Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Hỏi đáp, luận giải về tử vi
Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Hình ảnh

Các bước để giải đoán tử vi



Bài sưu tầm - Tác giả: Châu Anh

Để giải đoán lá số tử vi, cần thực hiện qua các bước sau:

1. Quan sát và phân tích bố cục của các cung và các sao

+ Thế đứng của các chính tinh: Sao nào đi với sao nào để thành cặp, vị trí của các cặp sao Âm Dương, Tử Phủ, Thất Sát, sao chủ mệnh. Miếu hãm của các sao.

+ Thế đứng của các ngôi: mệnh tài quan nằm ở đâu, phu thê ở đâu...

+ Quan sát bố cục của các trung tinh, phụ tinh:

Trung tinh gồm các sao như: Khôi Việt Tả Hữu Tứ Hoá, Xương Khúc, Thanh Long, Quang Quý, Thiên Hình Thái Tuế, Kiếp sát, Lộc tồn, Lục sát ( Kình Đà Linh Hoả Không Kiếp), Thiên Mã.

Tuy nói là trung tinh, nhưng nhiều khi nó quyết định cục diện của lá số còn mạnh hơn cả chính tinh.

Kế đó phải kể tới vòng Tràng sinh, rồi Khốc Hư, Tang Hổ, và các sao chỉ bộ phận trong cơ thể để đoán biết về đặc điểm ngoại hình, bệnh tật.

Từ sự quan sát bố cục lá số này, cần phải rút ra được:

- Điểm nổi bật nhất của lá số: Mấu chốt nằm ở cung nào, sao nào, cách cục nào

- Chỗ tốt ở đâu, chỗ xấu ở đâu.( Các ưu điểm và nhược điểm)

- Mức độ tốt xấu của từng yếu tố, ví dụ mức độ thành công về sự nghiệp, mức độ hạnh phúc trong gia đình...Nếu không nhận biết được mức độ thì không thể có kết luận khi giải số.

2. Xem xét riêng lẻ từng cung, từng sao

Về các cung: đầu tiên là cung mệnh, sau đó là cung hạn. Các cung còn lại thì tuỳ vào vấn đề muốn biết mà xem xét kỹ lưỡng hơn: ví dụ muốn hỏi về con cái thì căn cứ chính là cung Mệnh và cung Tử. Nhiều quan niệm coi cung Phúc là quan trọng khi xét bất cứ yếu tố nào của lá số, theo tôi thì không hẳn.

Về các sao: Phải xem chính tinh trước khi xem trung tinh và phụ tinh, nhất là chính tinh thủ trong những cung quan trọng đối với vấn đề cần luận đoán.

Từ chính tinh mà đánh giá tác dụng của trung tinh, cũng như từ sự kết hợp của chính tinh, phụ tinh, cung, ta mới xét đến các tiểu tinh ( phụ tinh).

Ví dụ: Tả Hữu phò tá cho Tử Phủ, Tam Minh phò tá cho Nhật Nguyệt. Tôi giỏi phải gặp vua hiền, mọi thứ phải đặt đúng chỗ của nó thì mới có tác dụng.

Ở bầu thì tròn ở ống thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy, nên không phải chỉ một sao hay một cung quyết định lá số hay một vấn đề, mà là tương tác phối hợp giữa các sao, các cung.

Tương tự như vậy, cung mệnh và cung hạn phải được tính làm đầu trong mọi luận giải.

Nếu không xác định được thứ tự ưu tiên, thứ tự quan trọng thì việc giải đoán tử vi sẽ rơi vào một mớ bòng bong, và dẫn đến mất độ chính xác.

3. Tập trung vào từng câu hỏi, từng vấn đề

Nghĩa là phải xác định được câu hỏi là gì để tập hợp và xử lý dữ liệu. Chỉ một câu hỏi nhưng có khi phải xem xét cả một lá số.

Sự tập trung và dứt khoát trong giải quyết vấn đè sẽ giúp luận giải được chính xác, vi tế hơn.

4. Định giờ sinh

Thực ra đây là thao tác quan trọng hàng đầu trước khi trả lời bất cứ câu hỏi nào đặt ra cho một lá số. Tuy nhiên vì việc làm này không phải dễ, nên tạm thời PC không trình bày trong khuôn khổ cuốn sách.

Với các bạn đọc có trình độ , hoàn toàn các bạn có thể xác định được và nên xác định giờ sinh. Sau khi trải qua ba bước noí trên, thì có thể xác định được tới 70% giờ sinh đã chọn là đúng hay sai.

Thao tác định giờ sinh được dựa chủ yếu trên:

- Hình dáng của đương số

- Đặc trưng về thân nhân

- Các sự kiện quan trọng trong từng niên hạn ( năm), nguyệt hạn (tháng)

Người giải đoán số cần có kinh nghiệm và sự nhạy cảm cần thiết. Có lúc chỉ nhờ có 1 sự kiện, một dấu vết để biết là có đúng giờ đó hay không.

Biểu tượng của các sao

1. Chính tinh

- Âm dương biểu tượng cho đôi mắt, thần thái, khả năng tình dục, sự thể hiện tình cảm và nhân sinh quan.Có cả khả năng điều hoà nữa.

- Tử Phủ biểu hiện dáng người, cân nặng, thế đi đứng, oai phong.Lục phủ ngũ tạng.

- Tham Lang thể hiện nhu cầu vật chất, nhu cầu tình dục, lòng tham. Phần thân dưới, những bộ phận nở nang như mông, ngực.

- Thiên Cơ thể hiện trí tuệ, khả năng tính toán, tổ chức.Tượng là cái trán, phần mày mắt.

- Vũ Khúc: Khả năng nghệ thuật, tài chính. Cái mũi, phần lườn, cánh tay.

- Cự Môn: Khả năng kháng cự, khả năng ngôn ngữ.Miệng, hậu môn, bộ phận dưới.

- Liêm trinh: Lập trường, cá tính, uy nghiêm. Phần xương cốt trên khuôn mặt, thần thái uy nghiêm trên toàn bộ cơ thể.

- Thiên tướng: Khả năng lãnh đạo, sai khiến người khác, năng lực quân sự. Cái đầu.

- Thiên đồng: Lượng mỡ trong người, phần dưới hai gò má ( thịt bao xương quai hàm), cái bụng.

- Thiên Lương: Lương tâm. Cột sống. Nhân trung.

- Thất sát: Tính cương quyết, dám làm dám chịu, có thể trả đũa hay sát phạt. Hàm răng. Xương và tính chất của bàn tay.

- Phá quân: Tính quật cường, làm phản, lập dị. Ấn đường và hai chân mày.

2. Trung tinh, phụ tinh

- Tả Hữu:Khả năng nhường nhịn, vị tha, thích ứng. Đôi vai, đôi tay.

- Hoá Khoa: Tư duy tri thức .Bộ não, sự đầy đặn rộng rãi của trán.

- Hoá Quyền: Khả năng quyết định, làm chủ. Gò má.

- Hoá Lộc: Khả năng buôn bán, kiếm lợi từ thiên hạ.Tóc, râu

- Hoá Kỵ: Tính đố ky, nghi ngờ, đối nghịch. Cái lưỡi, đôi môi.

- Khôi Việt: Vẻ sang trọng. Khu vực đầu mặt.

- Xương Khúc: Tình cảm, năng lực tưởng tượng. Xương, khớp.

- Kình Dương, Mộc dục: Bộ phận sinh sản của nam nữ.

- Thai: Tử cung
......

Một vài cách cục

a. Giàu

- Thái Âm, Vũ Khúc, Tham Lang, Thiên Phủ, Hoá Lộc, Thiên Mã, Lộc tồn được sinh vượng hay đóng tại mệnh mà hợp cách.

- Các sao tài tinh nói trên hội tụ cùng nhau.

- Tham ngộ Hoả Linh

- Tài, Phúc, Điền tốt.

- Riêu Lộc Trù đều vượng và bổ trợ cho mệnh.

b. Sang

- Âm Dương Xương Khúc Khôi Việt Khốc Hư đắc địa, phối hợp.

- Chính tinh hãm mà nhiều phụ tinh mạnh mẽ hỗ trợ, đặc biệt là Tam hoá.

- Vô chính diệu đắc cách: có trụ cột ( triệt tuần hay hung tinh đắc), có cát tinh chầu.

- Thanh Long Lưu hà, Thanh Long Hoá Kỵ, Tứ Linh đắc thời, đắc địa.

- Tử Vi, Phá Quân có nhiều trung tinh phò tá hợp cách.

- Sinh Vượng ở nơi vô chính diệu hay đất thuỷ mộc.

c. Uy quyền

- Thiên Tướng, Vũ Khúc, Thất Sát có khí thế mà ứng với mệnh hay hạn.

- Cô, quả, đẩu quân, thái tuế

- Hoá Quyền.

- Mã Khốc Khách, Hoa cái.

- Khôi Việt vượng và có cặp.

d. Hạnh phúc

- Đào Hồng Hỉ, Thiên Trù, Hoa cái, Thanh Long, Thiên Riêu, Âm Dương, Long Phượng,Thai Toạ, Quang Quý.Những sao này chỉ niềm hạnh phúc trong tâm hồn. Nếu chúng đóng tại cường cung, nếu được sinh vượng và hội cùng nhiều cát tinh thì hạnh phúc được hưởng sẽ rõ nét, ngược laị thì dễ bất hạnh.

-Cung Mệnh và cung Phúc có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trạng thái tâm lý chính của đương số. Hai cung này tốt thì dù đời có nhiều gian khổ, đương số vẫn cảm nhận được nhiều hạnh phúc.

e. Sức khoẻ, tuổi thọ

- Cách xấu: Xương Khúc với Hoá Kỵ, Cơ với Hoả Linh, Lương Tham với Kình, Nhật Nguyệt với Kình Đà Riêu Kỵ, vô chính diệu mà không có người trông giữ ( triệt tuần, thanh long, lục sát vượng), Tử Phủ với kiếp không thêm sát tinh...

- Cách tốt: Chính tinh miếu địa, sát tinh không khắc với chính tinh và bản mệnh. Vòng tràng sinh tốt. Phúc tinh được vượng và ở cường cung.

- Sao Bệnh, Tuyệt, Kiếp sát và Hoá Kỵ đặc biệt không tốt cho sức khoẻ. Có nó thì tiêu chí bệnh tật tai nạn rõ nét, và dai dẳng.

Bàn về 12 cung

1. Cung mệnh

Mệnh cung là chủ thể của cả lá số tử vi. Phái tử vi phúc tông cho rằng cung Phúc là quan trọng nhất, nhưng không phải vậy. Cung Mệnh mới là cái gốc để xét đoán mọi vấn đề trong lá số.


Khi quan sát cung Mệnh người ta xét các yếu tố sau:
- Vị trí của cung mệnh trên lá số: nằm ở cung nào trong số 12 cung từ Tí đến Hợi. Nhị hợp, tam hợp, xung chiếu, giáp các cung nào.
- Các sao đóng trong mệnh, chiếu hợp vào mệnh. Có xem xét cả miếu vượng của sao.
- Tương tác giữa các sao có ảnh hưởng, giữa sao với cung mệnh, giữa cung mệnh với bản mệnh ( gồm mệnh nạp âm, can chi tuổi).


Thông tin có được từ cung Mệnh:
- Cách cục chính của đương số
- Hình dáng, tính cách, tài năng
- Một phần sự thành công trong cuộc đời: về tiền tài địa vị hay hôn nhân, thậm chí cả con cái.
- Mối tương quan giữa bản thân đương số với thân nhân và với xã hội xung quanh.


Thế nào là một cung mệnh tốt?
Cung Mệnh tốt là một cung mệnh thể hiện sự cường vượng, nhưng lại có sự hài hoà với các cung khác. Mệnh nam thì cần chỉ huy được các cung khác, thu hút được nguồn lực từ tam phương tứ chính., còn mệnh nữ chủ yếu cần nhu thuận, giúp đỡ cho các cung khác đặc biệt là cung chồng và cung con, tức cung Phu và cung Tử.

Như vậy một cung Mệnh tốt thường sẽ có:

- Chi của cung hoà hợp với bản mệnh: tương sinh hay ngang hoà với mệnh nạp âm. Nếu chi của cung trùng với chi của tuổi, thì rất tốt trong việc hỗ trợ cho những người mệnh yếu. Đây cũng là một chỉ dấu thuộc quý cách.

- Sao chính tinh thủ mệnh được sinh vượng, có ứng hợp với bản mệnh thì càng tốt.

- Cung mệnh hội tụ được các quý cách, phú cách. (Tham khảo các sách tử vi đã xuất bản).

Vì có ảnh hưởng tới nhiều cung trong lá số nên mệnh mà có Thất Sát thì thường có tính khắc với thân nhân.

2. Cung Phúc

Người ta thường coi cung Phúc là nói về họ hàng của đương số, và phúc phần của đương số.

Tôi trong nghiên cứu thấy rằng ý nghĩa về họ hàng không được chính xác lắm. Vì trong một họ có người giàu người nghèo, người tốt kẻ xấu, chênh lệch đã rất nhiều. Anh em lá số còn khác nhau huống chi cả dòng họ.

Ý chủ yếu của cung Phúc là thể hiện sự may mắn, được che chở hay không. Nếu một cung Phúc tốt thì đương số dễ gặp thuận lợi, an nhàn, được quý nhân giúp đỡ. Phúc vì tam hợp với Phu Thê nên tất nhiên có ảnh hưởng quan trọng tới người chồng, người vợ. Ngoài ra cung Phúc còn có ý nghĩa hỗ trợ để xem về con cái và bản mệnh thọ yểu của chính đương số.

Những sao đóng trong cung Phúc có ý nghĩa chỉ ra hạnh phúc và phúc đức của đương số phụ thuộc vào điều gì. Như cung Phúc có Đào Hồng sinh vượng thì hạnh phúc có được về tình duyên là rất đáng kể. Nếu Hoá Kỵ ở cung Phúc thì thường phải lao tâm khổ tứ, trắc trở tình duyên.

3. Cung Tài

Cung này chủ tiền bạc và các vấn đề liên quan tới tiền bạc của đương số. Nó không phải là cung duy nhất quyết định giàu nghèo như nhiều người lầm tưởng.

Nó cũng có thể là một cung chỉ tài năng, năng lực và công việc. Bởi vì những thứ này đều liên quan chặt chẽ tới tiền bạc. Ý nghĩa tài bạch không chỉ là tiền, mà bao hàm cả tài năng, năng khiếu.

Cung Tài tốt thì nên có tài tinh như Vũ Khúc Thái Âm Song Lộc, Trù Riêu, Linh Hoả hợp cách.... Có hung tinh cũng có thể tốt chứ không phải luôn luôn xấu, có điều hung tinh thì kiếm tiền hay dựng nghiệp sẽ vất vả hơn người khác.Thêm các sao có tính tích trữ, che giấu thì thường là tốt hơn, vì lộ ra thì dễ bị tranh cạnh.

Tài cung toàn sao rực rỡ sáng sủa nhưng lại không có tài tinh, tài tinh trong lá số bị phá hãm, thì chỉ giàu bề ngoài mà thực chất nghèo, hay ít của chìm.

4. Cung Phu hay Thê

Cung này chỉ người hôn phối. lại chỉ cả tính chất, kết quả của mối quan hệ giữa đương số với người khác pháì.

Cho nên một cung Phu Thê quá xấu thì kết hôn mấy lần vẫn chẳng được hài lòng. Còn cung Phu Thê tốt thì tuy vẫn có thể hai lần kết hôn, nhưng đều lấy được người ưng ý, cảm nhận được hạnh phúc và thuận lợi trong hôn nhân.

Cung Phu Thê không thể xem tách biệt mà phải kết hợp cùng cung mệnh, Nhật Nguyệt và các sao tình duyên để đoán.Tuy nhiên cung này đặc biệt có ý nghĩa khi luận hạn, hay xác định các điểm đặc biệt, sự kiện đặc biệt về người hôn phối, như năm kết hôn, v.v....

Hôn nhân ngoài đời rất đa dạng, từ nguyên nhân và hoàn cảnh lấy nhau lẫn đời sống gia đình. Do vậy nếu nhìn một cung Phu Thê xấu cũng chưa đoán quyết được là bỏ nhau, hay sát phu sát thê. Có thể chỉ đơn giản là lúc kết hôn bị nhiều phản đối, chung sống đồng sàng dị mộng.... Người phụ nữ ngoại tình có thể là rất tồi tệ đối với người đàn ông này, nhưng lại là chấp nhận được trong mắt người đàn ông khác.
Cho nên ý nghĩa của cung Phu Thê biến chuyển linh hoạt, tuỳ vào phối hợp trong lá số mà xác quyết .

5. Cung Tử Tức

Tử tức cung không những chỉ về con mà còn nói lên khả năng sinh sản, sinh dục nói chung. Vì lẽ đó mà khi các sao Thiên Hình Kiếp sát xuất hiện, thì người mẹ dễ phải mổ xẻ lúc lâm bồn.

Cung này được phép tốt hơn cung mệnh hay bất cứ cung nào trong lá số, theo đúng tinh thần của câu : "con hơn cha là nhà có phúc". Cung Tử tức tốt có nghĩa là các sao đúng cách cục, thể hiện ý nghĩa thấp nhất là con cái dễ nuôi, có hiếu, cao hơn thì là con cái phú quý làm rạng rỡ tổ tông.

Quan niệm truyền thống thường ưa có quý tinh và phúc tinh trong cung mệnh. Quyền tinh, sát tinh nếu xuất hiện nhiều thì có thể là hoạ, có thể là phúc, vì nó nếu không chỉ việc khó nuôi con, con hư hỏng thì đe doạ đến một cung mệnh yếu đuối: đây là đứa con khắc cha mẹ.

Quý tinh là gì? Là Nhật Nguyệt sáng sủa, tam hoá, long phượng, cái mã, khôi việt... Phúc tinh thì có Đồng Lương, Thiên phủ, Tứ đức, Quan Phúc, Quang Quý...

6. Cung Điền Trạch

Có câu: An cư thì mới lạc nghiệp. Ấy vậy mà người ta lại cứ đi coi Điền là một nhược cung.

Cung Điền chỉ nhà cửa, tài sản lớn, sự nghiệp lớn . Thời nào thì thời, quan to tất cái nhà thường cũng phải to, còn người nghèo thì nhà rách vách nát, thậm chí không có nhà . Thế nên cứ ngắm cung Điền thì biết được nhiều việc về sự giàu có hay nghèo hèn. Các ông quan to, giám đốc, lãnh đạo cung Điền phải rất tốt, nếu không thì khó mà tạo dựng được sự nghiệp, có tạo được thì cũng chỉ là danh tiếng suông, không có thực lực.

Cung Điền hay nhất là có tài tinh, có sao chủ sự sang trọng đẹp đẽ như Long Phượng Thai Toạ. Ngoài ra nên có sao chủ sự uy nghiêm,
sự hỗ trợ, sự bảo vệ, như Tả Hữu, Quan Phúc... để ý nghĩa về sự nghiêp được tốt đẹp.
Người có cung Điền tốt thì trong sự nghiệp có thể có những đầu tư vào lĩnh vực lớn như xe hơi, bất động sản. Cung điền suy yếu thì dù các cung khác có tốt, cũng chỉ nên làm các lĩnh vực gắn với sản phẩm nhỏ .

7. Cung Quan Lộc

Cung này ý nghĩa chính yếu nhất là nói lên công việc của đương số, những công việc mà đương số có duyên làm, có thể làm. Ngoài ra còn có ý nghĩa chỉ cấp trên, cơ quan.

Đương nhiên một cung Quan tốt thì công việc dễ dàng, thuận lợi. Có nhiều sao chủ quyền quý tài năng thì chuyên môn cao, có thể có khả năng lãnh đạo. Ý nghĩa quyền chức không thực sự quyết định tại đây. Chính vì vậy ta thấy ngoài đời có nhiều người chẳng giỏi về chuyên môn nhưng vẫn có ghế, có quyền thế đàng hoàng, đó là vì các cung như Điền, Di, Mệnh, Nô phối hợp tốt. Trường hợp Quan tốt và các cung kia cũng tốt thì địa vị có được do thực taì. Quan tốt cũng thường là công chức, làm cho chính quyền, nhà nước. Còn Quan không tốt thì là dân tự do nhiều hơn, và vẫn có thể thành đạt.

Tuỳ vào ngũ hành, tính lý và biểu tượng của các sao trong các cung Mệnh Tài Quan mà quyết định về nghề nghiệp, cung Phu Thê có thể bổ túc thêm với ý nghĩa tạo cách cục, hay chế hoá cho Quan Lộc.

Cung Quan còn thể hiện những gì đương số nhận được từ xã hội, từ người trên, cấp trên, cái này người ta gọi là " được lộc". Chữ Lộc ở đây không chỉ có nghiã hẹp là tiền tài.

8. Cung Thiên Di

Cung này chỉ khả năng thích ứng với xã hội và hoạt động trong xã hội . Với ý nghĩa đó thì nó sẽ gồm cả: khả năng kết giao bè bạn, lãnh đạo, thích ứng hay chỉ huy hoàn cảnh.... Và như vậy rõ ràng là một cung Di tốt sẽ góp phần quan trọng tạo nên thành công của cuộc đời. Người Di tốt thì khả năng giao tế đa số tốt.

Trong một ý nghĩa nhỏ hơn, nó chỉ chung về các hoạt động di chuyển, di cư của người đó trong đời. Vì vậy có vai trò quan trọng khi điểm hạn và xem có sống xa quê hay không.

Cũng từ các lý luận trên, ta suy ra cung Di tốt là cung Di có nhiều sao chủ sự linh hoạt, bén nhạy, mềm mỏng. Vậy thì Khôi Việt, Nhật Nguyệt, Tấu thư, Xương Khúc, Hoá Khoa ... hẳn nhiên là tốt. Một cung Di quá tốt cho đương số lời khuyên: li hương lập nghiệp. Mã Khốc Khách Lộc Trường Sinh là một cách tốt đặc biệt cho cung Di.

9. Cung Tật Ách

Có quan điểm cho là Tật ách thể hiện bản chất con người , còn cung Mệnh chỉ là vỏ ngoài. Lý luận này có nhiều điểm mâu thuẫn.

Rõ ràng có những người thể hiện không khác nhiều với bản chất.

Do đó cung Tật ách chỉ là chỉ chung về bệnh tật tai ách mà thôi. Ngay cả đám ma thế nào cũng chưa chắc được, cái chết và đám ma không nhất thiết nằm ở cung Tật ách. Tuy cung này không phải là cường cung, nhưng vì bệnh tật và tai ách gây ra nhiều khổ cực, lo lắng cho đương số, nên cung Tật xứng đáng được xem xét kỹ càng.

Trong cung này, quyền tinh quý tinh gì cũng chẳng quan trọng, chỉ quan trọng về các sao biểu tuợng cho bộ phận cơ thể và các phúc thiện tinh. Dĩ nhiên ai cũng muốn khoẻ mạnh và ít tai tật. Vậy thì trong cung này, cần nhất là sự sinh vượng và tránh sát tinh. Chính tinh vượng địa, Quang Quý Quan Phúc Tứ Đức lúc nào cũng được chào đón. Triệt Tuần tại một cung Tật vô chính diệu cũng là cách tốt.

Muốn đoán cụ thể hơn thì từ tượng hình của các sao mà luận, không có gì phức tạp.

Có một vai trò bổ sung khác của cung Tật. Nếu cách của cung Mệnh là người che giấu, hay là người giả dối, thì người ta có thể suy ra tính cách bản năng của anh ta trong cung Tật ách. Nhưng ý nghĩa này rất mờ nhạt, hiếm khi phải sử dụng.

10. Cung Phụ Mẫu

Phụ mẫu cung chủ yếu chỉ vai trò của cha mẹ trong đời sống của đương số, nói hình tượng hơn là ta nhìn cha mẹ của đương số qua lăng kính của chính đương số . Chứ không nhất thiết là nó có thể cho thấy chính xác cuộc đời của cha mẹ.

Trường hợp cung Phụ mẫu rất đẹp thì thường là cha mẹ khá, tất nhiên phải phối hợp với Nhật Nguyệt . Nhưng khi cung Phụ mẫu xấu thì chưa chắc cha mẹ đã kém, mà chỉ là đương số không nhận được hỗ trợ của cha mẹ, không được hưởng lộc hay tình yêu từ song thân. Còn có ý nghĩa khác: khắc phụ mẫu.

Nằm trong tam hợp Tử Phụ Nô, xung chiếu với Tật ách, Phụ mẫu có tác dụng phối hợp để luận giải những cung này.

11. Cung Huynh Đệ

Huynh đệ cung chỉ số lượng anh em, sơ lược về cuộc đời của anh em và quan hệ của anh em với đương số. Cung này không quan trọng lắm.Nếu có nhiều cát tinh có khi còn là ý nghĩa xấu, bởi như vậy là mất hết tinh hoa của các cung khác.

12. Cung Nô Bộc

Cung này chỉ bạn bè, người dưới quyền, vợ bé. Hoàn toàn không có ý nghĩa: nếu cung Nô vượng cung mệnh suy tức là mình làm tôi tớ cho người khác.

Việc mình làm thuê hay mình hèn kém là do các cung Mệnh Tài Quan Điền Di chi phối, chứ không phải từ cung Nô.

Cung Nô cần nhất là tính hoà thuận, hỗ trợ, nên có Tả Hữu là hợp nhất, không nên gặp hung sát tinh và các sao chỉ bất hoà như Hoá Kỵ, Phá Điếu. Cung này mà nhiều sao tình duyên chứng tỏ đời sống tình ái phong phú, nhiều chi nhiều nhánh, hoặc phóng túng .

Vài sao quan trọng

1. Thái Dương, Thái Âm

Sao Thái Dương chủ về người cha, người chồng, con trai, yếu tố dương trong cơ thể đương số. Ngược lại Thái Âm chủ người mẹ, người vợ, con gái, yếu tố âm.

Âm Dương cả bộ cho biết hệ thần kinh, khả năng điều hoà, thích ứng, mối quan hệ vợ chồng, đồng thời còn là biểu tượng của đôi mắt.

Trong số các chính tinh thì Âm Dương có vẻ ngoài dễ nhìn nhất. Nét đẹp của Âm Dương sáng sủa, thanh tú. Nếu cùng với các cát tinh, đào hoa tinh thì nghiêng nước nghiêng thành.

Hai sao Âm Dương nếu được sinh vượng, hội cùng nhiều cát tinh phò tá là một sự may mắn lớn . Trong trường hợp này thì dù công danh tiền bạc, thân nhân hay hạnh phúc nói chung của cuộc đời đều được thêm phần tốt đẹp. Người có Âm Dương như vậy không bao giờ là kẻ bần cùng, cuộc sống được mức trung bình trở lên.

2. Hoá Khoa

Thật chẳng ngoa khi các nhà nghiên cứu đi trước tôn xưng Khoa tinh là Đệ nhất giải thần. Nhiều sao lúc cát lúc hung, nhưng riêng Hoá Khoa lúc nào cũng ban phúc. Đã có Hoá Khoa ở Quan hay Mệnh, hay Di, thì bất luận phú quý hay không, đều là người có trình độ, có hiểu biết, tính tình không đến nỗi tồi tệ.

Nếu Hoá Khoa được hợp cách, kết hợp cùng các sao tốt và cách cục tốt, thì nó đưa đương số đến tuyệt đỉnh vinh quang. Ý nghĩa của Khoa tinh không thiên về quyền chức, mà thiên về sự sang cả, học vấn, sự thông thái, thuộc hàng quý nhân văn chức trong xã hội. Sự thành công của Hoá Khoa trong trường hợp này là thành công đi kèm với công nhận và nổi tiếng, chứ chẳng thể là trọc phú hay anh hùng áo vải.

Cũng chính vì vậy mà Khoa tinh không nên bị hãm địa hay gặp Triệt Tuần, để đảm bảo tài năng được thi thố và thừa nhận, thi cử dễ dàng.
Khoa tinh còn biểu thị cho khả năng nghiên cứu chuyên môn, cho người đa tài, hiểu rộng, có tầm ảnh hưởng đến nhiều người.Khi giải hoạ nhờ Hoá Khoa, tai nạn được giải đi do chính nỗ lực hay phúc đức của đương số tạo ra, chứ không phải do tiền bạc, do người thân, v.v...Vì lẽ đó Khoa tinh đồng thời cũng đem lại tính cách tự chủ, có lập trường, có tự trọng mà không phải là ương ngạnh.

3. Thanh Long

Tuy thường bị coi là một sao nhỏ nhưng Thanh Long lại khá quan trọng.

Nguyên do là sao này chỉ khả năng linh tính, giác quan thứ 6. Nó đồng thời biểu tượng cho quyền uy của người lãnh đạo, của bậc thần linh, với biểu tượng con rồng. Những phản vi kỳ cách nhiều trường hợp là do Thanh Long, những điểm xấu được giải hoá một cách khó hiểu cũng lại do Thanh Long.

Bạn cứ kiểm lại những lúc mình may mắn do được linh tính, do trực giác, thì sẽ biết tác dụng của Thanh Long hữu ích như thế nào.

4. Đào Hồng

Hai sao này luôn phải để ý trong quá trình giải số. Vì tình yêu và hôn nhân quyết định một phần lớn cảm giác hạnh phúc hay bất hạnh trong đời người . Đào Hồng vừa chỉ tình cảm, cách yêu của chính đương số, vừa là hình bóng của người yêu đương số.

Đào Hồng tốt nhất là tránh xa sát tinh, được sánh cùng cát tinh. Đào Hồng không nên tụ cùng các sao tình ái, tính dục khác vào một chỗ, vì sự thái quá này sẽ gây nên tai hoạ hay dâm dục. Các sao đó là: Mộc dục, Thai, Thiên Hỉ, Thiên Riêu, Tham Lang, Kình dương, chính tinh hãm đặc biệt là Thiên Đồng hãm. Thái Âm hãm, Thất sát hãm.

5. Quang Quý

Tương đương với Hoá Khoa về tính cứu giải, nhưng Quang Quý hiệu lực khác biệt ở chỗ nó thể hiện bàn tay của đấng linh thiêng, trời phật, thể hiện công đức tích tụ lâu dài mà có, ngoài ra tượng trưng rõ ràng nhất cho thần phật.

Quang Quý chỉ thực sự tác dụng nếu đi kèm với hình tượng thần phật hay hoạt động tích phúc trong thực tế. Liên hệ tới việc cầu cúng, làm lễ tại chùa để xin lộc, hay giải nạn.

Quang Quý còn mang ý nghĩa ơn huệ, ưu ái, ưu tiên.

6. Hoá Kỵ

Sao này đúng là "đáng gờm" mỗi khi mở số ra. Về mặt xã hội, Hoá Kỵ chủ thị phi miệng tiếng, tai bay vạ gió. Về tình cảm Hoá Kỵ là sự bất hoà, cãi vã, bực dọc ngấm ngầm về nhau. Về sức khoẻ, Hoá Kỵ biểu trưng cho bệnh tật, đau ốm lâu dài, tiêu hoá kém. Nếu cách cục xấu thì còn bị bệnh tật về mắt, phụ nữ kinh nguyệt kém .Về tính cách, Hoá Kỵ phần nhiều đa nghi, thủ đoạn.

Chỉ được mỗi một cái là nó không tác dụng nhiều lên nhan sắc. Có Hoá Kỵ vẫn có thể xinh đẹp như thường.

Hoá Kỵ không nên gặp Nhật Nguyệt, Liêm Trinh, Cự Môn. Nên gặp Thiên Tướng, Thanh Long, Lưu Hà, Hoá Khoa thì mới có thể cứu giải.

Gặp cách tốt thì Hoá Kỵ là người kín đáo, giỏi tính toán hoạch định, biết nghề y dược, có thể có thành tựu lớn trong nghiên cứu, tham mưu, luật pháp.

Nguồn:Các bước để giải đoán tử vi
Sửa lần cuối bởi Tây Đô đạo sĩ vào lúc 19:05, 13/02/12 với 2 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: yankee, Quan Nguyen, lonlygirl_83, huuluc, kimchionline, Ngàn Phố, tomtit, HoaSenTuoiSang, huonggiang86, minhgbc, công chúa mùa thu
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Những trường hợp 2 sao đồng cung (sao đôi)

Bài sưu tầm - Tác giả: Thanh Y - VDTT (viết theo ý ông Lý Phật)

Tất cả những ai nghiên cứu Tử Vi đều biết có 14 sao chính (còn gọi là chính tinh hoặc chính diệu) là Tử Vi , Thiên Phủ, Vũ Khúc, Thiên Tướng, Thất Sát , Phá Quân, Liêm Trinh, Tham Lang, Thiên Cơ, Thái Âm, Thiên Đồng, Thiên Lương, Cự Môn, Thái Dương .

Mười bốn sao trên 12 cung, tạo thành 14x12 = 168 cách. Nhưng vì phân phối không đồng đều nên có cung không có sao, có cung lại có đến hai sao . Có 24 trường hợp đồng cung , đều xảy ra ở 2 vị trí xung chiếu, tính thành 24x2 = 48 trường hợp. Vì mỗi trường hợp liên quan đến 2 sao, tổng cộng những trường hợp đồng cung chiếm tới 48x2 = 96 cách, tức là đa số (57%) của 168 cách .

Cứ xét 3 sao Tử Vi, Vũ Khúc , Liêm Trinh thì thấy rõ những cách đồng cung nhiều đến thế nàọ Tử Vi chỉ đứng một mình ở Tý Ngọ, còn thì đồng cung với Phá Quân ở Sửu Mùi, với Thiên Phủ ở Dần Thân, với Tham Lang ở Mão Dậu, với Thiên Tướng ở Thìn Tuất; Vũ Khúc chỉ đứng một mình ở Thìn Tuất, còn thì đồng cung với Thiên Phủ ở Tý Ngọ, với Tham Lang ở Sửu Mùi, với Thiên Tướng ở Dần Thân, với Phá Quân ở Tỵ Hợi; Liêm Trinh chỉ đứng một mình ở Dần Thân, còn thì đồng cung với Thiên Tướng ở Tý Ngọ, với Thất Sát ở Sửu Mùi , Phá Quân ở Mão Dậu, với Thiên Phủ ở Dần Thân, với Tham Lang ở Thất Sát . Tóm lại, tính theo toán học thì xác suất để Tử Vi , Vũ Khúc, Liêm Trinh đứng một mình chỉ là 1/6 (1)

Vậy mà khi bàn đến cung Mệnh, tức là cung quan trọng nhất, gần như chẳng thấy sách nào do người Việt biên soạn chú ý đến trường hợp hai chính tinh đứng đồng cung . Ý nghĩa các chính tinh chỉ được trình bày riêng rẽ, thảng hoặc ta gặp những câu phú nhắc đến vài trường hợp hai sao cùng cung một cách hết sức đại khái . Thiếu sót trầm trọng này khiến người nghiên cứu Tử Vi không khỏi bối rối . Trường hợp Tử Vi Tham Lang chẳng hạn . Đọc "Tử Vi đẩu số tân biên" của Vân Đằng Thái Thứ Lang - được coi như sách gối đầu giường của những người nghiên cứu đẩu số - ta thấy Mão Dậu là bình địa của Tử Vi, hãm địa của Tham Lang . Đọc trang 60 thấy Tử Vi bình hòa "kém thông minh nhưng trọn đời cũng được no cơm ấm áo, và chắc chắn là sống lâu", trang 116 thấy Tham Lang hãm địa ở Mão Dậu "làm việc gì cũng thất bại và hay gặp những sự chẳng lành . Chỉ có tu hành mới mong được yên thân và hưởng phúc thọ" . Vậy người có Tử Tham ở Mão Dậu không đi tu thì có được no cơm ấm áo không, có được sống lâu không?Thật chẳng biết tính thế nào cho phải.

May mắn làm sao , gần đây Đài Loan có xuất bản quyển "Đàm thiên thuyết địa thoại Tử Vi" của ông Lý Phật (2), trong đó vấn đề hai sao cùng thủ mệnh được phân tích khá tỉ mỉ (3). Nhận thấy rằng đây là một tài liệu quí giá , người viết đã tóm lược các ý chính cộng thêm một chút ý kiến riêng thành bài viết này, mong góp phần nào lợi ích cho quí vị nghiên cứu Tử vi đẩu số .

1/ TỬ VI THIÊN PHỦ (Tử Phủ)


Hai sao Tử vi Thiên phủ chỉ cùng cung tại Dần Thân, đều được coi là vị trí cực tốt, tạo thành "Tử Phủ đồng cung cách".

Mệnh được cách này tất có khả năng lãnh đạo, kiến thức, mưu trí, tài năng xuất chúng, phản ứng mẫn tiệp, xử thế hòa hợp mà vẫn giữ khoảng cách với mọi ngườị Ngoài ra lại có tinh thần trách nhiệm cao độ, nhiệt tâm phục vụ công ích, bất chấp trở ngại khó khăn.

Nhưng vì Tử vi và Thiên Phủ là hai lãnh tụ của hai chùm sao khác nhau, khi cùng cung ví như hai hổ cùng ở một rừng tất phải có xung đột; nên sự tốt đẹp không được hoàn hảo . Tử Vi có tính động trong khi Thiên Phủ thiên về tĩnh . Tử Vi có tính khai phá, Thiên Phủ có tính bảo thủ. Tử Vi đại diện ước vọng cao vời, Thiên Phủ đại diện mục đích thực tế. Hai sao hợp lại, mâu thuẫn không thể nào tránh được.

Nên người có Tử phủ đồng cung thường mang ước vọng quá cao vời, dễ trở thành uổng công phí sức . Vì tự phụ thông minh, họ bướng bỉnh chỉ hành động theo ý riêng . Khi gặp thất bại lại đổi chiều hướng quá sớm, nên kết quả khó được như ý . Nói chung, nếu các phụ tinh không được tốt đẹp để giúp họ gặp nhiều may mắn, người có Tử Phủ đồng cung rất dễ trở thành kẻ có tài , sống đời bất đắc chí.

2/ TỬ VI THIÊN TƯỚNG (Tử Tướng)


Chỉ đồng cung tại Thìn Tuất, tạo thành cách "Tử Tướng đồng cung" . Hai cung này mệnh danh là Thiên la Địa võng, ám chỉ sự khó khăn, khó nhọc, bị nhiều trói buộc phải vượt qua mới thành công được.

Tử Vi nhiều năng lực, đòi hơn người khác. Thiên Tướng có khuynh hướng phục vụ tha nhân, hành sự suy tính cẩn trọng . Tử Vi mang quí cách , Thiên Tướng hòa hợp với người . Hai sao hợp lại biểu lộ thành cá tính bên ngoài thân thiết ôn hòa, dễ được người kính mộ, nhưng lại không hợp với những nghề như thầy giáo, thầy thuốc v.v. . .

Ưu điểm : Chịu khó nghiên cứu học hỏi, phong thái tao nhã, nhiệt tâm phục vụ công ích, hành động cẩn trọng, có khả năng hòa giải, biết tiến thủ tùy lúc.

Khuyết điểm : Tâm tính bất chợt , ý muốn vượt hơn khả năng, trọng hư danh hơn thực chất . Cá tínhh bướng bỉnh, dễ hành động sai lầm rồi hối hận. Khả năng phán đoán thị phi không mấy xuất sắc . Hay vì lợi nhỏ mà mất lợi lớn.

3/ TỬ VI THẤT SÁT (Tử Sát)

Chỉ cùng cung tại Tị Hợi, tạo thành cách "Thất Sát ngưỡng đẩu".

Tử Vi có tính cách lãnh đạo, Thất Sát có phong cách hùng dũng, thích đảm đương việc khó nhọc . Hai sao cộng lại hơn Tử Vi đơn thủ ở chỗ chịu khó hơn, hơn Thất Sát đơn thủ ở chỗ cẩn trọng hơn . Ở cùng cung thì không chịu nhượng bộ người.

Hai sao cùng cung ở Tỵ Hợi là nơi ngụ của sao Thiên Mã (Dần Thân Tỵ Hợi thường được gọi là tứ mã địa) , tức vị trí của biến động , thay đổi . Nên thường có những gặp gỡ, duyên nghiệp phức tạp, thành bại khó lường . Cá nhân sẽ có nhiều cơ hội đi lại, biết nhiều chuyện thiên hạ, nhiều sức sống , được hưởng nhiều thú lạ trên đời.

Tử Vi phong cách uy nghiêm, Thất Sát tính khí cương cường . Nên cá nhân có khả năng lãnh đạo . Dù trải nhiều thay đổi nhưng con đường đã định thường đi đến nơi đến chốn. Thất Sát cố chấp, Tử Vi nhiều suy nghĩ, nên bổ túc khuyết điểm cho nhau, có thể là người vô cùng hợp lý.

Ưu điểm : Trí dũng kiêm toàn , độc lập hành sự, có khả năng chịu đựng lao khổ, có tinh thần trách nhiệm, biết sửa những sai lầm của mình . Có chí lớn hơn đời, ân oán phân minh, không sợ nghịch cảnh, quả cảm dũng mãnh.

Khuyết điểm : Tâm tính sôi nổi bất thường. Mơ ước quá cao, suy tính không trọn vẹn vấn đề nên dễ làm hỏng việc . Lâm sự độc đoán, không chịu nghe lời thật mất lòng, lại dễ tin lời dối của kẻ xấu xa . Đời sống thiếu ổn định, thiếu kế hoạch lâu dài.

4/ TỬ VI PHÁ QUÂN (Tử Phá)

Chỉ cùng cung tại Sửu Mùi, tạo thành "Tử Phá Mộ cung cách".

Nếu đứng riêng đặc điểm của Tử Vi là tính khai phá, của Phá Quân là bất chấp hậu quả. Nhưng khi đứng chung Tử Vi bị Phá Quân lấn át, ngược lại Phá Quân cũng kính trọng khí độ của Tử vi . Hậu quả là hai bên cùng tự chế mà sinh ra mâu thuẫn.

Hai cung Sửu Mùi là Âm Thổ, đồng thời là Mộ địa, biểu tương sự cẩn trọng, nhiều suy tính . Vì thế mà có khả năng giữ mọi sự ở trạng thái bình hòa, giảm thiểu những biến động do khuynh hướng của Phá Quân gây ra.

Tử Vi có khuyết điểm là suy nghĩ quá nhiều, cô độc, trái tim dễ xúc động . Phá Quân dũng mãnh, cố chấp . Hai sao cộng lại, hay khởi sự bất chợt (do ảnh hưởng của Phá Quân) rồi khi lâm sự lại do dự, nhiều khi sắp thành công lại để cho thất bại (vì ảnh hưởng của Tử Vi ngăn chận đường lối tàn nhẫn của Phá Quân).

Ưu điểm : Phong cách đặc biệt khác người . Kiến văn quảng bác, hành sự cẩn trọng, khả năng phán đoán cao, chịu khó học hỏi , có khả năng tự học tự biết không cần người giảng dạy . Tiến thủ có suy tính, coi thường những thành bại ở đời.

Khuyết điểm: Cố chấp, nhưng khi lâm sự lại hay thối nhượng . Đời sống bất định, ở tuổi thanh niên thiếu phương hướng để cuốn theo chiều gió, sống đời sôi nổi theo khuynh hướng Phá Quân . Đến tuổi 30, 40 thường đổi tính, trở thành gần Tử Vi mà xa cách Phá Quân (4).

5/ TỬ VI THAM LANG (Tử Tham)

Chỉ cùng cung ở Mão Dậu, tạo thành "Tử Tham Mão Dậu cách".

Xét vòng Trường sinh của 4 hành Kim, Mộc , Thủy, Hỏa trên địa bàn (tức lá số Tử Vi) thì Mão Dậu là hai cung thuộc vị trí "Mộc Dục", biểu tượng những ham muốn tầm thường, nên còn gọi là "Đào hoa" cung.

Tử Vi vốn đã có khí phái phong lưu, Tham Lang lại là sao của lòng tham vật dục , nên trường hợp thông thường là đời sống buông thả. Nhưng chú ý ! Vì khuynh hướng của hai sao quá tương phản nên liên tục khắc chế nhau, mà tùy hoàn cảnh kết cuộc có thể hoàn toàn trái ngược .

Đó là lý do tại sao Tử Tham Mão Dậu cũng là cách của nhiều bậc chân tu, coi thường mọi thú vui của đời sống.

Ưu điểm : Đa tài đa nghệ, học hỏi rất nhanh, kiến thức phong phú, ngôn ngữ có phong cách nho nhã, thân thiết với nhiều người, xử sự khéo léọ Nếu sống đời buông thả thì đáng gọi là tay chơi . Nếu sống đời ẩn dật lại đáng gọi là bậc chân tu.

Khuyết điểm : Thiếu tính nhẫn nại, thiếu khả năng chịu đựng thất bại, nhiều chủ kiến, (thường) tham lam hưởng thụ, dễ đổi thay ý kiến, quan điểm. Sống vô kỷ luật , qui củ, gây ra những hoàn cảnh phức tạp tự mình không giải quyết nổi, thường vì tình mà khổ lụy, đời sống thành bại khó lường.

6/ VŨ KHÚC THIÊN PHỦ (Vũ Phủ)

Chỉ đồng cung tại Tý Ngọ, tạo thành "Phủ Vũ đồng cung cách"

Tý Ngọ là hai cung thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa" . Thiên phủ có khả năng giữ gìn tiền bạc, Vũ Khúc có khả năng phát triển những gì có sẵn thành lớn mạnh hơn . Hai sao lại cùng có khả năng lãnh đạo . Nên có Phủ Vũ đồng cung nếu thiên về thương mại tất phải thuộc hàng chủ nhân, không chịu ở vị trí thừa hành kẻ khác.

Đây là một trường hợp đặc biệt của Vũ Khúc , dù có hội họp với Văn Khúc đi nữa cũng không thể nào là nhân tài văn học . Ngoài ra cũng tối kỵ nghề y dược, nếu cố theo đuổi chỉ đạt mức tầm thường mà thôi.

Ưu điểm : Khoan hòa thận trọng, tiến thủ khéo léo, làm việc đến nơi đến chốn, cá tính quả quyết, được bạn bè yêu mến, khoan dung đại độ, xử thế tích cực lạc quan, suy nghĩ kỹ lưỡng, có khả năng chịu đựng thất bại, đời sống phong phú, biết đồng cam cộng khổ với người khác.

Khuyết điểm : Mơ ước quá cao vời, thích ở nơi cao, được người trọng vọng, hay bắt ép người, thiếu khả năng nhẫn nại, chủ quan tính quá caọ Mặc dù tỏ ra dũng cảm , khi gặp kẻ cường ngạnh thường hay mau chóng chịu thua.

7/ VŨ KHÚC THIÊN TƯỚNG (Vũ Tướng)

Chỉ đồng cung tại Dần Thân, tạo thành "Vũ Tướng đồng cung cách".

Vũ khúc là sao mang nhiều đặc tính khác nhau . Có phần năng động như Thái Dương, phần suy nghĩ như Thiên Đồng, phần mưu tính như Thiên Cơ, phần thụ động như Thái Âm; tuy vậy nói chung vẫn ngã về phía tĩnh, có tinh thần trách nhiệm, nhưng cầu mong sự an ổn . Thiên Tướng cũng mang đặc tính thụ động , muốn giảm thiểu mọi sự đổi thay . Hai sao hợp lại gây ra khuynh hướng bảo thủ, thiếu tính sáng tạo, không phát triển cái mới mà chỉ giữ những gì có sẵn . Người có Vũ Tướng cùng cung không phải lo vật lộn với miếng cơm manh áo, nhưng vì tâm lý thụ động, lại thiếu những vận may lớn nên rất khó trở thành đại phú.

Ưu điểm : Nhiều khả năng , chịu học hỏi, không quản lao khổ, lời nói đi đôi với việc làm, ra công hết sức .

Khuyết điểm : Tính ương nhạnh, hành sự nôn nóng, không chịu nghe lời khuyên bảo, nhiều bệnh tật, ít gặp may mắn . Thiếu khả năng sáng tạo, đời sống thường khổ tâm vì hay so sánh với người khác mà sinh bất đắc chí.

8/ VŨ KHÚC THẤT SÁT (Vũ Sát)

Chỉ đồng cung tại Mão Dậu.

Vũ Khúc cương cường, quả quyết, nhưng thận trọng. Thất Sát dũng mãnh, cố chấp, hành sự muốn gì làm nấy, ít nghĩ đến hậu quả . Vũ Khúc nhẫn nại, Thất Sát nóng nảy . Vũ khúc bảo thủ, Thất Sát xông xáo . Nên cá nhân có hai sao cùng cung tâm lý luôn luôn dẫy đầy mâu thuẫn.

Mão Dậu thuộc đào hoa địa nên người nặng cảm tình, sống nhiều về nội tâm . Về tài chánh khá giả, đổi nghề nghiệp nhiều lần, thường làm nghề buôn bán . Thiếu niên gian khổ, trung niên tạo nghiệp, lão niên bền vững.

Ưu điểm : Thông minh ưu nhã, trí dũng song toàn, có khả năng chịu đựng gian khổ, biết tiến thối, ý chí mạnh mẽ, làm việc đến nơi đến chốn, chăm chỉ, kiến thức rộng rãi, biết tự khắc chế, có khả năng tổ chức, lãnh đạo.

Khuyết điểm : Ương ngạnh, không hợp với đám đông, cô độc, ít có người thân, không chịu nhận cái sai của mình, chỉ làm theo ý muốn, có tâm lý phản kháng những gì người khác đề ra, thiếu tính nhẫn nại lâu dài . Vì chỉ biết đến mình, rất dễ thành kẻ xấu xa, độc ác.

9/ VŨ KHÚC PHÁ QUÂN (Vũ Phá)


Chỉ cùng cung tại Tỵ Hợi, tạo thành Vũ Phá đồng cung cách.

Nếu Vũ Khúc chỉ đứng một mình ở cung Mệnh thì cá nhân là người cô độc, thông minh sáng trí, biết phân định lẽ tiến thối công thủ đúng lúc . Nhưng khi cùng cung với Phá Quân thì mọi tính chất đều bị chiết giảm có đến hơn phân nửa . Cá nhân vẫn có tâm lý cô độc, tâm sự phức tạp không có người chia sẻ . Thiếu tính nhẫn nại, hành xử mâu thuẩn nên dễ bị hiểu lầm.

Tỵ Hợi thuộc "tứ sinh tứ mã địa", nên đời bôn ba trôi nổi, đi lại nhiều duyên lạ . Thiếu thời sống xung động , về già thích an tĩnh (xem chú thích 2) . Hợp nhất với nghề buôn bán.

Ưu điểm : Không ngại gian khổ, biết tự trọng, không để người khác phải coi thường . Có khả năng tự tạo cơ nghiệp, làm việc không mệt mỏi . Có thể đảm nhiệm trọng trách.

Khuyết điểm : Chủ quan tính quá lớn, lại quá tự tôn, hay phản kháng , hành sự nóng nảy, hay bỏ việc hiữa chừng, không chịu nhường kẻ khác, nội tâm thường bị dằn vặt bởi sự cô đơn, không làm việc được với người khác, không chịu nghe lời hay của kẻ khác.

10/ VŨ KHÚC THAM LANG (Tham Vũ)

Chỉ cùng cung tại Sửu Mùi , tạo thành Tham Vũ đồng hành cách.

Sửu Mùi cùng là âm Thổ mộ cung , thiếu niên chỉ tích tụ kinh nghiệm mà khó phát huy khả năng . Từ trung niên trở đi, nhờ kiến thức có sẵn, cộng thêm may mắn mới tạo thành sự nghiệp, vì thế mới có câu "Vũ Tham bất phát thiếu niên nhân ".

Vũ khúc chủ sự uy nghiêm, Tham Lang chủ sự buông thả . Hợp nhất là nghề buôn bán , nghệ sĩ trình diễn v.v. . .Nhất định không hợp với các nghề như thầy giáo, bác sĩ , nhà văn v.v. . .

Ưu điểm : Biết sống hòa với người, nhiều khả năng, biết thu nhận kinh nghiệm trải qua trong đời sống, dám bỏ cũ theo mới , không ngại gian lao khốn khó, dám làm dám chịu.

Khuyết điểm : Tâm tính cô độc, xem mình quá cao nên hay bất mãn, đời sống không qui củ, tình cảm thay đổi luôn luôn, thiếu tính nhẫn nại, thích tranh cường háo thắng, không chịu dưới tay kẻ khác . Dù có đạt mọi điều kiện mong muốn, vẫn vì ham muốn nhiều thú vui mà không tìm được bình an.

11/ LIÊM TRINH THIÊN PHỦ (Liêm Phủ)

Chỉ cùng cung tại Thìn Tuất, thường gọi là "thiên la địa võng" , thúc bó, khiến năng lực khó phát huy, thường phải buông bỏ nhiều ước mơ, nhưng bù lại có nhiều kinh nghiệm đời sống.

Liêm Trinh không sợ thành bại, Thiên Phủ bất chấp tiểu tiết, hai sao này hợp lại, tất được nhiều người yêu, ít kẻ ghét . Nên thiên về kỹ thuật, phát triển khả năng chuyên nghiệp thì có thể thành tựu . Còn như theo đuổi chính trị, thương mại thì e là khó lòng tránh khỏi thất bại.

Ưu điểm : Tâm địa khoan hòa, không để dạ thù oán, đối xử dễ chịu và được lòng nhiều người, biết đồng cam cộng khổ, có trí thông minh và chịu khó học hỏi, có khả năng tự lực, không nhờ cậy kẻ khác, lại không hay tranh quyền đoạt lợi, biết tự chế những ham muốn của mình.

Khuyết điểm : Không có mơ ước cao, thiếu khả năng sáng tạo, tâm hồn ít được bình an, hay đổi khuynh hướng, do dự khi lâm sự, lắm khi vận dụng sở đoản thay vì sở trường, khả năng phán đoán yếu kém nên xử trí dễ sai lầm, ít được thân nhân hổ trợ.

12/ LIÊM TRINH THIÊN TƯỚNG (Liêm Tướng)

Liêm Trinh có tính cuồng phóng, không chịu nghe lời phải . Ngược lại Thiên Tướng bình hòa nhỏ nhẹ, biết tôn trọng quan điểm của người khác . Hai sao cùng cung là người tao nhã, có khả năng hấp dẫn người xung quanh , nhất là người khác phái, dễ vướng mắc vào những cuộc tình rắc rối.

Chỉ cùng cung tại Tý Ngọ , thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa", đời sống lắm sóng gió, khó lòng ổn định , hôn nhân không được hoàn mỹ, lý trí và con tim có nhiều mâu thuẫn . Việc đối xử với người khác cũng thay đổi thất thường . Mặt ngoài bình tĩnh nhưng trong lòng luôn luôn bất ổn . Tuy thế lại được hưởng nhiều lạc thú trên đời.

Ưu điểm : Không sợ thất bại, làm việc tận lực, có cá tính đặc biệt, biết sống phù hợp với hoàn cảnh, không vì nghịch cảnh mà ngã lòng, tự tìm được hạnh phúc cho mình.

Khuyết điểm : Ước vọng quá cao, ham muốn quá nhiều, việc gì cũng muốn có kết quả nhanh chóng, không đủ nhẫn nại, suy nghĩ đổi thay nhanh chóng, dễ bị ganh ghét nhòm ngó . Dễ khốn khổ vì tình cảm, không biết tự lượng sức mình, dễ gặp nhiều hoàn cảnh khó khăn.

13/ LIÊM TRINH THẤT SÁT (Liêm Sát)


Liêm Trinh có khả năng làm thân với người mau lẹ, được người xử sự thật tình, như có ma lực . Dễ vượt hơn người khác, dễ bị người ghét.

Thất Sát tính nóng, thích làm kẻ anh hùng trượng nghĩa, bất kể hậu quả. Hai sao hợp lại thành người xung động, nhất định đạt mục tiêu bất kể phương pháp, tạo thành cảnh ngoài tốt đẹp trong chẳng có gì, khổ tâm không dám tiết lộ . Đời sống vì thế chỉ đạt được vật chất, còn tinh thần thiếu thốn . Chỉ đạt mục tiêu ngắn hạn, mà không chịu nhìn xa . Nên sống như nước chảy mây trôi, đời khó lòng định hướng.

Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, là "mộ địa" , tạo nhiều trở ngại, nên đối với người thường không hòa thuận, hay gặp nhiều khó khăn về tiền bạc . Cả hai sao cùng thích động, không chịu nổi tĩnh . Nên nếu không có yếu tố cứu giải tất đời sống gặp rất nhiều phiền toái . Nếu tôn sùng tôn giáo thì đỡ đi nhiều.

Ưu điểm : Tính tình hào phóng, bất chấp tiểu tiết, dám làm dám chịu, khi lâm sự bất kể gian khổ, hiểm nguy, xử sự đơn giản mau chóng, có tình thần hiệp nghĩa, biết tôn trọng danh dự kẻ khác, đầu óc rộng rãi.

Khuyết điểm : Tự tung tự tác, thích gì làm nấy, không suy nghĩ cặn kẽ nên lâm vào nhiều cảnh khó khăn . Thiếu may mắn về đường hôn nhân, thường bị miệng tiếng thị phi, thường vô tình đụng chạm kẻ khác mà bị phiền toái.

14/ LIÊM TRINH PHÁ QUÂN (Liêm Phá)


Liêm Trinh có trí óc nhanh, làm thân với người mau lẹ, có khả năng hòa giải, làm việc tận tâm, có lòng khoan dung kẻ khác, lạc quan, dễ tự tìm thấy sự thoải mái . Phá Quân thích cô độc, không phục kẻ khác, biết sai cũng không nhận sai, hay cưỡng từ đoạt lý . Nói chung đối với người luôn có khoảng cách, có hòa cũng bất đồng.

Hai sao hợp lại nhu hỏa diệm sơn ngoài nhỏ nhẹ mà trong cương cường, một khi bùng nổ khó lòng ngăn cản . Hành sự không thuận kẻ khác , nên khó thành tựu . Thường tìm thú vui cô độc, sách vở, ngao du sơn thủy, để mặc đời trôi trong quên lãng.

Chỉ cùng cung tạo Mão Dậu, thuộc "tứ chính tứ bại đào hoa địa" . Khả năng xét đoán người và việc nhậm lẹ, nhưng thành bại khó lường, thường bỏ ra nhiều mà thu về ít . Tính cực đoan khó đoán, khi xung động như điên cuồng, khi suy tư trầm mặc . Cuộc đời bất định, biết nhiều thứ nhưng không đạt mức tinh thông . Bù lại có tính tự lập, biết đấu tranh để tìm hạnh phúc cho mình.

Ưu điểm : Phân rõ trắng đen, phản ứng linh mẫn, làm việc tận lực, nhiều tình cảm cũng như lý trí, kinh nghiệm duyệt lịch phong phú . Có khả năng khắc phục lao khổ, biến việc nhỏ thành kết quả lớn.

Khuyết điểm : Tính ngang bướng, muốn gì làm nấy, háo thắng, không gần gũi người thân, tính do dự bất quyết, chủ quan tính quá mạnh, không biết nghe lời người khác. Hay thay đổi đường lối, thiếu tính nhẫn nại.

15/ LIÊM TRINH THAM LANG (Liêm Tham)

Liêm trinh đồng cung với Tham Lang là người tâm linh mẫn cảm, ý tứ thâm trầm, ngoài nhu trong cương, không dễ bị áp chế, thay đổi liên miên, ví như mây bay nước chảy.

Hai sao chi đồng cung tại Tị Hợi, là "tứ sinh tứ mã địa", bao hàm ý nghĩa đột biến . Lúc thuận thời cũng có điều bất đắc ý, khi gặp nghịch cảnh lại thường tìm ra sinh lộ để phát triển rực rỡ bất ngờ. Tuổi niên thiếu gặp nhiều khó khăn, đời sống bất định, trung niên hậu vận nhờ tùng trải kinh nghiệm phong phú mà sự nghiệp có thể hanh thông.

Liêm Trinh Tham Lang là hai sao đào hoa, nên quen biết nhiều người, nhiều khi gặp người lạ cũng trở thành thân thiết mau lẹ . Nhưng tình cảm ít khi giữ được lâu dài . Thời lên, lúc xuống cũng thường ngắn ngủi, nhưng vẫn tìm được sự tự tại, vui thú . Nếu theo nghiệp doanh thương thì dễ thành công.

Ưu điểm : Biết điều hay lẽ phải, biết độc lập tự cường , quen nhiều hiểu rộng, kiến văn quảng bác, ứng biến mau lẹ, tìm được sự lạc quan trong mọi hoàn cảnh của đời sống, có khả năng thấy ít hiểu nhiều.

Khuyết điểm : Quá nhiều ham muốn, biến đổi nhanh chóng , dễ vì tình mà mang phiền toái, thiếu tính nhẫn nại, không bằng lòng với những gì đang có, dễ bỏ cũ theo mới . Thiếu thực tế, ít khi nghe lời hay của kẻ khác.

16/ THÁI DƯƠNG THÁI ÂM (Nhật Nguyệt)

Chỉ đồng cung tại Sửu Mùi, tạo thành "Âm Dương Sửu Mùi cách ", còn gọi là Nhật Nguyệt đồng lâm cách".

Thái Dương là trung đẩu đế tinh, nên mặc dù thuộc nhóm sao tĩnh (Cơ Nguyệt Đồng Lương Cự Nhật ) mà vẫn có nhiều tính chất xung động, mãnh liệt như nhóm "Tử Phủ Sát Phá Tham ". Ngược lại, Thái Âm là sao nhu nhuyễn, thích sự bình lặng, làm việc gì cũng muốn đạt sự toàn mỹ, mang nhiều lãng mạn tính . Hai sao hợp lại, không khỏi có nhiều mâu thuẫn.

Sửu Mùi là hai cung mộ địa mang đặc tính bảo thủ, nên khuynh hướng đấu tranh của Thái Dương bị biến hóa, trở thành bất chợt, nhưng cá nhân vẫn hiếu thắng, cố chấp.

Thái Dương nhiều năng lực, hăng hái xông pha, trong khi Thái Âm thích sự nhàn tản, lãng mạn . Hai sao hợp lại thường có bề ngoài mềm dẻo bề trong cứng cỏi, nhưng có lúc hoàn toàn ngược lại, rất khó xác định . Thích ở vị trí thủ lãnh, nhưng rất khó đóng trọn vai trò này là vì những mâu thuẫn như đã kể.

Ưu điểm : Không tham danh lợi, thích làm việc nghĩa, thích đóng vai người hùng cứu khổn phò nguy, đầu óc thông minh, học hỏi hiểu biết nhanh .

Khuyết điểm : Nhiều mâu thuẫn, nhiều khi suy nghĩ trước sau trái ngược, ý chí không cứng cỏi, tình cảm bất định . Luôn cho rằng mình hơn người khác , dễ trở thành bệnh tưởng . Hôn nhân thiếu hòa thuận, không gần gủi người thân.

17/ THÁI DƯƠNG CỰ MÔN (Cự Nhật)

Thái Dương là biểu hiệu của ánh sáng, Cự Môn là ám tinh như mây che ánh sáng, đứng cùng với Thái Dương có tác dụng cản ngăn những đặc sắc của Thái Dương.

Hai sao cùng cung ở Dần Thân . Xét về thời gian thì Dần trời chưa sáng, Thân trời đã ngã về chiều, Thái Dương không đủ sức mạnh vượt thắng ảnh hưởng của Cự Môn, nên hai sao cùng cung gây ra tình trạng bất toàn. Nếu thành đạt tất phải có chuyện không ổn trong gia đình, như vợ chồng bất hòa, hoặc sức khỏe suy yếu, hoặc con cái bất hiếu v.v . . Cá nhân vẫn có thể đạt công danh, hạnh phúc, nhưng không có đủ khả năng và may mắn để đối phó với những khó khăn, nên công danh hạnh phúc bao năm đạt được chỉ cần gặp một vài chuyện không may nho nhỏ là có thể vỡ tan bất cứ lúc nào.

Ưu điểm : Tính khí cương cường, dũng cảm . Có tài miệng lưỡi, mưu trí, nhờ đó có khi biến họa thành may, biết nắm thời cơ . Có khả năng lãnh đạo.

Khuyết điểm : Khá bướng bỉnh, háo thắng . Suy tính chuyện ngoài tầm tay . Tham vọng lớn, lại quá chủ quan, nên khó đạt thành công theo ý muốn.

18/ THÁI DƯƠNG THIÊN LƯƠNG (Dương Lương)


Thái Dương là "trung thiên đế vương tinh" uy cường, Thiên Lương là phúc tinh ôn nhã, hai sao cùng cung tất phải tương nhượng nhau mà hướng về trung đạo.

Hai vị trí cùng cung là Mão Dậu, thuộc "tứ chính đào hoa địa". Mão là đất vượng của Thái Dương , nên Thái Dương lấn áp Thiên Lương; Dậu là phương hãm của Thái Dương , nên ảnh hưởng của Thiên Lương có phần trội vượt . Vì đặc tính đào hoa, ở cả hai nơi cá nhân sẽ có nhiều duyên may mắn . Nếu chọn ngành thương mãi thì dễ đạt mục tiêu vật chất . Nhưng trong mọi trường hợp, e là khó tìm được hạnh phúc gia đình.

Cá nhân sẽ có nhiều điểm cố chấp nhưng lại có trái tim dễ bị xúc dộng nên khả năng quyết định không chuyên nhất, thành bại vì thế khó lường.

Ưu điểm : Quang minh chính dại, tích cực, hiền hòa, thích phục vụ xã hội, không sợ mệt nhọc, hiểm nguy, thất bại . Có phong thái quí phái , làm việc cẩn trọng suy tính . Biết trọng người trên, nhường kẻ dưới.

Khuyết điểm : Tâm lý do dự, khả năng phán đoán thiếu sót, không biết mình biết người, nên dễ lao tâm vô ích . Không biết lẽ tiến thủ nên hay kẹt vào những hoàn cảnh, nhất là hoàn cảnh tình cảm, không thể tìm đường giải quyết.

19/ THIÊN CƠ THÁI ÂM (Cơ Âm)

Chỉ cùng cung tại Dần Thân, tạo thành "Cơ Nguyệt tương phùng" cách.

Thiên Cơ thuộc Mộc biểu tượng mưu trí, tính toán , nhẫn nại; Thái Âm thuộc thủy biểu tượng cung cách nho nhã, tình cảm lãng mạn . Luận về ngũ hành thì hai sao tương hợp . Nhưng Dần Thân thuộc "tứ mã địa" chủ sự dời đổi, biến chuyển; nên có thể thấy từ đặc tính của hai sao rằng đây không phải là vị trí thích hợp lắm .

Ở Dần Thái Âm hãm, ở Thân Thái Âm vượng, nên có Cơ Âm đồng cung ở Thân thì gặp nhiều may mắn hơn ở Dần; nhưng cả hai cung vẫn có chung một số tính chất . Cá nhân có "Cơ Nguyệt tương phùng cách" nội tâm ít khi thỏa mãn với hoàn cảnh hiện tại, hay thay đổi bất chợt, nhưng lại e sợ hậu quả, nên mọi đổi thay đều ở mức lưng chừng, thiếu dứt khoát, nên dễ khốn khổ vì lâm vào những hoàn cảnh khúc mắc, khó giải quyết.

Người có Cơ Nguyệt ở Dần Thân thiếu uy nghiêm nên không hợp với vai trò lãnh đạo . Nên tìm những công việc chuyên môn, hoặc buôn bán độc lập . Nếu không lượng sức mình mà đi vào những địa hạt cần quyền biến mau lẹ thì khó lòng tránh khỏi thất bại.

Ưu điểm : Cốt cách, phong tư nho nhã, dễ chiếm cảm tình của người khác (đặc biệt là người khác phái). Thông minh, hiểu chuyện mau lẹ . Có trực giác linh mẫn. Có cơ may gặp nhiều duyên lạ trong tình cảm cũng như sự nghiệp.

Khuyết điểm : Thiếu nghị lực, ý chí, khả năng điều hànhg . Nhiều mơ mộng, thiếu thực tế . Trọng hư danh . Nội tâm nhiều mâu thuẫn, và (trừ khi có nhiều sao chế hóa) khá ích kỷ . Tình cảm biến đổi, trước trọng sau khinh . Khó được người đời kính trọng.

20/ THIÊN CƠ CỰ MÔN (Cơ Cự)


Chỉ cùng cung tại Mão Dậu, tạo thành "Cự Cơ Mão Dậu" cách.

Thiên Cơ trí tụê mẫn cảm , nho nhã thư sinh, dễ gây cảm tình; Cự Môn thành kiến chủ quan, cố chấp, dễ khiến người khác khó chịu . Hai sao cùng cung chế hóa nhau, kết quả là cá tính vẫn chủ quan , nhưng biết xử thế, được người yêu nhiều hơn ghét.

Mão Dậu là đào hoa địa, nên cá nhân có khuynh hướng liên quan nhiều với xã hội, có khả năng biến lạ thành quen, sinh hoạt hăng hái, xử sự nhậm lẹ . Mặc dù thỉnh thoảng ngôn ngữ bất cẩn làm kẻ khác phiền lòng, nhưng nói chung được nhiều sự yêu mến.

Chỉ tiếc là thiếu sự nhẫn nại, nên mặc dù bỏ nhiều năng lực và sáng kiến , ít khi được kết quả tương xứng, có tiếng mà không có miếng, ngay cả khi thành công cũng thường là dọn cỗ cho người còn mình chẳng được hưởng bao nhiêu.

Ưu điểm : Quyết định nhanh chóng, trí tuệ mẫn cảm, biết chịu đựng khó khăn, làm việc tận lực, biết lẽ tiến thối, liên tục học hỏi, quân bình tình cảm và lý trí . Nếu theo các nghề doanh thương, buôn bán thì rất dễ thành công lớn, vì có sự ứng hợp với cách "Cự Cơ Mão Dậu".

Khuyết điểm : Cá tính bướng bỉnh, sinh cường hiếu thắng, dễ mắc vào vòng thị phi, đời sống tình cảm không được ổn định.

21/ THIÊN CƠ THIÊN LƯƠNG (Cơ Lương)


Chỉ đồng cung tại Thìn Tuất, là đất miếu vượng của hai sao . Nên do ảnh hưởng tốt của Thiên Cơ mà có đầu óc mưu cơ, do ảnh hưởng tốt của Thiên Lương mà có sự quan tâm đến bối cảnh xung quanh, muốn phục vụ, làm lợi cho kẻ khác . Vì Thìn Tuất là "thiên la địa võng" , lại là mộ địa, nên đời sống có nguyên tắc . Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể là cộng sự viên đắc lực cho lãnh tụ, tài ba hoặc trở thành bậc hiền nhân danh sĩ.

Nói chung gặp nhiều may mắn, dễ đạt thành công về vật chất cũng như tình cảm. Nhưng tham vọng rất cao nên ngay cả khi thành công cũng khó bằng lòng với hoàn cảnh của mình.

Ưu điểm : Tốt bụng, thông minh, chịu học hỏi, xử thế hòa nhã với mọi ngườị Có thủy có chung, có khả năng đảm nhận trọng trách (miễn là không đòi hỏi ứng biến nhậm lẹ ).

Khuyết điểm : Tham vọng quá cao, nên dễ trở thành trí xảo . Nhiều tình cảm nên hay dính líu vào những hoàn cảnh phức tạp, khó tháo gỡ . Nếu gặp quá nhiều cảnh ngoài ý muốn , rất có thể trở thành người vô cùng giả dối.

22/ THIÊN ĐỒNG THÁI ÂM (Đồng Âm)

Cả hai sao đều thuộc Thủỵ Chỉ cùng cung tại Tý Ngọ, thuộc "đào hao địa" . Cá nhân ôn nhu, u mặc, đa tình . Ước vọng cao, nhiều cơ hội đi lại , nhiều nhân duyên kỳ diệu , lịch duyệt phong phú . Thiên đồng chủ phúc, Thái Âm chủ điền trạch, nên bất luận vượng hãm nhất định không sợ thiếu ăn thiếu mặc . Từ nhỏ đã được yêu quí. Tóm lại phúc phận tốt . Nhưng nếu ở Ngọ không bằng Tý vì Ngọ là chốn hãm của Thái Âm, nên ảnh hưởng lây Thiên Đồng, phần may mắn không thể bằng cung Tý được.

Về mặt xử thế, không hay cạnh tranh với người, nên có nhiều người thương , ít kẻ ghét.

Ưu điểm : Thông minh hiếu học, đa tài đa nghệ . Phong thái mềm dẻo, không tranh dành hơn thua với người . Có ý muốn phục vụ, được thân nhân bằng hữu ưa thích . Dễ đạt hạnh phúc.

Khuyết điểm : Thiếu uy, quá dễ tin người, nhận xét sự kiện hay sai lầm . Thiếu khả năng quyết định, hay ỷ lại kẻ khác . Trốn tránh sự thật đau lòng, mơ mộng quá nhiều . Không chịu nổi hoàn cảnh khó khăn . Hay dính líu đến những hoàn cảnh tình cảm rắc rối.

23/ THIÊN ĐỒNG CỰ MÔN (Cự Đồng)


Hai sao chỉ cùng cung tại Sửu Mùi, là mộ địa, biểu tượng sự bảo thủ, lại cùng tĩnh diệu, chủ sự bình hòa, không mang tham vọng lớn . Cá tính thiếu chuyên nhất, nên khó phát huy khả năng, thường chỉ đạt mức trung bình về mọi mặt.

Sửu Mùi là vị trí hãm của cả hai sao . Thiên đồng hãm gây ra khuynh hướng thay đổi đường lối không đúng lúc; Cự Môn hãm gây ra khuynh hướng hay lo nghĩ vẩn vơ . Cá nhân có hai mặt : Bên ngoài là sự xung động, bên trong là sự cô độc không tìm được người chia sẻ.

Cách xử sự không được phân minh, rất dễ khiến người khác hiểu lầm. Hay nhất là yên phận thủ thường thì đời sống có thể ổn cố bình an.

Ưu điểm : Hầu hết đều có tâm lý bằng lòng với thực tại, ít tham lam, không tranh dành với kẻ khác . Đối xử dung hòa với mọi người.

Khuyết điểm : Nhiều mơ ước ấu trĩ . Thiếu tự tin, không dám biểu lộ quan điểm riêng của mình . Cách suy nghĩ cũng như hành động đều bất định. Lý trí yếu, không đủ kềm hãm con tim; dễ bị thua thiệt trong tình cảm . Thiếu khả năng lãnh đạo, điều hợp . Không thể đảm nhận việc quan trọng.

24/ THIÊN ĐỒNG THIÊN LƯƠNG (Đồng Lương)


Chỉ cùng cung tại Dần Thân, thuộc "tứ mã địa", đại biểu của khuynh hướng chuyển biến, nên mặc dù có tính bảo thủ đời sống lại có nhiều thay đổi.

Thiên Đồng vốn thụ động, an phận thủ thường; trong khi đó Thiên Lương mang nhiều ước vọng cao vời, cá nhân vì vậy có tâm lý rất phức tạp, nhiều khi đổi thay chỉ vì cá tính, nhiều khi đổi thay vì muốn thăng tiến sự nghiệp . Nói chung, những đổi thay thường có đắn đo kèm theo, nên thiếu sự bình tĩnh vốn là đặc tính của cả hai sao khi đứng riêng rẽ . Nhưng số may mắn, đổi thay đa số dẫn đến kết quả tốt, vô hình chung khiến con người trở thành kinh nghiệm , lịch duyệt.

Đây là loại người dấu kín nội tâm . Bề ngoài mềm mỏng, ít gây thù oán.

Ưu điểm : Có lòng tốt, thích giúp đỡ kẻ khác, thị phi phân minh . Biết chỗ đứng của mình , ít giữ thù hận trong lòng . Không tranh chấp. Đối xử hòa đồng với mọi người.

Chịu khó học hỏi . Cá tính kiên nhẫn . Có duyên gặp gỡ và hòa hợp với nhiều loại người, già cũng như trẻ.

Khuyết điểm : Lòng tự tôn quá caọ Tâm tư bất định . Ước muốn không rõ ràng . Thường hành sự cô độc . Cho dù có ý muốn hợp tác với người khác, thì khi vào việc vẫn có khuynh hướng chạy làng . Có nhiều duyên với người khác phái, nhưng vì vậy mà tình cảm thường gặp phức tạp . Trong khi đó tâm giao , tri kỷ thì lại hiếm hoi.

Chú thích của Thanh Y:

(1) Xác suất đồng cung của 11 chính tinh còn lại đều là 50%.

(2) "Luận thiên thuyết địa thoại tử vi", Lý Phật, Dân sinh báo Phụ nữ Tùng thư, Đài Loan, 1993 (Hán văn) . Sách gồm 2 tập, tài liệu được sử dụng nằm trong tập 2.

(3) Trường hợp thủ cung Thân hoặc cung Phúc đức cũng tương tự, nhưng dĩ nhiên nhẹ hơn, vì bị chế hóa bởi đặc tính của cung Mệnh.

(4) Đây là đặc điểm của mọi trường hợp có Phá Quân cùng cung . Ở buổi thiếu thời Phá Quân là khuynh hướng lấn át , nên đời sống nhiều xung động, nhưng từ tuổi lập thân (30 trở đi) khuynh hướng của cá nhân sẽ bị chi phối mạnh mẽ bởi sao còn lại . Về già người Tử Phá sống theo khuynh hướng cô độc của Vũ khúc, người Liêm Phá sống theo khuynh hướng khắc kỷ của Liêm Trinh chính vì lẽ ấy.

Nguồn: http://www.somenh.com/1-1/goc-nhin-khac ... t=next#new
Sửa lần cuối bởi Tây Đô đạo sĩ vào lúc 19:03, 13/02/12 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: Ngàn Phố, HoaSenTuoiSang, huonggiang86, Meggie
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

10 cách hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng

Bài viết này dành cho những người có cung phu thê (đường vợ chồng) không được hoàn hảo hay khiếm khuyết về 1 mặt nào đó (mà tôi tin số này chiếm đa số chúng ta).

Còn với những người sinh ra đã được định sẵn là sau này sẽ lấy được 1 người bạn đời tâm đầu ý hợp và 2 người sẽ sống hạnh phúc cho đến đầu bạc răng long mà không cần phải cố gắng gì (tôi tin số này chiếm thiểu số rất nhỏ), thì bài viết sau hy vọng cũng bổ ích để làm cho cái duyên nợ vợ chồng tốt đó càng được tốt hơn.

1. Lấy chồng/vợ già (lớn tuổi)

Thông thường người ta càng lớn tuổi càng có xu hướng chiều chuộng người bạn đời hơn. Càng lớn tuổi, ta càng bớt đi tính “ngựa non háu đá”, bớt đi những ý thích, ham muốn bồng bột thời trẻ, bớt đi tính nhõng nhẽo, trẻ con, bớt đi tính “sớm nắng triều mưa”, bớt đi tính tự ái, nông nối, bất cần... Đây là những điều tối kỵ cho 1 hạnh phúc gia đình bền vững.

Theo tôi vợ chồng chênh nhau từ 4-11 tuổi là hợp lý, từ 12 trở lên là bắt đầu cách nhau 1 thế hệ, sẽ dẫn đến khó nói chuyện và chia sẻ tâm tư, tình cảm, sở thích với nhau.

2. Lấy chồng/vợ muộn

Thông thường việc lập gia đình muộn sẽ tránh được việc lập gia đình nhiều lần (2, 3 đời chồng/vợ). Tôi thành thực tin rằng nếu tôi lập gia đình sớm (ở độ tuổi 20-30) thì bây giờ xác suất sẽ rất cao là tôi đã ly dị (lý do tôi giải thích ở trên và ở dưới đây)

Hiển nhiên khi lập gia đình muộn mình càng có nhiều kinh nghiệm sống hơn. Lúc này mình đã đạt được độ chín về mặt tâm lý, tình cảm, càng biết rõ mình muốn gì, mình cũng có xu hướng biết nhường nhịn hơn. Đây là những phẩm chất rất cần có ở 1 người bạn đời để cả 2 cùng gây dựng 1 gia đình hạnh phúc.

Vậy muộn là bao nhiêu? Theo tôi con gái trên 28 tuổi, con trai trên 30 tuổi thì được coi là muộn.

3. Lấy chồng/vợ xa

Ai biết qua về bói toán đều biết 1 trong những cách để hóa giải lá số có cung Phúc Đức (cung quan trọng nhất trong 1 lá số) xấu là nên rời quê hương bản quán để lập nghiệp ở phương xa.

Có lẽ đó cũng là lý do các ông thầy bói khuyên các cô/các anh có cung phu thê xấu là nên lấy chồng/vợ và lập gia đình ở phương xa để thay đổi vận mệnh của mình. Vậy thế nào là xa? Người hôn phối có quê hương bản quán khác với quê hương bản quán của mình thì gọi là xa, thậm chí theo tôi lấy chồng/vợ ngoại quốc cũng được (tất nhiên với điều kiện người chồng/vợ ngoại quốc đó yêu thương mình thật lòng).

4. Mình là người đến sau (lấy người đã từng lập gia đình)


Với người có quá khứ không vui về cuộc hôn nhân cũ, khi mình là người đến sau, người ta thường có xu hướng yêu thương trân quý những đức tính của mình hơn. Có mất 1 lần rồi, có cay đắng 1 lần rồi mới biết trân quý cái mình đang có.

Với người đã từng lập gia đình thì những cái xấu (trong cung phu thê của người đó) hy vọng là đã rơi hết vào người hôn phối trước đó. Giờ đến lượt mình (là người đến sau) thì hy vọng mình sẽ được hưởng phần tốt đẹp trong cung phu thê của người đó.

5. Trải qua nhiều trắc trở trước khi đến được với nhau

Cái xấu của cung phu thê thường hoặc là ứng với trước hoăc ứng với sau hôn nhân. Vậy thì hãy để cho những cái xấu đó ứng với trước hôn nhân còn hơn là ứng với sau hôn nhân.

Những lời nói xấu, dị nghị, dèm pha, ngăn cản… của bố mẹ, của bạn bè... khi 2 người đang yêu nhau không phải là điều đáng buồn đâu mà là đáng vui đấy, nó góp phần làm giảm bớt cái xấu và tăng thêm phần hạnh phúc khi 2 người sau này chung sống với nhau. Và hãy để cho những hiểu lầm, xích mích... giữa 2 người xảy ra trước hôn nhân, để 2 người hiểu được lòng nhau và tự vấn lòng mình xem là liệu mình có chấp nhận được người kia hay không.

6. Lấy chồng/vợ có hình thức (tài năng) bình thường, chấp nhận khiếm khuyết của người bạn đời

"Vợ đẹp là vợ người ta". "Chồng đẹp trai và tài hoa cũng khó là chồng của riêng mình". Những câu nói này được đúc kết từ xưa đến nay không phải là không có lý. Vậy thì giữa 2 giải pháp bạn có thể lựa chọn cho mình giải pháp an toàn hơn là lấy người bạn đời có hình thức (và tài năng) ở mức trung bình. Người có hình thức trung bình và dưới trung bình thường biết mình là ai và ít đòi hỏi người khác phải chiều chuộng mình.

Chấp nhận những khiếm khuyết của người bạn đời như khiếm khuyết về gia cảnh, về học thức, về quá khứ... theo tôi là một cách để ta làm phúc trong cuộc đời này và cũng là một cách để hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng. Đi xa hơn, với những cô gái/chàng trai cực kỳ cao số, các ông thầy bói xưa thậm chí còn khuyên những người đó nên lấy chồng/vợ tàn tật để tránh hình khắc sau này.

7. Thời gian tìm hiểu đủ dài

Những mối tình sét đánh 2 người gặp nhau, yêu nhau một thời gian ngắn và sau đó lấy nhau sống hạnh phúc đến đầu bạc răng long ít tồn tại trên thực tế. Ở thái cực ngược lại, nhiều cặp đôi yêu nhau, tìm hiểu nhau 5-7 năm vậy mà sau khi cưới nhau chỉ vài tháng vẫn ly dị như thường. Yêu nhau 5-7 năm thì dễ, sống với nhau 5-7 năm mới là khó.

Thức lâu mới biết đêm dài, cần phải có đủ thời gian mới hiểu được lòng người, và càng trải qua nhiều gian khổ người ta càng có điều kiện hiểu lòng nhau. Việc trải qua thời gian tìm hiểu đủ dài (theo tôi tối thiểu là 6 tháng) sẽ giúp cho quyết định lập gia đình trở nên chín chắn và đỡ rủi ro hơn cho sau này. Tất nhiên thời gian tìm hiểu nên hướng vào chất (tức là hiểu về tính nết nhau được nhiều hay ít) chứ không phải hướng vào lượng (dài bao lâu).

8. Nhường nhịn, nhường nhịn, nhường nhịn!

Một điều nhịn chín điều lành. Theo tôi cho dù cung phu thê có xấu bao nhiêu, trong cuộc sống vợ chồng mình cứ chịu nhường đi một chút thì thường mọi việc sẽ ổn thỏa. 1 người bạn của tôi so sánh cũng hay:

"Hãy tưởng tượng hạnh phúc như 1 sợi dây, nếu cả 2 cùng cương cả (cùng kéo cả) thì chắc chắn sẽ đứt. Chi bằng khi bạn đời mình cương thì mình trùng xuống, khi mình cương thì bạn đời mình trùng xuống, để duy trì sợi dây hôn nhân."

9. Thay đổi chính mình

Đây là cách khó nhất nhưng cũng là cách công hiệu nhất để hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng. Thay đổi chính mình tức là thay đổi quan niệm của mình về người bạn đời lý tưởng, thay đổi cách nhìn của mình về tình yêu.

Ví dụ nếu mình là người trọng hình thức (là cái sẽ phai nhạt theo thời gian) thì nên thay đổi để hướng tới việc tìm hiểu tính nết và cách cư xử của người bạn đời (là những giá trị mang tính bền vững khi chung sống với nhau sau này). Nếu mình là người có xu hướng quan trọng hóa chuyện tình cảm thì cũng nên thay đổi, nên kết hợp tình yêu với lý trí để cho tình yêu được lâu bền hơn.

10. Các cách hóa giải khác

Tôi cũng nghe nói và chứng kiến một số “thủ thuật” nhằm trách chuyện 2, 3 đời chồng/vợ như trả lại cau trầu, giả cưới 2, 3 lần… Theo tôi những “thủ thuật” này cũng có tác dụng nhất định, tuy không “công hiệu” bằng các cách đã đề cập ở trên.

Kết luận

Nào bây giờ bạn hãy thử kiểm nghiệm xem người bạn đang tìm hiểu đạt được mấy điều trong 10 điều "hóa giải" đề cập ở trên? Không phải là tuyệt đối, nhưng tôi tin rằng càng đạt được nhiều điều, khả năng hạnh phúc sau này của 2 người là càng cao.

Nguồn:10 cách hóa giải nghiệp xấu về đường vợ chồng
Được cảm ơn bởi: yankee, kimchionline, Ngàn Phố, beyond, hongdo2804, TruaVang999, HoaSenTuoiSang, thanh163
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Liêm Trinh tọa thủ và cách Hùng tú triều viên

Liêm Trinh thuộc Âm Hỏa kiêm Mộc, hóa khí là ‘tù’ trong hệ Bắc Đẩu, còn mang tên Đào Hoa thứ hai (sau Tham Lang). Nói theo Tử Vi hệ phái Việt Nam là Đào Hoa thứ ba vì Tử Vi Việt có hẳn một sao Đào Hoa mà Trung Quốc thường gọi bằng ‘Hàm Trì’. Với Trung Quốc chỉ có 4 chỗ đương nhiên Đào Hoa ở đây là Tí, Ngọ, Mão, Dậu mà họ gọi bằng bại địa.
Hình dáng Liêm Trinh gầy nhiều xương hơn thịt, mắt lộ hầu lộ. Liêm Trinh cát hung vô định hội hợp với nhiều sao tốt thì công danh địa vị cao, trong chính giới phát triển tốt, gặp các hung sát tinh hay bị hoạn nạn tai ách.
Đời Hán nhà dịch học Dực Phụng viết :’Tham Lang thiện hành, Liêm Trinh ác hạnh’. Hai sao ấy phẩm hạnh đi ngược chiều nhau. Liêm Trinh chủ về phẩm chất sự vinh nhục trên địa vị khi lên thì tốt, khi xuống thì xấu, Liêm Trinh mang hóa khí là ‘Tù’
Liêm Trinh trên cảm tình, tính tình khi thân cảm tình hòa hiệp, lúc ghét giận thì hung dữ bất thường. Chất Đào Hoa của Liêm Trinh cũng căn cứ trên tình trạng đổi thay ấy mà định. Liêm Trinh với nữ nhân biến thái của tình cảm mau và mạnh hơn với nam nhân.
Trường hợp Liêm Trinh đứng với Hóa Kị hoặc gặp Hoá Kị chuyện hôn nhân không tránh khỏi gãy đổ.( Bản thân tôi cũng chưa kiểm chứng được điều này nếu bạn nào đã có kinh nghiệm luận giải các lá số có bộ cách này xin chia sẻ cùng tôi ) Liêm Trinh đi với Tham Lang, Thất Sát, Phá Quân nữ mạng vợ chồng lấy nhau tự nhiên không nghi lễ, hoặc lấy chồng người.
Có câu phú: Liêm Trinh thanh bạch năng tương thủ ( Liêm Trinh ôm chặt khối tình )
Liêm Trinh độc tọa ở Dần Thân
Liêm Trinh đứng bên Thiên Phủ ở Thìn Tuất
Đứng cùng Thiên Tướng ở Ngọ Tí
Đứng cùng Thất Sát ở Sửu Mùi
Đứng cùng Tham Lang ở Tỵ Hợi
Thanh bạch năng tương thủ có hai kết cấu:
- Liêm Trinh đứng một mình ở Dần cùng với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
- Liêm Trinh đứng một mình ở Thân với Lộc Tồn hoặc Lộc Tồn chiếu
Nói tóm lại, chỉ ở trường hợp Liêm Trinh độc tọa gặp Lộc Tồn mới thanh bạch thôi. Năng tương thủ có nghĩa là yêu mà bị xa nhau, yêu mà bị thất bại trong tình yêu nhưng vẫn giữ được mối tình ấy mãi mãi..
Tính chất của Lộc Tồn là đôn hậu, tâm địa chân thành, trân trọng, cẩn thận. Khi đã đi cùng với các sao khác thì cái điều thanh bạch năng tương thủ của Liêm Trinh, Lộc Tồn bị trộn không còn thuần khiết nữa. Cách này chỉ áp dụng đối với nữ mạng.
Cách Liêm Sát phú viết : Liêm Trinh Mùi cung vô sát, phú qúy thanh dương phan viễn danh (Liêm Trinh đóng Mùi – bên cạnh Thất Sát – không gặp hung sát tinh thì phú quí tiếng tăm). Điểm đáng chú ý không thấy nói tới Liêm Trinh đóng Sửu. Nếu chỉ đóng ở Mùi chưa đủ, cần phải có Tả Hữu nữa mới thực sự ăn to như câu phú trên đây.
Liêm Trinh tọa thủ hợp cách ở cung Thân và cung Mùi không có sát tinh còn được coi là cách ‘ Hùng tú triều viên’ đời nếm trải gian tân, ngoài tuổi trung niên thành công, thêm Quyền Lộc dĩ nhiên như gấm thêu hoa, nhưng căn bản cần Tả Hữu đã. Liêm Sát vào Mùi hay Sửu bị Hóa Kị hay Linh Hỏa Kiếp Không sẽ biến thành cách ‘Mã cách lý thi’ ( Da ngựa bọc thây) đa số vào võ nghiệp có địa vị cao và rồi chết với nghề. Liêm Sát như thế vào nữ mạng vất vả bôn ba và chết đột ngột. Liêm Sát ở Mùi sách chỉ nói là con người làm ăn có của ( Tích phú chi nhân ).
Đọc trong ‘Cốt Tủy Phú’ của Đẩu Số toàn thư khi luận về sao Liêm Sát có mấy câu cho ta cảm tưởng như mâu thuẫn. Những câu ấy là : ‘Liêm Trinh Thất Sát phản vi tích phu chi nhân; Liêm Trinh Thất Sát lưu đãng thiên nhai.’ Rồi ở ‘Thái vi phú’ lại viết câu: ‘Thất Sát Liêm Trinh đồng vị, lộ thượng mai thi’, thật ra những câu phú ấy không mâu thuẫn vì Liêm Sát đồng vị bao giờ cũng xuất hiện ở hai cung Sửu và Mùi, Liêm Sát ở Mùi mới là miếu địa, Liêm Sát ở Sửu bị vào thế hãm nhược. Vì Mùi là Mộc cục và Hỏa khố trong khi Sửu là Kim cục và Thủy khố. Liêm Sát tại Mùi miếu địa nên tích phú, phấn đấu gian khổ thành công.
Liêm Sát Sửu nếu không hội tụ được những cát tinh mà lại bị hung sát kị vây bọc thành ra lữu đãng thiên nhai, lộ thượng mai thi. Liêm Trinh vào Sửu cung Hỏa bị Thủy khắc.
Cách Liêm Tham (Tỵ hoặc Hợi) cách này đưa đến tình trạng hình tù hay khách tử tha hương. Liêm Trinh vốn là Đào hoa tinh, Tham Lang cũng lại là Đào hoa tinh. Trước hết tình trạng hình tù ở tình trường đã, mê đắm sắc dục, bài bạc ăn chơi, mang công mắc nợ, bệnh tật triền miên.
Hình tù có mấy loại:
- Cảnh sát bỏ tù
- Nợ bỏ tù (suốt đời nợ nần)
- Bệnh bỏ tù (đau ốm hoài)
- Vợ hoặc chồng bỏ tù (cuộc duyên giao hãm)
Không cứ phải vào nhà giam mới bị gọi là tù.
Liêm Trinh không ưa Hóa Kị, nhưng ở cách Liêm Tham mà được Hóa Kị lại giảm bớt hẳn chuyện hình tù. Hỏa hay Linh cũng tạo chuyện tốt hơn cho Liêm Tham. Liêm Tham ở Hợi hội với Kình Dương Mão, đàn ông tù tội, đàn bà phong trần, hoặc Kình Dương Dậu hội với Liêm Tham ở Tỵ cũng thế. Có lập luận cho rằng Liêm Tham Tỵ nặng hơn Hợi, lập luận này không vững lắm.
Tham Lang là Đào hoa tinh, Liêm Trinh cũng là Đào hoa tinh. Nay hai đào hoa tụ lại một chỗ ở Hợi, cổ nhân gọi bằng phiếm thủy đào hoa (hoa đào trên sóng nước) thường là con người đam mê tửu sắc, bài bạc khác với ở Tỵ ưa mạo hiểm vướng vít vào những rắc rối luật pháp. Bởi thế Liêm Tham Tỵ dễ bị tù hơn ở Hợi. Cũng có thuyết cho rằng Tham Lang cung Tí mới gọi bằng phiếm thủy đào hoa. Tí hay Hợi đều thuộc thủy nhưng ở Hợi có lý hơn vì ở Tí chỉ có Tham Lang đứng độc thủ. Tham Lang tại Tí cũng đam mê sắc tình nhưng nhẹ hơn Liêm Tham Hợi. Tham Lang Tí ưa phét lác hơn thực sự hành động.
Trường hợp người tuổi Giáp lại gặp cách Liêm Tham Hợi lại thường phong lưu vì một Lộc ở Mệnh môt Lộc theo thế nhị hợp chưa kể đến hai sao Quyền Khoa hội tụ.. Tại Tí tuổi Giáp không phong lưu như Hợi (thiếu mất Lộc Tồn), công danh lận đận nhưng cũng đáng nể.
Liêm Trinh đứng ở bốn cung vượng Tí Ngọ Mão Dậu thế nào? Đứng Mão Dậu với Phá Quân, đứng Tí Ngọ với Thiên Tướng. Liêm Phá là con người tinh thần mạo hiểm cao, ưa xông xáo, thông tuệ nhưng học hành thường thôi, hay làm liều, lợi mình trước đã dù có hại người. Liêm Phá có thể là tay sai đắc lực, nhưng không thể thành người bạn tâm giao với ai, có nhiều nghị lực phấn đấu.
Liêm Phá hợp với tuổi Giáp và Ất. Ất tốt hơn Giáp nếu Liêm Phá đóng ở Mão cung. Liêm Phá sợ gặp Hỏa Tinh, nếu gặp dễ bị tai nạn hoặc ốm đau dữ dội với những bệnh hiểm nguy. Phú có câu: Liêm Phá Hỏa cư hãm địa tự ải đầu hà (Liêm Phá hội Hỏa Tinh bị tai nạn đến độ phải tự sát). Cái nghĩa đâm đầu xuống sông, treo cổ chỉ nói lên tình trạng hiểm nguy chứ không nhất định phải vậy.
Liêm Hỏa Không Kiếp Phá Quân
Hãm cung thắt cổ nợ trần hết duyên
Liêm Phá tại Mão Dậu cung
Sát tinh cùng hội công danh khó màng
Sát tinh ý chỉ Kình Đà Không Kiếp. Tuy nhiên đối với các tuổi Giáp Ất lại không thể ứng dụng những lời ca trên. Tử Vi đẩu số toàn thư có đưa ra một câu phú:
Liêm Trinh Tham Sát Phá Quân phùng
Văn Khúc Thiên Di tác cự nhung
( nghĩa là Liêm Trinh hội Tham Lang, Thất Sát hay Phá Quân, nếu tự cung Thiên Di lại xuất hiện Văn Khúc thì…)
Mấy chữ ‘tác cự nhung’ không thể giảng giải ra được. Chỉ khả dĩ ghép hai chữ ‘cự nhung’ thành chữ tặc (làm giặc) thì mới có lý thôi. Ý chỉ nếu Liêm Tham Sát Phá gặp nhau lại thêm Văn Khúc xung chiếu Mệnh thì có khuynh hướng làm loạn, làm giặc. “Cự nhung’ cổ nhân tách chữ tặc ra cho vần điệu với âm thanh ‘phùng’ ở vế trên.
Liêm Phá vào nữ mạng tháo vát, nhưng tính không nhu thuận đưa đến những khó khăn trong cuộc sống duyên tình. Liêm Trinh hợp với hai sao Thiên Tướng và Thiên Phủ. Chỉ đi với hai sao này Liêm Trinh không gây tác hại.
Phú trong Tử Vi đẩu số viết :”Thiên Phủ Tuất cung vô sát tấu, Giáp Kỷ sinh nhân phú vạn kim” (Thiên Phủ đóng ở Tuất mà người Giáp Kỷ giàu có).
Thiên Phủ ở Tuất đương nhiên phải đứng với Liêm Trinh. Tuổi Giáp Hóa Lộc ở Mệnh. Lộc Tồn cung Dần hội tụ theo thế tam hợp. Tuổi Kỷ Lộc Tồn chiếu từ Ngọ, Hóa Quyền chiếu từ Dần.
Thiên Phủ tại Thìn với tuổi Giáp không có Song Lộc, với tuổi Kỷ Tử Vi hãm. Xem như vậy thấy rằng Liêm Trinh phải đi với Lộc mới hay. Câu phú chỉ nhắc đến Thiên Phủ, không nhắc đến Liêm Trinh, đó là một lối ẩn ý của cổ nhân. Sự thật là Liêm Trinh đóng vai chủ chốt.
Liêm Trinh hội Lộc tiền bạc hoạnh phát, Thiên Phủ thành ông thần giữ kho. Liêm Phủ khi đã nên công thì cơ nghiệp bền không thăng trầm. Liêm Trinh đứng cùng với Thiên Tướng tại Tí Ngọ thì Ngọ hay đẹp hơn cho tuổi Giáp vì Giáp có Song Lộc ở Ngọ.
Kỷ Lộc Tồn tại Mệnh cung, cái thế gần cận mạnh hơn chiếu. Tuy nhiên cách Liêm Phủ với Liêm Tướng có một khác biệt ấy là: Liêm Phủ trong cuộc phấn đấu gặp may nhiều hơn như thuyền đi gió đẩy. Trong khi Liêm Tướng dùng mồ hôi sức lực để thành công như thuyền phải chèo.
Liêm Tướng nữ mệnh đàn bà giỏi trị gia gánh vác tự tay gây dựng cơ nghiệp và ít được nhờ chồng, tuy nhiên cuộc sống lứa đôi vẫn hạnh phúc. Liêm Tướng nếu không phải tuổi Giáp Kỷ thì vất vả hơn. Liêm Phủ nếu không phải tuổi Giáp Kỷ chỉ ở mức tiểu phú quí thôi.
Về Liêm Trinh còn những điều cần biết như sau:
- Phú viết: Liêm Trinh Bạch Hổ hình tượng nan đào (Liêm Trinh gặp Bạch Hổ hay bị dính vào pháp luật, tù tội hoặc bị phạt tiền). Bạch Hổ ở câu phú này chỉ lưu niên Bạch Hổ chứ không phải Bạch Hổ đóng ngay tại Mệnh.
- Riêng Quan Lộc tinh mà Liêm Trinh gặp Kình Dương thì thường bị thưa gửi, kiện tụng hoặc mất quyền chức.
- Liêm Phá, Liêm Sát vào cung Thiên Di tất phiêu lãng quê người như phú có câu: Liêm Trinh Phá Sát hội Thiên Di tử ư ngoại đạo”, phiêu lãng hoài, đương nhiên không phải chết nơi quê hương bản quán, chứ không phải tử ư ngoại đạo là chết đường chết chợ.
- Liêm Trinh ở hãm cung mà gặp Hóa Kị Văn Khúc biểu thị con người tham lam vô độ, chỉ ưa tiện nghi không chịu được kham khổ, dễ vì tiện nghi mà phản bội. Liêm Trinh đứng cùng với các sao đào hoa như Tham Lang, Đào Hoa đàn bà hay có bệnh máu huyết, đàn ông bệnh thận.

Người đời sau đưa thêm ra một số phú đoán về Liêm Trinh:
- Liêm Trinh Phá Quân hiểm phòng vô hạn.
(Số có Liêm Phá ở Mệnh luôn luôn phải đề phòng những hiểm nguy)

- Liêm tại Cấn, Khôn cung, nữ mệnh trích lệ thương phu, nhược lại cô quả không môn tiềm ẩn; nam nhân bất đa truân tai ách ư thương lê
(Liêm Trinh độc thủ Dần hay Thân, số gái dễ xa chồng phải nhỏ nước mắt thương nhớ, nếu lại gặp phải Cô Thần Quả Tú thì xa hẳn hoặc góa chồng. sống đơn độc, trai được vợ hiền mà vợ lại chết sớm)

- Liêm tọa Thân cung phùng Phụ Bật
Cách kiêm Hóa cát phúc quang vinh
(Liêm Trinh tọa thủ ở Thân có Tả Phụ hay Hữu Bật mà được Hóa Lộc, Hóa Quyền hay Hóa Khoa thì giàu sang)

- Liêm Sát Sửu Mùi, Ất Kỷ âm nam khí hùng trí dũng, Tuần Triệt vô xâm kiêm hữu Khoa Sinh hạn đá danh tài tốc phát
(Liêm Trinh Thất Sát đồng Sửu hay Mùi không bị Tuần Triệt anh hùng trí dũng tuổi Ất, tuổi Kỷ gặp vận hạn có Hóa Khoa Tràng Sinh thì phấn phát mau chóng)

- Liêm phùng Văn Quế cánh bôn ba
(Liêm Trinh đứng bên Văn Khúc càng bôn ba)

- Trọng Do uy mãnh Liêm Trinh nhập miếu hội Tướng Quân
(Liêm Trinh đứng miếu địa cùng sao Tướng Quân là người anh hùng dám đương đầu như thầy Trọng Do học trò Khổng Tử)

- Vương Lương ải ngục Liêm Trinh hãm Địa Kiếp ư Hỏa cung
(Liêm Trinh đóng Tỵ gặp Địa Kiếp như vl ngộ nạn trong ngục thất)

- Liêm Trinh Tỵ Hợi chớ bàn
Chàng Tiêu thuở trước tân toan ngục trường

- Công danh đợi tuổi tác cao
Giáp Liêm giáp Sát đoán nào có sai
(Mệnh cung bị Liêm Trinh, Thất Sát giáp thì về già mới nên công danh)

- Liêm Hao Tài Bạch cùng ngồi
Phá tan tổ nghiệp ra người lãng nhân
(Liêm Trinh Phá Quân vào Tài Bạch phá tổ nghiệp bỏ quê hương mà đi)

- Tham Liêm đồng độ đảo điên
Trai thì phiêu lãng gái duyên dâm tàng

Bàn luận thêm về cách Hùng tú triều viên
“Hùng Tú triều viên cách” – Tức là Liêm Trinh tại hai cung Mùi-Thân thủ mệnh. Cổ ca nói rằng :"Thân Mùi liêm trinh đắc địa phương, túng gia thất sát bất vi hung, thanh danh hiển đạt phong vân viễn, nhị hạn ưu du phú quý trung."

Tức là : Liêm trinh đắc địa tại hai cung Thân – Mùi, dù cho có gia Thất sát thì cũng chẳng thành hung cách được. Thanh danh ắt sẽ hiển đạt, tiếng tăm vang xa. Nhị hạn đi đến đấy chắc sẽ được phú quý cả hai đằng.

Liêm Trinh được gọi là Hùng Tú, là bởi vì nó có tính uy vũ, nguyên do Phá Quân là “Anh Tinh” sát khí lớn hơn tính chất “hùng tú” của Liêm Trinh. Phản ánh trên cuộc đời, người gặp phải Liêm trinh thủ mệnh thì tính tình bình hòa hơn, cuộc đời cũng ít bôn ba trắc trở.

Tại cung Liêm trinh đóng mà gặp Thất sát, bởi vì Liêm Trinh là Âm Hỏa, có khả năngrèn đúc cho Thất sát Âm Kim, biến Thất sát thành dụng cụ. Khi Liêm trinh và Thất sát đồng cư ở Mùi thì cố nhiên là có năng lực rèn đúc. Còn nếu Liêm trinh cư tại Thân, Thất sát cư Ngọ cũng có năng lực luyện kim, vì thế mà cổ nhân cho đó là cách đẹp.

Nguyên nhân tại Sửu cung cũng có Liêm Sát đồng cung như lại không được cho là đẹp, là bởi vì tại Mùi là đất Mộ của hành Mộc, Mộc sinh Hỏa, có lợi cho Liêm Trinh ( tam hợp Mộc cục là Hợi – Mão – Mùi, trong đó Mùi là Mộ) còn Sửu là Mộ của hành Kim bất lợi đối với Liêm Trinh.

Nếu Dần cung mà gặp Liêm Trinh thì Thất Sát đóng tại Tý, cũng không phải là cách đẹp, nguyên do là vì nếu tại Thân thì Thân thuộc Kim mới có lợi cho cái sự rèn luyện của Liêm trinh (còn cung Dần thuộc mộc – bất lợi cho Liêm).

Cổ nhân luận đẩu số, đôi khi rất coi trọng Ngũ hành sinh khắc, mà cách này (hùng tú triều viên) là một ví dụ. Tuy nhiên, người sinh vào cách này, tất phải trải qua giai đoạn gian nan nguy hiểm rồi sau mới thành. Đây là đặc điểm cơ bản của cách này.

Theo: Liêm Trinh tọa thủ và cách Hùng tú triều viên
Được cảm ơn bởi: kimchionline, thangxyz, Ngàn Phố, HoaSenTuoiSang, huonggiang86
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Cách xem hạn hôn nhân

Những sao thể hiện hôn nhân: Đào hoa, Hồng loan, Long trì, Phượng các, Song hao, Thiên hỉ, Hỷ thần.

Những sao trợ giúp hôn nhân: Tả Phù, Hữu bật, Thiên riêu, Thai

Những sao cản trở hôn nhân : Thái Tuế, Thiên hình, Phá Toái, Kiếp sát, Hoá Kỵ, Tang Môn, Địa kiếp, Địa không.

Những sao góp phần dẫn đến việc khó kết hôn: Lộc tồn (chậm trễ), Đẩu quân, Cô thần - Qủa tú, Thiên hư, Thiên khốc.

Một số hạn hôn nhân:

Hạn (kết hợp cả Đại hạn, tiểu hạn, Lưu niên đại hạn) gặp: Đào hoa (Hồng loan), Long trì, Phượng các, Thiên hỉ, Hỷ thần (hiện nay các hạn diễn ra kết hôn thường kèm theo cả Tấu thư - đăng ký kết hôn). Có thêm Tả phù, Hữu bật khi kết hôn thường được nhiều sự trợ giúp (nếu thêm Hoá kỵ thì hôn nhân sẽ bị nhiều người cản trở - nhất là khi Hoá kỵ đóng cung Phu (thê), thêm Đại - tiểu hao sẽ có lợi trong việc chi thu tài chính (nếu có Địa không, Địa kiếp thì sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính).

Hạn đến hôn nhân cho dù hội đủ các sao tốt nhưng kèm theo Thái tuế, Hoá kỵ, Địa Không, Địa kiếp thì cũng khó thành nhất là gặp thêm cả Tang môn, Bạch hổ, Thiên khốc, Thiên hư.

Hôn nhân thường thể hiện rõ khi Lưu niên Thái tuế rơi vào cung Phu( thê) hoặc cung Tài (khi cưới vợ thường phát tài), hoặc Đại hạn, Lưu niên đại hạn, niên hạn đến cung Phu thê kết hợp với những sao hôn nhân hoặc trợ hôn.

Trường hợp Mệnh có Đào hoa, Hồng loan thì khi hạn hội tụ nhiều những sao trợ hôn hoặc hạn đến cung Phu (thê) mà không gặp sao cản trở, dễ diễn ra chuyện kết hôn.
Khi luận cung Phu (thê) cần chú ý đến Tuần - Triệt, nếu cung Phu (thê) có những dấu hiệu nhiều lần kết hôn, hoặc xung khắc nhưng bị Tuần -Triệt ngăn cản: Tả phù, Hữu bật, Tang môn, Thiên Mã, Thiên khốc, Thiên hư không xâm phạm được để tạo thành cách cục rõ ràng thì chỉ kết hôn một lần và không khắc. Ngược lại, cung Phu thê có nhiều sao tốt hội tụ mà bị Tuần - Triệt ngăn cản thì cũng giảm tốt.

Ở đây tôi xin bàn thêm về sự liên quan giữa sự nghiệp của vợ (chồng) sau khi lập gia đình. Trên lá số tử vi cung Quan lộc (chỉ công việc, sự nghiệp) bao giờ cũng ở vị trí chính chiếu với cung Phu thê. Khi cung Quan và cung Phu thê không bị Tuần - Triệt thì sẽ xảy ra những khả năng sau:

- Cung Phu thê tốt, tại bản cung có nhiều cát tinh hội tụ về cung Quan thì sau khi lập gia đình sự nghiệp của người đó sẽ thăng tiến hơn nhờ sự trợ giúp của vị hôn phu. Ngược lại, cung Phu thê có nhiều sao xấu thì sau khi lập gia đình, sự nghiệp của người đó sẽ đi xuống do sự cản trở của vị hôn phu hoặc phải lo lắng nhiều về vị hôn phu mà dẫn đến công việc không được thuận lợi.

- Cung Phu thê không quá tốt nhưng cũng không có nhiều hung sát tinh đóng tại bản cung thì thường là người lấy được vợ (chồng) hiền nhưng không trợ giúp được cho chồng (vợ) trên con đường sự nghiệp. Và nếu cung Quan, cung Mệnh tốt thì chính người vợ (chồng) sẽ được vinh hiển nhờ vào địa vị của đương số. Trường hợp này thường thấy ở những người có quyền cao chức trọng nhưng lấy vợ (chồng) hiền, có địa vị bình thường. Hoặc cung Phu (thê) tuy không tốt nhưng có nhiều cát tinh ở các cung Quan, Di, Phúc đức hội tụ làm cung Phu (thê) trở nên tốt đẹp thì đó là số của những người có tướng vượng phu hoặc giúp vợ.

Trường hợp cung Mệnh tốt, cung Quan tốt, cung Phu thê tốt, thể hiện cuộc hôn nhân đó là sự kết hợp xứng đôi vừa lứa, cả hai vợ chồng đều là những người thành đạt, có danh tiếng. Nhưng nếu trong cung Phu thê có kèm theo nhiều sao chỉ sự hình khắc, bất hoà như Thái tuế, Phá Toái...thì vẫn có sự khắc khẩu, tranh cãi. Cung Phu thê lại nằm trong thế Long đức - trực phù - thiếu âm thì tuy lấy được vị hôn phu phú quý nhưng cũng không cảm thấy hạnh phúc về mặt tinh thần.

Cung Phu thê cũng như cũng Mệnh thay đổi theo từng vận trình, không cố định. Những tính chất thể hiện trong cung Phu thê chỉ mang tính ước định khái quát chứ không nhất thiết cố định như vậy. Muốn biết rõ hơn về cung Phu thê phải kết hợp với các cung vận. Nếu cung Phu thê thể hiện sự phú quý nhưng vận gặp Địa kiếp, Thiên không, Đà la thì cũng vẫn phải gian lao vất vả. Ngược lại cung Phu thê yếu kém nhưng hạn gặp Khoa - Quyền - Lộc thì vợ (chồng) cũng là người có địa vị....

Lược trích từ Tử Vi Chân Thuyên

Nguồn:http://www.vietlyso.com/forums/archive/ ... 10017.html
Được cảm ơn bởi: Quan Nguyen, lonlygirl_83, huuluc, kimchionline, thangxyz, Ngàn Phố, beyond, huonggiang86, công chúa mùa thu
Đầu trang

Ngàn Phố
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2612
Tham gia: 11:13, 10/05/11
Đến từ: His HEART

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Ngàn Phố »

Cảm ơn bác Tây Đô đã sưu tầm về giúp mọi người!
Cháu xin đánh dấu để đọc dần dần bài này ạ
Được cảm ơn bởi: Tây Đô đạo sĩ, thangxyz, HoaSenTuoiSang
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


Giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN : Một vài khía cạnh cần nhớ ...!?

Trên bước đường nghiên cứu và học hỏi về Tử-Vi, tôi có thể nói rằng việc giải đóan vận hạn (tức là Đại Tiểu Hạn) khó khăn, phức tạp, nhất là vì ta phải cân nhắc và phối hợp qúa nhiều yếu tố, mặc dầu trong nhiều sách số có bàn tới khía cạnh này, nhưng tôi rất tiếc là hơi tổng quát và không được rõ ràng. Thực vậy, nếu cứ tra trong sách thì Đại Tiểu hạn gặp sao này bị hạn, gặp sao kia phát tài, hoặc Đại hạn nhiều sao tốt hơn sao xấu là tốt, hoặc Đại hạn xấu mà Tiểu hạn tốt cũng không hay … như thế chúng ta làm sao có thể đi tới kết luận và như thế cũng quá giản dị, dễ dàng và thiếu linh họat, uyển chuyển, trái hẳn với tinh thần Tử-vi.


Vi vậy tôi cố gắng thử triển khai cách giải đoán Đại Tiểu hạn (trong bài này tôi không đề cập đến Nguyệt và Nhật Hạn vì đi qúa sâu vào chi tiết rất khó khăn, dễ sai lầm và dễ bị thất vọng) nhưng sẽ bỏ qua những nguyên tắc thường được các sách nêu ra để cho khỏi rườm rà.
I/- ĐẠI HẠN :

Nếu so sánh với Tiểu hạn thì Đại Hạn dễ giải đoán hơn nhiều. Vì Đại hạn bao trùm chu kỳ 10 năm, do đó tổng quát hơn và nhất là các Đại hạn không bao giờ giống nhau, vì mỗi Đại hạn ở một cung không trùng nhau như Tiểu hạn (vì Tiểu hạn cứ 12 năm lại trở về cung trước). Tuy nhiên khi so sánh với cách giải đóan tổng quát Mệnh, Thân thì Đại hạn vẫn khó tìm hiểu vô cùng.

Nói chung, khi giải đóan Đại hạn qúy bạn nên lưu tâm tới những điểm sau (theo thứ tự ) :

- Tương quan giữa các sao hoặc các cách (nhất là chính tinh) của Mệnh, Thân với các sao hoặc các cách của Đại hạn.
- Tương quan giữa ngũ hành của bản Mệnh (hoặc Cục) và ngũ hành của cung nhập Đại hạn,
- Ảnh hưởng sớm hoặc trễ của các sao Nam Đẩu hoặc Bắc Đẩu tinh
- Phối hợp cung Phúc Đức với Đại hạn.
- Phối hợp cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra trong Đại hạn (nếu cần)
- Khác ( Nếu có)

* Ghi chú :

– Nam đẩu tinh gồm có các sao : Thiên Phủ, Thiên Tướng, Thiên Lương, Thất sát, Thiên Đồng, Thái Dương, Thiên Cơ.
– Bắc đẩu tinh gồm có các sao : Thái Âm, Tham Lang, Cự Môn, Liêm Trinh, Vũ Khúc, Phá Quân.
– Riêng Sao Tử-Vi : vừa Nam đẩu tinh & Bắc đẩu tinh

Lẽ tất nhiên qúy bạn phải xét tới ý nghĩa tốt xấu của các sao mà tôi không nêu ra, vì các sách đã có bàn tới, ngòai những nguyên tắc nêu trên. Bây giờ tôi xin đưa ra những ví dụ cụ thể để qúy bạn hiểu rõ các nguyên tắc tổng quát liệt kê trên đây :

1- Sau khi đã nhận định về ý nghĩa tốt xấu của các sao nhập Đại hạn qúy bạn cần xem các Sao, hoặc nhóm Sao của MỆNH (nếu chưa quá 30 tuổi), hoặc THÂN (nếu trên 30 tuổi) có hợp với các sao nhập Đại hạn hay không .?.. Đây là điểm quan trọng nhất mà nhiều người biết Tử-vi thường hay bỏ qua. Thực tế có khi cách hoặc Sao nhập hạn rất hay mà vẫn chẳng tốt hoặc chẳng ứng nghiệm, chỉ vì không hợp với cách của MỆNH, THÂN.

Ví dụ : như Mệnh, hoặc Thân có cách Sát Phá Liêm Tham mà cung nhập hạn có cách Cơ Nguyệt Đồng Lương thì không sao dung hòa được, và do đó cuộc sống phải gặp nhiều trở ngại, mâu thuẫn đối kháng, dù cho Cơ Lương đắc địa tại Thìn-Tuất chăng nữa ? Còn như Mệnh, Thân có cách Tử Phủ Vũ Tướng mà hạn gặp Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nhất định là hay rồi, với điều kiện đừng có Không Kiếp lâm vào. Vì Tử Phủ rất kị 2 sao này, dù gặp gián tiếp.

Ngòai ra còn cần phải xem ngũ hành của Chính tinh thủ mạng, hoặc Thân với ngũ hành của chính tinh tọa thủ tại cung nhập hạn (nếu có). Ví dụ như Mệnh có Tham Lang thuộc Thủy. Nếu đại hạn có Tử-Phủ ở Dần hoặc Thân chẳng hạn thì vẫn xấu như thường, vì Tử-Phủ thuộc Thổ khắc với chính tinh là Tham Lang.

2- Điểm quan trọng thứ nhì là phải xem ngũ hành của Mệnh (nếu chưa quá 30 tuổi) hoặc của Cục (nếu quá 30 tuổi) có hợp với Ngũ hành của Chính tinh và của cung nhập hạn hay không. Hay nhất là được cung và sao sinh bản Mệnh hoặc Cục (tùy theo từng trường hợp) hoặc nếu không phải tương hòa, nghĩa là cùng một hành ( có nhà Tử-vi lại cho rằng cùng một hành là thuận lợi nhất), còn trường hợp sinh xuất, tức là Mệnh sinh Sao hoặc cung nhập hạn, và khắc nhập tức là Sao hoặc cung khắc Mệnh, thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc nhập, tức là sao hoặc cung khắc Mệnh thì đều xấu cả. Riêng trường hợp khắc xuất tuy cũng vất vả, nhưng mình vẫn khắc phục được hòan cảnh, và do đó chưa hẳn là xấu.

Ví dụ : Mạng của mình là Thủy đi đến Đại hạn có Cự Môn, Hóa Kị, Không-Kiếp cũng chẳng hề gì, nếu có xảy ra cũng chỉ sơ qua, trong khi đó nếu mình Mạng Hỏa, hoặc Kim thì đương nhiên dễ bị hiểm nghèo về nạn sông nước. Hoặc là mạng mình là Kim đi đến cung nhập hạn có Vũ Khúc (Kim) hội Song Lộc, Tử-Phủ …. thì làm gì mà không giàu có, trong khi người mạng Mộc thì có khi lại khổ về tiền tài.

3- Về ảnh hưởng sớm trễ của chính tinh, chắc qúy bạn đều biết là Nam Đẩu Tinh ứng về 05 năm sau của Đại hạn, còn Bắc Đẩu Tinh ứng về 05 năm trước của Đại hạn. Tuy vậy cũng vẫn có bạn chưa hiểu phải áp dụng để giải đóan như thế nào.

Tôi xin cử một Ví dụ : Mạng có Đào Hoa, Mộc Dục, Hoa Cái. Đại hạn có Tham Lang, Thiên Riêu, Hồng Loan, Kình Dương, Thiên Hình … thì gần như chắc chắn trong 05 năm đầu đương số sống trong giai đọan rất lả lướt, bay bướm vì Tham Lang (thuộc nhóm sao Bắc Đẩu Tinh) cũng như cái đầu tàu lôi kéo tất cả các sao phụ kia, nhưng với điều kiện đương số phải là mạng Thủy, Mộc hoặc Kim thì mới ứng nghiệm nhiều. Vì Tham Lang thuộc hành Thủy hợp với ngũ hành trên. Nếu chính tinh nhập hạn là Thiên Lương (thuộc nhóm sao Nam Đẩu Tinh ) thì các sao phụ đó lại phải họat động chậm lại theo với ảnh hưởng của chính tinh, tuy nhiên cuộc sống không bừa bãi bằng người có Tham Lang nhập hạn, vì dù sao Thiên Lương vẫn là sao đứng đắn, đàng hòang hơn (chỉ trừ trường hợp Thiên Lương cư Tị-Hợi mới xấu, mà nhiều sách đã nói tới nhiều rồi …)

4- Nhiều khi phối hợp Mệnh-Thân với Đại hạn cũng chưa đủ, qúy bạn còn cần xét đến cung Phúc Đức nữa và đừng bao giờ nên quan niệm cung Phúc Đức chỉ biểu tượng đơn thuần về Âm Đức của Ông Bà, Cha Mẹ để lại hoặc của chính tinh tạo ra hoặc mối liên hệ tinh thần của cả giòng họ nội của mình, vì thực ra cung Phúc Đức có thể được coi như cung Mệnh thứ nhì, và đôi khi còn quan trọng và ảnh hưởng hơn. Có nhiều nhà Tử-vi chỉ xét riêng cung Phúc Đức mà có thể tìm ra được khá nhiều nét về cuộc sống tinh thần cũng như vật chất của một người, nhất là trong trường hợp Mệnh-Thân không có đủ yếu tố để mình nhận định rõ ràng hoặc bị coi như là nhược, khiến cho ta không thể bám víu vào mà đoán.

Ví dụ như một người có Tả Phù, Hữu bật, Đào Hoa, Hồng Loan chiếu Thê và cung Mệnh có Thiên Riêu, Mộc Dục, Hoa Cái … hội chiếu thì đương nhiên có lòng tà dâm, dễ có nhiều vợ …! , nhưng nếu cung Phúc Đức có Vũ Khúc, Cô-Qủa, Lộc Tồn thì dù có gặp Đại hạn có yếu tố đa tình, lả lướt chăng nữa cũng khó chung sống thêm với một người đàn bà nào khác một cách chính thức, chỉ có thể giỡn chơi, hoặc thèm ăn phở … trong một thời gian ngắn là cùng.

5- Điểm sau chót qúy bạn nên lưu tâm là cung liên hệ đến hòan cảnh xảy ra hoặc cần phải giải đóan trong Đại hạn. Trong phần nguyên tắc tổng quát nêu trên, tôi có nói là “nếu cần” thì mới xét tới, vì khi mình giải đóan chung vận hạn thì ít khi phải nhận định khía cạnh này, chỉ trừ khi nào cần thiết một điểm riêng biệt nào mới phải ngó tới cung liên hệ .

Ví dụ : Như đương số đã có vợ, hoặc chồng mà cần biết về đường con cái trong Đại hạn đương diễn tiến thì ngòai các điểm cần phối hợp nêu trên, ta phải quan tâm đến cung Tử-Tức (tức là cung liên hệ đến hòan cảnh) trước Đại hạn. Nếu cung Tử-Tức qúa hiếm hoi, như có Đẩu Quân, Cô-Qủa, Kình-Đà, Lộc-Tồn, Vũ-Khúc, Không-Kiếp chẳng hạn thì dù có Đại Hạn có đủ cả Song-Hỷ, Đào-Hồng, Thai, Nhật-Nguyệt đắc địa, Long-Phượng cũng chưa chắc gì đã sinh con đẻ cái đầy đàn, hoặc may mắn về công danh, tiền tài … Còn nếu gặp trường hợp cung Tử-Tức không bị các sao hiếm mà lại còn có Tả-Hữu chiếu, thì gặp Đại hạn trên sẽ sinh liên tiếp, có khi năm một không chừng !?..

6- Lưu Đại hạn hàng năm : Lưu Đại hạn là một cung cho biết cái của vận hạn trong năm đó, và tính từ gốc Đại hạn. Một nhà Tử vi đã bảo rằng Đại hạn giống như cỗ xe, và Lưu Đại hạn giống như người tài xế. Cỗ xe tốt, thì đi tốt, nhưng cũng còn tuỳ theo người tài xế hay, dở thế nào. Vậy phải nhập cả cung Lưu Đại hạn vào mà đoán. Xem Lưu đại hạn, phải đủ cung chính và 3 cung xung chiếu, nhị hợp ...

* Cách Lưu Đại hạn hàng năm : Bạn đọc tham khảo các sách Tử vi (tôi không nhắc lại)

* Như vậy, muốn đoán Tiểu hạn ta phải xem gốc Đại hạn, Lưu Đại hạn và cung của Tiểu hạn. Ba yếu tố này kết hợp với nhau mà đoán.
II- TIỂU VẬN

Bàn về Tiểu-Hạn (tức là vận hạn trong một năm) qúy bạn sẽ thấy khó khăn, phức tạp hơn Đại-Hạn nhiều, vì phải phối hợp với nhiều yếu tố hơn.

Cung Tiểu hạn ghi những biến cố xảy ra trong năm, địa chi của năm có ghi ở mỗi cung (Tý, Sửu, Dần, Mão ….) Như Tiểu hạn mà thật tốt về công danh, nhưng xem các cung Mệnh, Quan Lộc thấy không báo hiệu công danh tốt. Đại hạn không phải là Đại hạn công danh, và Lưu Đại Hạn không báo hiệu công danh, thì công danh trong năm Tiểu hạn cũng khó mà có, hoặc chỉ có công danh nhỏ. Ngược lại, thấy Tiểu hạn xấu, nhưng lại thấy Đại hạn tốt đẹp, thì cũng không có gì đáng phải lo ngại, bởi vì Đại hạn là nền gốc. Xem Tiểu hạn, phải đủ cung chính và 3 cung chiếu, nhị hợp....

Nếu đặt vấn đề nguyên tắc thì Tiểu-Hạn tạm căn cứ vào các điểm sau (mà một vài điểm theo quy tắc đã được các sách đã nêu ra) :

- Tương quan giữa Đại-Hạn và Tiểu-Hạn
- Tương quan giữa Ngũ hành bản Mệnh với các Chính tinh (nếu có) và cung nhập hạn.
- Tương quan giữa Lưu Đại-Hạn, Địa bàn và Thiên Bàn.
- Tương quan giữa Ngũ Hành của năm Nhập Hạn với cung và sao nhập hạn
- Các phi tinh (tức là các sao Lưu như : Lưu Thiên Mã, Lưu Lộc-Tồn, Lưu Kình-Dương, Lưu Đà-La, Lưu Tang-Môn … ) ngòai ý nghĩa xấu tốt của các chính tinh và phụ tinh mà các sách thường nêu ra.
- Khác (như Tứ hành xung, Can Chi của tuổi so với Can Chi của năm hiện hành …)

Dưới đây tôi xin triển khai các điểm ghi trên để qúy bạn đọc hiểu rõ ràng :
1- Khi xét đến tương quan giữa Đại Hạn và Tiểu Hạn là đương nhiên ta đã tìm hiểu kỹ Đại Hạn theo các nguyên tắc mà tôi đã nêu ra ở trên. Tôi có thể nói mối tương quan này tối quan trọng, cũng như mối tương quan giữa Đại & Tiểu Hạn nên không bao giờ ta giải đóan giống nhau, mặc dầu cứ 12 năm lại trở về lại cùng một cung tức là cùng các sao và ngũ hành. Riêng mục (1) này tôi chỉ xin nêu ra nhiều ví dụ vì mục này rất quan trọng.

Ví dụ : Đầu tiên là các sao bao giờ cũng phải có đủ bộ mới làm nên chuyện hoặc mới họat động. Chẳng hạn như Đại Hạn có Thái Tuế, Bạch Hổ, Quan Phù, Không-Kiếp, Khốc-Hư thường chủ về tranh chấp, kiện cáo, khẩu thiệt. Khi gặp Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Kình-Đà, Hình-Linh, Hóa Kị, Phục Binh …. Thì dễ bị tai họa tù tội. Nếu Đại Hạn không có những sao nêu trên thì Tiểu-Hạn dù có những sao đó vẫn chẳng bị tai họa gì, có thể bị đau yếu sơ qua, hoặc bị xa gia đình …

Đó là bàn về chuyện xấu, còn về việc làm ăn thịnh vượng thì nếu :

– Đại Hạn có Vũ-Khúc, Thiên Phủ hợp Mệnh mà Tiểu Hạn có Song Lộc thì đương nhiên làm ăn phát tài, dễ dàng.

– Hoặc như Đại hạn có Tử-vi cư Ngọ (nhất là có Quan Lộc hoặc Tài Bạch đóng ở đó) hợp Mệnh mà Tiểu hạn có Khôi-Việt, Thai-Tọa, Tả-Hữu, Long-Phượng, Đào-Hồng-Hỷ, Xương-Khúc … thì dễ có chức phận lớn, dễ chỉ huy hoặc kinh doanh có tầm quy mô …

- Nếu thấy các sao nhập Đại Hạn & Tiểu-Hạn hợp thành bộ rồi, cần phải xét xem các Chính tinh (không bao giờ xét đến phụ tinh) của Đại-Hạn có phù hợp hoặc đối kháng với các Chính tinh của Tiểu-Hạn hay không.

- Nếu Đại-Hạn có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì Tiểu-Hạn cần có Cự-Nhật hoặc Tử Phủ Vũ Tướng chứ không nên có Sát Phá Liêm Tham … Về điểm này qúy bạn nên xem phần Tiểu luận trong sách Tử vi Đẩu Số Tân Biên của Vân Đằng Thái Thứ Lang cũng đầy đủ và dễ hiểu lắm. Vì thế Tiểu-Hạn tốt cũng chưa chắc ăn mấy.

- Nếu chú ý về cá nhân mình, thì cần Đại-Hạn tốt đi vào một trong những cung liên hệ trực tiếp đến mình thời Tiểu-Hạn mới xứng ý (như cung Tài, Quan, Di, Điền, Phúc )

Ví dụ : Mình muốn làm ăn, kinh doanh lớn mà Đại-Hạn còn ở cung Phụ-Mẫu hoặc cung Tử-Tức thì dù cho Tiểu-Hạn có tốt cũng vẫn chưa thể phát huy được đúng mức, nhất định là phải chờ Đại-Hạn chuyển sang cung Tài-Bạch (nhưng nếu xui xẻo ! gặp cung Tài-Bạch lại xấu thì kể như vô vọng ?) mới hạnh thông được.

- Sau hết, tôi xin nêu ra một trường hợp rất khó đóan : Đương số Mệnh có Tham Lang cư Thìn, tức là tổng quát sống lả lướt và Đào-Hoa. Cung Thê có Đào-Hồng, Tả-Hữu chiếu tức là có sự lựa chọn, mai mối nhiều và Đại-Hạn lại đi tới cung Thê như thế là đủ hết các yếu tố đi tới hôn nhân. Do đó các thày Tử-vi đều đóan đương số lấy vợ ở các Tiểu-Hạn có : Đào-Hồng-Hỷ, Tả-Hữu, Xương-Khúc … nhưng ai ngờ rằng, đương số lại lập gia đình trong Tiểu-Hạn có Cô-Qủa, Tang-Hổ, Nhật-Nguyệt hãm địa hội Hóa-Kị và lại không ngó thấy ở cung Thê (vì thường thường các nhà Tử-vi hay lựa Tiểu-Hạn hội chiếu với cung Phối hoặc trùng phùng ngay vào cùng Phối để đóan hôn nhân). Tuy trường hợp này hơi kỳ lạ nhưng nếu suy luận một chút là thấy hợp lý vì theo nguyên tắc “ Tổn hữu dư, bổ bất túc “ trong Dịch học, ta thấy các yếu tố về hôn nhân qúa nhiều (tức là dư) thì cần phải có các sao tiết giảm như Cô-Qủa, Tang-Hổ, Kị … thời con thuyền mới có bến đậu được, chứ không “Trăm mối tối nằm không” nhất là Tiểu-Hạn vào cung Giải-Ách, tức là tránh né không nhìn thấy cung Thê là cung Đại-Hạn đi tới để khỏi chịu ảnh hưởng qúa mạnh của các sao Hỷ. Trường hợp này ít khi xảy ra hoặc ít khi gặp, nên quý bạn đừng qúa hoang mang, cứ đóan như thường lệ đi !!!...


2- Thường thường đóan Tử-vi ai cũng thích các Chính tinh sinh bản mệnh. Điều này chưa hẳn đã hay hòan tòan. Vì nếu gặp chính tinh như Phá Quân hoặc Tham Lang nhập hạn và Mạng mình có Cơ Nguyệt Đồng Lương thì nên lựa Mạng khắc hai sao này hơn là được hai sao này sinh (Lẽ dĩ nhiên nếu hai sao này khắc Mạng là điều tối kị !) Vì bộ Cơ Nguyệt Đồng Lương không ưa hai chính tinh này, nên tốt hơn hết là “ mời “ hai sao đó “ đi chơi chỗ khác “ tức là trường hợp mình có Mạng khắc hai sao này. Ngay cả trường hợp Mạng mình có bộ sao chế ngự được Tham-Phá (như bộ Tử-Phủ, Vũ-Tướng chẳng hạn) cũng không nên liên hệ đến hai sao này, vì dù sao chúng cũng chủ về tham vọng, ích kỷ, phá tán, bừa bãi, trừ phi đương số là lọai người thích đi vào con đường đó thì không kể. Còn chính tinh nhập hạn như Tử-Phủ, Đồng-Lương … bao giờ cũng cần sinh bản Mệnh, hoặc ít ra cùng một hành với Mạng, dù cho Đại-Hạn có bộ sao đối kháng với các sao ở Tiểu-Hạn.

- Về tương quan giữa Ngũ Hành bản Mệnh với cung Nhập hạn thì bao giờ cũng sinh bản Mệnh là tốt đẹp, thuận lợi hoặc nếu được tương hòa vẫn hay, chỉ ngại nhất cung khắc bản Mệnh, còn như Mạng sinh Cung, hoặc khắc Cung cũng có khi dùng được, tuy không phải là hay.

Ví dụ : Như hạn đến cung Tử-Tức có các sao tốt. Nếu sinh được cung, tức là mình lo được cho con cái thành công, hoặc đầy đủ, chứng tỏ mình có phương tiện, tuy mình phải vất vả một chút vì con cái. Nhưng nếu cung Tử-Tức xấu đương nhiên là minh khổ vì con (hoặc vì chúng đau yếu, chết non hay con cao bồi du đãng, ăn chơi, hút chích, sì ke ma túy ….. mà mình vẫn thương yêu chúng )

- Còn gặp trường hợp khắc cung cũng vậy, có khi hay mà cũng có khi dở. Nếu gặp Tiểu-Hạn đi tới cung Nô-Bộc thì lại hay vì mình khắc phục được người dưới quyền hoặc hòan cảnh, còn như Tiểu-Hạn đi tới cung Phụ-Mẫu chẳng hạn thì mình hay bất hòa với cha-mẹ (Nếu cung Phụ-Mẫu xấu qúa có thể mình phải xa cách cha-mẹ khi qua đời … ).Những điểm trên đây quý bạn cũng có thể áp dụng luôn cho cả Đại hạn (mà phần Đại hạn tôi chưa đề cập tới).

3- Về vần đề Lưu Đại-Hạn, Địa bàn (tức là Tiểu-Hạn theo vị trí cố định của các cung - tức Lưu Thái tuế theo từng năm, như năm nay Đinh Hợi xem Địa Bàn ở cung Hợi-tức Lưu Thái Tuế ở cung Hợi kích động) và Thiên Bàn (tức là Tiểu-hạn theo hàng Chi an ở ô giữa lá số. Tôi thấy không quan trọng lắm. Vì thực ra chỉ xét kỹ Thiên Bàn là đủ và đỡ rắc rối qúa mức. Chỉ trừ khi nào ta thấy Thiên bàn qúa xấu hoặc không rõ chút nào, lúc đó ta mới cần kết hợp thêm Lưu Đại-Hạn, và địa bàn để xem có yếu tố gì cưu giải hoặc soi sáng thêm hay không ..?? Về cách Lưu Đại-hạn trong các sách như Tử-vi đã có ghi rõ và nêu rồi, tôi không nhắc lại nữa.

Bởi thế ngay khi rảnh rang ngồi cân nhắc kết hợp cũng chưa chắc đã giải đóan được chính xác. Vì yếu tố này bổ túc hoặc chế hóa yếu tố kia sẽ đưa đến những kết luận khác nhau. Dù có biết đủ các dữ liệu để giải đoán Tiểu-hạn cao hay thấp còn tùy thuộc rất nhiều vào óc kết hợp tinh vi và kinh nghiệm của người giải đóan.

4- Về ngũ hành của hàng Can. Năm nhập hạn cũng ảnh hưởng tới Tiểu-hạn nhiều hay ít .

Ví dụ dễ hiểu như sau : Một người mạng Kim có Cự Môn, Hóa-kỵ tọa thủ tại Mệnh. Đại-hạn có Không-Kiếp, Tả-Hữu, Sát Phá Tham (tức là hạn Trúc La) đã chết đuối trong tiểu hạn năm Nhâm-Thân. Vì chữ Nhâm là Thủy và cung nhập hạn cũng là Thủy, trong khi đó mạng Kim là sinh Thủy cho nên nước qúa nhiều thì Kim phải chìm lỉm !?..

Suy ra những trường hợp khác cũng vậy. Ví dụ như Tiểu-Hạn đến cung Điền có Tang-Hỏa và nhiều sao Hỏa. Nếu gặp năm Nhâm, hoặc Qúy (đều là Thủy) thì vẫn không đáng ngại về hỏa họan vì đã được Thủy dập tắt rồi !. Như vậy mục 4 này quý bạn cũng không nên bỏ qua khi đóan tiểu hạn, và đây cũng là một điểm cho thấy hai tiểu hạn (12 năm trở lại ) cùng 1 cung đã có sự khác biệt rồi.

5- Phần chót là về các phi tinh (tức là các sao Lưu như Lưu Thái-Tuế, Lưu Lộc Tồn …) Tôi thấy các Phi tinh không quan trọng lắm, chỉ là để xác định thêm một chút những yếu tố đã tìm ra. Ví dụ như biết hạn xấu rồi, thì nếu có thêm Lưu Kình-Dương gặp Kình-Dương cố định đồng cung ta có thể tin chắc là nguy nan. Nếu Tiểu-Hạn tốt thì dù có 2 sao này cũng chẳng hề hấn gì. Cũng có Nhà Tử-vi căn cứ vào vòng Tràng Sinh (Lưu) để tìm ra vận hạn cho những người liên hệ trực tiếp với mình như cha, mẹ, vợ con … Nhưng tôi thấy chưa có gì chính xác và hợp lý nên xin miễn bàn trong mục này.

Qua những điều tôi trình bày trên đây về Đại-Tiểu Hạn. Quý bạn hẳn thấy việc giải đoán vận hạn rất rắc rối và khó khăn rất nhiều, có thể làm ta chán nản. Vì không biết đúc kết các yếu tố tìm ra thế nào, do đó dễ bị sai lầm. Nhiều khi ta đành phải chờ sự việc xảy ra rồi mới thấy rõ cái hay của Tử-vi, và vì thế tôi thấy học Tử-vi không gì hay bằng chiêm nghiệm thật nhiều lá số mà mình đã theo dõi, chứ nếu chỉ có học thuộc các câu phú hoặc nguyên tắc giải đóan (mà các sách đã nêu) không thôi, thì chẳng bao giờ có thể giải đoán vững vàng./.

Nguồn: Giải đoán ĐẠI-TIỂU HẠN : Một vài khía cạnh cần nhớ ...!? - [THẾ GIỚI VÔ HÌNH]
Được cảm ơn bởi: juxedo1812, lonlygirl_83, HoaSenTuoiSang
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

XÉT VỀ ĐẠI TIỂU HẠN
Những cách tính đại hạn
Đại hạn lưu niên là gì và các lưu tinh là gì?
(Anh-Việt)
Trong số các thư của bạn đọc hỏi về Tử Vi, chúng tôi có tiếp nhận được hai loại:
- Một loại nêu lên một vài sự khác biệt về những điều chúng tôi nêu lên với những điều bạn đọc thấy trong các sách. Xin quý bạn theo dõi hai bài của ông Ân Quang trong tập trước và trong tập này, nói về những khác biệt trong các sách và tùy theo thầy Tử Vi. Xin kể như đó là câu trả lời.
- Quý bạn hỏi về cách giải đoán đại hạn và tiểu hạn, điều mà con người thích biết hơn hết. Thắc mắc của quý bạn cũng do chỗ đọc các bản giải đoán những lá số nêu sẵn, thấy có ghi đại hạn, đại hạn lưu niên và các lưu tinh (phi tinh) mà các bạn chưa rõ đó là những gì. Dưới đây là bài đầu tiên để trả lời các bạn về câu hỏi đó.

Đại hạn
Xét vận mạng của con người, có cung Mạng, cung Thân, cung Quan, và luôn cả các cung khác, ngoài ra, về thời gian cuộc đời, có chia ra từng khoảng 10 năm. Các bạn biết cách đặt các cung đại hạn đó, đặt số đầu là số Cục, và cứ mỗi cung thêm 10, kể từ cung Mạng, theo chiều thuận nếu là Dương Nam, Âm Nữ, và theo chiều ngược nếu là Âm Nam, Dương Nữ.
Thí dụ: Thủy nhị Cục (2) Âm Nam, thì đề số 2 tại cung Mạng, và theo chiều nghịch, các cung sau là các số 12, 22, 32, 42, 52, v.v…

Như vậy có nghĩa là xem đại hạn 2-11 tuổi tại cung Mạng, 12-21 tuổi tại cung Huynh Đệ, 22-31 tuổi tại cung Thê, 32-41 tuổi tại cung Tử Tức, 42-51 tuổi tại cung Tài Bạch, 52-61 tuổi tại cung Giải Ách, v.v… (Dĩ nhiên, xem cung chánh và 3 cung chiếu).

Tiểu hạn
Tiểu hạn là vận hạn trong 1 năm. Chúng tôi đã có nêu cách ghi tiểu hạn, mỗi năm ăn vào 1 cung chánh và 3 cung chiếu. Cách tính như sau:
- Nếu năm sinh là Dần, Ngọ hay Tuất thì để tên năm sanh của mình vào cung Thìn, ở khoảng vành trong.
- Nếu năm sanh là Thân, Tý, Thìn, để tên năm sanh của mình vào cung Tuất.
- Nếu năm sanh là Tị, Dậu, Sửu, để tên năm sanh của mình vào cung Mùi.
- Nếu năm sanh là Hợi, Mão, Mùi, thì để tên năm sanh vào cung Sửu.
- Rồi cứ thế mà ghi các năm theo đúng hàng địa chi, mỗi cung một năm, Nam theo chiều thuận, Nữ theo chiều nghịch.
- Thí dụ: Đàn ông tuổi Kỷ Mùi, bạn đề chữ Mùi vào cung Sửu, rồi viết tiếp theo chiều thuận theo hàng địa chi, mỗi cung một tên: Thân, Dậu … cho đến Hợi, rồi lại đến Tý, cho đủ 12 năm. Như thế, năm Tý thuộc cung Ngọ, muốn xem tiểu hạn thì xem cung chánh ở Ngọ, và cung chiếu.

Lưu đại hạn
Mạng, Thân, Phúc, là nền tảng cuộc đời.
Đại hạn là nền tảng cuộc đời 10 năm.
Tiểu hạn báo những biến cố trong 1 năm.
Tuy nhiên, nếu chỉ xem như vậy thì chưa đủ để biết được hướng vận hạn của 1 năm, mà còn phải xem thêm Lưu đại hạn. Cái ý nghĩa của Lưu đại hạn được giải thích như sau: Trong khi đại hạn là nền tảng chính trong 10 năm, thì tiểu hạn cho biết vận trong 1 năm dựa trên nền tảng của đại hạn, nhưng còn Lưu đại hạn để cho biết cái hướng thật của đại hạn dành cho năm đó, có xem như vậy mới rành.
Thí dụ:
- Đại hạn báo 10 năm phát tài, giầu có.
- Nhưng không phải năm nào cũng giầu, vì đại hạn chỉ có biết trong vòng 10 năm có lúc giầu.
- Xét tiểu hạn: gặp một tiểu hạn có nhiều sao thịnh vượng phát tài, có thể cho rằng năm đó phát tài thật.
- Nhưng còn phải được xác nhận bằng cung Lưu đại hạn và các cung chiếu. Nếu Lưu đại hạn báo sự phát tài giầu có thật, thì kể như sự giầu có trong đại hạn báo cho năm đó. Nếu tiểu hạn tuy có những sao phát tài, nhưng Lưu đại hạn lại báo sự tán tài, nghèo khó, thì sự phát tài ở tiểu hạn chỉ nhỏ, ít thôi, không đáng kể, không phải là năm làm giầu.

Cách tính Lưu đại hạn
Khởi tính từ cung của Đại Hạn. Cung Đại Hạn báo hiệu cho 10 năm. Còn Lưu Đại Hạn thì tính từng năm:
Âm Nam, Dương Nữ
Lấy cung gốc đại hạn làm năm khởi tính.
- Lưu đại hạn năm đầu của đại hạn: chính là cung gốc đại hạn.
- Lưu đại hạn năm thứ 2 của đại hạn: chính là cung đối diện của cung gốc.
- Lưu đại hạn năm thứ 3 của đại hạn: là cung kế theo chiều thuận của cung vừa tính.
- Lưu đại hạn năm thứ 4 của đại hạn: trở về cung đối diện của cung gốc.
- Lưu đại hạn năm thứ 5 của đại hạn: là cung kế theo chiều nghịch. Cứ thế mà tính đi.
Thí dụ cụ thể: Tuổi Kỷ Mùi, Thủy Nhị Cục, đại hạn 52 (52 đến 61 tuổi) tại cung Thân, Lưu đại hạn năm 52 tuổi tại Thân, năm 53 tuổi tại Dần, năm 54 tuổi tại Mão, năm 55 tuổi tại Dần, năm 56 tuổi tại Sửu, năm 57 tuổi tại Tý, v.v…



Thí dụ cho Dương Nam, Âm Nữ, cũng tính như cách trên, nhưng sau khi lấy cung đối diện, chuyển sang 1 cung theo chiều nghịch, rồi mới lại đi theo chiều thuận.
Như tuổi Canh Dần, 23 tuổi, Dương Nam, Thủy nhị cục, đại hạn 22 ở cung Tuất thì lưu đại hạn 22 tuổi ở Tuất, 23 tuổi ở Thìn (đối diện), 24 tuổi ở Mão, 25 tuổi lại ở Thìn, 26 tuổi ở Tị, 27 tuổi ở Ngọ, v.v…


Những cách để xét đại, tiểu hạn
Xét đại tiểu hạn, có những cách để biết hay dở.
- Cung Hạn sinh cho hành của sao chính
- Hành của Cung sinh cho hành của Mạng
- Hành của sao chính sinh cho hành của Mạng
Được sinh tốt, khắc là xấu.
Đó là một cách đầu tiên để xét.
Kế đó, xét đến nhóm chính tinh của hạn có phải cùng loại với nhóm chính tinh của Mạng không. Nếu cùng loại là hạn tốt, không cùng loại là hạn xấu.
Cách xét thứ ba, là những sao xấu và những sao tốt. Nhiều sao tốt, nhiều sao xấu. Tuy nhiên, cũng còn nhiều chi tiết phức tạp để xét, thí dụ như gặp một sao thật xấu, thì vẫn phải chịu xấu, chỉ nhờ các sao khác gỡ được phần nào, ngoài ra, có thể có những sao giải. Cũng có những cách mà người giải đoán trông thấy, là có thể biết được sẽ có biến cố nào xảy ra trong năm. Có thể đoán trong chi tiết của tai nạn, xem là tai nạn gì, hoặc là việc tốt, là việc gì, rồi sau đó có thể tính ngày giờ của việc theo cách tính tháng, rồi tính ngày (sẽ trình bày sau).
Cũng để tính đại tiểu hạn, lại phải tính cả các sao lưu, hay là các phi tinh.

Các sao lưu
Đó là những sao lưu động, những phi tinh, gồm có:
- Lưu Thái Tuế.
- Lưu Tang Môn, Lưu Bạch Hổ
- Lưu Thiên Khốc, Lưu Thiên Hư
- Lưu Lộc Tồn, Lưu Kình Dương, Lưu Đà La.
- Lưu Thiên Mã
Mỗi sao lưu có những ảnh hưởng như nhau:
- Nếu gặp sao tốt thì làm cho tốt, hưng vượng: nếu gặp sao xấu, càng gây thêm họa hại.
- Đóng ở cung nào, thì tạo ảnh hưởng về cung đó. Thí dụ, Lưu Thiên Mã đóng ở Tử Tức, thì con cái có sự đi xa. Lưu Kình Dương đóng ở Phụ Mẫu thì cha mẹ có gặp những tai ách (dĩ nhiên, còn phải xem những sao giải của Phụ Mẫu) tức là chính số của đương sự, mới rõ được.
Chúng tôi đã xin trình bày về các yếu tố Đại tiểu hạn. xin quý bạn đọc theo dõi đề mục “Tự điển Tự Vi”, khi đến Đại Tiểu Hạn, chúng tôi sẽ xin trình bày cách chấm các sao lưu cho từng năm, và các cách để giải đoán về vận hạn.

[TẠP CHÍ KHHB SỐ 26 RA NGÀY 30/11/1972] Xét về đại tiểu hạn
Tập tin đính kèm
lưu đại hạn 2.jpg
lưu đại hạn 2.jpg (16.04 KiB) Đã xem 72685 lần
lưu đại hạn.jpg
lưu đại hạn.jpg (15.28 KiB) Đã xem 72685 lần
Được cảm ơn bởi: Quan Nguyen, moclaniu, lonlygirl_83, HoaSenTuoiSang, xote291
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »

Các bài trích trong tạp chí Khoa học huyền bí trước năm 1975

Muốn kinh doanh buôn bán cần có những yếu tố nào?

Xem các bộ sao trên lá số Tử Vi để biết trước mình làm nghề kinh doanh buôn bán được không?

Các sách Tử Vi đã xuất bản thường cho rằng muốn kinh doanh, buôn bán, thì mệnh thân, tài, quan… phải tránh được các sao thanh cao, đứng đắn, đạo mạo (như Tử Vi, Thiên Phủ, Cự Nhật, Quan Phúc, Khôi Việt, Cáo Phụ, Thai Tọa, bộ Tứ Đức…) và cần có các sao chủ về tài lộc, tiền bạc, tháo vát, thủ đoạn, xoay xở giỏi (như Vũ Khúc, Song Lọc, Đại Tiểu Hao mão dậu, Cự Cơ mão dậu, Không Kiếp, Tả Hữu, Nhật Nguyệt v.v.). Tiêu chuẩn tổng quát này xét ra không phải là sai lầm, nhưng khi áp dụng vào nhiều trường hợp thì tôi thấy không ứng nghiệm chút nào, vì đâu có phải ngành kinh doanh không hợp với người đứng đắn, đành rằng trên thương trường nếu ta thành thực quá thì đương nhiên là bất lợi, khó giàu lớn. Để khỏi lý luận dài dòng có thể làm cho quý bạn thấy nhàm tẻ, tôi xin nêu ra đươi đây nhiều cách ứng nghiệm cho ngành kinh doanh mà tôi đã gặp trong các lá số. Đây tôi chỉ đề cập đến những người thực sự đi vào ngành này chứ không kể đến những người chỉ vì sinh kế nhất thời mà phải miễn cưỡng buôn bán. Và qua các trường hợp sau đây quý bạn sẽ thấy tiêu chuẩn tổng quát nêu trên bị đảo lộn hết.

Tử Phủ hội Kình Dương (theo phú “Tử Phủ Kình Dương tất cự thương”):

Ta thấy hai sao đứng đắn Tử Phủ khi gặp Kình Dương lại trở thành buôn bán lớn (cự thương), nhưng lẽ tất nhiên buôn bán hợp pháp, đứng đắn, có cơ sở quy mô, có nhiều nhân viên, có vốn vững vàng, nhất là khi có thêm Khôi Việt, Tả Hữu, Xương Khúc, Long Phượng, Quang Quý thì càng dễ làm giám đốc, quản lý xí nghiệp lớn. Tuy nhiên, trong trường hợp này cần tránh được Hình, Kỵ để khỏi gặp cạnh tranh gây go có thể đưa đến thù oán kiện cáo; nếu chỉ có Hóa Kị thì không sao nhưng cần phải chuyên ngành kim khí (nếu tọa thủ tại mệnh thì hay có bệnh ở hạ bộ). Ngoài ra cũng cần tránh được Hỏa Linh để tránh được vấn đề về trộm cắp, gian tham của người dưới quyền, nhất là khi các sao này chiếu cung Quan hoặc cung Nô. Cũng có người cho rằng nếu chi có Tử Vi (không có Thiên Phủ) hội Kình và Quyền Lộc thì “tuy mỹ cát nhi vô đạo”, tức là tuy tốt nhưng bất chính, nhưng tôi nghiệm thấy không đúng mấy.

Lộc Tồn hoặc Hóa Lộc hội Thiên Mã (tức là cách “Lộc Mã giao trì”, có câu phú “Giao trì Lộc Mã tiền tài đầy kho”)

Có vị Tử Vi cho rằng Lộc Mã ở đây là Lộc Tồn chứ không phải Hóa Lộc, nhưng tôi nghiệm thấy cả hai sao cùng ứng nghiệm. Gặp trường hợp này cần phải rời nơi sinh trưởng đi buôn bán nơi xa mới phát đạt, hoặc ít ra phải kinh doanh bằng cách di chuyển luôn luôn. Tôi cũng cần lưu ý quý bạn là nếu Thiên Mã ở cung Dần thì không nên đi xa quá vì đây là cách “mã hưu lan” (ngựa còn ở trong chuồng vì giờ Dần ngựa chưa đi ra goài). Còn gặp trường hợp Thiên Mã ở cung Hợi tức là “mã cùng đồ” (ngựa hết lối đi) thì lại không nên đi đâu cả. Có người cho rằng nếu Âm Nam, Dương Nữ thì ngựa vẫn đi được và còn cho rằng phải xét xem mạng của mình có hợp với ngũ hành của Thiên Mã (hỏa) hay không. Tôi không phê bình điểm này vì chưa nghiệm được.

Mã ngộ Tràng sinh thanh vân đắc lộ

Câu này thì hầu hết quý bạn đều biết. Tôi chỉ xin nói thêm là cần phải tránh Tuần Triệt, nhất là Triệt, thì việc buôn bán mời xuông xẻ, và tránh được Đà La để khỏi bị thương tích, tai nạn, nhất là khi hai sao này ở Mệnh. Vả lại, chính sao Đà La cũng ngăn trở việc kinh doanh không ít. Hơn nữa, cách này cũng chưa đủ mạnh nên còn cần có thêm một cách tốt trợ lực nữa thì mới phát đạt, nhất là Song Lộc. Ngoài ra còn phải tránh được hai sao Cô, Quả để tránh cảnh “đơn thương độc mã” trên đường kinh doanh vì không có lẽ kinh doanh một mình, không có khách hàng, không có ai cộng tác.

Vũ Khúc hội Thiên Phủ (cách Vũ Khúc, Thiên Phủ đôi kim tích ngọc)

Cách này mà gặp thêm Song Lộc thì buôn bán, kinh doanh thịnh vượng, phát đạt lắm, và nếu không có Song Lộc thì cần có Song Hao mão dậu để tiền bạc được luân chuyển, sinh lời vì nếu chỉ có Vũ Phủ (đều tượng trưng cho các kho) thì tiền bạc chỉ để trong ngân hàng hoặc trong két bạc mà thôi. Ngoài ra, lại cần phải người mạng Thổ hay Kim thì mới hợp cách này vì Vũ Khúc là Kim và Thiên Phủ là Thổ, tuy nhiên phải chịu thiệt thòi về phương diện tinh thần, nghĩa là hay bị cô đơn, khó lập gia đình, nhất là khi có thêm Cô Quả, Kiếp Sát, Thiên Hình (dù trong trường hợp Vũ Khúc Thiên Phủ cư Phúc Đức thay vì cư Mệnh)

Cự Nhật dần thân

Nhiều thầy Tử Vi nói rằng Cự Nhật cư mạng chỉ làm chức lớn trong chính quyền vì có câu phú “Cự Nhật dần thân qua phong tam đại”. Kể ra cũng đúng lắm, nhưng tôi đã gặp một trường hợp “trật đường ray”, nghĩa là không có chức phận trong chính phủ mà làm giám độc một hãng tư. Tôi xin tóm tắt là số trong trường hợp trên: Mạng đương số thuộc Thổ, mệnh cư Dần có Cự Nhật hội Quyền Lộc, Xương Khúc, Thân cư Tài vô chính diệu, do đó mạng Thổ không ưa cung Dần thuộc Mộc mà dựa nhiều vào Thân (cư Tuất thuộc Thổ) và khi Thân vô chính diệu thì phải kiếm chính tinh bên ngoài, nhưng Cơ Lương xung chiếu lại thuộc Mộc không dùng được nên phải hướng sang Cự Nhật và lại hợp được vì Cự Môn dưỡng cung Mộc để Mộc sinh Thái Dương (hỏa) rồi Thái Dương sinh mạng Thổ (theo lý “tham sinh võng khắc”), vì vậy, cung Thân hưởng trọn.

Cự Nhật, nhất là có thêm Hóa Lộc thuộc Thổ và Khôi Việt thuộc Hỏa sinh Thổ, để chuyển đổi câu phú trên thành “Cự Nhật cư Tài, phi quyền tắc phú”, mặc dầu thực sự Cự Nhật không cư Tài, nhưng theo lý ngũ hành thì hoàn toàn ảnh hưởng cho cung Tài. Do đó đương số không làm việc trong chính phủ cũng phải, nhất là Thân đâu có cư Quan.

Vũ Khúc hội Thất Sát ở Mão

Có cách này cũng có khiếu về buôn bán nhưng hơi gian hùng và ưa cạnh tranh vì có Liêm Tham đồng cung tại Tài Bạch. Tuy vậy, không thể buôn bán lớn được mà cần phải làm những “affaire” lặt vặt thì chắc ăn hơn.

Tử Vi hội Hóa Lộc và Nhật Nguyệt

Cách này rất giàu sang, buôn bán dễ dàng, hay gặp may, một vốn mười lời. Đó là cách “phú quý bất khả ngôn”, nhưng cần phải là người mạng Thổ hay Kim hoặc Hỏa mới ứng nghiệm. Nếu là người mạng Thủy hoặc Mộc thì chỉ trung bình thôi.

Thái Dương miếu địa hội Quan Phúc và Hóa Lộc

Cách này gọi là cách “Phúc lộc hà sa” nên đương nhiên làm ăn, buôn bán thịnh vượng không thể tưởng tượng được, nhiều khi ngồi chơi cũng vẫn phát tài. Và đặc biệt cách này lại rất cần gặp Cô Quả vì Thái Dương trong trường hợp này dư sức “tự lực tự cường” cho nên không cộng tác với người khác mới hưởng trọn vẹn được mọi mối lời, chứ nếu không có Cô Quả thì tiền lời sẽ bị chia năm sẻ bảy, đâu còn hay nữa. Cách này trái ngược với cách “Mã ngộ Tràng Sinh thanh vân đắc lộ” nêu trên về khía cạnh Cô Quả. Ngoài ra lại phải cần người mạng Hỏa hoặc Thổ mới đúng cách.

Cơ Cự mão dậu

Cách này gọi là “phú hữu lâu dài” phải cần có Song Lộc hội chiếu hoặc có Song Hao “chúng thủy triều đông” mới thành công mỹ mãn trên thương trường. Tôi cũng cần nhắc lại với quý bạn là Hóa Lộc hoặc Lộc Tồn không được đồng cung với Cơ Cự vì lý do ngũ hành, Song Hao thì trái lại phải đồng cung với Cự Cơ. Chắc các bạn còn nhớ câu “Song Hao mão dậu ái ngộ Cự Cơ tối hiềm Hóa Lộc” chứ !

Mệnh vô chính diệu đắc tam không nhi phú quý khả kỳ

Cách này nếu chỉ đơn thuần như vậy (có nghĩa là chỉ có ba Không) thì vẫn chẳng nên trò trống gì, phải cần có Song Lộc hội chiếu và nhất là phải là con một trong gia đình, không được có anh hay em trái (có thể có chị em gái). Và dù có được như vậy cũng không có lâu bền mặc dầu có lúc ít ai bằng mình, nhưng thế mới đúng nghĩa chữ “khả kỳ”. Ngoài ra còn cần phải cộng tác với một hoặc nhiều người khác và mình nhận vai trò cố vấn, phụ tá hoặc phó thì mới thành công và lâu bền. Về điểm này cụ Hoàng Hạc đã nêu ra và tôi thấy rất đúng vì trong họ hàng tôi đã có mấy người có cách này.

Nguồn:Một Số Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí Trước Những Năm Giải Phóng
Được cảm ơn bởi: TruaVang999, HoaSenTuoiSang
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Tây Đô đạo sĩ
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 7976
Tham gia: 19:37, 19/10/10
Đến từ: Tây Đô

TL: Các bước luận đoán lá số Tử vi (sưu tầm)

Gửi bài gửi bởi Tây Đô đạo sĩ »


Phú Tử Vi Đông Thư

Vân Hồ sao lục

Người xưa học và xem, đoán tử vi với vài câu phú ngâm nga đơn giản, sao vẫn hay, vẫn đúng ? Ngày nay ,chúng ta với bộ óc phân –tích, đem quá nhiều lý luận vào Tử- Vi làm môn này “ mọc” thêm quá nhiều nguyên tắc giải đoán , kết quả chẳng hơn ngày xưa bao nhiêu, mà chỉ thêm mệt óc, chán nản.
Vậy xin đề nghị như thế này : Chúng ta cứ giở tài liệu xưa kia mà nghiên cứu kỹ : thế mà lại hay. Một bài thuốc bí- truyền, nếu dùng thấy hay, xin cứ để nguyên như vậy, xin đừng gia giảm quá nhiều vị khác vào làm mất tính chất hay của vị thuốc kia đi.
Tử vi cũng vậy. Xin tạm trình bày bài phú này, tóm tắt cách giải đoán 12 cung thành một loại tóm tắt, như vậy thật dễ nhớ, dễ áp dụng, đỡ phiền hà rắc rối, coi cho ai cũng được. Xin các bạ thử áp dụng bài phú 683 câu này
Luận về số mệnh con người, có hay không có số mệnh? Quan điểm của mỗi người một khác cho nên vấn đề này còn đang trong vòng bàn cãi. Hiện có hai phe rõ rệt: một số cho rằng phàm những sự xảy ra trong một đời người, ngay cả đến những sự nhỏ mọn như việc ăn uống, đi lại đều có định trước. Đó là những người tin theo thuyết tiền định. Tử vi, Bói dịch … dựa vào lẽ số mệnh đã được an bài, định trước.
Một số khác lại không cùng quan niệm như vậy. Họ cho rằng muôn sự xảy ra chẳng qua là do luật nhân quả. Cũng như ngồi đánh một ván cờ vậy, hai người ngồi đánh cờ với nhau mà còn có ngẫu biến, người nọ đi một nước cờ rồi, người kia tùy theo địch thủ đỉa sao rồi mới còn có thể ấn định nước cờ của mình được. KHông ai ngồi vào đánh một ván cờ mà có thể biết chắn chắn được rằng thua hay thắng. Cuộc đời cũng vậy, nhân sự tùy thuộc vào biết bao biến cố ngẫu nhiên, biết thế nào mà dám đoán trước? Đó là thuyết ngẫu biến, cho rằng mọi sự, mọi vật, hình thành mà biến chuyển tùy theo các duyên ngẫu nhiên mà nên, không sao có thể định trước được.
Xét ra hai thuyết trên đều có lẽ phải. Số người tin theo mỗi thuyết cũng khá đông. Học lực chúng tôi còn kém , chưa thể hiện ra được những lý lẽ cao xa cho rằng thuyết này đúng, thuyết kia sai, chỉ xin nêu ra để mọi người cùng suy ngẫm. Được đến đâu hay đến đó. Chỉ xin ghi lại sau đây ít dòng về phú Tử- Vi mà thôi. Về bộ môn này, Trung Hoa là nước phát xuất ra trước tiên ở Á- Đông. Bên Trung Đông, khoa lý số Ả-rập ( chiêm tinh) cũng dùng tinh tú để luận số mệnh người ta. Cả khoa Tử vi của Trung Hoa và Chiêm tình của Ả rập, tuy xuất phát từ hai nơi riêng biệt, lại có chung một điểm đồng ý với nhau là : “ phàm một người lấy số thấy thiệt hay, không phải bó buộc người đó sẽ có một cuộc đời rực rỡ, có khi còn thường hoặc kém là khác nữa. Nhưng những bậc anh hung cái thế, khi bấm số họ, thấy chắc chắn là phải hay.”
Như vậy là cả hai khoa trên đều áp dụng phương pháp nhìn tướng hoặc căn cứ vào sự nghiệp rồi mới luận số mệnh được, không bao giờ chỉ luận mệnh suông, căn cứ vào năm tháng ngày giờ không mà thôi.
Hiện chúng ta chưa đi đến chỗ tinh vi như vậy. Tuy nhiên, lấy một lá số Tử Vi theo phương pháp an sao đồng nhất mà nhiều người đã công nhận, thì khi bấm số , dầu ai cũng vậy, đều có một là số như vậy. Duy có cách đoán, thì có người đoán thấp, kẻ đoán cao, tùy theo học lực và kinh nghiệm của thầy đoán, nhưng có điều chung, ai cũng phải công nhận là không thể đen đoán ra trắng, và trắng đoán ra đen được. Như vậy, tất cũng là kinh nghiệm rồi, cho nên mới tồn tại được mấy ngàn năm như vậy. Vậy xin cứ chép ra đây, ai tin thì dùng, ai không tin thì cũng xin để dung làm tài liệu nghiên cứu một môn lý học cổ do cha ông để lại.
Phú Tử Vi Thông Thơ
( 683 câu )

1) Mệnh viên


Một là bàn đến mệnh viên,
Có sao thủ mệnh đoán bên tính tình.
Tử vi trọng hậu dung hình
Thiên phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà,
Thiên tư ôn thuận thiệt là tốt ghê
Lòng thành tính gặp Thiên Cơ,
Vũ tinh nhập miếu , anh kỳ tài năng.
Thái âm viên mãn ai bằng
Thiên đồng phi mãn, tính hằng ôn lương,
Phá , Liêm to nhỏ khác thường,
Tính tình cương trực, kết đường tà gian,
Thiên Lương từ hậu dung nhan
Sát – Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng
Tham Lang bản tính thung dung
Say miền gái đẹp, rượu nồng mùi ngon
Thái Dương tính khí thực khôn
Thanh kỳ bậc nhất, từ lương khác thường
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương
Tư nhan khả ái , thông đường văn chương.
Cự môn tính khí bất thường
Hễ khi sử sự, tìm đường đảo điên
Thiên Tướng long thẳng, mặt hiền
Thiên tư mỹ lệ : Khoa, Quyền hẳn hoi
Thanh bần ấy thật Việt- Khôi
Lại gia Thai phụ là nòi khoan dung
Phụ - Bật tuấn tú vốn dòng
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không
Phụ Bật đơn thủ mệnh cung
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà
Phượng Long đều hợp mệnh ta
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay
Tuế - Riêu họa xướng ư nhời
Nhận –Hư , lòng gió là người sai ngoa
Mây mưa ấy thật Đào Hoa
Lông kia đỏ kệch, Kỵ Đà xấu trông
Trán đen, tính nóng , Kiếp, Không
Hỏa Linh mặt mũi hình dung bi sầu
Tuế Phá lạc hãm một âu
Tiếng tăm như sấm ra màu vẻ vang
Kìa như nói chẳng há răng
Thiên Hình đơn thủ chốn đằng mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng
Phúc , Tấu bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn, lưng ong.
Hỷ Thần dai dọng, tâm hung, tràng đầu,
Triệt, Không tính những chẳng âu
Hung trung vô định ra màu gian nan,
Tuế , Tham lòng dạ đa đoan,
Kỵ, Diêu tửu sắc, một đoàn ngao du,
Hổ, Tang chẳng việc mà lo,
Quan Phù , Điếu Khách hay phô rộng nhời,
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người,
Phi Liêm tóc tốt, có tươi mà dầu,
Quý, Ân phong độ trượng phu
Chẳng hay quân tử hình thù cũng xinh,
Tướng Quân chỉ thích dụng binh,
Bệnh Phù đới tật trong mình chẳng không
Cô , Qủa thiết kỵ riêng lòng,
Tràng sanh, Đế Vượng, vốn dòng thiện lương.
Đào Hoa, Mộc Dục điểm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng,
Triệt mà gặp được Kim cung
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần,
Tuyệt phùng hỏa địa một khi,
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy, Bệnh, Tử ba dòng,
Gặp vào nước ấy, ai dùng? Ai mang?
Hóa Lộc tính khí dịu dàng,
Bác Sỹ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là quy mô
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp Sát xử sự ba đào mênh mông
Xem trong nhân tính đã xong
Lại tính cho thấu các cung ngũ hành
Tướng chân tính, nhận chân hình,
Chẳng nên chấp nhất, lựa mình mà suy
Ví như thuộc Thổ Tử Vi
Tính trì mà gặp hỏa thì lại nhanh
Thiên phủ vốn tính hòa lành
Song gặp Không, Kiếp thời ranh khắc thầm

2) Phụ mẫu cung

Cả hai phụ mẫu kể tường.
Âm, Dương ngộ hãm là đường khắc xung
Hãm Dương khắc phụ đã xong
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bầy
Lưu Dương lại gặp đoán rầy khắc cha
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi
Cáo, Phong có chức, có ngôi
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng
Khôi, Quyền chính trưởng đường đường tốt thông
Thanh bần ấy phải Hóa, Không
Nhược bằng Lộc , Mã phú ông ai tày
Phụ mẫu cung đã đoán bầy
Đoán từng phần một, cốt hay tại người.

3) Phúc đức cung


Số ba phúc đức kề liền.
Lộc, Quyền đóng đó trong miền bản cung,
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay
Lại xem cung ấy sống rày được bao?
Đồng , Lương, Tử, Phủ bốn sao,
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn
Âm, Dương, Xương, Khúc , Lộc Tồn,
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh thần.
Thọ thì được ngoại thất tuần
Miếu thì thong thả, ham thì tân toan,
Liêm, Cự ta lại phải bàn,
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la,
Việt , Khôi, Tả, Hữu, Quyền, Khoa
Lộc, Tham, Đế Vượng, thật là tràng sinh,
Đà La, Dương Nhận, Hỏa Tinh,
Vào thì ba bốn rành rành không sai.
Kiếp, Không, Hư, Khốc cùng bầy.
Thiên Hình, Hóa Kỵ, mới loài bạch tang,
Nhị Phù tổn thọ một phương,
Thật là lạc mộ, nên dường chẳng sai.
Sát, Liêm, Tứ Sát cùng bầy
Đoán làm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ ,Qúy, Ân Quang,
Những là sao ấy thọ tràng kỳ di.
Lại thấy Thân, Mệnh mà suy
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương,
Đã xem hưởng thọ đoán tường,
Lại xem phúc đức đoán phương âm phần,
Tràng Sinh chính phát thập phần,
Gặp sao Quan, Phúc, Qủy thần chầu trông
Phúc, Liêm, nội ngoại thung dung
Khoa , Quyền, Xương , Khúc vốn dòng văn gia
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa
Đấy là đất phát đề ra anh hung
Cự Môn, Lộc, Lộc tương phùng
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Nay là đoán trước mấy lời,
Được đất nằm nghiệm chẳng sai đâu là,
Lại xem hướng mạch kể ra,
Trước lấy khởi tổ ấy là Tràng Sinh
Thanh Long lấy làm long hành
Đến đâu nhập đó xem hình chiếu lâm
Phải lấy chi tự ( Địa Chi) phân kim
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan,
Trước có Dương Nhận, Hồng Loan,
Nga mi tác án an bàn chẳng sai
Thanh (Long) Hồng ( Loan) thủy nhập hoài,
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không,
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau,
Kìa Long với Hổ lai chầu
Xem bên Tả Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long,
Lấy làm Long thủy chầu vòng tả biên
Bên hữu Bạch Hổ đã yên,
Lấy làm Hổ thủy chầu bên hữu này,
Lại xem tinh tú an bầy.
Thái Dương, Vũ Tướng cùng rày Phá Quân,
Khoa, Quyền, Khôi, Việt tinh thần
Lấy làm dương mộ mười phần chẳng sai
Còn như đoán mã đàn bà
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời
Tử, Phụ mộ tổ chẳng sai
Lạc nhàn thì đoán xa rời mà thôi
Thiên Cơ dương tổ sáu đời
Vũ năm, Đồng tứ, chẳng sai chút nào
Liêm Trinh bảy tám đời cao
Thái Dương là bố lẽ nào chẳng tin
Cha còn thì đoán ông liền
Ấy là dương mộ đoán miền dương tinh
Thiên Phủ viễn mộ đã đành
Tham sáu , Cự bảy, Lương rành tám thôi
Phá Quân, Thất Sát xa đời
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà
Nếu còn thì kể đến bà
Ấy là âm mộ thuộc Tòa âm cung
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng
Mộ phần thiên tang ắt cùng chẳng sai
Suy xem linh tính hẳn hoi
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường
Đoán rằng đạo táng gần phương mả này
Lại tùy chính diệu suy bầy
Lại nhân Không , Kiếp đoán rày lạc phân
Hoa Cái , Phượng Các tân phần
Tấu thư, Xương , Khúc là thần đồng ra
Hoặc khôi, Việt gia Hóa Khoa
Đại khoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng,
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng
ấy là phú quý vốn dòng chẳng không
Tử Vi nhập miếu vượng cung.
Phát nên có kẻ chầu trong vương kỳ
Lương, Tham thọ khảo kỳ di
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào,
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng Đào,
Gặp sao Tử, Nhật gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh
Tuế , Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô Quả độc đinh thường thường,
Tang Môn, Qủa Tú bất thường,
Ấy là trong họ gái thường quả phu
Phục binh ngộ Tử phải lo,
Có người bị trận chết co ngoài đường,
Mộ mà cư phúc đường đường,
Lại gia Thai, Tọa ấy Trường sinh ta
Hỷ thần, Thiên Hỷ hoặc gia,
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu,
Lại bàn hình thế mọi mầu ( ngũ hành các sao)
Tổ sơn là Tử, Phủ chầu kể ra
Mộc tinh là Thiên Cơ gia,
Kim Tinh vũ Khúc, Mộc là Tham Lang,
Văn khúc là thủy đáo đường
Liêm Trinh là hỏa, Thiên Lương Thổ này,
Âm long, Âm hướng sao này Thái Âm,
Thất Sát cùng Hỏa tinh lâm.
Phá Quân là thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng, Thiên Tướng đất binh,
Sao Dương là núi, sao Linh bút bầy
Mộc, Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp, Không lộ táng dương phần,
Kỵ, Riêu là thủy, sát nhân hoàng tuyền,
Thanh Long có suối lưu triền.
Bạch Hổ đá trắng ở bên mộ đường,
Khoa, Quyền là bản văn chương,
Lộc : kỳ, Việt : kiếm, rõ ràng đóng đây,
Ấy là phần mộ đoán bầy.
Cốt xem Phúc đức mới hay mọi đường.

Nguồn:Một Số Tạp Chí Khoa Học Huyền Bí Trước Những Năm Giải Phóng
Được cảm ơn bởi: TruaVang999, HoaSenTuoiSang, huonggiang86, công chúa mùa thu
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tử vi”