............................Môc huynh đã viết: ↑09:22, 13/11/18.........................Môc huynh đã viết: ↑22:58, 12/11/18..........................Môc huynh đã viết: ↑19:22, 12/11/18 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN MANG NẶNG YẾU TỐ TÂM LÝ ĐÁM ĐÔNG.
LÝ SỐ VỚI WEB LÁ CẢI, CÓ ẢNH HƯỞNG TỚI TÂM LÝ CỦA BẠN KHÔNG?
* Xả hơi cuối tuần với thầy đã viết: https://www.facebook.com/ha.bach.712
"Tiendung Doan Giờ tỵ ngày mùng một tháng mười âm năm Mậu tuất 2018 ứng vào Quẻ Truân ! Biến quẻ Tùy ! “ Sấm động , mưa đổ là việc đời rối loạn ” !"
THẦY CŨNG BIẾT EM KHÔNG THUỘC DẠNG NGƯỜI DỄ BỊ HÙ DỌA BẰNG LÝ SỐ.
* Thầy có nhận xét gì về cung phi....và Quẻ web "tặng em" năm 2018(Mậu Tuất), cả hai thứ (trong hình) em đã tự thân giải mã ntn?
TÔN TRỌNG BẬC THẦY LỚN TỔI TA NHỜ THẦY NGUYỄN HIẾN LÊ GIẢI MÃ CHO KHÁCH QUAN:
* Dù thầy Tiendung Doan có viết: “ Sấm động , mưa đổ là việc đời rối loạn ” !"
* Thầy trong video này tại thời điểm 5:36 thì cho rằng: NẾU ĐÃ THÀNH MƯA THÌ GIẢI RỒI.
https://www.youtube.com/watch?v=VlAEZSm9X7E
* Ta nhờ xem vị thầy Nguyễn Hiến lê phân sử và nghiệm lý với thực tiễn việc khai chương Khóa học của mình diễn ra cùng thời điểm, có gặp khó khăn theo kiểu bốc quẻ phổ biến của các vị thầy hay không?
QUẺ 3: THỦY LÔI TRUÂN http://cohoc.net/thuy-loi-truan-kid-3.html
Dưới đây là lời giảng Quẻ Thủy Lôi Truân theo sách "Kinh dịch - Đạo của người quân tử" của học giả Nguyễn Hiến Lê
Thủy Lôi Truân
|:::|: Thủy Lôi Truân (屯 chún)
Quẻ Thủy Lôi Truân, đôi khi còn gọi là quẻ Truân (屯 chún) là quẻ số 03 trong Kinh Dịch
* Nội quái là ☳ (|:: 震 zhen4) Chấn = (雷) Sấm
* Ngoại quái là ☵ : 坎 kan3) Khảm = (水) Nước
Giải nghĩa: Nạn dã. Gian lao. Yếu đuối, chưa đủ sức, ngần ngại, do dự, vất vả, phải nhờ sự giúp đỡ. Tiền hung hậu kiết chi tượng: trước dữ sau lành.
(Phải nhời sự giúp đỡ: Dậy học viên môn Chứng với Tử cải cách thì nhờ ai được .Minh chứng (dưới)có thấy sự ngần ngai, do dự, vất vả không?).
Theo Tự quái truyện thì sở dĩ sau hai quẻ Càn, Khôn tới quẻ Truân là vì có trời đất rồi vạn vật tất sinh sôi nảy nở đầy khắp, mà lúc sinh sôi đó là lúc khó khăn. Chữ Truân [屯] có cả hai nghĩa đó: đầy và khó khăn
屯 : 元, 亨, 利, 貞, 勿 用 有 攸 往, 利 建 侯 .
Truân: Nguyên, hanh, lợi, trinh, vật dụng hữu du vãng, lợi kiến hầu.
Dịch: Gặp lúc gian truân, có thể hanh thông lắm (nguyên hanh), nếu giữ vững điều chính (trái với tà) và đừng tiến vội, mà tìm bậc hiền thần giúp mình (kiến hầu là đề cử một người giỏi lên tước hầu).
Giảng: Thóan truyện và Đại tượng truyện giảng đại ý như sau:
Tượng quẻ này là sấm (Chấn) ở dưới mà trên mưa (Khảm), tức có nghĩa động ở trong chốn hiểm, (Khảm là nước có nghĩa là hiểm trở) (1) cho nên có nghĩa là truân.
Lại thêm: nội quái có một hào dương (cương) hai hào âm (nhu); ngọai quái cũng thế; như vậy là cương nhu, dương âm bắt đầu giao nhau để sinh vạn vật mà lúc đầu bao giờ cũng gian nan: truân.
Trong lúc gian nan mà hành động thì có thể tốt, nhưng phải kiên nhẫn giữ điều chính; đừng vội hành động mà trước hết nên tìm người tài giỏi giúp mình. Người tài đứng ra cáng đáng lúc đầu (người mình cất nhắc lên tước hầu) đó là hào 1 dương . Dương thì cương, có tài; hào 1 lại là hào chủ yếu torng nội quái (chấn) có nghĩa họat động. buổi đầu gian nan thì được người đó, tỉ như lập được một đòan thể có nhiều người có tài kinh luân, thì mọi việc sẽ làm được tốt. Đó là ý nghĩa quẻ Truân.
Hào Từ:
初 九: 磐 桓, 利 居 貞, 利 建 侯 .
Sơ cửu: Bàn hoàn, lợi cư trinh, lợi kiến hầu.
Dịch: Hào 1, dương : còn dùng dằng, giữ được điều chính thì lợi, được đặt lên tước hầu (nghĩa là được giao cho việc giúp đời lúc gian truân) thì lợi.
Giúp đời:
Giảng: Như trên tôi đã nói, hào này là dương, tượng người có tài, lại đắc chính vì dương ở dương vị, cho nên giữ được điều chính và có lợi; sau cùng nó là dương mà lại dưới hai hào âm trong nội quái, có cái tượng khiêm hạ, được lòng dân. Vậy là người quân tử mới đầu tuy còn do dự, sau sẽ được giao cho trọng trách giúp đời.
六 二: 屯 如 邅 如, 乘 馬 班 如, 匪 寇 婚 媾 . 女 子 貞 不 字, 十 年 乃 字 .
Lục nhị: Truân như, chuyên như, thừa mã ban như. Phỉ khấu hôn cấu, nữ tử trinh bất tự, thập niên nãi tự.
Dịch: hào 2, âm : Khốn đốn khó khăn như người cưỡi ngựa còn dùng dằng lẫn quẩn (Nhưng hào 1 kia) không phải là kẻ cướp, chỉ là muốn cầu hôn với mình thôi. Mình cứ giữ vững chí, đừng chịu, mười năm nữa sẽ kết hôn (với hào 5).
Giảng: Hào 2, âm, vừa đắc trung lẫn đắc chính, lại ứng với hào 5 cũng đắc trung đắc chính ở trên, như vậy là tốt. Chỉ hiềm cách xa hào 5 mà lại ở sát ngay trên hào 1, dương , bị 1 níu kéo, cho nên còn ở trong cảnh truân chuyên (khó khăn). Nhưng đừng ngại, hào 1 có tư cách quân tử , không phải là kẻ xấu muốn hảm hại mình, chỉ muốn cưới mình thôi (1 là dương, 2 là âm). Đừng nhận lời, cứ giữ vững chí, mươi năm nữa sẽ kết hôn với hào 5.
Chữ tự [ 字 ] ở đây nghĩa là gả chồng. Theo kinh Lễ, con gái tới tuổi gã chồng thì cài trâm và đặt tên tự.
六 三: 即 鹿, 无 虞, 惟 入 于 林 中. 君 子 幾, 不 如 舍, 往 吝 .
Lục tam: Tức lộc, vô ngu, duy nhập vu lâm trung. Quân tử cơ, bất như xả, vãng lận.
Dịch: Hào 3 âm: đuổi hươu mà không có thợ săn giúp sức thì chỉ vô sâu trong rừng thôi (không bắt được). Người quân tử hiểu cơ sự ấy thì bỏ đi còn hơn, cứ tíếp tục tiến nữa thì sẽ hối hận.
Giảng: Hào 3 là âm, ở dương vị, bất chính bất trung; tính chất đã không tốt mà ở vào thời truân; hào 6 ở trên cũng là âm nhu không giúp được gì mình, như vậy mà cứ muốn làm càn, như người ham đuổi hươu mà không được thợ săn giúp (chặn đường con hươu, đuổi nó ra khỏi rừng cho mình bắt) thì mình cứ chạy theo con hươu mà càng vô sâu trong rừng thôi. Bỏ đi là hơn.
六 四: 乘 馬 班 如 . 求 婚 媾, 往 吉, 无 不 利 .
Lục tứ: Thừa mã ban như. Cầu hôn cấu, vãng cát, vô bất lợi.
Dịch: Hào 4, âm: cưỡi ngựa mà dùng dằng. Cầu bạn trăm năm (hay đồng tâm) ở dưới (ở xa) thì không gì là không tốt.
Giảng: Hào này âm nhu, đắc chính là người tốt nhưng tài tầm thường, gặp thời Truân không tự mình tiến thủ được. Tuy ở gần hào 5, muốn cầu thân với 5, nhưng 5 đã ứng với 2 rồi, thế là 4 muốn lên mà không được, như người cưỡi ngựa muốn tiến mà dùng dằng. Chu Công khuyên hào 4 nên cầu hôn với hào 1 ở dưới thì hơn: (vì 1 có tài đức) mà cùng nhau giúp đời, không gì là không lợi.
Chúng ta để ý: cặp 5-2 rất xứng nhau, cả hai đều đắc chính, đắc trung, rất đẹp, cặp 4-1 không đẹp bằng: 4 bất trung, kém 2; cho nên phải kết hợp với 1 ở dưới, 1 tuy ở dưới mà đắc chính, như vậy là xứng đôi. Đó là luật: “dĩ loại tụ”, họp với nhau thì phải xứng nhau, đồng tâm, đồng đạo.
九 五: 屯 其 膏; 小 貞 吉, 大 貞 凶 .
Cửu ngũ: Truân kì cao; tiểu trinh cát, đại trinh hung
Dịch: Hào 5, dương: Ân trạch không ban bố được (nguyên văn: dầu mỡ (cao) không trơn (truân), chỉnh đốn việc nhỏ thì tốt, việc lớn thì xấu.
Giảng: Hào cửu ngũ này vừa chính vừa trung, ở địa vị chí tôn, đáng lẽ tốt; nhưng vì ở trong thời gian truân (quẻ Truân) lại ở giữa ngọai quái là Khảm, hiểm, nên chỉ tốt vừa thôi. Hào 2 tuy ứng với nó nhưng âm nhu , không giúp được nhiều; lại thêm hào 1 ở dưới, có tài đức, được lòng dân, uy quyền gần như lấn 5, mà ân trạch của 5 không ban bố khắp nơi được. Cho nên 5 phải lần lần chỉnh đốn các việc nhỏ đã, đừng vội làm việc lớn mà hỏng.
Nghĩa là tuy có tài đức, có địa vị, nhưng cũng phải đợi có thế có thời nữa.
上六: 乘 馬 班 如, 泣 血 漣 如 .
Thượng lục: Thừa mã ban như, khấp huyết liên như.
Dịch: Hào trên cùng âm. Cưỡi ngựa mà dùng dằng, khóc tới máu mắt chảy đầm đìa.
Giảng: Hào này ở trên cùng, là thời gian truân tới cực điểm. Nếu là hào dương (có tài trí) thì gian truân cùng cực sẽ biến thông; nhưng hào này là hào âm, bất tài, bất trí, nhu nhược, chỉ biết lên lưng ngựa rồi mà vẫn dùng dằng mà khóc đến chảy máu mắt (Hào tuy ứng với hào 6 nhưng cũng âm nhu, chẳng giúp được gì)
*
Đọc xong ba quẻ đầu này chúng ta cũng đã thấy: thể của hào chỉ cò: âm và dương, vị của hào chỉ có 6: từ hào sơ đến hào thượng; nhưng ý nghĩa mỗi hào rất thay đổi, tùy ý nghĩa của trọn quẻ, cho nên hào 1 dương quẻ Càn không giống hào 1 dương quẻ Truân; hào 5 dương quẻ Truân cũng không giống hào 5 dương quẻ Càn; hào 2 âm quẻ Khốn không giống hào đó quẻ Truân, hào 6 âm quẻ Truân cũng không giống hào đó qủe khôn. ý nghĩa của quẻ quyết định ý nghĩa của hào, nói cách khác: quẻ là cái thời chung của các hào, mà hào là mỗi việc, mỗi hoàn cảnh trong thời chung đó.
* Tóm lại: Đường ta ta cứ đi và cách lấy quẻ khai chương cho Khóa học của mình là dựa vào TỨ TƯỢNG CỦA LÁ SỐ, ĐỂ SINH RA BÁT QUÁI THEO PHƯƠNG VỊ CUNG MỆNH CỦA NGƯỜI CHỦ TRÌ.
MỘT PHƯƠNG PHÁP DẬY CẢI HOÁN, ĐANG CHỈ DẬY HỌC VIÊN THÌ THẦY VẪN ĐI CHU DU THIÊN HẠ, VÀO LÝ SỐ QUẬY CHƠI. KHÓ KHĂN Ở ĐÂU CHẲNG THẤY CHỈ THẤY SỰ THANH NHÀN.
MINH CHỨNG THÊM QUA HỘI THOẠI TRONG KHÓA HỌC CẬN KỀ NGÀY KHAI SINH. ĐỂ THẤY MÌNH CÓ THẬT SỰ THANH NHÀN, TRONG TÂM HAY KHÔNG?
NÊU RA VẤN ĐỀ VÀ PHẢN BIỆN LẠI CÁC BẬC THẦY ĐI TRƯỚC.
NHƯ VẬY TA PHẢI ĐƯA RA ĐƯỢC PHƯƠNG PHÁP HỮU ÍCH HƠN.
(đúng sai hoàn chỉnh...thì phải qua việc nghiệm lý tiếp theo).
Bài dưới mình đã đáp lời Thầy Tiendung Doan rồi(thầy chưa phản hồi)
Trích lại: https://www.facebook.com/ha.bach.712
Để xây một ngôi nhà, hay một việc như thành lập khóa học x,y ...thuộc đại sự thì ta phải tính được vận hạn, tốt xấu ra sao theo không gian và thời gian dịch động sau đó để ứng biến cho lợi thế.... khác với việc bốc quẻ nhấp nháy, cực ngắn hạn của thầy Tiendung Doan . Mời thầy xem hình ảnh (dưới) và thầy tự lấy lá số sẽ thấy Cung Mệnh Thái Dương cư Ngọ, có khác là mấy cung Mệnh của em, với Tử vi cư Ngọ và sự trùng lặp ngẫu nhiên ấy thì vẫn là dòng điện Âm & Dương của Vũ trụ chi phối để cho ra kết quả của người chủ trì Khóa học chính là em...
Nếu tính như thầy liệu có thấy hợp lý không? vì thầy cũng biết Mạng Mộc của tuổi Mậu khi bước vào tháng Quý Hợi thì thuận hay nghịch số, chưa nói là Cam Mậu hợp Can Quý. Vậy nên thầy xem lại vì em chỉ tuân thủ sự logic mà thôi.