đời sau cùng với ảnh hưởng của anh chị em và bè bạn, đều ảnh hưởng đến sự thành bại của cảm tình luyến ái. Các loại sự việc này đều liên hệ đến cảm tình và hôn nhân, cho nên dùng thuật ngữ hiện đại mà nói thì: Tình cảm hoặc hôn nhân, Tử Vi cho rằng địa vị trong xã hội, địa vị trong sự nghiệp, cảm nhận tâm linh (mong muốn hưởng phúc), quan điểm giáo dục (sinh hoạt tình dục), nhu cầu giống tập thể v.v… đều có ảnh hưởng. Nếu thảo luận về gia đình trong xã hội hiện đại thì: Luân lý, tình dục, kinh tế, tâm lý v.v… đều là “dị khúc đồng công” (dgc: Thành ngữ, ý nói có vẻ khác nhau nhưng cùng đóng góp như nhau), phải nghĩ kỹ về nhữ ng chuyện này mới được.


Tử Vi có một số cung do tự kỷ (tự mình) quyết định, một số cung do tự nhiên quyết định. Tự nhiên quyết định thì như các cung huynh đệ, tử tức, tật ách, nô bộc, phụ mẫu; tự kỷ quyết định có các cung phu thê, thiên di, sự nghiệp, phúc đức. Còn khi mới sinh không thể nào quyết định nhưng sau thì có thể tự quyết định thì có cung điền trạch. Ngàn vạn phải hiểu: Những gì do đặc tính sao hiển thị trên lá số chỉ là quan niệm của chủ nhân lá số về sự việc đó, hoặc giả nói là “ý thức hình thái”, không thể dựa vào mà định cát hung. Nếu muốn đoán cát hung thì phải du nhập “điều kiện” mới được. Thí dụ: Muốn đoán liên hệ tình cảm giữa chủ lá số với anh chị em thì phải biết năm sinh của các anh chị em, du nhập chúng vào lá số. Đó gọi là phép “Thái Tuế nhập quái”.

Phụ chú: Việc ứng dụng “Thái Tuế nhập quái” chẳng đơn giản, nhưng nguyên tắc cơ bản thì có thể thưa cùng quý vị: Như chị của quý vị sinh năm 57 (dgc: Đây ám chỉ năm Trung Hoa Dân Quốc thứ 57, tức năm 1968) thì năm là Mậu Thân (dgc: Nguyên bản đánh sai thành Mậu Canh, chữ Canh ở đây vô nghĩa) thì dùng can Mậu để định tứ Hóa: Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ. Lúc ấy xem Tham hóa Lộc có cư hoặc tam hợp cung mệnh của quý vị không, có thì chị của quý vị chỉ cho quý vị mà không đòi hoàn lại, hoặc nói là chị quý vị đối xử tốt với quý vị. Đương nhiên nếu Lộc của chị quý vị khiến mệnh của quý vị được song Lộc giáp thì hiệu quả cũng vậy (dgc: Nhưng theo ý người dịch thì Lộc nhập quái giúp tạo thành song Lộc giáp mệnh có nghĩa là liên hệ tốt đẹp có tính ẩn, ít được người ngoài biết hơn so với trường hợp cùng cung hoặc tam hợp mệnh). Mặt khác, nếu hóa Kị của chị quý vị nhập cung mệnh của quý vị thì có nghĩa hai bên có khó liên hệ tốt, hoặc chị quý vị thiên sinh đã phòng ngờ quý vị. Còn về cá tính của chị quý vị thì lấy cung Thân làm chủ, tham khảo cung Thân và tam phương tứ chính để định cá tính, lúc ấy cần thêm tác dụng tứ hóa của Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ, hợp với tứ Hóa đã có sẵn trong lá số cùng tham khảo.


Tình huống giữa quý vị và bà chị sinh năm 57 (dgc: tức 1968) thì luận như sau: Thứ nhất, nếu cung Thân ở tam phương cung mệnh của chủ lá số thì cá tính của bà chị và chủ lá số tương cận, tương đối dễ hiểu nhau – Đây bởi vì xuất hiện ở tam phương thì các tinh đẩu phần lớn tương tự - chú ý tính chất tinh đẩu đã đề cập trước đây. Thứ hai, xét tác dụng của tứ Hóa Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ trên cung anh chị em (dgc: tức cung huynh đệ), nếu hóa Lộc có tác dụng mạnh hoặc hội chiếu thì có nghĩa hai bên tình cảm không tệ. Hóa Quyền biểu thị giữa anh chị em có khả năng chi phối mạnh mẽ. Nếu hóa Kị dẫn động (dgc: Nghĩa là hóa Kị trong tam phương tứ chính hoặc tạo thành cảnh song Kị giáp) thì có nghĩa hai bên cảm tình không thuận hoặc có chuyện bất lợi khác.

Đó là khái niệm cơ bản của phép “Thái Tuế nhập quái”. Đương nhiên Thái Tuế nhập quái cũng có thể dùng để đoán đại hạn và lưu niên, nhưng có hạn chế, ngàn vạn nhớ kỹ, không thể toàn diện thổi phồng. Sự thật là huynh đệ xem như thế, cha mẹ cũng xem như thế, thêm can năm sinh của cha mẹ vào để quyết định (dgc: Không đề rõ quyết định gì, ý hẳn là quyết định liên hệ giữa cha mẹ và chủ nhân lá số), xem địa chi của cha mẹ để định cá tính của họ. Cảm tình nam nữ cũng đoán như vậy, thầy cô hoặc giảng viên cũng như vậy, bạn học bạn bè cũng như vậy. Cái phức tạp của Thái Tuế nhập quái là quan hệ hỗ động giữa hai cung khác nhau – Đó là chỗ tinh yếu của của phép Thái Tuế nhập quái, trước đây đã bàn một chút, sau này sẽ phân tích kỹ hơn.

Lưu niên:
Khi thảo luận bộ phận này đầu tiên cần thảo luận vấn đề khác biệt giữa các học phái. Về việc xem vận khí mỗi năm, nói chung có ba cách: Cách thứ nhất coi lưu niên là chủ, như năm nay là năm Quý Dậu tất cung mệnh của năm ở Dậu, rồi thêm tứ Hóa của can Quý vào lá số mà luận xét. Cách thứ hai là phái tiểu hạn. Phái này dùng tiểu hạn để xem số, như năm nay Bính Ngọ là năm 28 tuổi, tìm cung ứng với tiểu hạn năm 28 tuổi coi là cung mệnh, lấy tứ Hóa của cung mệnh mà xem vận khí của năm nay (dgc: Ý nói là cung tiểu hạn ở đâu thì dùng can của cung đó? Nếu thế là một cách xem hơi lạ và có vấn đề, vì can của các cung đã cố định, thành thử can chi đều lập lại mỗi 12 năm. Thiết nghĩ hợp lý hơn là vẫn xử dụng can của lưu niên mặc dù xem cung tiểu hạn là cung mệnh tạm thời). Cách thứ ba là tham chiếu cả hai, lưu niên xem biến hóa của hoàn cảnh, tiểu hạn xem biến hóa của tâm thái.

Hôm nay theo sự hiểu biết của người viết (dgc: Tức người viết bài này, không phải ông Tử Vân, không phải dịch giả) thì phái lưu niên là tông phái lớn chính thống, các học giả về sau chỉ cần dùng phép lưu niên là có thể chính xác không sai, bất tất thêm cách nào khác nữa (dgc: Tức là theo ý tác giả bài này thì chỉ cần dụng phép lưu niên thôi, không dùng tiểu hạn).


Một cách suy nghĩ: Võ Đang, Thiếu Lâm đều tinh thâm cả, học cả đời chưa chắc có thành tựu lớn. Nếu học Võ Đang vài ba thức, Thiếu Lâm cũng ba bốn thức mà muốn tung hoành thiên hạ thì hoàn toàn chỉ là hù ngưòi thôi. Quý học giả bất tất phải học những thứ hợp tham làm gì, nếu thành cao thủ Võ Đang thì đương nhiên là cao thủ của thiên hạ, chẳng có gì nghi ngờ nữa. Phương pháp trình bày với quý vị hôm nay chẳng có gì kỳ lạ, chẳng cần mặc khải gì cả, bất cứ ai đi theo những bước chân này đều có một ngày phát hiện con đường cho riêng mình. Con đường Tử Vi thực ra càng đi lại càng rộng rãi.

Nguồn:Tử Vi Lý Số: Cơ sở cách xem của phái Tử Vân
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

“Cơ sở phái Tử Vân” (tiếp theo)

Tác giả: Không rõ tên
Dịch và chú thích: VDTT

Về triết học và quy tắc của Tử Vi chúng ta chỉ cần biết, xin nhắc lại, một số kiến thức về tinh đẩu, tứ Hóa, cung vị, đều rất dễ nhớ; từ đó về sau căn bản chẳng cần bí quyết của ai khác, cứ tùy việc mà ứng đối với lá số, hoàn toàn chẳng có gì để bị kích bác. Về khái niệm triết học của Tử Vi phần sau có thời giờ sẽ viết thêm. Kỳ thật các sinh hoạt chính trị, kinh tế, giao vãng quần thể xã hội, liên hệ hỗ động giữa người với người v.v… mà nhân loại ngày hôm nay đối diện so với thời cổ đã xuất hiện những khác biệt hết sức to lớn, lại thêm quá trình phức tạp. Thử nghĩ Tử Vi nếu là khoa thống kê thì làm thế nào tiến hành việc nghiên cứu khoa này? Xin mọi người suy nghĩ kỹ: Có phải tất cả chúng ta đã quá coi trọng khoa thống kê chăng?

Nói rõ hơn một chút: Tử Vi là một hệ thống hoàn chỉnh, không chỉ là một thuyết tự cuộn thành tròn, hoặc một cái gì đó cho phép quý vị tự chế ra bí kíp chưa từng có. Nói cách khác: Tử Vi bản thân có năng lực hiện đại hóa.

Ở đây tôi muốn cử một thí dụ cùng quý vị: Lưu niên điền trạch của một cá nhân có Cự Môn tọa thủ, hội chiếu có Thiên Cơ, Văn Khúc v.v… lại có Lộc Tồn và lưu niên Lộc dẫn động thì chúng ta có thể đoán: Người ấy năm nay trong nhà có thể có thêm một máy thuộc loại thâu âm. Làm sao xem ra chuyện ấy? Rất giản dị: Cự Môn chỉ phát thanh, cơ giới là sao Thiên Cơ, Văn Khúc là tài nghệ cầm kỳ thi họa, bói toán thiên văn dịch lý (dgc: nguyên văn là “Bốc toán tinh dịch”) vân vân, nhưng cũng đại biểu, âm nhạc, mỹ thuật, việc lao động v.v…, lưu niên Lộc Tồn xung động là vật phẩm, thống hợp lại mà suy, là một vật thuộc loại âm nhạc, nếu thêm Cự hóa Quyền thì công suất của dụng cụ âm nhạc đó chẳng nhỏ, ngoài ra có thể là dàn Karaoke. Nếu vậy thử hỏi: Điện thoại có trở ngại làm sao xem? Cự Cư trong cung điền ứng điện thoại, Cự hoặc Cơ hóa Kị có thể điện thoại gặp trở ngại hoặc đường giây bất ổn. Vậy máy đánh chữ là gì? Máy TiVi là gì? Máy vi ba (microwave) là sao gì mới đúng? Xin cả nhà suy nghĩ cho kỹ. Bộ phận đặc tính các sao này do bản thân tôi khai triển ra, nguyên tắc chẳng khó, chịu bỏ công là được. Nhớ kỹ, nhớ kỹ!

Cách xem lưu niên, kỳ thật so với cách xem đại hạn chẳng mấy khác. Bắt đầu với các sao trong cung lưu niên mệnh (dgc: Tức là cung an lưu Thái Tuế), rồi xem tứ hóa (tứ Hóa theo thiên can của lưu niên, như năm nay Quý Dậu thì an theo Phá Cự Âm Tham), xem tứ Hóa xung kích cung lưu niên hiệu quả ra sao, rồi lại xem hiệu ứng xung kích của tứ Hóa trên cung đại hạn hoặc bản mệnh, lại xem thêm cung vị nào bị tứ Hóa dẫn động.

Thí dụ: Số một thiếu nữ Tham Lang lưu niên hóa Kị ở lưu niên phúc, hội chiếu lại có đại hạn Kị, tất đại biểu năm ấy thiếu nữ này mặt tinh thần có chuyện đau khổ, vì đâu mà đau khổ: Xem kỹ lại bên trong, lưu niên Tham Kị cùng đại hạn Vũ Kị giáp đại hạn phu thê, mà đại hạn phu thê nguyên có hóa Lộc, thêm lưu niên Lộc Tồn và hóa Quyền chiếu, cho thấy thiếu nữ này vì tình mà khổ, ấy bởi vì sự viêc liên hệ đến nhu cầu và sự chú ý giữa nam nữ nổi lên, cô này cùng lúc có hai người nam phải chọn một, nhưng cô khó mà quyết định, vì mỗi người đều có ưu khuyết điểm riêng, rất khó mà luận định (khởi từ cá tính, địa vị xã hội v.v…), lúc ấy cần dụng phép Thái Tuế nhập quái mới có thể thâm cứu rốt ráo được.

Cho nên, như tôi đã nói trước đây: Hệ thống Tử Vi đến lưu niên tổng cộng có ba tầng kết cấu, tầng một là bộ phận lá số nguyên thủy và tứ hóa nguyên thủy (dgc: Câu này nguyên tác cách viết phức tạp nên chỉ dịch ý); tầng hai bộ phận lá số đại hạn và tứ Hóa ứng với can cung đại hạn; tầng ba là bộ phận lá số lưu niên và lưu tứ Hóa năm xem số (như năm dân quốc 82 là năm Quý Dậu thì lấy tứ Hóa theo can Quý). Ba tầng bộ phận này, cơ bản tầng một lá số nguyên thủy, nhưng thực tế là những gì hiện ra trong lá số lưu niên. Đại hạn thì đóng vai trò truyền thừa; tức lá số nguyên thủy là căn bản, là xương cốt, lá số đại hạn là cơ thịt, thần kinh, lá số lưu niên biểu diện da ngoài và ngũ quan. Nhưng đó chỉ là những sự việc hết sức chung chung thôi (dgc: nguyên văn “phổ biến hóa”, chỉ dịch ý thôi), đối với những sự việc đặc thù tất phải du nhập dữ liệu mới luận được là cát hoặc hung.

Chẳng hạn: Một người nào đó bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy) hóa Kị, đại hạn sự nghiệp cũng hóa Kị, lưu niên sự nghiệp cũng hóa Kị, phải chăng đại biểu người ấy nhất định sự nghiệp vấp ngã xuống đất đen hoặc bị đuổi việc? Đương nhiên chẳng phải như vậy, bằng không những người cùng lá số đều không tránh khỏi; đó là một cách luận mười phần tức cười. Cách luận hôm nay là: Những người này vào những lúc khác nhau làm những công việc khác nhau, nên cùng một vận khí họ có những phản ứng khác nhau. Cũng vì nguyên nhân đã nói trên, vận mạng của người này người kia khác nhau -lại quy về nguyên lý triết học của Tử Vi mà tôi đã trình bày- là do thời gian bắt đầu khác nhau, sự việc khác nhau mà ra.

Những phương pháp kể trên là cho các tình hình tổng quát, còn đoán sự kiện đặc thù thì cần xác nhận “cung trọng điểm”, đây là một điểm quan trọng mà ông Tử Vân đề xuất. Những đóng góp của ông Tử Vân cho Tử Vi thật mười phần to lớn. Những kỹ thuật nâng cao khả năng đoán số của ông thì nói thẳng thắn cũng như “trời không sinh Trọng Ni, vạn cổ như đêm tài” (dgc: Câu này nghĩa đen là “Nếu trời không sinh ông Khổng Tử thì vạn cổ cũng như đêm dài vậy”. Ý rõ ràng ca ngợi ông Tử Vân; thiết nghĩ có phần hơi quá đáng). Sự phát triển của Tử Vi mười năm qua, về mặt phát triển kỹ thuật luận số có chín thành đến từ các tác phẩm lớn của ông Tử Vân (dgc: Ý nói chín phần mười các phát triển về kỹ thuật đoán số trong mười năm được nhắc tới trong bài này, tức là mười năm kể đến năm Quý Dậu 1993, đều có thể quy về ông Tử Vân cả). Những sách này của ông là chìa khóa vào cửa cho người sơ học (dgc: Dịch thoát nghĩa), mong quý học giả thêm phần chú ý. Những phương pháp người viết nói tới đa phần khởi từ những khái niệm của ông Tử Vân. Chỉ đáng tiếc đến nay đại sư Tử Vân (dgc: “Đại sư” đây ý nói thầy cao cấp, không phải nhà tu) chưa viết ra những hiểu biết của ông hoặc triết học quan của ông về toàn thể khoa Tử Vi, mà cực khổ viết cho người sau – làm sao xem quan hệ nhân tế, làm sao luận cấp trên, làm sao xem điền trạch, phong thủy v.v… Ở đây chỉ hi vọng mong ông sớm hoàn thành thì khoa Tử Vi càng tiến triển không thể đo lường.

“Cung trọng điểm” là phương pháp định vị trong Tử Vi. Chuyện đó ứng cung vị nào trong lá số? Chẳng hạn: Nói chuyện làm việc, có tiên thiên bản mệnh sự nghiệp (dgc: tức cung quan lộc nguyên thủy), đại hạn sự nghiệp, lưu niên sự nghiệp thành kết cấu 3 tầng. Một người chơi cổ phiếu kiếm tiền, rốt ráo phải xem bản mệnh phúc đức, đại hạn phúc đức, hay lưu niên phúc đức? (dgc: Sở dĩ nhắc đến ba cung phúc ở đây là vì ông Tử Vân cho rằng muốn xem cổ phiếu được thua ra sao phải xem cung phúc là chính, mà không phải là cung tài bạch). Quy tắc như thế này: Cung nào tình hình bị dẫn động kịch liệt nhất, cung đó là cung trọng điểm. (dgc: Đa số trường hợp cung nhiều Lộc Kỵ hội họp nhất là cung trọng điểm).

Câu ở trên ý chỉ: Có tác dụng dẫn động của tứ Hóa và cách cục hay không. Thí dụ ba đời Kị dẫn động thì mạnh hơn hai đời kị (ba đời kị chỉ bản mệnh Kị, đại hạn Kị và lưu niên Kị, hai đời Kị thì chỉ bản mệnh và đại hạn hoặc lưu niên Kị, hay là đại hạn và lưu niên Kị); cho nên song Kị giáp Kị thì thê thảm hơn so với song Kị giáp; song Lộc giáp Lộc thì mạnh hơn so với song Lộc hội. Cung nào có song Lộc giáp Lộc thì tám thành là cung trọng điểm, cùng lý, xem cầu đầu cơ cổ phiếu (dgc: Phân biệt với đầu tư, đầu cơ nghĩa là muốn đánh nhanh rút gọn, chơi ngắn hạn thôi) đến khi song Kị dẫn động cung phúc thì phải coi chừng bị kẹt. Vấn đề định cung vị này phải dựa theo tác dụng hỗ tương giữa đặc tính tinh đẩu cùng tứ Hóa vởi cung vị mà quyết định. Ngàn vạn cẩn thận, bẳng không canh chỗ này ra chỗ nọ thì chẳng hay lắm. (dgc: Đây dùng thành ngữ, dịch sát nghĩa là “bằng không chẳng vỗ trúng mông ngựa mà vỗ nhằm chân ngựa thì chẳng hay lắm” ấy bởi vì vỗ trúng mông ngựa thì ngựa chạy theo ý mình, vỗ nhằm chân ngựa thì bị ngựa đá.)

Ngoài ra quan niệm liên tục cũng ứng dụng trong lưu niên. Sau khi có phép định vị, tìm ra cung trọng điểm rồi, tiếp là luận những biến đổi (dgc: Nguyên tác “sự tiêu trưởng” hơi tối nghĩa) của cung trọng điểm thì dùng tứ Hóa (có khi không chỉ dùng tứ Hóa, mà lưu niên Lộc Tồn và Kình Đà đều cần suy xét) mà luận ra sự biểu hiện. Chẳng hạn hôm nay đi xa đến đất ngoài làm việc, định chỗ công việc ở tiên thiên di và lưu quan lộc, đến năm sau, xem tác dụng tứ Hóa của năm Giáp Tuất đối với cung cũ, như quả tam hợp Khoa Quyền Lộc thêm song Lộc giáp năm sau tác dụng là có cơ hội thăng tiến, lại có cơ hội tăng lương. Các năm khác cũng y thứ tự mà đoán. Nếu là việc làm lâu dài, thì xét tác dụng của đại hạn tứ Hóa và tứ hóa của đại hạn sau, từ đó có thể quyết định quá trình và tính được thua của công việc.

Sau hết, một khái niệm tương đối kỳ quái gọi là “duyên khởi duyên diệt” là phương pháp được dùng để định khi một sự kiện phát sinh và kết thúc. Phương pháp này đòi hỏi người xử dụng vận dụng tứ Hóa rất thuần thục, quý học giả có thể tham khảo các tác phẩm lớn của ông Tử Vân như “Tử Vi luận cầu tài” v.v... Đương nhiên có lúc chẳng phải chỉ tác dụng của tứ Hóa mà tác dụng tam hợp cũng có hiệu quả. Tóm lại, đây là một biến thể của kỹ thuật vận dụng tứ Hóa và cung vị.

Ở trên đã trình bày đại lược cách đoán Tử Vi. Vì thực tế khi gặp lá số thì thiên biến vạn hóa, thành thử quý học giả nên nắm vững tính chất các sao, tứ Hóa, biến hoán cung vị v.v… thì có thể dần dần có tâm đắc. Ngoài ra lúc thường cố đoán thêm nhiều lá số của những người mình đã quen thuộc, vì như vậy rất có lợi cho việc hiểu rõ đặc tính các sao. Nếu đoán chuyện đặc thù thì nên trở lại lãnh ngộ những tác phẩm lớn của ông Tử Vân, các sách “Tử Vi luận cầu tài”, “Tử Vi luận hôn nhân”, “Tử Vi luận quan lộc”, cùng “Tử Vi luận điền trạch”. Phương pháp trong những sách này nói chung là những điểm mà người viết đã trình bày ở trên đây.

TẠM HẾT
Nguồn:Tử Vi Lý Số: Cơ sở cách xem của phái Tử Vân



Cách luận Tuần Triệt
HỎI: Ông bảo ông đã nghiên cứu Tử Vi nhiều năm, vậy ông đã tìm ra một phương pháp khoa học để luận Tuần Triệt hay chưa? Chia sẻ được chăng?
ĐÁP: Như tôi đã trình bày ngay khi vào đề từ mấy bài trước là về Tuần Triệt hiện tôi có nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Thế nhưng, việc xem số không thể chờ đợi đến khi mọi câu hỏi đều được trả lời thỏa đáng, nên tôi phải buộc lòng dựa vào kinh nghiệm và tư duy cá nhân suy diễn thêm để trám vào những lỗ hổng của cái lý khoa học. Hiển nhiên những điều mà tôi gọi là suy diễn chưa thỏa đòi hỏi của lô gích theo ý tôi mong muốn. Chúng có thể đúng mà cũng có thể sai, hy vọng rồi thời gian sẽ sớm trả lời.
Biết rằng khoa học là một diễn trình tiệm tiến, tôi mong mỏi những vị khác sẽ sửa sai hoặc đắp bồi thêm vào những suy luận của tôi để một ngày nào đó ở tương lai Tuần Triệt trở thành kiến thức thông dụng thay vì vẫn là một bí mật của Tử Vi như hiện tại.
Về việc chia sẻ, tôi chẳng có gì để mà dấu nghề. Hy vọng của tôi là sau khi đọc sách này độc giả sẽ biết tất cả những gì tôi biết, tức là cộng với những kiến thức có sẵn thì các độc giả chăm đọc sẽ hiểu biết khoa Tử Vi hơn tôi (và trong số đó biết đâu có người có phát kiến mới, lại viết sách cho tôi có dịp học hỏi!) Phải như thế mới mong Tử Vi mãi mãi tiến bộ như các ngành khoa học khác.
HỎI: Khi xem Tuần Triệt ông xét yếu tố nào đầu tiên?
Đầu tiên tôi xem Tuần Triệt đóng ở cung nào. Tuần Triệt có tính “bất thường” nên tôi dựa một phần vào sách cổ mà suy diễn ra rằng chúng án cung nào khiến cá tính của cung đó có tính “bất thường”; ta có thể tùy cá tính của cung mà suy ra phần nào ảnh hưởng bất thường đó.
“Cá tính” đây ám chỉ, mệnh, phụ mẫu, phúc đức v.v… Như Tuần Triệt cư mệnh thì chính bản thân ta có sự bất thường. Cư các cung người còn lại, gồm “huynh đệ, phụ mẫu, phúc đức, nô bộc, phu thê, tử tức” luận tương tự, tức là đều “bất thường” cả. Chẳng hạn như Tuần Triệt cư huynh đệ thì hoặc anh em của ta có người bất thường, hoặc liên hệ giữa ta với anh em của ta có sự bất thường; Tuần Triệt cư phụ mẫu thì cha mẹ ta có sự bất thường, hoặc liên hệ giữa ta và cha mẹ ta có sự bất thường v.v… Còn lại các cung điền quan di tật tài cũng cứ dùng lý “bất thường” mà luận.
Bất thường đây không nhất thiết là có nghĩa xấu, mà chỉ có nghĩa là có một hoặc nhiều sự phát triển (hoặc thiếu phát triển) lạ lùng nào đó khác với thường tình. Như thường tình của đời hiện đại là một vợ một chồng, có ly dị cũng một hai lần mà thôi; nên người không bao giờ lập gia đình hoặc người thay vợ đổi chồng như cơm bữa đều có thể ứng với Tuần Triệt án ở phu thê. Lại như người rất ít bệnh hoặc bệnh tật triền miên đều có thể ứng với Tuần hoặc Triệt án ở cung tật ách. (Chú ý: Cách xem này là kết quả suy diễn của tôi, có khác với sách vở. Nếu độc giả cho rằng có thể đúng cũng đừng vội vàng áp dụng mà hãy chứng nghiệm trước đã.)
Còn chi tiết của sự bất thường là gì thì thực hành thường dễ hơn giải thích. Luật chung là phải dựa vào mệnh thân phúc v.v… để có một hình ảnh khái quát về lá số trước đã, khi xem vào chi tiết thì sự bất thường sẽ tự lộ ra.
Đại hạn cũng thế. Tôi cho rằng đại hạn hễ có Tuần Triệt là có sự bất thường cái đã, mọi chuyện khác tính sau.
HỎI: Nghĩa là mặc dù theo ông tuổi già ảnh hưởng của Triệt không đáng kể nữa, nếu vào đại hạn Triệt vẫn có sự “bất thường”?
ĐÁP: Chính thế! Ấy bởi vì tôi suy diễn thế này: Tuần Triệt là hai loại ảnh hưởng trong cung (như hai loại động đất có tác dụng tương tự dù sự hiển thị và cường độ khác nhau). Tuần thì tương đối dễ hiểu rồi, vì ta đều có thể công nhận là nó có tác dụng trọn đời. Về Triệt, hãy thử tưởng tượng một trận động đất có cường độ trên 7, khi hết động đất rồi ta có dám nói là hoàn cảnh trở lại bình thường hay không? Tôi nghĩ là không. Vào đại hạn có Triệt ở tuổi già cũng như đến một nơi đã từng trải qua một trận động đất kinh khủng, cảnh tàn phá chết chóc tất nhiên khiến người ta phải chấn động. Đó là chưa kể trong cảnh hỗn mang như vậy mọi trật tự và giá trị đều bị đảo lộn, ai dám chắc là người mới tới không bị nó ảnh hưởng?
Với người quyền biến cảnh hỗn mang có thể là tai họa rủi ro mà cũng có thể là cơ hội ngàn vàng, họa phúc khó lường. Nhưng với người tuổi già sức yếu tôi e trong tám chín mươi phần trăm trường hợp gặp cảnh hỗn mang chỉ chuốc lấy họa mà thôi. Bởi vậy theo cách xem của tôi người già đến hạn Tuần Triệt phải hết sức cẩn mật đề phòng. Nhất là mệnh hạn gặp cảnh “Triệt Tuần tháo gỡ”, bởi “tháo gỡ” đây cũng có thể là tháo gỡ khỏi nợ đời, cho hồn phách tự do chu du về nơi tiên cảnh.
Còn người chưa cao tuổi mà công danh lận đận, cơm áo ngược xuôi, theo tôi đừng vội thấy đại hạn đến Tuần Triệt mà sợ hãi như các sách cổ đã ghi. Nhiều khi đây là thời điểm đổi thay, là khúc quanh dẫn đến sự huy hoàng ở tương lai đó.
Dĩ nhiên đây chỉ là yếu tố thêm vào mà thôi. Vận không thể quá mệnh, nên phải xem cách cục nguyên thủy ra sao, lại phải phối hợp với cách cục của cung đại hạn rồi hãy luận hạn Tuần Triệt là tốt hay xấu.
HỎI: Rốt ráo thì vấn đề vẫn là xác định cung có Tuần Triệt tốt hay xấu. Đây là điểm rất lờ mờ của Tử Vi, các sách không nói rõ. Ông có phương pháp suy luận nào rõ nét chăng?
ĐÁP: Cách xem Tuần Triệt của tôi dựa nhiều vào suy diễn cá nhân nên hai chữ “phương pháp” không dám nhận.
Như đã trình bày nhiều lần, luật chung mà tôi áp dụng cho cung bị chính Tuần án ngữ là uy lực của các sao bị giảm 50%, chính Triệt 80-90%. Phụ Tuần phụ Triệt tôi sẽ bàn sau; tạm thời khi tôi nói Tuần tôi ám chỉ “chính Tuần”, Triệt ám chỉ “chính Triệt”.
Tuần làm giảm 50%, nghĩa là tính chất tốt cũng như xấu của sao bị giảm nhưng vẫn còn phát huy được một phần nào. Tác dụng của Tuần lâu dài nên lý tính này không đổi (trừ trường hợp vào hạn Triệt như đã trình bày ở trên). Triệt làm giảm 80-90%, nghĩa là tính chất của sao bị đè nén không phát huy được, nhưng tác dụng của Triệt ngắn hạn nên sự đè nén này không có tính vĩnh viễn. Những điều này đã trình bày nhiều lần trong các bài trước, ở đây tôi chỉ nhắc lại để khỏi mất công lục tài liệu cũ.
Vì ảnh hưởng các sao bị giảm thiểu, Tuần và Triệt khiến cho tính chất của mọi cách cục đều bị thay đổi; nhưng không nhất thiết đảo lộn tốt thành xấu, xấu thành tốt… Vậy làm sao phân biệt xấu tốt? Xin thưa tôi chưa có câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi này trong mọi trường hợp. Tôi chỉ xin đề nghị vài điều, và ghi rõ độ khả tín của các điều này:
1.-Coi nhẹ ngũ hành:
Tôi cho rằng ta không nên dựa vào lý ngũ hành sinh khắc để luận tác dụng của Tuần Triệt trên các sao, bởi sẽ có khi đúng khi sai.
Lời đề nghị này khả tín, vì như trình bày trong bài trước, lý ngũ hành của các sao không phải là kết quả của một bài toán nhất quán mà mỗi nhóm sao được suy bằng một hệ thống lý luận khác nhau, nên không thể nhất luật áp dụng lý sinh khắc với Tuần Triệt mà suy ra tốt xấu cho mọi sao được.
Mà thiết nghĩ luật sinh khắc của ngũ hành không cần thiết, vì ta đã biết tác dụng tổng quát của Tuần Triệt trên các sao như tôi đã trình bày nhiều lần. (Trừ một vài ngoại lệ tôi sẽ bàn sau).

2.-Phân định hoàn cảnh của chính tinh ngộ Triệt:
Xem Tuần Triệt như hai loại động đất xảy ra ở trong cung, tôi phân biệt theo ảnh hưởng ra hai loại chính tinh: Năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng một nhóm, nhóm kia gồm 9 chính tinh còn lại.
Luận Âm Dương và Tử Phủ Tướng trước. Trong TVHTKH1 tôi gọi Tử Phủ Âm Dương là 4 đế tinh. Cách gọi này đã gây nhiều phản kháng; thực ra điểm chính tôi muốn nói là Tử Phủ Âm Dương có vai trò lãnh đạo nên khác với 10 sao còn lại. Điểm này hết sức quan trọng, hiểu nó rồi thì sẽ giải thích được tại sao Tử Phủ Âm Dương có những cách cục khác hẳn các sao khác.
Riêng sao Thiên Tướng có một vai trò rất lạ lùng trong Tử Vi. Như đã trình bày trong TVHTKH1, theo lý hình thành thì Thiên Tướng là sao yếu đuối nhất trong nhóm động (tức nhóm 8 sao Tử Phủ Vũ Tướng Sát Phá Liêm Tham), nhưng vì lý vận hành mà Tướng được vĩnh viễn tam hợp với Phủ, tạo thành cặp quý tinh Phủ Tướng. Có thể nói Tướng là một loại “nửa ông nửa thằng” (theo ý nghĩa tốt), chẳng thể kể là thuộc giai tầng lãnh đạo, nhưng lại được hưởng nhiều quy chế đặc biệt dành riêng cho cấp lãnh đạo.
Tuần Triệt như hai loại động đất. Tác dụng của chúng là giảm thiểu tín hiệu của các sao, nên các nhân vật lãnh đạo đang ở ngôi cao (tốt) tất bị sụt xuống thấp (bớt tốt), các nhân vật đang ở chức quá thấp so với khả năng (xấu) có thể được trung ương cứu xét để thăng lên chức gần với khả năng hơn (bớt xấu). Thế nhưng từ quan điểm chủ quan thông thường của giới lãnh đạo thì từ ngôi cao sụt xuống không phải là bớt tốt mà là xấu, tương tự đang ở chức quá thấp mà được cứu xét là có hy vọng lên chức gần hơn với khả năng của mình, nên không phải bớt xấu mà là tốt. Dùng lý tương ứng ta suy ra:
Tử Phủ Tướng không có hãm địa nên gặp Tuần Triệt ví như ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, gặp Tuần Triệt là hung hiểm (riêng Mão Dậu là hai cung yếu nhất của ba sao này thì lại có thể hưởng phúc của kẻ tu hành, như đã luận trong bài trước).
Âm Dương miếu vượng gặp Tuần Triệt ví như lãnh chúa ở ngôi cao sụt xuống ngôi thấp, hiểu lẽ tiến thủ thì vẫn hơn người; thế nhưng hiểu lẽ tiến thủ là ngoại lệ, nên đa số trường hợp là xấu.
Âm Dương hãm địa gặp Tuần Triệt ví như nhân tài đang ở vị trí quá thấp so với tài nghệ của mình bỗng được nâng lên một vị trí cao hơn (mặc dù vẫn là thấp so với tài nghệ). Rõ ràng là một tiến bộ, nhưng công tâm mà xét thì vẫn là chưa đạt hết tiềm năng. Bởi vậy Âm Dương hãm địa gặp Tuần Triệt là có cơ hội tốt để thành công, nhưng khó thành công lớn được.
Trường hợp Âm Dương cùng cung ở Sửu Mùi gọi là “đắc địa” vì lý do đặc biệt xin xem phần hỏi đáp.
Chín chính tinh còn lại tôi phân ra các sao vũ dũng, thư sinh, và làng nhàng. Vũ dũng có Liêm Vũ Sát Phá Tham, thư sinh có Cơ Lương, làng nhàng có Đồng Cự.
Vũ dũng gặp Tuần Triệt lý tính giảm đi, nhưng vẫn còn tàn tích, không hết hẳn được. Như Phá Quân chủ phá hoại, gặp Tuần Triệt khuynh hướng phá hoại giảm đi, có thể thành ra thích sửa đổi. Như Vũ Phá cư Hợi là hãm địa, ngộ chính Triệt ở đây không có nghĩa trở thành tốt, mà chỉ là đỡ xấu đi thôi. Lại như Tham Lang cư Tý gặp Kình là cách “phiếm thủy đào hoa”, thường lông bông lãng đãng thích trăng hoa; nếu sinh trong tuần từ Giáp Dần đến Quý Hợi tất ngộ Tuần, có thể nhờ vậy mà không tỏ ra lông bông lãng đãng hoặc trăng hoa, nhưng khuynh hướng này vẫn tồn tại ở mức thấp và phải được thể hiện ra ở đâu đó (chẳng hạn là văn sĩ hoặc diễn viên, sở trường diễn tả các vai lãng tử).
Thư sinh gặp Tuần Triệt thì thay đổi hoàn cảnh. Tốt thành xấu, xấu đỡ hơn, chưa tốt hẳn dễ thành ra tốt. Hai sao Cơ Lương thỏa tính “thư sinh” nên miếu vượng ngộ Tuần Triệt ví như học trò giỏi giang nhưng chẳng may thi rớt nên giảm hẳn nhuệ khí, biến thành ra xấu. Cơ Lương hãm gặp Tuần Triệt như học trò nghèo được nhờ hoàn cảnh đổi thay mà tìm được việc dạy kèm trẻ kiếm tiền dằn túi, hoặc như học trò dở nhưng may nhờ thang điểm đổi mà đậu vớt kỳ thi cuối khóa; tốt đấy, nhưng chẳng thể nói là huy hoàng. Riêng Cơ Tý Ngọ và Lương cư Sửu (cách “nhật nguyệt tịnh minh”) là các trường hợp thiên về tốt nhưng không rõ nét lắm thì ví như người học trò tự xem mình quá thấp, cứ làm những việc lận cận đâu đâu; gặp Tuần Triệt ví như may nhờ gặp biến cố mà vỡ lẽ ra. Vỡ lẽ ra rồi thì chuyên tâm học tập thành tài, nên dễ tốt vậy.
Sao làng nhàng thì gặp Tuần Triệt chẳng hại gì, lại thường có lợi. Bởi thế chẳng sách nào nói Đồng sợ Triệt Tuần, các sách lại hay nói đến cách to là “thạch trung ẩn ngọc”, tức Cự Môn Tý Ngọ đắc Triệt Tuần.
3.-
Định hoàn cảnh chung của các sao ngộ Tuần Triệt:

Tuần Triệt không làm các sao biến mất, chúng vẫn tồn tại trong cung, nhưng thể hiện ra ở một mặt khác.
Chẳng hạn trường hợp mệnh vô chính diệu, lại gặp hung tinh khắc mệnh rất nguy hiểm. Sách viết là cần có Triệt án ngay cung để hóa giải. Ảnh hưởng hóa giải của Triệt trong trường hợp này dĩ nhiên có, nhưng đồng thời cần ghi nhận rằng hung tinh ấy vẫn hiện hữu trong cung. Đây hung tinh ngộ Triệt ví như gã ăn cướp bị giam lỏng; có thể là mối họa của ta sau này (nhưng cũng có thể là thiện duyên, nếu ta ra công cải hóa được gã ăn cướp ấy về đường chính đạo). Bởi vậy cung có hung tinh khắc mệnh ngộ Triệt khác với cung trống ngộ Triệt. Ngược lại, cũng mệnh vô chính diệu, nhưng có quý tinh Khôi hoặc Việt thủ ngộ Triệt (can Canh hoặc Nhâm) thì ví như quý nhân bị hãm hại ngay trong nhà của ta, xấu hơn hẳn trường hợp cung trống ngộ Triệt. Xin nhớ đây chỉ là đề nghị của tôi, không dám nói là hoàn toàn khả tín, nhưng thiết nghĩ có phần nào cơ sở.
Phối hợp ba luật này với những gì đã biết về cách cục, thêm sự hiểu biết rằng khi cung gặp Tuần Triệt thì ảnh hưởng của tam phương tứ chính mạnh hẳn lên, tôi nghĩ rằng hai người khác nhau có thể luận ra cùng kết quả về ảnh hưởng tốt xấu của các cung trong đa số trường hợp. Thiểu số trường hợp còn lại thì mỗi người một ý, nhưng đó là hiện trạng của Tuần Triệt; khi có thêm đột phá thì tỷ lệ các trường hợp đồng thuận sẽ tăng lên theo.
Đó là mới nói chính Tuần, chính Triệt. Phụ Tuần và phụ Triệt tôi chỉ coi là yếu tố “giọt nước tràn ly”. Cách xem của tôi là trước hết bỏ Tuần Triệt ra không tính, sau khi định cách cục tốt xấu rồi thì cân lượng xem độ tốt xấu bao nhiêu. Nếu rất tốt thì giảm tốt đi (nhưng vẫn tốt), hơi tốt hoặc thành trung tính hoặc hơi xấu; trường hợp rất xấu và hơi xấu ngược lại; trung tính thì không có ảnh hưởng.
Theo cách xem này, khác biệt quan trọng giữa chính Triệt Tuần và phụ Triệt Tuần là chuyện xấu thành tốt tốt thành xấu xảy ra rất thường khi năm sao Âm Dương Tử Phủ Tướng gặp chính Tuần chính Triệt, nhưng rất hiếm khi chúng gặp phụ Tuần phụ Triệt.


Vài cộng hưởng
đặc biệt của Tuần Triệt
HỎI: Có sao nào là ngoại lệ của Tuần Triệt hay chăng? Rõ ràng hơn, có sao nào bị Tuần Triệt ảnh hưởng nặng nề hơn bình thường hoặc nhẹ hơn bình thường hay chăng?
ĐÁP: Trước khi trả lời câu này, cần nói rõ là –theo tôi- những trường hợp gọi là “ngoại lệ” của Tuần Triệt là vấn đề của ngôn từ hơn là hiện tượng.
Ta có thói quen gọi mọi thứ được an trên lá số Tử Vi là “sao”; nhưng theo suy luận của tôi Tuần Triệt không phải là sao, mà là hai ảnh hưởng trong các cung chúng đóng.
Ngoài Tuần Triệt ra, theo tôi vòng Thái Tuế và tứ Hóa cũng không phải là sao.
Vòng Thái Tuế chỉ giản dị là 12 phương vị phản ảnh tính thiên văn được áp đặt lên địa bàn nhờ có tính phù hợp tình cờ. Vai trò của vòng Thái Tuế ví như 12 bảng chỉ phương hướng, cho ta biết cung nào được hưởng địa lợi, cung nào phải đấu tranh, cung nào chậm trễ, cung nào dễ lỗ lã v.v… Tóm lại, vòng Thái Tuế đánh dấu đặc tính của các cung.
Vòng Thái Tuế dĩ nhiên ứng với đơn vị năm nên tôi cho rằng vòng này chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của Tuần vì Tuần ứng với đơn vị năm. Nhưng không phải là Tuần làm giảm ảnh hưởng của vòng Thái Tuế mà là Tuần và vòng Thái Tuế cộng hưởng với nhau. Từ cộng hưởng này không thôi ta đã có thể làm vài dự trắc. Chẳng hạn gặp trường hợp Bạch Hổ ngộ chính Tuần, ta phối hợp tính đấu tranh quyết liệt của Bạch Hổ với ảnh hưởng giảm thiểu của Tuần, đoán được là xác xuất thành công thấp hơn bình thường, bởi kẻ quyết liệt muốn thành công thì phải mong đợi vào biến chuyển cực đoan, nhưng gặp Tuần thì các yếu tố cực đoan trong cung đã bị giảm thiểu.
Có người sẽ bảo cách xem này chẳng có gì lạ, vì cho rằng Tuần giảm tác dụng của Thái Tuế cũng ra kết quả tương tự. Điểm khác ở đây là ảnh hưởng của Triệt. Như đã trình bày ở trên, Triệt giảm 80-90% tác dụng của các sao; nhưng vì nó ứng với tháng nên không có ảnh hưởng đáng kể gì với lý tính của các sao trong vòng Thái Tuế.
Tôi biết có người sẽ nói rằng cách Bạch Hổ ngộ Triệt rõ ràng là bị phá cách. Thế nhưng tôi cho rằng đây chỉ là một sự lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng mà thôi. Rõ ràng hơn, nếu tôi gặp số cung mệnh có Bạch Hổ ngộ Triệt tôi vẫn đoán người ấy cá tính thích đấu tranh quyết liệt (tức là bản tính không đổi của Bạch Hổ), còn chuyện “phá cách” thì lý vẫn như trường hợp Tuần, chẳng phải là Bạch Hổ bị giảm tác dụng mà là các yếu tố cực đoan mà Bạch Hổ cần để chiến thắng đã bị Triệt phá hủy, nên Bạch Hổ khó đạt mục tiêu.
Có người sẽ hỏi nếu vòng Thái Tuế ứng với chi năm không bị Triệt ảnh hưởng thì tại sao Đào Mã Cái Sát là bốn sao tam hợp hành của chi năm lại chịu ảnh hưởng của cả Tuần lẫn Triệt. Tôi xin trả lời rằng Đào Mã Cái sát là kết quả phối hợp của chi năm với ngũ hành, vòng Thái Tuế thì không; đó là một khác biệt hết sức quan trọng.
Kế tiếp xin vắn tắt về tứ Hóa. Độc giả hẳn đã nghe những câu như “Kình Dương hóa Hình, Đà La hóa Kỵ”; tức là trong cảnh cực đoan Kình Dương sẽ biểu lộ tính “hình” (sát khí), còn Đà La biểu lộ tính “kỵ” (đố kỵ, ngăn trở v.v…) Theo tôi tứ Hóa ý nghĩa cũng tương tự như thế. Nói cách khác, tứ Hóa không phải là 4 sao mà là bốn trạng thái biến đổi của mà chính tinh và Xương Khúc Tả Hữu có thể trải qua. Như năm Giáp, ta biết hóa Lộc được cư trong cung có Liêm Trinh, hóa Lộc cung có Phá Quân, hóa Khoa cung có Vũ Khúc, hóa Kỵ cung có Thái Dương. Ấy bởi vì “năm Giáp Liêm Trinh hóa ra Lộc”. Tương tự, “Phá Quân hóa ra Quyền”, “Vũ Khúc hóa ra Khoa” , “Thái Dương hóa ra Kỵ”. Quan điểm này có thể lạ với làng Tử Vi Việt Nam, nhưng là cách nhìn tiêu chuẩn ở Đài Loan cũng như Hồng Kông trong hiện tại.
Chấp nhận như vậy thì sẽ thấy tứ Hóa không phải là bốn sao theo nghĩa bình thường, nên chẳng có lý do gì để chúng bị Tuần Triệt làm giảm ảnh hưởng.
Có người sẽ hỏi “Vậy tại sao cho rằng tứ Hóa bị Tuần Triệt ảnh hưởng có vẻ cho kết quả đúng trong nhiều trường hợp”. Tôi sẽ trả lời rằng đây lại là một trường hợp lầm lẫn giữa bản chất với hiện tượng. Hóa Lộc tượng mùa xuân, ta có câu tục ngữ “một con én không làm nổi mùa xuân”, nay giả như hoàn cảnh của cung bị Tuần Triệt án ngữ chẳng lấy gì làm đẹp (nhưng không đủ xấu để thỏa lý “tuyệt xứ phùng sinh”), thì một tính “Lộc” được chính tinh biến hóa ra làm sao đổi được tình trạng ấy? Cái lý cho Quyền, Khoa, Kỵ đại khái cũng thế.
Có người sẽ hỏi “Cho rằng tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng có công dụng gì trong việc xem số?” Tôi sẽ trả lời rằng cách này có công dụng trong nhiều trường hợp, trong đó có các trường hợp gọi là “tuyệt xứ phùng sinh” mà tôi sẽ trình bày trong tập 3 của sách này nếu tôi có duyên viết đến tập ấy. Nhưng hãy đưa một thí dụ dễ hiểu để thấy sự khác biệt giữa cách xem này với cách xem truyền thống. Giả như ta xem một lá số thấy rằng nếu tính hóa Lộc từ cung xung chiếu về thì tốt, nhưng cung xung ngộ Triệt. Nếu cho rằng hóa Lộc bị Triệt phá hủy (như truyền thống) thì phải luận là xấu, theo cách mà thôi đề nghị thì vẫn luận là tốt như thường.
Ngoài ra, còn có một điểm tưởng là không liên hệ đến tác dụng giữa Tuần Triệt và tứ Hóa nhưng theo tôi cần ghi nhận làm dữ kiện tham khảo. Như tôi đã trình bày nhiều lần trong loạt bài này, đa số các sách Tử Vi ở Đài Loan bây giờ không xem Tuần Triệt là quan trọng. Dĩ nhiên họ làm thế là từ kinh nghiệm. Làng Tử Vi Việt Nam càng lúc càng trọng Tuần Triệt, dĩ nhiên cũng vì kinh nghiệm. Hai bên cùng theo kinh nghiệm cả, tại sao một bên trọng một bên khinh Tuần Triệt?
Tôi cho rằng sở dĩ có hiện tượng này là vì Tử Vi Đài Loan trọng tứ Hóa hơn thần sát, Tử Vi Việt Nam (tối thiểu trong giai đoạn hiện tại) dĩ nhiên ngược lại. Từ đó suy ra có một lời giải giả định nhưng giải thích được tại sao cả hai bên đều đúng mặc dù cách xem khác nhau, đó là tứ Hóa không bị Tuần Triệt ảnh hưởng!

HỎI: Âm Dương Sửu Mùi ngộ Tuần (hoặc Triệt) hóa Kỵ được nhiều sách gọi là “kỳ cách”; có lý hay chăng?
ĐÁP: Tôi cho rằng khi truyền lại cách này, người xưa đã dấu một phần bí quyết. Ta thử tái khám phá bí quyết này xem sao.
Trước hết muốn có Kỵ đóng cùng Nhật Nguyệt ở Sửu Mùi thì chỉ có 4 trường hợp sau đây:
Sinh năm Giáp: Liêm hóa Lộc, Phá hóa Quyền, Vũ hóa Khoa, Nhật hóa Kỵ. Tức là song Lộc ở tật, Quyền ở tử, Khoa ở bào. Tín hiệu rõ nhất là quan gặp cặp song Hao hãm địa, ngoài ra không có cách cục gì đặc biệt.
Sinh năm Ất: Cơ hóa Lộc, Lương hóa Quyền, Tử hóa Khoa, Nguyệt hóa Kỵ. Tức là Lộc cư Phúc được Lộc Tồn ở tài xung chiếu, Quyền cư quan, Khoa cư Điền.
Sinh năm Tân: Cự hóa Lộc, Nhật hóa Quyền, Khúc hóa Khoa, Xương hóa Kỵ. Tức là song Lộc cư Phúc, mệnh đắc Khoa Quyền. Ngoài ra, muốn Xương Khúc cư cùng Nhật Nguyệt thì phải sinh giờ Mão hoặc Dậu, đều là thân cư thiên di vô chính diệu được song Lộc Khoa Quyền hội họp.
Sinh năm Kỷ: Vũ hóa Lộc, Tham hóa Quyền, Lương hóa Khoa, Khúc hóa Kỵ. Tức là Khoa cư quan, mệnh ngộ hoặc xung Kình đắc địa và giáp Quyền Lộc. Ngoài ra, cũng như trường hợp năm Tân, thân cư thiên di vô chính diệu, nhưng kém trường hợp năm Tân vì không được tam Hóa hội họp.
Có thể thấy rằng sinh năm Ất, Tân, Kỷ đều có điểm đặc biệt khác người, nhưng năm Giáp thì phải đặt câu hỏi, bởi cách cục không có gì đặc biệt, nếu không muốn nói là dưới trung bình.
Vậy ta tạm kết luận muốn thành cách phải sinh các năm Ất, Kỷ, Tân. Nhưng tại sao lại cần phải có thêm điều kiện là Tuần hoặc Triệt án ngữ? Thưa, vì Âm Dương như hai lãnh chúa, ở cùng nơi tất sinh xung đột. Tác dụng của Tuần Triệt là chiết giảm hoặc triệt tiêu sự xung đột đó. Xung đột giảm thiểu hoặc biến đi rồi các cách kể trên tự nhiên sẽ thành hình.
Có thể thấy rằng các cách trên tốt không phải vì Kỵ, mà vì những cộng hưởng đi đôi với Kỵ. Đó là lý do tại sao tôi cho rằng người xưa đã giữ lại “bí quyết” khi truyền cách này cho chúng ta.

HỎI: Còn Không Kiếp, Thiên Không cũng thường được coi là có tính không vong, gặp Tuần Triệt phải luận làm sao?
ĐÁP: Thiên Không luôn luôn chiếm một vị trí cố định trong vòng Thái Tuế (trước Thái Tuế một cung), nên lời giải của tôi y hệt như trường hợp vòng Thái Tuế ở trên (không bị Triệt ảnh hưởng, cộng hưởng với Tuần thay vì bị Tuần ảnh hưởng). Nhưng chú ý rằng Thiên Không luôn luôn ở vị trí phụ Triệt nên ảnh hưởng của Tuần ở đó không mạnh.
Còn cặp Không Kiếp vốn thỏa mọi điều kiện của sao nên muốn nhất quán tất nhiên phải cho rằng chúng bị Tuần giảm 50% dài hạn, Triệt giảm 80-90% ngắn hạn.
HỎI: Cuối cùng,
có người nói xem hạn phải thêm lưu Tuần lưu Triệt mới chính xác, đáng tin cậy chăng?

ĐÁP: Ly kỳ làm sao, mới vài ngày cách đây vấn đề này đã được đặt ra ở trên một mạng mệnh lý có uy tín. Phải chăng đây là một trong những diễn biến tưởng là tình cờ của cuộc đời mà thực ra đã được ông trời sắp xếp trước, vì khi bắt đầu viết loạt bài về Tuần Triệt hơn tháng trước tôi chẳng thể ngờ khá nhiều vấn đề tương tự lại được người khác đặt ra sau đó.
Trở lại câu hỏi. Khi xem hạn năm chúng ta lưu rất nhiều sao, như Tuế Tang Hổ Khốc Hư Lộc Kình Đà Thiên Mã. Tử Vi Đài Loan, Hồng Kông lưu thêm tứ Hóa (và nhiều người coi chúng quan trọng hơn hết). Đó đều là các sao thuộc đơn vị năm. Tuần mười năm chuyển động một lần, Triệt chuyển động một lần mỗi năm. Hiển nhiên có thể coi Triệt là sao năm, và nếu nghĩ rằng nó có tín hiệu mạnh thì lưu nó là hợp lý (chữ nếu ở đây rất quan trọng, xin xem thêm ý kiến riêng của tôi ở cuối). Nhưng đã lưu Triệt mà không lưu Tuần e không ổn. Thành thử đã lưu thì phải lưu cả hai sao.
Tử Vi Đài Loan có một điều tôi học được là họ phân ra “tầng ảnh hưởng” dựa theo khác biệt của đơn vị thời gian. Như cách cục nguyên thủy tất nhiên ảnh hưởng đại hạn, đại hạn tất nhiên ảnh hưởng niên hạn (tiểu hạn hoặc lưu niên, tùy phái), niên hạn tất nhiên ảnh hưởng nguyệt hạn, nguyệt hạn tất nhiên ảnh hưởng nhật hạn, nhật hạn tất nhiên ảnh hưởng thời hạn. Thế nhưng cách cục nguyên thủy chưa chắc có ảnh hưởng trên niên hạn, đại hạn chưa chắc có ảnh hưởng trên nguyệt hạn v.v… Theo quy luật đó, thêm lý giản dị của “dao cạo Occam” thì khi luận niên hạn, nguyệt hạn, thời hạn; nếu xét Tuần Triệt thì chỉ xét lưu Tuần, lưu Triệt mà thôi.
Chữ “nếu” ở đây rất quan trọng; thật tình là tôi chưa kiểm chứng đủ để định tầm quan trọng của lưu Tuần Triệt, do đó vì lý giản dị tôi đã luôn luôn lờ hẳn chúng đi cho khỏi rối trí.
HẾT


Lý “Triệt Tuần tháo gỡ”
HỎI: Một số phái, chẳng hạn phái Thiên Lương (chú 1), cho rằng mệnh Tuần Triệt đến hạn Triệt Tuần, hoặc thân Triệt (sau 30 tuổi), đến hạn Tuần thì có hiện tượng “Triệt Tuần tháo gỡ cho nhau” nên được đắc ý; thuyết này có cơ sở gì chăng?
ĐÁP: Xin gọi đây là thuyết “Triệt Tuần tháo gỡ” cho gọn. Vì ông Thiên Lương không giải thích lý do, tôi đoán thuyết này là kết quả chứng nghiệm của riêng ông sau khi xem nhiều lá số. Tình cờ làm sao, cách đây mấy ngày trên một mạng mệnh lý tôi thấy có người –cũng dựa theo chứng nghiệm cá nhân- cho rằng thuyết này không đúng.
Chứng nghiệm cho kết quả trái nghịch nhau là một vấn nạn lâu đời của mệnh lý nói chung và Tử Vi nói riêng. Vì những chứng nghiệm với kết quả trái nghịch cứ xảy ra hoài hoài, ta không thể lấy chúng làm tiêu chuẩn định giá các thuyết chống đối nhau; và cho đến khi có những kết quả thí nghiệm thỏa điều kiện bất định của khoa thống kê, ta vẫn chỉ có cách dùng lý luận để định xem thuyết nào có xác xuất đúng cao nhất. (Dĩ nhiên, vì đúng sai còn chưa ngã ngũ, việc xem số lại không thể chờ đợi được nên khi thực hành thì mỗi người cứ việc tin theo cách của mình, miễn là đừng vội khẳng định cách mình không theo chắc chắn sai.)
Rất tiếc là về mặt lý luận tôi vẫn chưa xác định được giá trị của thuyết “Triệt Tuần tháo gỡ”, chỉ có vài điểm xin trình bày sau đây, hy vọng sau này có người sửa sai hoặc khai triển để tiến dần đến câu trả lời tối hậu.
Như đã trình bày trong vài bài trước, Tuần và Triệt đều ứng với hai can Giáp Ất đi sau một chu kỳ đầy đủ của thiên can và vì vậy cùng mang tính ‘không vong’. Vì điểm tương đồng này, ta có quyền suy diễn rằng các cung bị Tuần Triệt án ngữ có lý tính tương tự, mặc dù không nhất thiết y hệt.
Chú ý rằng tính ‘không vong’ của 2 cung mà Tuần án ngữ chỉ là một hình ảnh tương đối khi ta so sánh chúng với 10 cung trong vòng thiên can mà thôi; nên khi còn ở trong vòng thiên can ta thấy cung có Tuần mang tính ‘không vong’, nhưng một khi ta vào một cung mang tính ‘không’ giống hoặc từa tựa như Tuần thì cảnh ‘không’ ấy đối với ta chính là cảnh thật mà ta gặp, nên không kể là ‘không’ nữa! Chẳng hạn Tuần ở Tí Sửu; khi hạn chuyển đến Tí Sửu là đã vào địa vực của hai cung ‘không’, thì hoàn cảnh của hai cung này chính là hoàn cảnh ‘thật’ mà ta gặp phải.
Hiện tượng này trong bốc phệ rất quen thuộc, gọi là “xuất không”, thường được áp dụng trong việc đoán ứng kỳ, tức là đoán thời gian mà quẻ có ứng nghiệm. Như gieo quẻ xin việc. Ngày gieo quẻ tính ra thấy Tí Sửu không vong (tức là ngộ Tuần), hào Tí lại động ứng với sự kiện là có việc làm, thì đoán là ngày Tí hoặc tháng Tí có việc; ấy bởi vì lúc gieo quẻ Tí đang ‘không vong’, nên gặp Tí là đã ‘xuất không’, tức là đã biến thành ‘thật’.
Trở lại khoa Tử Vi. Ta biết Tuần 10 năm chuyển động một lần, sau 60 năm về chỗ cũ, Triệt 1 năm chuyển động một lần, sau 60 tháng về chỗ cũ. Con số 60 là đại chu kỳ gồm đủ can chi, nên xét trên tiêu chuẩn thời gian mà thôi thì Tuần chi phối yếu tố năm, Triệt chi phối yếu tố tháng. Theo cách thành lập lá số Tử Vi thì năm đại biểu toàn thể 12 cung, mỗi tháng đại biểu 1 cung.
Thử xét trường hợp mệnh có Tuần, đại hạn gặp Triệt. Vì cung có Triệt hoàn cảnh tương tự như Tuần, về tính chất đây cũng giống như trường hợp đến hạn “xuất không”, nên tính ‘không vong’ của Tuần (vốn kéo dài cả đời và ứng với toàn thể 12 cung) tạm thời bị hóa giải ở 2 cung có Triệt. Ta có thể giải thích hiện tượng Triệt tháo gỡ cho Tuần như vậy; mặc dù xin thú nhận là tôi chưa bằng lòng với cách giải thích này cho lắm. Rất mong được quý vị cao nhân bốn phương góp ý thêm vào cho phần lập luận được vững chắc hơn.
Hiện tượng ngược lại, tức mệnh Triệt đại hạn gặp Tuần, thì cái lý chắc chắn phải khác, ấy bởi vì Tuần ứng với đơn vị thời gian dài hơn Triệt (Tuần ứng năm Triệt ứng tháng, Tuần cả đời Triệt một phần đời). Xin đưa thí dụ so sánh cho dễ hiểu. Như một người lập dị không hớt tóc đã nhiều tháng, câu hỏi “Tháng nào anh sẽ hớt tóc?” nghe hợp lý, nhưng nếu một người mới chỉ hơn tháng chưa hớt tóc câu hỏi “Năm nào anh sẽ hớt tóc?” lại nghe vô lý (lẽ ra phải hỏi “Ngày nào anh sẽ hớt tóc?”). Ví “không hớt tóc” với “không” và “hớt tóc” với “xuất không”, mệnh Triệt đại hạn gặp Tuần nếu nói là tương tự như “xuất không” thì vô lý. Chỉ có thể nói là Triệt Tuần tương tự nhau, nên mệnh Triệt gặp hạn Tuần thì nhờ sự tương tự của hoàn cảnh mà áp lực nguyên thủy của Triệt được giảm đi. Nhưng Tuần vốn tác dụng yếu hơn Triệt, nên mệnh Triệt nếu gặp đại hạn Tuần ở nửa đời đầu e độ giảm thiểu không đáng kể.
Chú ý rằng những hiện tượng “tháo gỡ” trên đây có nghĩa Triệt ở hạn làm giảm tác dụng của Tuần ở mệnh thân và ngược lại. Giả như mệnh nhờ Tuần mà tốt hoặc đỡ xấu, gặp hạn Triệt tất độ tốt giảm đi, cái xấu phục hồi. Tức là ảnh hưởng tháo gỡ không nhất luật là tốt, mà có khi xấu có khi tốt, phải dựa theo cách cục nguyên thủy cũng như cách cục của đại hạn mà đoán. Điểm này có khác với cái lý của ông Thiên Lương, vì ông cho rằng hễ có “tháo gỡ” nói chung là tốt. Rõ hơn ông Thiên Lương cho rằng mệnh Triệt gặp đại hạn Tuần, mệnh Tuần gặp đại hạn Triệt đều đắc ý cả (chú 1). Tôi lại cho rằng có khi xấu khi tốt.
Nhưng đã nói trên, tôi chưa bằng lòng lắm với cái lý “Triệt Tuần tháo gỡ” trên đây, về phần chứng nghiệm thì chưa đủ thỏa tiêu chuẩn thống kê nên cũng không thể nói là “đúng theo kinh nghiệm”; chỉ xin ghi rõ ý của mình ra để người sau có sẵn cái nền mà tùy nghi sửa sai bổ khuyết.

HỎI: Còn trường hợp Tuần Triệt cùng cung thì sao? Có người bảo chúng tháo gỡ cho nhau nên không còn ảnh hưởng gì nữa, có người bảo ảnh hưởng của chúng hội tụ mạnh gấp bội; ai đúng ai sai?
ĐÁP: Tuần Triệt muốn cùng cung chỉ có những trường hợp sau đây
Năm N.Hành Chính Tuần-Triệt N.Hành
Giáp Tuất Hỏa Thân (Điếu Khách) Kim
Ất Dậu Thủy Mùi (Điếu Khách) Mộc
Bính Thân Hỏa Thìn (Bạch Hổ) Thủy
Đinh Mùi Thủy Mão (Bạch Hổ) Kim
Mậu Ngọ Hỏa Tý (Tuế Phá) Kim
Kỷ Mão Thổ Dậu (Tuế Phá) Kim
Canh Dần Mộc Ngọ (Quan Phù) Mộc
Tân Sửu Thổ Tỵ (Quan Phù) Thủy
Nhâm Tý Mộc Dần (Tang Môn) Kim
Quý Hợi Thủy Sửu (Tang Môn) Kim
Chú ý rằng hai năm Thìn Tỵ không thể nào có Tuần Triệt cùng cung.
Tôi ghi những trường hợp trên ra chẳng có mục đích gì khác hơn là để chúng ta nắm vững những gì đã biết. Tôi làm vậy vì -một lần nữa- tôi chưa tìm ra lập luận nào có tính quy luật cho các trường hợp này. Tôi chỉ có những ý nghĩ rời, hy vọng sau này có người sửa sai hoặc tiếp tục khai triển cho đến khi tìm ra một đáp án thỏa tiêu chuẩn khoa học.
Tôi xin chép lại đoạn sau đây từ trang 52 sách “Tử Vi nghiệm lý – Lý mệnh học” của ông Thiên Lương (chú 1):
“Mệnh; thân bị cả Tuần lẫn Triệt, tức là không còn gì để tháo gỡ, ngay khi đến đại vận tam hợp tuổi, ảnh hưởng tốt đẹp cũng chỉ thỏa mãn 50% là tối đa”.
Tôi đồng ý với kết luận này của ông Thiên Lương vì nó phù hợp với cái lý cơ bản của Tuần Triệt mà tôi đã trình bày trong vài bài trước. Đại khái Tuần Triệt đều có tác dụng giảm uy lực các sao trong cung chúng án ngữ. Giả như chúng là hai sao thì nói sao này triệt tiêu tác dụng của sao kia khả dĩ chấp nhận được, đằng này chúng là hai ảnh hưởng trong cung, ví như hai loại động đất khác nhau, cộng lại sao có thể thành hư không?
Tóm lại, tôi cho rằng khi Tuần Triệt cùng cung thì không tháo gỡ cho nhau được, trái lại ảnh hưởng của chúng tiếp trợ cho nhau nên mạnh gấp bội.

Tử Vi Lý Số: Cơ sở cách xem của phái Tử Vân
Được cảm ơn bởi: tamlac
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Nhập quái Thái Tuế và Tứ Hóa


Trong tình trạng mê tín nặng nề của xã hội Việt Nam hiện nay, việc so tuổi để chọn vợ chồng, đối tác rất phổ biến. Thực tế thường quan niệm dựa vào địa chi tuổi, ví dụ tuổi Tý thì kiêng người tuổi Ngọ, tuổi Sửu tránh người tuổi Mùi. Cách này quá đơn giản, có nhiều sai lạc lớn. Chỉ lấy chi tuổi để so rất khó đúng, thực tế luôn tìm được ví dụ phản lại cách xem này. Các cặp vợ chồng ly hôn đâu phải do tuổi không hợp, ngược lại những trường hợp bất chấp tuổi mà lấy nhau lại thường chả làm sao.
Tử vi có những cách hiệu quả hơn, chi tiết hơn để xem xét mối quan hệ giữa hai người với nhau. Đó là phép nhập quái Thái tuế và Tứ Hóa, Lộc tồn.
Để xem một đối tượng có ảnh hưởng tới mình thế nào, thì đó phải là người thân cận với mình, có quan hệ qua lại với mình, hoặc sẽ thân cận với mình. Lấy cung có địa chi trùng với địa chi tuổi người đó để xem, ví dụ đối phương tuổi Tý thì xem ngay cung Tý trên lá số mình. Ngoài ra, dùng can năm sinh người đó để xem Tứ Hóa rơi vào cung nào, nếu rơi vào cung Mệnh, Thân của mình thì sẽ có ảnh hưởng rất mạnh. Ví dụ Mệnh mình có Liêm Trinh, lấy vợ chồng tuổi Giáp thì Liêm hóa Lộc, rất tốt, nếu gặp người tuổi Bính thì Liêm hóa Kỵ, rất xấu. Cách xem Thái tuế nhập quái và Tứ hóa này ứng nghiệm rất mạnh, có thể dùng cho vợ, chồng, con cái, những người quan hệ gần gũi. Kiểm tra những trường hợp vợ chồng, cha mẹ, con cái không hợp nhau thường thấy can năm sinh người này làm Mệnh Thân người kia hóa Kỵ hoặc ngược lại. Nếu mẹ có can năm sinh làm cung Thê của con trai hóa Kỵ thì chắc chắn sau này mẹ chồng con dâu bất hòa nặng nề, hoặc mẹ cản trở phá phách việc hôn nhân của con.
Để ví dụ, ta sẽ thử xem nhập quái lá số hai đối tượng nổi tiếng, đó là đại ca đuôi sam và tiểu đệ nhuộm răng ăn trầu.
Nếu chỉ so tuổi thì Dậu với Sửu ở trong tam hợp Kim cục hợp nhau rõ ràng. Kim là vũ khí, sát khí nên anh em giống nhau, yêu dao búa, khoái võ nghệ, sùng bái bạo lực. Đại ca Sửu là mộ Kim nên dao búa che lấp, giấu dao trong tay áo, ngôn từ chính thức là thao quang dưỡng hối, ẩn mình chờ thời, luôn rêu rao phát triển hòa bình, che giấu dã tâm. Đệ thì Dậu là Kim đế vượng, Kim thành vũ khí, dao búa sẵn sàng, hung hăng bọ xít, tự hào đứng giữa thiên hạ hô rằng đã đả bại cả loạt cao thủ, từ bọn Mông Lớn xưa kia đến Phú Lãng Sa rồi Tây độc Sâm ngày nay. Trong đó cay nhất là anh Sâm, vốn là thiên hạ đệ nhất võ lâm mà thi đấu với đệ thì các món độc chưởng cất hết ở nhà, bị thua đau đành ù té quyền ôm đầu máu chạy về.
Đại ca đến lúc dao búa lộ lên thì chưa biết thế nào nhưng trước đây thì chỉ thấy toàn thua, đến anh Đông tà Phù Tang lùn tịt cũng khiến đại ca ôm hận. Chỉ có mỗi Tưởng pháp sư là đại ca khoe thắng được, đuổi được ra đảo hoang. Nhưng nay đám lâu la họ Tưởng liên kết với anh Sâm ra mặt bất phục làm đại ca tức như chọc họng, thế nào rồi cũng đến lúc đánh nhau to!
Xem theo tuổi thì chỉ có thế, nhưng nhập quái Thái tuế, Tứ Hóa là ra nhiều vấn đề. Cung Sửu của đệ chỉ đại ca cũng là cung Mệnh, anh em đồng mệnh, thằng đệ bắt chước đại ca cứ răm rắp, con chấy cắn đôi, cấm có sai tý nào. Sửu đất bùn nên anh em đều có thời bị sa lầy nặng, khốn đốn không tả xiết. Cung Dậu đại ca chỉ thằng đệ có Đại hao, Dưỡng nên có thời tốn tiền nuôi em, có Bạch hổ cung Dậu đắc địa nên đệ này kiêu hùng, dao búa đắc cách, hăng tiết lên có lúc anh em đánh nhau thì đệ choảng cho ông anh ra trò. Tiểu đệ oai hùng từng khiến bọn lân bang sợ vỡ mật, vội họp nhau lập hội ASề mục đích ban đầu là giúp nhau để khỏi bị đệ ăn thịt !
Can Kỷ của đại ca làm Văn Khúc cung Thê thằng đệ hóa Kỵ, thế là việc “kết hôn”, giao hợp (giao lưu hội hợp) với các tổ chức của đệ thường bị đại ca làm khó, điển hình là việc gia nhập WTO, bị chậm nhiều năm do tin lời đại ca “tư vấn”. Ngoài ra phụ nữ của đệ vì đại ca mà bị buôn bán, bị hóa Kỵ rất nhiều. Điều đáng buồn này có nguyên nhân ngay trong lá số hai huynh đệ chứ chẳng đâu xa.
Ngược lại can Ất của đệ cũng làm Nguyệt cung Thê đại ca hóa Kỵ. Nhưng Nguyệt Hợi miếu địa hóa Kỵ vô ngại, chỉ có ý là tiểu đệ đố kỵ sắc đẹp của phụ nữ xứ đại ca, thèm mà không ăn được ! Có đẹp mới bị ghen, hóa Kỵ ở đây như áng mây vương cạnh mặt trăng sáng rực, chỉ càng khẳng định giá trị vẻ đẹp ấy mà thôi.
Can Ất của đệ làm Thiên Cơ cung Thân đại ca Hóa Lộc, thế là thương mại luôn chỉ lợi cho đại ca, cán cân hàng năm lệch hàng chục tỷ, tiểu đệ xót xa mà không làm thế nào được. Hàng hóa đại ca tràn ngập khắp nơi, người dân nào cũng dùng, muốn tránh cũng không được. Các dự án đấu thầu thì đại ca thường thắng lớn, đổ quân vào làm đầy rẫy chả cần đăng ký hỏi han ai, đó là giời xui trời đặt, không tránh đi đâu được. Tiểu đệ làm bản thân đại ca Hóa Lộc nên cứ phải hai tay kính cẩn bưng xôi gà dâng lên mời ông xơi ! Đại ca vốn tính phàm ăn, xơi tuốt, thế là gái chúng mày vì tao mà hóa Kỵ, ô nhục khốn khổ, cơm chúng mày phải dâng tao xơi, trời sinh chúng mày để lợi tao, tao mặc sức hưởng. Điều kỳ lạ nữa là Thiên Cơ chỉ máy móc, cơ trời, mình khiến máy móc người ta hóa Lộc nên ngay đồ điện tử chính hãng cũng toàn hàng “made in đuôi sam”, nói gì đến máy móc trong công xưởng do đại ca thi công. Cơ trời hóa Lộc thì đại ca yên chí hưởng lộc dài dài, sướng không tả nổi!
Như vậy nếu chỉ xét địa chi tuổi thì anh em rõ là hợp nhau chí thú thắm thiết, còn xét Tứ Hóa nhập số mới thấy anh lợi nhiều quá mà em thiệt đủ điều, đã nghèo khó mà trời lại không thương, thân cò bắt ốc cho cốc nó xơi!
Xem thêm tới huynh đệ Tiểu Hàn phía Đông đại ca thì can Kỷ làm Văn Khúc cung Nô hóa Kỵ nên vì được đại ca chống lưng mà đám hàng xóm, đối tác liên quan của đệ này khó khăn trở ngại, chưa biết bao giờ mới giải hết mâu thuẫn thù địch. Nhập quái vào lá số đại ca thì cung Tý có Hóa kỵ, đệ này nghèo khó khốn nạn là phải. Từ đó thấy rằng đại ca không lợi cho mấy thằng đệ như vai anh cả lẽ ra phải làm. Luận thêm cái này chỉ tổ tốn chữ mà không hết ý!
Như vậy sự ứng dụng nhập quái Thái tuế và Tứ Hóa cho nhiều thông tin ý nghĩa hơn hẳn chỉ so tuổi, cũng có thể nói chỉ so tuổi để kết luận có hợp hay không là thiếu sót lớn. Kết luận: nếu thấy đối tượng mình định hợp tác, yêu đương mà nhập quái không lợi thì có thể kết thúc ngay, dù tuổi ấy có hợp tuổi mình đến đâu đi nữa. Chỉ e do duyên nghiệp mà muốn dứt chả được, đành ngửa mặt than trời số thế, biết làm sao!

Nhập quái Thái Tuế và Tứ Hóa « Nghiên cứu dịch lý
Được cảm ơn bởi: tamlac
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Xem đại tiểu hạn

Xem đại hạn Cung là hoàn cảnh nuôi bản Mệnh Khi xem thi sự sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh quan trọng hơn chính tinh nhập hạn có hợp hay không (chỉ ảnh hưởng 30%) Sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh: Đồng hành thì ăn 100% Sinh nhập thì được hoàn cảnh nuôi dưỡng, ăn 90% Sinh xuất thì vất vả, phải chạy theo hoàn cảnh, nuôi dưỡng hoàn cảnh (ăn 60%) Khắc xuất thì tuy chống đối hoàn cảnh nhưng vẫn vượt qua được (ăn 30%) Khắc nhập thì bị hoàn cảnh chống đối không cho hoạt động (không ăn gì cả 0%) Ngoài ra nếu trên 37 tuổi thì xét thêm tương quan giữa hành cung và hành Cục để biết thêm hoàn cảnh có tốt hay không Chú ý: hành của cung tính toán trên hai cơ sở kết hợp: hành chính cung và hành tam hợp cục (ví dụ cung Tí hành Thủy vì chính cung là Tí hành Thủy, tam hợp Thân Tí Thìn hành Thủy, còn cung Sửu thuộc Thổ đới Kim vì cung Sửu hành Thổ, tam hợp Tỵ Dậu Sửu hành Kim. Như vậy cung Tỵ là Hỏa đới Kim, nếu Mệnh Hỏa thì ăn 70%, Mệnh Kim thì ăn 30%, cung Ngọ hành Hỏa, Mệnh Hỏa ăn 100%) Chính tinh đắc địa nhập hạn quan trọng hơn chính tinh hợp Mệnh. Đắc mà không hợp Mệnh thì cũng hơn hãm mà hợp Mệnh Đắc nếu hợp Mệnh thì ăn 100%, nếu không hợp thì cũng còn ăn 40% Hãm và không hợp Mệnh thì không ăn, nếu hãm mà đồng hành thì cũng ăn vì là của mình Hạn gặp Thiên Không thủ thì không thể làm gì (đổ vỡ) Người chính diệu đi vào hạn VCD thì lao đao ít hơn người VCD đi vào hạn VCD Người VCD đi vào hạn có hung tinh đắc địa độc thủ thì phát. Gặp Không Kiếp Tỵ Hợi người tuổi Tỵ Hợi thì phát mạnh, nếu Mệnh Kim thì càng ăn mạnh Xem tiểu hạn Đại hạn tốt nếu tiểu hạn có xấu cũng hưởng 50% Xem tiểu hạn khi xét sao thì chỉ quan trọng sao thủ trong cung Các sao chiếu phải là sao đôi (như Khôi Việt, Quang Quí) Sao chính chiếu quan trọng. Sao tam hợp không quan trọng Cung nếu có Tuần, Triệt thì chiếu mạnh hơn (Triệt: câu vào, Tuần: đẩy ra), nhất là cung Vô Chính Diệu, nếu không có Tuần Triệt thì chiếu ăn 30% Cung tiểu hạn là cung lưu Mệnh Mệnh rơi vào cung nào thì cung đó quan trọng, dính dáng đến cung đó (ví dụ tại Tử Tức thì vấn đề con cái quan trọng) Lưu niên đại hạn cũng quan trọng Xem thêm cung có sao lưu Thái Tuế (ví dụ vào Phu Thê thì vợ chồng bất hòa? vào Điền Tài thì tranh chấp về Tài Sản? vào cung Tử thì đẻ con, khai sinh?) Cần xem sinh khắc giữa hành cung và hành Mệnh để xét hoàn cảnh có nuôi dưỡng mình không?

Cần xét thêm sinh khắc giữa hành năm nhập hạn và hành Mệnh để biết tăng độ số hoặc giảm độ số (thêm hanh thông hoặc thêm trắc trở)

Trên 37 tuổi còn xét tương quan giữa hành Cục và hành sao tại cung Thân Vấn đề an sao: Tuổi Canh luôn có Tam Hóa liên châu nghĩa là an Khoa với Thiên Đồng, Kỵ với Thái Âm Kình Dương và Lực Sĩ luôn luôn đồng cung Linh tinh Âm Dương hãm gặp Hóa Kỵ đồng cung thì lại trở thành tốt (Vân ám tường vân), Âm Dương sáng sủa gặp Kỵ thì lại xấu Mệnh giáp Âm Dương thì không tốt, cho dù Âm Dương sáng sủa (chủ về vợ chồng xa cách, biệt ly....) vì rơi vào thế Âm Dương cách trở Âm Dương, Khôi Việt, Hồng Đào...cần chiếu hơn thủ Song Hao đắc địa tại Tí Ngọ, Mão Dậu (thủy triều lên xuống), đóng tại Mệnh, Quan, Di thì hợp Đại Hao hành Hỏa, đóng tại Mão và Ngọ tốt (tiền vào như nước) Tiểu Hao hành Thủy, đóng tại Dậu và Tí thì tốt Đóng ngược lại thì lại không tốt Tuổi Tỵ Hợi thì Không Kiếp, Liêm Tham không luận Kỵ gặp Tử Phủ Vũ Tướng bình hòa hoặc hãm địa, Âm Dương hãm địa

Tiểu hạn là năm tam hợp với tuổi thông thường thì đàn bà tốt, đàn ông xấu, nếu là năm xung thì đàn bà xấu, đàn ông tốt (nhưng gặp xấu trước rồi mới tốt)

Vào năm xung lấy nhau thường dễ gặp khó khăn. Vào Năm tam hợp nếu gặp Đào Hồng Hỉ hoặc Tả Hữu Âm Dương đúng thế thì dễ lấy

Bộ Thiên Không -Đào Hoa đồng cung: chủ họa đến bất ngờ, nhanh chóng

Ví dụ: tại Di thì ra đi bất ngờ, làm gì cũng bất ngờ, tại Tật Ách thì chết bất đắc kỳ tử, chết vì đau tim bất ngờ, tại Điền thì mất nhà cửa bất ngờ, tại Tài thì vỡ nợ, bị giật tiền...., tại Quan Lộc thì quan trường gãy đổ bất ngờ, tại Tử Tức thì con cái chết bất ngờ tuổi thanh xuân, tại Nô thì vợ chồng chia tay bất ngờ, tại Huynh Đệ thì có anh chị em chết bất ngờ. Hạn gặp Không Đào thì xui xẻo tới bất ngờ, ví dụ như Không -Đào tại Nô thì đề phòng chồng chết bất ngờ vì tim mạch, bạn bè chơi với nhau không bền....

Một điểm đặc biệt khi coi phu thê là cung phu thê chỉ cho ta coi hoàn cảnh khi gặp gỡ, còn khi sống chung đã thành lập gia đình thì phải coi cung Nô làm quan trọng hơn. Ví dụ như Nữ Mệnh có Đào Hoa Đế Vượng cư Nô thì chồng bay bướm... Coi ly dị khi vợ chồng đã có con thì coi cung Nô, ví dụ như Âm Dương lạc hãm cách cung và chiếu Nô thì hai đời....

Đào Hoa- Thiên Không đồng cung: hoa rơi
Đào Hoa -Địa Kiếp đồng cung: hoa héo

Âm Dương lạc hãm thì dễ bị lừa do thiếu sáng suốt, nhất là tại Thìn Tuất, và hơn nữa nếu Mệnh đóng tại Thìn Tuất
Âm Dương đồng cung: vợ chồng tranh quyền nhau, hạn đến thì sẽ có chuyện tranh chấp giữa vợ chồng khiến dễ đưa đến chia ly, nếu chưa có gia đình thì không thể lập gia đình trong giai đoạn này được
Âm Dương cách cung (như Nhật tại Dần, Nguyệt tại Tí) thì vợ chồng chia ly, hoặc ít gần nhau (do công vụ....)
Âm Dương Thìn Tuất lạc hãm: tuy vợ chồng cãi nhau nhưng khó bỏ nhau
Âm Dương lạc hãm chiếu hạn thì cần đề phòng bệnh về mắt (mắt đau, mắt bị mổ)

Nhật Nguyệt tranh huy ngộ Kỵ thì không tốt

Giải thế Âm Dương cách trở thì là Tam Hóa Liên châu cư ngoại địa....
Mệnh nhị hợp cung nào thì thường bận tâm lo lắng (khổ) về điều đó, mang nặng nợ về một điều gì đó
Mệnh nhị hợp Tử Tức thì lo lắng về con cái, khổ vì con cái hoặc mặc cảm trên vấn đề con cái (như không có con...)
Mệnh nhị hợp Huynh đệ thì khổ về anh em. Có Tuần nối thì anh chị em xa thì thương nhau, gần lại không hợp....
Mệnh nhị hợp Nô thì trẻ có bạn nhiều, hay chơi với bạn....
Nhị hợp với Phụ Mẫu thì con cái quan tâm cha mẹ, hoặc cha mẹ quan tâm đến con cái
Nữ Mệnh Thân nhị hợp với Phụ Mẫu thì gắn bó với cha mẹ chồng

Cung VCD

Phụ mẫu VCD thì cha mẹ thường sống lâu (xem thêm Nhật, Nguyệt)
Tật Ách VCD thì ít bệnh tật

Tam hóa liên châu cư ngoại địa, phúc tất trùng lai (không tai họa trong đời, đời ít tai họa, bệnh tật, tù tội)
Hóa Lộc tại Tứ Mộ thì Lộc bị chôn vùi, do đó chủ về phúc hơn là chủ về tiền tài
Lộc Tồn Hóa Lộc đồng cung không tốt, chủ về họa đến bất ngờ do tiền tài gây ra
Lộc Tồn mang tính chất tồn đọng, chưa hẳn là tốt (như tại Tử thì chậm con, ít con, tại Phu Thê thì vợ chồng bất hòa, chiếu tốt hơn thủ (thủ bị giáp Kình Đà), hạn VCD có Lộc Tồn thủ thường không tốt
Lộc Tồn thủ Mệnh thì cố chấp, độc đoán, gia trưởng, làm theo ý mình không hỏi người khác, cô đơn....
Cự Môn chủ về bất đắc chí, bất mãn, thêm Phá Toái thì càng bất mãn, cần có Tuần, Triệt, Song Hao, Thiên Hình...đồng cung. Cư Thiên Di thì hay nói, hay bất mãn, không bằng lòng, không nên ra nước ngoài dễ bất mãn...Quan Lộc có Cự Môn gặp Triệt thì làm việc lớn được, việc nhỏ không được, làm trong lúc loạn ly biến động thì rất giỏi, làm thẳng thì không được nhưng làm quanh co,lắc léo, khó khăn thì lại được.Tử Tức có Cự Môn thì bất mãn về con cái
Mệnh hay Tử Tức có Quả Tú thì thường là con một bề (hoặc toàn là trai, hoặc toàn là gái)
Tam hợp chiếu tại cung VCD thì phải tại Tứ Mộ mới ăn, tại các cung khác thì lấy xung chiếu

Khốc Hư Tí Ngọ, Nữ Mệnh thì tính tình mau mắn, nhanh lẹ, nói nhiều
Mệnh Khốc Hư Tí Ngọ Mão Dậu thì nói mau lẹ, làm mau lẹ, đời gặp may mắn
Khoa gặp Khốc Hư thì học hành nhanh
Khốc Hư hãm tại Tật thì bị ho, ho lao
Hư tại Mệnh thì hay ho, mắc bệnh phổi

Thân cư cung nào thi cuộc sống gắn liền với cung đó

Ví dụ Thân cư Quan thì bôn ba vật lộn kiếm sống, vợ chồng góp gao thổi cơm chung (cả hai cùng nhau lo về kinh tế), nữ Mệnh dễ hai đời chồng nếu cồng về kinh tế yếu, trừ khi ly hương thì có khả năng giải được
Thân cư Phu thì rổ rá cặp lại, nếu lấy người Thân cư Thê thì sống lâu bền....

Thân nhị hợp Nô thì thương chồng, lo cho chồng

Thái Tuế thủ Mệnh thì tự hào, hãnh diện về bản thân, làm nghề liên quan đến ăn nói thì tốt nhất (như luật sư, thầy giáo, công an cảnh sát, thẩm phán...)

Thái Tuế mang tính chất tự hào, đóng tại Tử Tức thì tự hào về con cái, hay nói về con mình, tại Phu Thê thì tự hào về chồng hay vợ, hay khoe chồng vợ mình....

Thái Tuế tại Phu Thê thì lấy dễ, lấy nhanh, hài lòng, yêu thực sự....
Lưu Thái Tuế xung chiếu hạn thì dễ vướng vào cãi cọ, thị phi, hoặc kiện tụng...
Có Thái Tuế thủ Mệnh cũng có khả năng là con trưởng
Tuần Triệt đương đầu (xung chiếu Mệnh) thiếu niên tân khổ (vì bệnh, khổ tâm....)
Xem cung Phụ Mẫu thì phải là con trưởng hoặc út thì mới xem rõ được
Không Kiếp tại Tỵ thì phát nhanh, tàn nhanh, tại Hợi phát nhưng còn giữ lại được
Thiên Tài chủ sự cắt giảm, đóng tại Mệnh thì khó làm lớn (vì nghĩa cắt giảm), tại Tật thì lại tốt (cắt giảm bệnh tật)
Quả Tú hành Kim, Cô Thần hành Hỏa

Điền VCD thì khó giữ nhà đất bền vững, cho dù có sau giữ của như Quả Tú
Tử VCD thì khó có con, vẫn có con nhưng không nhờ được con
Tật VCD thì ít bệnh tật
Huynh VCD thì không nhờ nhau
Phúc VCD thì lại tốt
Phụ Mẫu VCD thì không giúp đỡ được cho cha mẹ nhiều, hoặc cha mẹ cũng không giúp đỡ cho con nhiều
Điền VCD gặp Triệt đương đầu: ăn trong cảnh bất ngờ, náo loạn (bất thường, phản vi kỳ cách)
Nữ Mệnh VCD thì đỡ xấu hơn là Nam Mệnh VCD

Đào Hoa thuộc Mộc, Mộc Dục thuộc Thủy, gặp nhau thi độ số gia tăng
Đào Hoa cư Dậu thì duyên phận bẽ bàng, cư Tí thì lẳng lo, cư Mão thì tốt đẹp
Mệnh Tang Môn thì mặt buồn so, hiền lành
Mệnh Bạch Hổ thì có thể xinh nhưng rất dữ, gian nan, đáo để, vất vả, gian truân
Nữ Tang khổ hơn Hổ

Bạch Hổ Nữ Mệnh thì nhiều lo lắng, tại Phu thì khó lấy chồng
Bạch Hổ cư Dậu, Mệnh VCD Nữ Mệnh thì có tiếng tăm, tuy phát về sự nghiệp nhưng tình duyên, hạnh phúc gặp trục trặc, trắc trở
Bạch Hổ tại Phu Thê thì lập gia đình muộn màng, khó khăn

Các tuổi Dần Thân thì tác họa của Bạch Hổ giảm đi
Thiên Giải mang tai họa về tinh thần, Địa Giải mang tai họa về vật chất
Thiên Giải giải mạnh hơn Giải Thần, giải toàn bộ tai họa, tại Tài thì không tốt (giải hết tiền tài)
Địa Giải hành Thố (Địa), có lẽ bịa thêm, có lẽ tuổi Thìn Tuất Sửu Mùi và hành Thổ thì bị ảnh hương mạnh, giải sạch tốt xấu

Song Hao gặp Địa Giải đồng cung thì xấu
Song Hao Mão Dậu, sinh giờ Thìn và Dậu thì mới ăn

Tướng Quân chỉ về lãng mạn, gặp Đào Hoa, Mộc Dục, Hồng Loan...chủ về dâm

Hỏa Linh tại cung Thủy thì không tác họa lắm
Tốt tại cung Mộc và Hỏa

Hỏa Linh cư cung Hỏa, Mộc thì tốt, ăn nói khúc triết, tại cung Thổ thì bình hòa, tại cung Kim thì ăn nói ẩu tả, thô lỗ hoặc cộc cằn....
Hỏa thì bộc phát nhanh
Linh thì phát chậm nhưng lâu bền
Mệnh Linh tinh, nếu có bệnh thì lâu khỏi

Tam Hóa cư từ Dậu đến Sửu thì là mặc áo gấm đi đêm, không tốt bằng tại Dần đến Thân Tam Hóa liên châu tại Mệnh không tốt bằng Tam Hóa thủ chiếu Mệnh, nhưng cần phải có một sao thủ tại Mệnh mới đẹp Cũng cần chú ý đến Tam Hóa liên châu tại đại hạn Hóa Lộc đóng tại Tứ Sinh thì tốt nhất, kế đến là tại Tứ Chính Thiên Mã gặp Tuần, Triệt không nhảy được như quan điểm của cụ Thiên Lương, và Mã tại Hợi là nơi cùng đường nên phải nhảy Hạn gặp Âm Dương phản bối thì khó lập gia đình nhưng lại vương vấn tình cảm Người nào đẻ vào tháng nhuận thì đời dư ăn Cự Cơ tối hiềm Hóa Kỵ Cự gặp Lộc Tồn thì kỵ, bất đắc chí Cự gặp Kỵ thì bất đắc chí, bất mãn với hoàn cảnh, hay than thở, gặp Lộc Tồn thì càng xấu. Tại Tật gặp Kỵ thì có bệnh khó chữa Hóa Kỵ hành Thủy, ở cung VCD thì lại tốt Hung tinh hãm địa thì cũng ăn nhưng ăn vào thời loạn, tranh tối tranh sáng, còn hung tinh đắc địa thì ăn vào cả thời bình lẫn loạn Hung tinh ăn về hậu vận, về già mới ăn Tuổi Tỵ Hợi ăn Không Kiếp rất mạnh Lấy vợ bé thường thì phải có Đào, Hồng, Hỉ chiếu, cần Thiên Di có Đào Hoa và Tật Ách có dâm tinh như Tướng ngộ Thai.... Phu thê có Thiên Không Địa Kiếp đủ bộ thì sát phu thê Phu Thê tốt đẹp thì lập gia đình dễ dàng, vợ đẹp hoặc hiền,vợ chồng tốt.... Vợ chồng hạnh phúc hay không thì coi Nô, chủ về gia đình ăn ở, hoàn cảnh sinh sống Vợ chồng bỏ nhau hay không thì cần coi thêm Nhật Nguyệt, nếu Nhật Nguyệt hãm thì dễ bỏ nhau, nhưng nếu tại Thìn Tuất thì lại khó bỏ. Âm Dương miếu vượng thì vợ chồng khó bỏ nhau Thiên Tài cư tại cung VCD hoặc tại Tật Ách thì lại tốt Xương Khúc thì ham vui hát hò, văn nghệ..., không hay suy nghĩ, lãng mạn văn nghệ Đà La thì lãng mạn, âu sầu, lì lợm Kình Dương là gọng kìm, cần sao chủ vị Tham Lang hành Hỏa Cự Môn không gặp Tuần , Triệt , Song Hao.... thì có tài nhưng bất đắc chí Mệnh VCD, Tử Tức VCD thì xấu, cả đời không con hoặc khổ về vấn đề con Phu Thê vô chính diệu thường lập gia đình bất ngờ Hữu Bật là cây cung, ly hương, lập gia đình thì già kén kẹn hom, làm bé, làm lẽ Đào Hoa tại Mệnh thì xấu (mê trai, gái), chiếu Mệnh mới đẹp (người khác mê mình). Gặp Thiên Không đồng cung càng xấu thêm. Đào Hoa cư Mão đẹp nhất (có duyên, lập gia đình sớm, tươi tắn...), kế đến là cư Ngọ (nhưng kỵ gặp Tử Vi đối với Nữ Mệnh). Còn tại Dậu và Tí thì xấu. Tại Dậu thì như hoa héo, là cách lấy vợ thừa, thất tiết, không đứng đắn, hoặc về già mới lập gia đình, lấy trễ. Xấu nhất là gặp Không Kiếp, kế đến gặp Linh Hỏa. Gặp Tuần Triệt ví như hoa bị ngắt. Gặp Thiên Hình Không Kiếp thì bị bề hội đồng. Đào Hoa tại Tí gọi là phiếm thủy, chủ dâm dật, đàn bà thì lãng mạn, dễ mắc vào tình ái, nếu gặp Thiên Không đồng cung thì tuy thông minh nhung đường chồng con không khá, bị chồng bỏ... Trên 50 tuổi nếu Đào Hoa thủ hạn thì cần chú ý vì dễ bị bệnh nặng, chiếu hạn thì không sao,chỉ bị bệnh mà thôi. Tử Vi cư Ngọ gặp Đào Hoa đồng cung, đối với Nữ Mệnh gọi là Đào Hoa phạm chủ, chủ dâm dật, chỉ cách lấy nhau trái luân thường đạo lý như cách thầy lấy trò, chủ lấy tớ, họ hàng lấy nhau.... Đào Hoa cư Nô thì đàn ông mới xấu (lấy tớ) Giáp Xương Khúc thì là người ham vui, vì vui mà mang họa Khi còn bé thì xét sinh khắc giữa cung và Mệnh để biết cha mẹ làm nên hoặc xuống dốc trong thời gian đó Hóa Lộc cư tại Tứ Mộ thì bị vùi, nhưng nếu gặp Triệt thì lại tốt, không bị chôn lấp Thiên Thọ (Thọ chủ về lâu dài, bền) ở Tật thì bệnh tật lâu khỏi, bệnh tật triền miên, tại Mệnh thì sống lâu, tại Tài thì tiền của bền vững.... Song Hao làm giảm tác họa của Thiên Không, làm giảm bệnh tật.... Hóa Khoa, Tuần Triệt giải được Thiên Không Thiên Tướng, Tướng Quân thì dâm Mệnh Cơ Nguyệt Đồng Lương đi vào hạn Sát Phá Tham thì xấu (Trúc La hạn) Người Mệnh Âm thì ăn mạnh sao Dương hơn sao âm.... Thêm phần coi tiểu hạn Xét tương quan sinh khắc giữa hành Chi của năm hạn và hành Mệnh Chi và Mệnh đồng hành: bình thường Hành Chi sinh hành Mệnh: thuận lợi, tốt Hành Mệnh sinh hành Chi: hao tổn Hành Mệnh khắc hành Chi: vượt qua được nhưng gian nan Hành Chi khắc hành Mệnh: bế tắc, thất bại Ví dụ năm Mùi (hành Thổ), Mệnh Kim ăn, Mệnh Hỏa thì hao.... Ví dụ Mệnh Mộc, năm hạn là Tỵ Dậu Sửu thì năm Dậu, xấu nhất (vì Dậu là chính Kim) còn năm Tỵ và Sửu bị nhẹ (vì Tỵ là Hỏa đới Kim, còn Sửu thì là Thổ đới Kim) Xét sinh khắc giữa hành Can năm hạn và hành Mệnh, ví dụ tuổi Mộc đi đến năm Canh và Tân (hành Kim) thì không lợi Nếu bị xấu khi xét cả hai mặt về Chi và về Can thì xấu nhất Ngoài ra còn xét cung hạn với bản Mệnh....



http://www.thegioivohinh.com/diendan/sh ... 872&page=3" target="_blank" target="_blank
Được cảm ơn bởi: tamlac, thanh163
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


Hạnh Phúc Vợ Chồng Qua Cung Phối


I- Có nên so tuổi không ?.

Trong suốt thời gian học hỏi về Tử-Vi, mỗi lần ai nhờ tôi coi về hôn nhân cũng hỏi tôi vấn đề so đôi tuổi có đúng không ? Tôi xin trả lời ngay là chỉ tương đối đúng, nghĩa là phải tùy thuộc vào lá số của cá nhân, vì vậy không nên câu nệ hoặc quan trọng hóa việc so đôi tuổi quá. Nếu lá số của mình có cung Phối (tức cung Phu Quân, hoặc Thê Thiếp tùy theo nam hay nữ) tốt thì gần như chắc chắn mình sẽ gặp được người vợ hoặc chồng tốt, dù tuổi hai bên có Ngũ Hành xung nhau chăng nữa, nhưng thực ra hai vợ chồng hay gây gỗ nhau về những điều lặt vặt thì không hại gì cho hạnh phúc gia đình. Tuy nhiên theo kinh nghiệm riêng, thì thấy thường thường những người có cung Phối "ngon lành" thì ngẫu nhiên không lựa mà vẫn gặp được ý trung nhân có mạng tương sinh. Nhưng có điều lạ là tôi đã được biết nhiều cặp có cung Phối tốt, thế mà cặp nào có Ngũ Hành hơi xung nhau (tôi nói hơi xung, thí dụ như Sơn Đầu Hỏa, Hỏa là lửa trên núi và Giản Hạ Thủy là nước dưới khe, tuy là Hỏa-Thủy tương khắc nhau, nhưng khắc gọi là vậy thôi, vì nước trong khe làm sao dập tắt được lửa trên núi) thì lại có hạnh phúc đậm đà hơn cặp có Ngũ Hành tương sinh. Phải chăng mặt sông có sóng gợn lăn tăn vẫn "thơ mộng" hơn mặt biển phẳng lặng chăng ? Kể ra cũng không có gì khác thường vì trên thực tế nếu cặp vợ chồng nào không bao giờ gây gỗ với nhau, hoặc không bao giờ có gì ngang trái xảy ra hạnh phúc lứa đôi thì đương nhiên là tốt thật, nhưng chưa chắc họ cảm thấy được những gì độc đáo hơn cặp vợ chồng thỉnh thoảng hờn giận nhau, rồi lại làm lành với nhau. Tuy vậy đó là nói về phương diện tình cảm và tâm lý, chứ thật ra cặp vợ chồng có Ngũ Hành của mạng tương sinh vẫn thành công hơn về phương diện sự nghiệp.

Trong trường hợp cung Phối xấu thì thật kẹt, vì khó lòng lựa được người tương sinh với mình về Ngũ Hành, mà dù có lựa được cũng kẻ Bắc người Nam, chia ly xa cách. Tôi có một người cô ruột khi sắp lấy chồng cũng đã so đôi tuổi kỹ lưỡng lắm, mà chỉ trong vòng năm năm hai vợ chồng kẻ Âm, người Dương, cũng chỉ vì cung Phối quá xấu (!?)

II- Tìm hiểu về cung " Phối "

Trong mục này tôi chỉ nêu lên những điểm mà các sách Tử-Vi ít khi đề cập tới, hoặc có nói tới, nhưng theo một cách khác. Vì vậy các bạn đừng coi những điều dưới đây như những công thức để giải đoán về cung Phối mà chỉ nên coi là những điều bổ túc mà thôi.

1- Truyền cung là gì ?

Trong bao nhiêu năm coi số Tử-Vi, tôi chỉ gặp có hai hay ba trường hợp "truyền cung". Truyền cung khác với truyền tinh , vì chỉ để ý tới cung chư không quan tâm đến các sao.

Thí dụ người chồng tuổi Hợi và người vợ tuổi Sửu (không cần xét tới hàng Can của tuổi), nếu cung Mệnh của chồng đóng tại cung Sửu (tuổi vợ) và cung Thê của người đó lại ở Hợi (tuổi chồng) còn lá số người vợ cung Mệnh đóng tại Hợi hoặc cung Phu ở Sửu (khó có trường hợp hai cung đối với lá số thứ nhì, nếu lá số số thứ nhất trùng hai cung rồi) thì gọi là truyền cung.

Cặp vợ chồng nào truyền cung như vậy thì coi như đã được một yếu tố tương hợp đặc biệt rồi, chưa cần xét đến các sao và Ngũ Hành. Nói là đặc biệt không phải hoàn toàn chỉ về phú quý mà thực ra chỉ về hạnh phúc đầm ầm nhiều hơn, còn nếu thêm được các sao quyền quý của hai cung Phối thì được cả hai khía cạnh. Dù sao chăng nữa, hạnh phúc vợ chồng tùy thuộc rất nhiều vào sự khắng khít, thương yêu nhau hơn là vào tiền bạc, công danh, miễn là cuôc sống không đến nỗi nghèo khổ quá thôi. Ngoại trừ trường hợp có những cặp vợ chồng chỉ nghĩ đến tiền thì đó là chuyện ngoại lệ, không cần bàn tới.

2- Truyền tinh

Vần đề truyền tinh giữa hai lá số vợ chồng tương tự như sự truyền tinh giữa cha mẹ và con cái. Nay tôi chỉ xin nhắc lại cần chú ý đến các sao tốt truyền tinh là hay (Thí dụ như Tử-Phủ-Vũ-Tướng, Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương, Quang-Quý,Long-Phượng, Khoa-Quyền-Lộc, Thai-Tọa,Tả-Hữu ... ) chứ nếu toàn các hung tinh, sát tinh, bại tinh truyền tinh thì thật là đại bất hạnh, vì hai vợ chồng cứ hại nhau hoài, hoặc chia ly mau lẹ ! Cũng có người nói rằng truyền tình như vậy thì hai vợ chồng vẫn thương mến nhau vì "đồng lai tương tập" nhưng đều là lưu manh một đám và hạnh phúc không bền. Kể ra chỉ đúng về khía cạnh không bền, chứ còn vấn đề "lưu manh" thì không vững, vì nếu cả hai người đều có cung Mệnh đàng hoàng thì sao, đâu có phải cứ cung Phối xấu thì Mệnh xấu đâu. Điểm này để các bạn nghiên cứu Tử-Vi chiêm nghiệm.

Trong trường hợp lá số của chồng có những sao xấu ở cung Mệnh của vợ truyền qua cung Thê và cung Phu của vợ lại có các sao tốt của chồng thì phải hiểu là người vợ rất may mắn được ông chồng đàng hoàng, tài giỏi, quyền quý trong khi mình chỉ là "của nợ" đối với chồng. Dù cho cung Mệnh của chồng có thêm những sao "lưu manh" chăng nữa, thì người đó cũng chỉ bất lương với những người khác, còn đối với vợ lại rất đàng hoàng. Còn người vợ, dù cho Mệnh Thân trong trường hợp này có tốt cũng chỉ cư xử tử tế với bà con, anh em, họ hàng, chứ riêng đối với chồng thì lại thủ đoạn hoặc chỉ ăn hại mà thôi. Tôi đã có dịp gặp nhiều cặp vợ chồng có số như vậy và chiêm nghiệm thấy rất đúng. Vậy các bạn nào lựa vợ hoặc chồng hãy thử dựa theo tiêu chuẩn này, xem có ứng nghiệm hay không, vẫn biết rằng đã có số thì cũng chẳng lựa nổi.

Ngoài ra, có nhiều người thắc mắc không biết một đôi trai gái yêu nhau, tính kết hôn với nhau mà có số truyền tinh (sao tốt) có lấy nhau không ? Về điểm này tôi đã nghiệm thấy chỉ đúng 70 %, vỉ đâu có phải chỉ có người con gái (hoặc con trai) liên hệ đó mới có số truyền tinh. Đúng ra còn có rất nhiều người khác dù không sinh một ngày, giờ, năm, tháng mà vẫn truyền tinh chặt chẽ hơn nữa. Tuy vậy, khi mình đã yêu đúng người truyền tinh rồi thì họa hoằn lắm mới gặp được một người khác truyền tinh hơn, cho nên những đôi lứa nào đang cố gắng đi tới hôn nhân mà truyền tinh với nhau cũng không nên lo ngại lắm.

Lại cũng có người hỏi nếu không truyền tinh với nhau có phải là vợ chồng không, hoặc có cặp vợ chồng nào ăn ở với nhau rồi mà không truyền tinh hay không ? Tôi nghiệm thấy rằng khi chưa kết hôn với nhau mà không có số truyền tinh, thì gần như chắc chắn không đi tới hôn nhân được. Nhưng trái lại, tôi cũng đã gặp khá nhiều cặp vợ chồng không truyền tinh với nhau, nhưng trong trường hợp này, vợ chồng đối với nhau như người dưng nước lã, mỗi người một đường hướng, ít khi gần gũi nhau và nhất là lúc chết khó lòng gặp mặt nhau, hoặc giả cũng có khi thương yêu nhau nhưng rồi vì hoàn cảnh phải xa nhau, hay li dị nhau.

Trước khi chấm dứt mục "Truyền tinh" này tôi còn cần nêu ra một điểm nữa. Thường thường, các vị coi Tử-vi chê cung Phối có Thái Tuế-Đà La-Kình Dương (còn có vị chê cả Thai Phụ-Phong Cáo ở cung Phối nữa), cho rằng cung Phối như thế nhất là có Thái Tuế, vợ chồng dễ xa nhau, li dị nhau hoặc người bạn đời của mình chết sớm. Điều này đúng, nhưng nếu may ra cung Phối của vợ hoặc chồng mình có sao giống như thế (cũng là một hình thức truyền tinh) thì có thể tránh được hình khắc, vì đã có sự quân bình, coi như "cán cân cân lực lượng" thăng bằng. Nhưng ít ra phải có nhiều trắc trở éo le trước khi đi tới hôn nhân mới tốt về sau (thí dụ như cưới chạy tang, bệnh hoạn, tai nạn, bị ngăn trở, quậy phá ... ) những tay "anh chị" gặp nhau thường hay thử tài nhau trước khi liên kết với nhau là thế. Chính cụ Song An Đỗ Văn Lưu, tác giả cuốn Tử-Vi Chỉ Nam đã cho tôi biết điểm này khi cụ còn sinh tiền.

3- Tương quan giữa Ngũ Hành các sao và vị trí của cung Phối với Ngũ Hành của bản Mệnh

Thường thường các bạn coi Tử-Vi ít khi chú trọng tới điểm này và chỉ quan tâm đến các vấn đề Miếu, Vượng, Đắc Địa hoặc Hãm địa của các sao thuộc cung Phối cùng ý nghĩa các sao đó. Như thế thiếu hẳn một yếu tố quan trọng về sự tương hợp, một yếu tố cần thiết cho hạnh phúc vợ chồng. Phàm các chính tinh (không nên xét đến các trung tinh và bàng tinh để cho khỏi rắc rối quá) ở cung Phối, nếu :

Sinh bản Mệnh thì thường được vợ hoặc chồng chiều chuộng thương yêu như thế tức là mình giữ vai trò bị động.
Được bản Mệnh sinh thì mình giữ vai trò chủ động, lo toan mọi bề cho người bạn đời của mình.
Tương hòa với bản Mệnh thì hai bên lo cho nhau một cách bình thường, theo bổn phận hơn là vì thương yêu nồng nàn.

Theo quan điểm riêng của tôi, nếu bản Mệnh là Nam thì sinh xuất. Ví dụ : Mạng Mộc sinh sao ở cung Phối thuộc (Hỏa) hay hơn hơn sinh nhập (trường hợp sao cung Phối sinh Mệnh) vì đàn ông mà để đàn bà lo toan cho mình đủ thứ thì sao đáng gọi là nam nhi. Còn bản Mệnh là Nữ thì sinh nhập hay hơn, vì đàn bà nhờ chồng nhiều mới sung sướng, trừ phi người đó muốn điều khiển chồng lại là chuyện khác.

Trong trường hợp gặp sao cung Phối khắc với bản Mệnh thì thật là đáng tiếc, dù sao tốt. Thí dụ cung Phối có có Tử-Phủ đồng cung tại Dần hoặc Thân là các sao tốt hết chỗ chê, người hôn phối vừa đứng đắn, đạo đức, vừa quyền quý, cao sang, mà lại khắc với bản Mệnh thì người bạn đời của mình chẳng khác nào chiếc lọ cổ thật đẹp trưng bày mà ngắm thôi. Thành ra người ngoài nhìn vào ai cũng trầm trồ khen ngợi trong khi chính mình chẳng ưa hoặc người hôn phối không ưa mình. Đấy là chưa kể đến trường hợp bị thêm các sao xung phá khác làm giảm hạnh phúc đi nhiều nữa. Còn thí dụ như có Vũ-Sát khắc bản Mệnh thì lại khổ hơn nữa, vì người bạn đời của mình vừa cứng cỏi, khô khan, vừa không hợp với mình, như thế còn gì chán bằng. Nếu xui xẻo có Tham Lang độc thủ khắc bản Mệnh của mình, lại thêm Đào-Riêu-Mộc thì chắc chắn bị xấu nhục với xã hội về người hôn phối đàng điếm.

Còn về tương quan giữa vị trí cung Phối với bản Mệnh, thì chỉ có khác là vị trí thường tượng trưng cho phía gia đình bên vợ, trong khi các chính tinh thường tiêu biểu cho chính người vợ . Về luận đoán cũng tương tự như trên, tôi thấy viết thêm ra nữa chỉ càng làm cho dài dòng vô ích.

Tôi cần lưu ý các bạn là không bao giờ nên áp dụng một cách máy móc những điểm trên, mà còn cần phải dung hòa với các yếu tố khác trước khi đi đến chỗ quyết đoán.

4- Tương quan giữa cung Phối và hai cung Mệnh và Phúc Đức

Tôi có được xem một lá số của một bà có cung Phu rất tốt (nhiều sao quyền quý và Ngũ hành tương sinh với bản Mệnh), nhưng Mệnh của bà ấy lại có Cô-Quả-Đào-Kình-Thiên Không và "Thân" có Vũ-Khúc-Lộc Tồn-Kiếp Sát, lại thêm Không-Kiếp hãm địa chiếu về (nhất là Kiếp hãm địa tại Mệnh tối kị với đàn bà) trong khi cung Phúc cũng xấu, ngoài Mệnh còn có Tử-Tham bị Triệt án ngữ cho nên bà ấy không được hưởng cung Phu và hiện nay vẫn ở góa, sau khi đã có hai chồng quyền quý, một bị chết non, một ly dị. Bà ta còn cho biết mới đây một ông lớn muốn cưới bà ấy, nhưng vì thấy Tử-vi của mình kẹt như vậy nên bà ta còn e dè ! Xem như thế cũng đủ biết cung Mệnh có ảnh hưởng lớn lao tới cung Phối biết chừng nào. Riêng tôi, tôi vẫn thắc mắc không hiểu tại sao người chồng đầu tiên của bà lại chết non, vì cung Phối không có sao chứng tỏ sự chết non đó. Không có lẽ Mệnh, Thân của bà đó sát chồng mạnh đến thế hay sao ?

5- Ý nghĩa các sao thuộc cung Phối

Hầu hết các sách Tử-vi Tữ-Vi đã xuất bản, đều có ghi ý nghĩa các sao nên tôi thấy không cần phải nêu ra đây. Tôi chỉ xin lưu ý các bạn là ngoài sự tương quan về Ngũ Hành các sao với bản Mệnh như đã nói trên, các bạn cũng cần phải để ý xem nhóm sao thuộc cung Phối có ăn khớp với nhóm sao thuộc cung Mệnh hay không.

Ví dụ như Mệnh có Cơ-Nguyệt-Đồng-Lương thì cung Phối nên có Cự-Nhật hoặc Vũ-Tướng, chứ tối kị có Sát-Phá-Liêm-Tham hoặc ngược lại cũng vậy. Về điểm này, các bạn có thể coi phần tiểu luận của cuốn Tử-vi Đẩu Số Tân Biên do Ông Vân Đằng Thái Thứ Lang biên soạn để áp dụng vào trường hợp này theo kiểu suy luận.

Ngoài ra, tôi cũng cần nói rằng các trung tinh thường phải lệ thuộc vào chính tinh (tọa thủ cũng như xung chiếu). Tôi xin lấy một ví dụ : Nhiều người sợ sao Đào Hoa tại cung Phối vì sợ người bạn đời của mình lả lướt quá. Nhưng nếu gặp Tử-Phủ hoặc Liêm-Tướng chẳng hạn thì lại rất hay, vừa đạo đức, xinh đẹp, vừa tình cảm. Tuy vậy, cũng rất cần Chính tinh tương sinh với bản Mệnh (nhất là sinh xuất) thì tình vợ chồng mới mặn nồng, chứ Chính tinh khắc bản Mệnh thì tâm hồn người bạn đời của mình cũng dễ hướng về người khác, dù chỉ trong tinh thần hoặc cao thượng (vì Tử-Phủ, Liêm-Tướng là các sao đoan trang, đứng đắn). Nếu chẳng may sao Đào Hoa phùng Tham Lang chẳng hạn, thì dù có sinh bản Mệnh cũng phiền lắm, vì làm sao mình thỏa mãn nổi người bạn đời quá ham mê nhục dục. Còn gặp trường hợp Chính tinh này (ý nói sao Tham Lang trong trường hợp này) khắc với bản Mệnh thì chắc chắn mình mau ... mọc sừng.

Qua những điểm nêu trên, các bạn hẳn tìm thấy rằng việc tìm hiểu cung Phối thật phức tạp, rắc rối, cho nên khi quyết đoán cần phải kết hợp mọi yếu tố để kẻo mắc sai lầm rất nhiều.

(Trích từ Báo KHHB của PHONG NGUYÊN)
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Vài đặc điểm về việc xem vận hạn của phái Trung Châu

Phái Trung Châu có cách xem vận hạn rất chi tiết và biến hóa, cung đại vận có các sao lưu và tứ hóa của đại vận. Cung lưu niên có các sao lưu và tứ hóa của lưu niên.
Cách an sao và các cung mệnh thân... của phái này tương tự như cách an của Nam phái, chỉ có 2 sao Linh tinh và Hỏa tinh là an thuận cho cả âm nam và dương nữ. Ngoài ra có vài sao nhỏ khác với Nam phái như Nguyệt giải, Thiên vu, Thiên nguyệt, Âm sát.
Các cung đại hạn của Trung Châu được nạp thiên can theo tháng của năm sinh. Cung dần trên lá số là tháng 1, cung mão tháng 2...
Thí dụ: Các năm Giáp, Kỷ tháng giêng có can là Bính nên cung Dần trên lá số có can Bính, cung Mão - Đinh, cung Thìn - Mậu....
Năm Ất Canh: Cung Dần - Mậu, cung Mão - Kỷ, cung Thìn - Canh....
Can của cung dùng để làm căn cứ xác định các sao lưu quan trọng của đại vận như lộc tồn, kình dương, đà la, tứ hóa...
Ngoài xem tam phương tứ chính của các sao hội hợp cung đại hạn, chúng ta có thêm khá nhiều các sao lưu của đại hạn do đó sự luận giải sẽ chi tiết rõ ràng hơn.
Còn một điều khá độc đáo là phái Trung Châu coi cung đại vận hiện hành là cung lưu mệnh của đại vận, các cung khác như phụ mẫu, tài bạch, quan lộc... cũng được xác định theo cung lưu mệnh.
Thí dụ: Một người đang trong đại vận 24-33 tuổi tại cung Ngọ, cung Ngọ được coi là cung lưu mệnh, cung Mùi là lưu phụ mẫu, cung Thân là lưu điền trạch...
Phái này không dùng các cung tiểu hạn và lưu niên đại hạn. Xem vận hạn một năm thì lấy cung có lưu Thái tuế làm lưu niên, coi là cung lưu mệnh của năm ấy. Các cung còn lại cũng dịch chuyển thành lưu phụ mẫu, lưu điền trạch...
Các sao lưu của lưu niên được lấy căn cứ vào can chi của năm xem hạn. Tương tự như Nam phái.
Thí dụ năm nay 2012 là Nhâm Thìn, cung lưu niên tức là cung lưu mệnh tại cung Thìn của lá số, cung lưu phụ mẫu là cung Tị, lưu điền trạch là cung Ngọ...
Muốn xem hôn nhân năm ấy thế nào, người ta xem các cung lưu của Đại vận, chú trọng cung lưu phu thê, kết hợp các cung mệnh tài quan và đặc biệt lưu phu thê của Lưu niên, tam phương tứ chính, các cung giáp, phối hợp các sao lưu để luận cát hung. Dĩ nhiên cũng không bỏ qua các cung thân mạng tài quan phúc của lá số ban đầu. Như vậy so với Nam phái thì sự luận đoán của Trung Châu có nhiều dữ liệu hơn, chi tiết hơn.
Còn một đặc điểm khác nữa là phái này còn mượn các sao cho cung vô chính diệu, không những mượn chính tinh mà mượn luôn các sao khác trong cung xung chiếu. Các sao mượn này sau khi được an vào cung vô chính diệu còn có thể tạo các cách cục mới với các sao trong tam phương tứ chính của cung vô chính diệu nguyên thủy. Tạo nên sự biến hóa rất đa dạng.
Cách khởi nguyệt hạn thì cũng tương tự như Nam phái, tuy nhiên phải bắt đầu từ cung Lưu niên thay vì cung tiểu hạn.
Được cảm ơn bởi: BillGates6688
Đầu trang

HoaCai01
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 261
Tham gia: 13:40, 13/06/09

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi HoaCai01 »

Trung Châu Phái là phái mà tôi ưa thích vì tính chất hàn lâm trong cách trình bày . Tiểu dị thì ít, đại đồng thì nhiều, dù sao tôi có chút đóng góp:

Còn một điều khá độc đáo là phái Trung Châu coi cung đại vận hiện hành là cung lưu mệnh của đại vận, các cung khác như phụ mẫu, tài bạch, quan lộc... cũng được xác định theo cung lưu mệnh.

Ngày nay, p/p an lưu Cung dựa theo lưu Mệnh (đóng ngay trong gốc DH) để suy ra các cung khác theo 1 thời kỳ nào đó khá phổ biến trong làng lý số VN. Nhưng chúng ta không nên rời bỏ các cung cố định (vì ham chuộng các lưu Cung) vì các cung này là thật. Ví dụ : hạn hành vào cung Tử Tức tức các biến cố nổi trội liên quan đến Tử Tức, Điền, Nô và Phụ Mẫu.

Phái này không dùng các cung tiểu hạn và lưu niên đại hạn.

Tôi không tin Trung Châu Phái có thể coi trúng các biến cố của 1 năm nếu không dùng cung tiểu hạn. Phần lớn do ca'ch an Lưu Thái Tuế và Tiểu hạn khá khắn khít nên quanh quẩn trong tam hợp hay xung chiếu có sự tương thông giữa 2 cung Lưu Thái Tuế và cung Tiểu Hạn để lý giải hạn kỳ vận dụng các cách cục đầy đủ hơn.

Tôi có thể khẳng định cung Tiểu Hạn rất quan trọng không kém gì cung Lưu Thái Tuế . Mỗi cung khi nằm các vị trí cách ly (tức không kết nối trong tam hợp hay xung chiếu) đều có những tín hiệu đặc sắc khác nhau mà lý số gia phải để ý phối hợp và cân phân .

Tôi chưa dám khẳng định Lưu Niên Đại Hạn (tức Lưu Đại Vận của 1 năm) đóng vai trò ra sao trong việc giải đoán hạn kỳ nhưng có các điều cần ghi nhớ để không bỏ sót :

- năm đầu và năm cuối của 1 DH thường khởi sự và biểu hiện 1 cách rõ nét (tức DH xấu sẽ thấy sui liền lập tức và ngược lại) vì lúc đó Lưu Niên Đại Hạn nhập vào gốc DH .

- Lưu Niên DH là bóng hình của DH di chuyển từng năm .

- qua 1 số cases thực chứng, Lưu Niên DH đôi khi là điểm trọng yếu (tức cung rung) của 1 hạn kỳ . Lấy ví dụ lá số Nguyễn Tấn Đời 1 tay tư bản khuynh đảo cấp quốc gia thời Nam VN trước 1975, ông bị đi tù tán sản năm 1973. Hạn kỳ rồng rắn lên ngôi quá đẹp tại Mão có Dương Lương, chỉ cần bị Song Kình Song Đà tấn kích vào LNDH mà tan tành sự nghiệp phải buông bỏ tất cả vì khí lực của lưu mệnh nằm ở Mão được Nhật Nguyệt nuôi dưỡng, ngay cả cung Mệnh cố định cũng thế an tại Mùi đắc Nhật Nguyệt tịnh minh nhưng 2 Kình, 2 Đà tấn kích vào mệnh, cũng là lúc DH lưu vào Mệnh nên tài khí, mệnh khí bị đứt đoạn, bị che ám (Nhật Nguyệt sợ Kình Đà hơn sợ KK) vào năm đó.

Tôi theo cách an Tiểu Hạn của VDTTL, rất nhiều lần gặp sự cố đặc sắc thấy ứng hạn kỳ đến tháng, ngày và giờ ! Nên nhớ theo cách an này, từ Tiểu Hạn tính tới Nguyệt Hạn, Nhật Hạn và Thời Hạn .

Và tôi không có thì giờ thử dùng Lưu Thái Tuế làm căn cứ để suy tính các hạn kỳ nhỏ hơn .
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, tamlac, BillGates6688
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

HÌNH TÍNH CÁC SAO TRONG CUNG PHÚC – ĐỨC
Thiên Cơ là mộc tinh vật là thảo mộc.
Thái Dương là Bình Dương (ruộng bằng) hình như tấm kính, người là dương hồn (mộ đàn ông).
Liêm Trinh là gò cao nổi lên (như xương sống) hình như người ốm, ngồi một mình.
Thiên Phủ là tổ sơn, Thổ tinh đại địa, linh khí ở hữu đến.
Thái Âm là gò cao chót vót, người là Âm hồn (mộ đàn bà) hình như bán nguyệt.
Tham Lang là bắc thổ chi địa (đất màu bùn đen) vật là thảo mộc um tùm, hình như con chó ngồi.
Vũ Khúc là Cô Sơn.
Hỏa Linh như cái cần giài.
Thiên Lương là đất bụi, hình như cái suối giài (cái suối trong khung cửi).
Cự Môn là cuốc đất vuông, ở dưới thì đất vàng, hình như cái chiếu giải.
Thiên Tướng là đất vuông vắn dày dặn hình như cái ấn vuông.
Thất Sát là đất khô đỏ, hình như cây cỏ giài thẳng và nhọn là Cô Sơn.
Phá Quân là cuộc đất tan lở, hình như tên quân thường cổi giáp.
Văn Xương như một cục sắc tròn.
Văn Khúc như giải nước khúc khuỷa.
Phụ Bật là đất no đầy, hình như cái cạp chiếu nổi đầy đều lên.
Thiên Khôi như cái cột tươi sáng dựng lên.
Thiên Việt như hình cái kiếm lớn.
Thiên Mã là hình con ngựa.
Lộc Tồn là đất hình vuông, hình cái thương, là cô sơn.
Dương Nhận là như cái nanh, hay con dao nhọn của lính.
Hóa Lộc là đất bao lần kim khí, hình như cái thương.
Hóa Quyền là đất như cụm cây vuông, hình như cái yên ngựa.
Hóa Khoa là cuộc đất hình cái khuôn cây như cái Bảng.
Hóa Kỵ là đất có nược ngưng tụ, bùn lầy, đất đen.
Không Kiếp là đất hung.
Phi Liêm là hỏa tinh tán loạn là cô sơn (núi đứng một mình).
Hỉ Thần là đất bằng có cát.
Bịnh Phù là đất như cái đai.
Lưỡng Hao là đất khô.
Phục Binh là đất hình nhọn, là phạn lại.
Thiên Hình là đất có mảnh sành mảnh bát vỡ là nhà tù tối tăm.
Thiên Diêu là đất gần nước, ẩm ướt, về thảo mộc thì tươi tốt um tùm.
Tam Thai đất hình tam tinh.
Bát Tọa là đất hình Bát Diệu (8 sao, hình như đồ Bát cống).
Hư Khốc là đất đường nhỏ hư lỡ.
Long Trì là đất giữ nước, hình cái ao, cái giếng cạn.
Phượng Cát là hình lâu đài, về vật là loài chim sắc đỏ, con Phượng.
Tràng Sinh là đất tụ rất nhiều nước là dãy nước dài.
Mộc Dục là đất tích tụ các thứ nước, nước ở thác xuống.
Thai là Trẩm long chi Thủy (nước có rồng lội).
Dưỡng là nuớc ở ngoài triều đến.
Quan Đới là Huyền Vũ Thủy (khí phách về Võ) là cái Đài là hình bán nguyệt.
Tử là chỗ nước chảy mau, tử thủy.
Mộ là thoái thần chi thủy.
Hồng Loan là hình cái cung, uốn lên như cái mi mắt, hình bán nguyệt là Nga mi.
Thiên Hỉ là Cát bùn.
Thái Tuế là hình cái xương sống gầy khô, hình như cái bút, về người thì chỉ thị phi quan sự.
Tấu Thư là hình Thần long đứng một mình.
Triệt Lộ là như con đường hẻm, đường làng nhỏ, cầu đất đương đầu với Huyền Vũ ắt giòng Trưởng bại.
Tuần Không là đất khoáng đạt không có gì, trong cuộc tán loạn.
Thiên Quan là Miếu Dương Thần Linh là Đình.
Thiên Phúc là Âm thần linh Tự (chùa) là Quán.
Hoa Cái là hình tựa như cái hoa, cái bát, cái cây.
Thanh Long là Trường Thủy (sông lớn) hình người mang kiếm
Phong Cao là hình cái chiếu vuông vắn.
Thai Phụ là hình cái nón
Suy là như cái xương sống gầy, sắc nhọn
Bạch Hổ là đất đá trắng là hình Số.
Phàm luận về phần Mộ thì chuyên lấy cung Phúc Đức làm bạn cung mà định cuộc đất, coi phương hướng lấy Tiểu hạn Can Chi hành độ coi xung hợp ra sao. Lấy xem các sao xung hợp đắc địa, miếu vượng hay lạc hãm mà đoán cát hung xem có Văn tinh ắt phát về Văn, có Vũ Tinh ắt phát về Võ, có Quí tinh thì phát quí, có Tài tinh thì phát phú. Lại cần phải tham bác cho kỹ những Ác sát tinh mà biện luận ắt không sai, lại lấy cả Can chi 12 cung để coi cả cuộc đất gần xa, hình Tinh các phương rất linh diệu vậy.
Xem dương Trạch cũng vậy.
Thiên Cơ, Phong Cáo, Thai-Phụ, Hóa-Khoa đứng đằng trước là Ấn Tín, đứng đằng sau là Bảng.
Cự Môn là con tuợng (voi) Thiên Việt là búa là Kiếm.
Thiên Mã là ngựa (gặp Đà La ở Tị Hợi là ngựa gãy cẳng).
Tam Thai ở cung đằng trước tà Tiền cung, Tam thai.
Thất Sát ở cung đằng sau là Hậu cung.
Thất Sát, Hỉ Thần, Thiên Hỉ là nước.
Khôi Việt là đầu, Tang Môn là châu, Tuần Triệt là Thất Lộ (lạc mất đường).
Địa Kiếp là đường bị nghẽn tắc, gặp Long Trì Thanh Long là sông bị nghẽn, giếng bị tắc.
Thất Sát, Địa Kiếp là Kiếm (vào hạng Tà không Chính)
Sương, Khúc, Khôi, Việt, Long, Phượng, Khoa, Quyền, Tả, Hữu, Hóa Lộc và Văn Tinh.
Vũ Tham, Dương, Lực Sĩ, Linh Tinh ở vượng địa, Tử Vi Thất Sát là Vũ Tinh.
Kình Dương Đà La Hỏa Linh đứng trước cung Phúc Đức là Tiền quan, đứng sau là Hậu quỉ.

LUẬN CÁC SAO Ở CUNG PHÚC ĐỨC

Sao Tử Vi tọa thủ cung Phúc Đức, là Thổ Tinh Tổ Sơn đại địa, gặp cát tinh thì phát phúc lâu dài, nếu gặp Hao, Triệt, Không Kiếp là giòng Trưởng bị bại, thứ thì thành, tha hương bôn tẩu, Tổ nghiệp không vượng, địa khí đã kiệt tàn.
Tử Vi là ngôi mộ Ngũ đại nội ở vào miếu vượng địa được hưởng phúc lâu dài, gặp Thiên Phủ, Thiên Tướng thì chung thân được cát tường, gặp Phá Quân thì lao tâm phí lực bất an, hội hợp Thiên Cơ là được hưởng phúc chung thân, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp phúc bạc.
Thiên Cơ là Mộc tinh, gặp Không là bóng cây, gặp Triệt là cành cây, cung cây có hoa đẹp và sinh nở được, nếu gặp được Đào, Hồng, Thai, Dưỡng là Phúc, gặp Đà La, Thiên Riêu là đất nghỉ không phát.
Sao Thiên Cơ ở cung Phúc Đức là chỉ về mộ Ông Nội, trước thì lao khổ sau mới được nhàn hạ, với Cự Môn thì có lao lực mới được yên lâu, với Thiên Lương thì được hưởng phúc, với Thái Âm là chủ khoái lạc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là bôn tẩu không được yên tĩnh.
Thái Dương là Hỏa Tinh gặp Địa Kiếp thì đất thật phẳng, gặp Xương Khúc là Cung Huyệt như nước ánh từng khúc trong vườn thượng uyển, thường an triệt lộ ở bên thì có tài văn võ, là bậc Đống Lương trong nước.
Nếu gặp Đà Kỵ Riêu Linh tức như nước không có mạch mà cứ tiết mãi ra hết ngoài, là như “Vân ám sơn lãnh” (Đỉnh núi bị mây phủ ám) thì nhân đinh bị chết nhiều, có tật ở mắt hay đui mù.
Là ảnh hưởng mộ Cha (Cha còn sống là mộ ông Nội) trong nhà hoang mang rồi mới phát phúc, với Thái Âm là con cháu được yên vui, sung sướng. Với Cự Môn là phí lực mới lâu yên, với Thiên Lương được sung sướng yên vui, nếu là số đàn bà mà có cung Phúc Đức như vậy hội với Cát tinh là chiêu được chồng hiền minh hưởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp Kỵ Hao thì suốt đời không được mỹ mãn yên vui.
Vũ Khúc là Kim Tinh, hỉ kiến Tham Lang là Địa Khí cao hậu, sơn thủy hữu tinh, Văn võ toàn tài, xa quê hương thì phát Phúc, nếu gặp Tử Vi ở Hãm địa gia Dương Đà Khốc Hư Linh Kỵ là đất có hình dáng mà không có Huyệt, chôn ở đó là đất bại tuyệt, nếu lại gặp Tuần, Triệt, Phá Quân thì cũng làm được về Nghệ Thuật khéo léo, làm Nghệ sĩ chẳng hạn.
Vũ Khúc là mộ Tứ đại nội nếu ở Hãm địa là lao tâm phí lực ở miếu vượng địa là an nhiên hưởng phúc, có Phá Quân hội với là chạy Đông chạy Tây đời không yên tĩnh, với Thiên Tướng thì lão cảnh an khang, gặp Thất Sát là lâu mới được an khang, gặp Tham Lang càng về già càng hưởng được nhiều phúc, gặp Hỏa Linh miếu vượng là được an nhàn gia Dương Đà là hao tâm phí lực.
Thiên Đồng là Thủy Đới Thổ gặp Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền là đất phát nhiều Quan. Sao Khôi lập ở ngoài chiếu vào là Thiên Hạ cái thế văn chương.
Nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Kiếp Không là Huyệt không được chính chỗ tuy phát mà chỉ bình thường.
Thiên Đồng là mộ Tứ đại ngoại, là được hưởng Phúc Thọ sung sướng, với Cự Môn ắt buồn phiền vui ít, với Thái Âm đồng cung là được hưởng phúc, cùng với Thiên Lương là thanh nhàn khoái lạc.
Liêm Trinh là Hỏa Tinh Đới Mộc gặp Thiên Tướng, Lộc Tồn đồng độ là địa khí nhiều mạnh và đẹp. Long, Hổ ở ngoài chầu lại thì quí được Vua phong, phú gia địch quốc. Nếu gặp Cô Thần, Quả Tú thì thành không có Tú khí, trai gái bị cô quả phải bôn tẩu tha hương.
Liêm Trinh là chỉ mộ Chú, đứng một mình là trong hoang mang thì có phúc, với Thiên Tướng là có Phúc Thọ, gặp Thiên Phủ là vui vẻ, an cư lạc nghiệp không bị ưu buồn, cùng Phá Quân là mộ không phát phải lao tâm phí lực, gia Dương Đà Hỏa Linh là lao khổ.
Thiên Phủ là Thổ tinh, tổ sơn đại địa, được phát phúc, trường cửu, nếu bị Tuần, Triệt, Kiếp Không là Trưởng bại thứ thành tha hương bôn tẩu tuy phát nhưng không lâu, địa khí đã kiệt.
Thiên Phủ chỉ mộ ngũ đại ngoại được yên tĩnh hưởng Phúc với Tử Vi là một đời khoác lạc, với Liêm Trinh thân thì yên mà tâm thì hoang mang, cùng Vũ Khúc, nhỏ thì cực khổ đắng cay, trung và vãn niên thì được an lạc hưởng Phúc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Kỵ là lao khổ đệ nhất.
Thái Âm thủy tinh là địa thế cao vợi, gặp Khoa Quyền chiếu lại ắt được Mộc Tinh khí thủy an cực là đứng đầu Thiên hạ. Nếu gặp Khốc Hư Tuần Triệt, Đà Kỵ là giả huyệt không phải thật, con cháu không được thịnh vượng. Thái Âm là Mộ Mẹ (Mẹ còn chỉ mộ Bà Nội), nhập miếu là hưởng phúc khoái lạc, cùng với Thái Dương là cực mỹ, làm tăng đạo cũng được thanh khiết hưởng phúc lâu dài, cùng Thiên Cơ thì tâm hoang mang, với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là có sự ưu buồn thì tốt, đời không được yên tĩnh.
Tham Lang là thủy Tinh gặp Vũ Khúc Khoa Quyền Lộc là địa khí nhiều, âm ỉ lâu bền, đứng đầu thiên hạ, phát mộ Ngũ đại, Nếu gặp Tuần Triệt là như một mở một đóng, một may rủi nhưng cũng không đến nỗi là họa hại.
Tham Lang chỉ mộ Ông Nội, lạc hãm là lao tâm không nên gặp Liêm Trinh thì phúc bạc, cùng với Tử Vi thì về già ắt được an lạc vui vẻ.
Cự Môn là Thủy Đới Kim gặp Nhật, Hỏa Khôi Việt Cơ, Quyền Ấn là Vệ Huyệt (Khí Huyệt), các sao tốt cũng phụ là Văn Võ toàn tài, Riêu Đà Kỵ là hung táng là bị nơi Ác Sơn Ác Thủy, thì bị tai hung, trai gái bịnh tật yểu bần, hình ngục, huynh đệ bất hòa. Cự Môn chỉ mộ Bác ruột, lạc hãm là lao tâm không yên, cùng với Nhật có buồn có vui, cùng Thiên Đồng là huởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là gặp nhiều sự ưu buồn.
Thiên Lương là Thổ Đới Mộc hỉ kiến Văn Khúc, Khoa Quyền là đất phát Văn mà Vũ chiều vậy. Nếu gặp ở nơi Hãm địa và Tuần Triệt Mã Kỵ là địa thế bị hư liệt, trai thì du đãng, gái đa dâm, phá tán Tổ nghiệp.
Thất Sát là Hỏa Đới Kim gặp Tử Vi Khoa Quyền là khi đất ấm áp trong trẻo đất cao trên đỉnh núi trùng trùng điệp điệp, long mệnh chạy tuy đoản (ngắn) nhưng ở ngoài chiều lại, là anh hùng oanh liệt, vũ liệt công hầu. Ở Hãm địa có Dương Đà Không Kiếp Kỵ Riêu Tuế tức là Cô long ngoài không chiều phục thì nhân đinh không vượng, yểu nhược tàn tật bình thường, lao tâm phi lực.
Là Mộ gì gặp Vũ Khúc thì lâu mới yên, với Liêm Trinh là cực nhọc, cùng Tử Vi thì trước lao khổ sau mới an nhàn về sau được toại ý.
Số Đàn bà mà cung Phúc đức có một sao Thất Sát tất chỉ làm Nô tỳ, Ca kỹ.
Thiên Tướng là Thủy Đới mộc gặp Khoa Quyền Khôi Việt là đất long mạch đang lên chiều cao vọi, đời đời Công Hầu bá tước. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp thì long mạch bị kim châm chích thương tàn trong hoạn lộ thì bị hoán cải, cách chức, là sĩ thứ thì bị thị phi.
Thiên Tướng chỉ mộ Cậu, đắc địa thì được an nhàn hưởng phúc sống lâu, gặp Tử Vi là khoái lạc, với Thiên Cơ thì hoang mang mà trong được tốt, cùng Thái Dương thì Phúc Thọ song toàn, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì tâm không được yên.
Phá Quân là Thủy Đới Thổ gặp Vũ, Khoa, Quyền, Khôi, Việt là Tú khí ắt Văn Võ kiêm toàn đỗ đạt cao. Nếu ở nơi Hãm địa gặp Liêm Phục Hình là đất ác khí như tinh sơn Kim hình khắc Mộc như bị mũi nhọn đâm vào chết. Là mộ cụ Ngoại, là lạc hãm là lao tâm phí lực, cùng Vũ Khúc là lâu mới yên, với Liêm Trinh là khổ cực.
Cùng Tử Vi là an lạc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp cả đời không được yên tĩnh.

Văn Xương là Kim Đới Thổ, nếu có Văn Khúc, Khôi Việt Tả Hữu là đất phát con cháu khôi ngô thông minh, phát về sự nghiệp Văn Chương. Nếu gặp Dương Đà Riêu Linh thì bị yểu triết bần cùng, gia Cát tinh nhập miếu là hưởng phúc an lạc.
Văn Khúc là Thủy Đới Hỏa gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là Long mạch hội lại rất nhiều, sơn tú thủy hoạt, con cháu trí tuệ thông minh. Nếu ở Hãm địa lại gặp Dương Đà, Hỏa Kỵ Riêu Tuế là đất võ khí, khí ác thủy xạ, tàn tật yểu triết.
Tả Phụ là Thổ Đới Kim, gặp Tử Vi là được Tú khí các tinh tú ở ngoài củng chiếu, tay long tay hổ an bày tuyệt mỹ thì tốt vi Cực Quí, nếu gặp Tuần Triệt Đà Hỏa Riêu Kỵ thì nhân đình bị bại yểu, làm ăn cực nhọc. Đứng một mình thì về già được an ninh.
Hữu Bật là Thổ Đới Thủy gặp Tử Phủ, Khôi Việt là đất tốt, đất được trúng huyệt ắt phú quí trường đại nhân đinh thịnh vượng, người trung hậu. Nếu gặp Tuần Triệt Riêu Kỵ tức là bị Vong Thủy hãm phá nhân đinh bần yểu.
Ở miếu vượng địa thì bình sinh được phúc lộc toàn, mỹ gia Cát tinh một đời ít ưu buồn.
Thiên Khôi là Hỏa Đới Kim gặp Tử Phủ Khoa Quyền là được long cung hậu khí ứng 2 người mà con trưởng được văn võ thọ trường. Nếu gặp Kiếp Thông Tuần Triệt Đà Kỵ thì lại bị phản lại, con trưởng bị bại tuyệt, con thứ thì phá tổ nghiệp bôn ba.
Thiên Việt là Hỏa Đới Mộc gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là đất cong cong ôm lấy mộ, được Tú khí con cháu văn hào đỗ Khôi Nguyên. Nếu gặp Thái Tuế Kình Đà Kỵ Kiếp Không Phá ắt là đất bị phạm hung sát, trai thì bị hình chu, gái thì dâm bật bại gia.
Khôi Việt có cả hai sao là quí lắm, quí nhân hưởng phúc an lạc.
Hóa Quyền là Mộc Đới Thổ gặp Khôi Việt Tham Vũ là đất hình cung, Tú khí, văn võ toàn tài, nếu gặp Khốc Hư Đà Kỵ tức là bị “Hoàng Truyền Thủy Thế” là cây bị nắng khô, trai thì tuyệt tự, gái truỵ thai.
Hóa Khoa là Thủy Đới Mộc Khôi Việt Tham Vũ Xương Khúc là đất đắc địa sinh nhân, Tứ khí, văn võ lại tài sinh người tuấn tú khôi ngô. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp là phản lại, tha hương cầu thực, hoán tổ ly tông.
Hóa Lộc là Thổ Đới Mộc gặp Xương Khúc Hồng Loan là cuộc đất sơn thủy hướng chiều, Long Hổ chầu lại, người Văn Hoa đẹp đẽ làm đến Công Hầu. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ tất bị các khách tinh ở ngoài phản phúc thì trai gái đều bị khốn cùng.
Hóa Kỵ là Thủy Đới Mộc là đất bị ác khí, có gặp Khoa Quyền Xương Khúc Khôi Việt tuy có Địa Long hậu khí, được quí hiển nhưng không bền ắt bị yểu triết bại tuyệt.
Long Trì là Thủy Đới Kim gặp Khoa Quyền Xương Khúc cùng với Thiên Lương, Phượng Cát là đất đắc địa, đỗ đạt cao tột, khoa giáp trùng phùng. Nếu gặp Đà Kỵ Dương Riêu Tuần Triệt tức là giả Huyệt, trong ngoài Long Hổ đều sai, trai thì gian trá lọc lừa, gái thì dâm ô.
Phượng Cát là thổ Đới Mộc gặp Khoa Quyền, Hồng Loan, Long Trì, Tử Phủ là đất được trong ngoài tú mỹ thì trai ăn học văn chương cao vọi, gái ắt Hoàng Phi. Nếu gặp Đà Kỵ Kiếp Không là Long Hổ bị thương tàn ắt không toàn mỹ.
Lộc Tồn thuộc Thổ gặp Cự Cơ Quyền Lộc thì được phú quí, làm quan đến Công hầu quí hiển, nếu gặp Không Kiếp Tuần Triệt, nhị Hao tức là Thủy triết bị tán bại, khốn cùng ly tổ. Ở miếu vượng địa là chung thân phúc hậu, gia Cát tinh được Hỉ Phúc.
Thiên Mã là Mộc Đới Hỏa gặp Khoa Quyền Khôi Việt là Văn Hoa tuấn tú quí hiển lại có kỳ tài. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ là tất bị Long Hổ lệch vẹo ắt trai gái dâm loạn, tàn tật yểu triết.
Thiên Quan quí nhân là dương Hỏa là đất đại quí gặp Xương Khúc Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt là Văn Khôi cao sĩ, gặp Tham Phá Vũ là Vũ cách đến bậc Công Hầu. Nếu Tuần Triệt Hoa Cái, Tấu Thư là nhà Sướng ca có tiếng tăm, gặp Đà Kỵ Riêu Kiếp là bị tàn tật hôn mê ngu xuẩn.
Thiên Phúc quí nhân là ám Thổ, là cuộc đất rất đẹp, gặp Tử Phủ Hồng Đào thì trai làm Phò mã, gái Cung Phi. Nếu gặp Phá Đà Riêu Kỵ Tuần Triệt là hung địa, trai làm Đạo sĩ ly tổ phiêu lưu.
Phong Cáo là Thổ Đới Thủy gặp Tham Vũ Khoa Quyền là địa khí Cát tú; huyệt họa nơi nguy nga đẹp đẽ, được công dan hiển hách, vinh hoa phong tặng. Nếu gặp Tuần Triệt Đà Kỵ Hư Hỏa Kiếp ắt cả đời bôn tẩu không thì ở chốn thiền môn.
Thai Phụ là Thổ Đới Kim gặp Khôi Việt, Nhật Nguyệt Tả Hữu đều chầu về huyệt ắt được văn võ công hầu. Nếu gặp Không Triệt Riêu Linh Phá Cự là Sơn thủy thô sơ ắt bị tuyệt vong.
Tấu Thư là Kim Đới Thổ gặp Khôi Việt Nhật Nguyệt là văn học thành tài, nếu gặp Riêu Kỵ Thái Tuế là bại địa thì hay sinh ra người điên.
Hỉ Thần là Hỏa gặp Hồng Hỉ Phủ Cơ là Quí địa ắt phát Công Hầu nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Riêu Mã Mộc dục ắt là Thủy phá nguyên dầu (suối nước bị phá từ dầu), thì trai gái dâm đãng.
Bệnh Phù là Thổ Đới Mộc gặp Riêu Kỵ Dương Đà là Ác Thủy phạm nguyên oa (là hung ác thủy phạm huyệt) trai bị phong cùi, gái bất đắc kỳ tử.
Đại hao Tiểu hao là cuộc đất bị nung nóng, gặp Tử Phủ Khoa Quyền Khôi Việt cũng không được tốt.
Phục Binh là Hỏa Đới Kim gặp Khôi Việt Tuần Triệt Thất Sát là đại địa phát về Binh nhung uy chấn Thiên Hạ, nếu gặp Hình Kỵ Không Kiếp ở Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì không tránh được nạn đao binh ác sát.
Kình Dương nhập miếu là trong nhà bị động như ốm đau tang tóc thì mới bắt đầu phát phúc, lạc hãm là lao tâm lâu mới có lực, hội với Cát tinh thì giảm được ưu buồn, một mình thì thân tâm bất an.
Đà La đứng một mình thì làm việc cực khổ, nhập miếu là có phúc lộc, hãm địa là bôn ba, gia Cát tinh thì về già có phúc.
Hỏa Tinh thì lâu yên lao lực tâm khổ, gia Cát tinh thì về già được toại trí.
Linh Tinh là lao khổ gia Cát tinh thì bình hòa, đứng một mình thì cay đắng đa đoan.
Đẩu quân gặp Cát tinh thì năm đó được yên tĩnh, gặp hung tinh thì bị hung sát lâu mới yên.

Nguồn : tuvilyso.net
Được cảm ơn bởi: thanh163
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tử vi”