Lá số Khổng Minh Gia Cát Lượng:
(Do lá số được lấy theo trình lyso.vn nên có vài sao khác biệt với Trung Châu phái. Bài luận lấy trong sách "Trung Châu tử vi đẩu số Tam hợp phái" tập 1, trang 687)
Cung mệnh của mệnh tạo là Thiên đồng tọa thủ cung mão, đối cung có Thái âm, tính chất cơ bản là hành xử theo tình cảm. May mà có linh tinh, thiên hình đồng độ, trở thành sức mạnh kích phát, và áp chế tình cảm, cho nên Gia Cát Lượng tuy bị tình cảm của Lưu Bị chi phối, mệnh vận một đời chỉ vì lời "thác cô ở Bạch đế thành" mà đã quyết định " cúc cung tận tụy, đến chết mới thôi" nhưng ông cũng có thể đè nén tình cảm, trảm Mã Tắc.
Xem cung phúc đức, có Thái dương Hóa quyền, đối cung có Cự môn Hóa lộc. Thái dương chủ về lao thân, còn Cự môn chủ về lao tâm, tuy được "Lộc Quyền Khoa" tụ hội, nhưng cũng chủ về vất vả mà có thành tựu, có tính chất không chịu hưởng an nhàn, mà phải thân tâm vất vả.
Tinh hệ phối hợp của cung mệnh là Thiên Đồng, là người ôn hòa đôn hậu, thông minh mẫn tiệp, rất ưa Lộc tồn hội chiếu, tay trắng mà làm nên nghiệp lớn. Ông phụ tá Lưu Bị chi ba thiên hạ, trong tinh bàn tự đã có điềm ứng. Còn được hội hợp Cự môn Hóa lộc, chủ về khẩu tài, hội hợp Thiên cơ chủ về mưu lược, đều trung tín mà thâm trầm.
Cung mệnh gặp Linh tinh, còn cung phụ mẫu thì gặp Hỏa tinh, Đà la, Kình dương, nên sơm thành cô nhi. Gặp sao đôi Tả phụ, Hữu bật, mà không có sao lẻ hội tụ, nên không chủ về có cha mẹ nuôi. (Theo Tam quốc chí của Trần Thọ), Gia Cát Lượng còn nhỏ đã mất cha, theo chú là Gia Cát Chi nương nhờ Lưu Biểu ở Kinh Châu, tức ứng nghiệm sớm mồ côi.
Niên hiệu Kiến An thứ 12, năm Đinh Hợi, Gia Cát Lượng 27 tuổi, Lưu Bị ba lần đến viếng nhà tranh ở Long Trung. Là năm Gia Cát Lượng bắt đầu thi thố tài năng. Theo tinh bàn là thuộc đại hạn Tân sửu, cung sự nghiệp có Thái dương song Hóa quyền, được Cự môn song Hóa lộc kèm lưỡng trùng Thiên mã đến xung, đương nhiên tiền đồ sáng sủa, Văn xương song Hóa kỵ, bất quá chỉ chủ về xuất trận nổi danh nên chuốc đố kỵ mà thôi.
Qua năm Mậu tí, Lưu Biểu chết, con của Lưu Biểu là Lưu Tông hàng Tào Tháo, thế là Lưu Bị chạy ra Đương Dương, Gia cát Lượng phụng mệnh đi xứ sang Đông Ngô, liên kết với Ngô để đại phá Tào Tháo ở Xích Bích. Năm đó cung mệnh có "Liêm trinh Thiên tướng" được Cự môn Hóa lộc và Thiên lương giáp cung, thành cục "Tài ấm giáp ấn", cung sự nghiệp có Vũ khú được Tham lang Hóa lộc vây chiếu, lại gặp Tả phụ Hữ bật, Kình dương Đà la xung xạ mà không có Hóa kỵ. Mệnh cách vốn là Thiên đồng tọa thủ cung mệnh, không gặp sát thì không chủ về tinh anh hơn người.
Đến đại hạn Canh tí, là 10 năm Gia Cát Lượng làm nên công nghiệp. Đại hạn này cung mệnh là "Tài ấm giáp ấn", cung sự nghiệp là Vũ khúc Hóa quyền, Thiên phủ lại Hóa khoa có sát tinh đến hội, công nghiệp tuy thành nhưng cũng chủ về vất vả. Cung phụ mẫu được Thái dương Hóa lộc ở đại hạn, xung khởi bốn sao hóa Lộc, Quyền, Khoa, Kỵ củng chiếu, đây là điềm Lưu Bị vì tâm lý buồn phiền mà trút gánh nặng lên ông.
Sau năm 43 tuổi, vào đại hạn Kỷ hợi, thiên bàn chỉ được Quyền Lộc cùng chiếu, lại gặp Văn xương Hóa kỵ. Năm Qúy mão, Lưu Bị chết ở Vĩnh An, ông nhân di chiếu phò tá Lưu Thiện. Thái âm Hóa khoa, còn Văn khúc Hóa kỵ xung Hóa khoa mà vây chiếu cung mệnh, cho nên thanh danh ngày càng thịnh mà âm kỵ ngày càng sâu.
Gia Cát Lượng có con rất muộn, năm Đinh mùi 47 tuổi mới sinh Gia Cát Chiêm. Phái Trung Châu chỉ tính được năm mang thai, không tính được năm sinh con. Đương thời, vợ ông mang thai vào lúc ông 46 tuổi (năm Bính ngọ) là năm cung tử nữ Thiên đồng Hóa lộc , xung khơi Cự môn Hóa lộc, cung mệnh gặp Hồng loan Thiên hỉ.
Lúc ông 48 tuổi (năm Mậu thân), là Mã Tắc phạm sai lầm, bại trận quay về Hán Trung. Là năm nô bộc hội hợp Thiên cơ Hóa kỵ, Văn khúc Hóa kỵ, Văn xương Hóa kỵ.
Năm Kỷ dậu, ông chinh phạt Ngụy, đánh chiếm hai quận Vũ Đô, Âm Bình. Cung sự nghiệp có Thiên lương song Hóa khoa xung chiếu Thái dương Hóa quyền, đồng thời hội nhập cung mệnh, đáng tiếc là Văn khúc Hóa kỵ lại hội Văn xương Hóa kỵ, cho nên không thể thành công trọn vẹn.
Đại hạn Mậu tuất, cung mệnh có Tham lang Hóa lộc, được Vũ khúc triều củng, cho nên lúc 54 tuổi xuất binh đến Tà Cốc, Tư Mã Ý cam chịu tiếng hèn, không dám ứng chiến, oai danh của Gia Cát Lượng có thể nói là cực hiển hách.
Nhưng đại hạn cung tật ách, có Thái dương Văn xương Hóa kỵ hội Thiên lương, lại có Kình dương Đà la giáp cung, là tinh hệ uống lầm thuốc. Lúc ông 54 tuổi năm Giáp Dần, cung tật ách Thái âm tọa thủ, Văn khúc Hóa kỵ cùng đến, vừa khớp Thái dương Hóa kỵ, Văn xương Hóa kỵ hội hợp, Thiên lương tam phương đến hội, là ứng nghiệm uống lầm thuốc, nên người ta nghi ngờ cái chết của Gia Cát Lượng là uống nhầm thuốc.