1. BỐ THÍ

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

KINH BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC GIẢNG GIẢI
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Thành Hội Phật Giáo HCM Xuất Bản 1999

ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ 6

CHÁNH VĂN:


Đệ lục giác tri:
Bần khổ đa oán,
Hoạnh kết ác duyên,
Bồ-tát bố thí,
Đẳng niệm oán thân,
Bất niệm cựu ác,
Bất tắng ác nhân.

DỊCH:


Điều thứ sáu phải nên giác biết:
Người khổ nghèo lắm kết oán hờn.
Không duyên tạo ác đâu sờn,
Bồ-tát bố thí, ai hơn kẻ này.
Lòng không còn thấy kia đây,
Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào.
Dù người làm ác biết bao,
Một lòng thương xót, khổ đau cứu giùm.

GIẢNG:

Đệ lục giác tri:
Bần khổ đa oán,
Hoạnh kết ác duyên.


Điều giác ngộ thứ sáu, Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha phải biết tâm bệnh của chúng sanh là quá nghèo khổ nên hay oán hận, hay kết nhiều duyên ác. Phàm người nghèo khổ có nhiều oán hận là vì thiếu thốn vật chất, lúc nào cũng bị những điều bất như ý bức bách ép ngặt, không bực dọc với người ngoài thì bực bội trong gia đình. Nếu có ai động chạm tới là họ quạu quọ nổi sân giận làm hung làm dữ. Nhất là người không biết tu, không thông lý nhân quả, khi lâm vào cảnh nghèo khổ đói cơm rách áo thì oán trời trách đất. Thấy người giàu có hơn mình là sanh tâm đố kỵ, thấy người quyền quí hơn mình là sanh tâm oán ghét, lúc nào cũng có mặc cảm không tốt với người hơn mình; mặc dù người quyền quí giàu có biết tu, không hề khinh chê hay làm phiền lòng họ mà họ vẫn ghét. Vì họ cảm thấy họ khốn khổ đủ điều, còn người giàu sang quyền quí sung sướng đủ cách. Do mặc cảm không tốt đó, không duyên cớ gì mà cấu kết duyên ác xấu, gây kết oan trái với người. Vì vậy mà người nghèo học đạo khó, ngược lại người đủ ăn đủ mặc ít bị những bực bội ép ngặt thì dễ tu.

Là Phật tử đã học Phật pháp, thấu suốt lý nhân quả, nếu hiện tại lâm vào hoàn cảnh nghèo khổ, hiểu rằng mình trước đã gieo nhân keo kiệt bỏn sẻn, không biết giúp đỡ ai, lại thêm tham lấy của người. Đã lỡ gieo nhân xấu nên ngày nay nghèo khó, vui chịu không oán trách than van, nỗ lực xả bỏ tâm keo kiệt bỏn sẻn, chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt. Cố gắng phát triển hạnh lành phát tâm bố thí giúp đỡ mọi người, đó là đoạn cái nhân nghèo khổ, sẽ được giàu có an vui về sau.

Có nhiều Phật tử than nghèo, cơm không đủ no, áo không đủ mặc, của cải vật chất không có, lấy gì để bố thí? Quí vị nghiệm lại xem, trong đời này có ai nghèo đến nỗi không dư vài ba hột cơm để bố thí cho kiến ăn, hoặc không dư một mảnh vải để băng bó vết thương cho người bị nạn! Chắc chắn ai cũng có những món tối thiểu này. Tu không phải đợi có tiền nhiều bố thí cúng chùa mới là làm phước, chúng ta biết thương người, nghĩ đến người, tùy theo khả năng, phương tiện sẵn có của mình mà giúp đỡ người. Chẳng hạn nhường chỗ ngồi cho người già yếu khi xe chật, phụ giúp người đi đường gánh bưng quá nặng… Như vậy là chúng ta chuyển đổi tâm niệm keo kiệt bỏn sẻn thành tâm bố thí lợi tha, chuyển đổi hành động xấu ác thành lương thiện làm lợi ích cho người vật. Người nghèo mà sống như thế thì đâu có kết duyên ác gây oán hận với ai. Ngược lại, cứ khư khư ôm ấp tâm niệm xấu xa oán hờn, đã khổ lại chồng chất thêm khổ. Thế nên người Phật tử nghèo hiểu rõ lý nhân quả, phải khéo tu để chuyển đổi hoàn cảnh nghèo nàn đau khổ của mình, trở thành an vui sung sướng trong hiện tại và mai sau.

Ở trước Phật chỉ cho biết nhân luân hồi sanh tử là vô minh. Đến đây Phật dạy gốc nghèo khổ là keo kiệt bỏn sẻn, tham lam lấy của người. Phải nỗ lực cố gắng tu để phá trừ nó.

Bồ-tát bố thí,
Đẳng niệm oán thân,
Bất niệm cựu ác,
Bất tắng ác nhân.


Do vì người nghèo khổ hay có tâm bệnh oán hờn, tạo nhiều nghiệp ác, nên Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha, gặp người nghèo khổ như đã nói thì phải thông cảm cho họ. Nếu họ lỡ kết oán gây hờn thì Bồ-tát hoan hỉ tha thứ và đem lòng từ bi bình đẳng mà đối xử, không phân biệt thân sơ. Tùy theo tâm niệm hoàn cảnh sở cầu của họ, biết họ đang bị khổ ách nào chi phối, đang cần cầu điều gì, theo đó mà giúp cho phù hợp. Như thế mới có kết quả tốt, giống như lương y tùy bệnh cho đúng thuốc thì bệnh mau lành.

Cũng vậy, Tăng Ni hay Phật tử chẳng những thương cái khổ hiện tại của người bần cùng, mà còn thương cái khổ vị lai của họ nữa. Tìm hiểu tâm niệm hoàn cảnh của từng hạng người để giúp đỡ họ. Phật dạy do nghèo khổ mà phần đông chúng sanh có tâm oán hờn và kết nhiều duyên ác, nên khi gặp những người có hoàn cảnh như vậy, thì phải phương tiện giúp cho họ bớt khổ, nghèo thiếu trong hiện tại, sau đó hướng dẫn cho họ học hiểu đạo lý, biết nhân nào là ác xấu, phải chịu quả báo khổ đau thì nên tránh, nhân nào là tốt, cần phải làm để được an vui lợi ích.

Khi Tăng Ni hay Phật tử ra làm lợi ích cho chúng sanh, luôn nhớ chúng sanh nghèo khổ, nhiều lòng tham, nhiều oán hờn. Chẳng hạn đi phát gạo phát tiền, họ lãnh rồi trở lại lãnh nữa, lãnh nhiều lần như vậy; hoặc họ đến muộn, phẩm vật chia đã hết họ tức giận chửi mắng. Chúng ta nên thông cảm và thương họ đang bị nghèo khổ ép ngặt, mất sự sáng suốt bình tĩnh, tha thứ và an ủi họ mà không buồn giận.

Phật lại dạy thêm, Bồ-tát khi bố thí là do lòng từ bi bình đẳng, đối với kẻ oán người thân đều bố thí ngang nhau, không nhớ nghĩ những điều ác mà họ đã làm ngày xưa và cũng không hề ghét bỏ người hung dữ. Việc làm này hơi cao, người thường khó thực hiện được. Nhưng đó là tinh thần Đại thừa, nhằm lấy ân báo oán, khởi tâm từ bi hỉ xả, vong kỷ lợi tha. Nên khi ra làm việc, chúng ta cần phải xem xét tâm niệm mình có còn vị kỷ không? Có còn thân sơ không? Có còn nhớ nghĩ đến oán cừu xưa không? Nếu còn thì phải tiến tu hơn nữa, để chuyển hóa tâm niệm nhỏ hẹp cho xứng đáng với lời Phật dạy. Vì nếu chúng ta còn vị kỷ thì không thể nào thực hiện đúng lời Phật dạy. Giả sử có người giàu có quyền thế lấn áp chúng ta, sau đó họ sa cơ thất thế nghèo khổ, ngược lại chúng ta được quyền thế giàu có. Trong một dịp đi bố thí gặp lại người lấn áp mình ngày xưa, chúng ta không hoan hỉ cho người đó. Như vậy là chúng ta còn nhớ lỗi xưa của họ, chúng ta còn tâm vị kỷ hẹp hòi, chưa có tâm hỉ xả. Bồ-tát thì không như vậy, dù xưa họ có làm khổ các ngài, nay thấy họ khổ, các ngài vẫn ra tay cứu giúp.

Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Bố thí cho một trăm người dữ ăn không bằng bố thí cho một người hiền. Bố thí cho một ngàn người hiền, không bằng bố thí cho người giữ năm giới. Bố thí cho mười ngàn người giữ năm giới, không bằng cúng dường cho một vị Tu-đà-hoàn… Cúng dường một trăm ức vị Bích-chi Phật không bằng cúng dường một vị Phật.” Nghĩa là bố thí cho người tu cao chừng nào, thì có phước nhiều chừng nấy. Song, tại sao kinh này Phật lại dạy bố thí phải bình đẳng? Đồng là lời Phật dạy sao có sự mâu thuẫn nhau? Vậy kinh nào dạy đúng với tôn chỉ của Phật?

Tôi xin đưa ra một ví dụ để giải thích đoạn này cho quí vị hết nghi ngờ. Phật tử nào lớn tuổi có con đông khéo dạy dỗ con thì sẽ thông cảm điều này. Khi con còn nhỏ, quí vị thường dạy: “Con phải chọn bạn mà chơi, đứa nào hiền lành siêng học nên thân cận gần gũi, đứa nào hung dữ biếng nhác nên tránh xa, vì gần nó sẽ nhiễm những thói hư tật xấu, mà hỏng cả cuộc đời.” Khi con khôn lớn học hành thành tài, có đức hạnh trí tuệ vững vàng, quí vị lại khuyên con: “Con hãy coi bạn bè, đứa nào nghèo khó, kém đạo đức nên tới lui giúp đỡ cho nó được tốt được vui…” Sở dĩ quí vị khuyên dạy các con như thế, là vì con quí vị có đủ khả năng tự chủ và làm lợi ích cho người, góp phần xây dựng cho xã hội được tốt đẹp, chớ không còn đóng khung bằng cách dạy con phải gần người hiền người tốt mãi.

Cũng như thế, người mới tu, tập khí tham sân si phiền não còn dày, mà sức huân tu còn kém, nên Phật dạy tránh xa người dữ, gần gũi người trí người hiền để được duyên thuận, được yên ổn dễ tu dễ tiến. Đến khi phiền não tham sân si cạn mỏng, đạo lực vững, có đức tự chủ không bị chi phối bởi nghịch duyên, thì Phật dạy nên giúp đỡ làm lợi ích mọi người, giúp kẻ dữ người hiền như nhau. Người mới tu đạo lực non yếu cần bạn lành duyên tốt để tiến, còn tu lâu có đạo lực, nếu ở trong cảnh thuận hoài sẽ bị chìm trong ấy không tiến được. Giả sử có người tu lâu, ăn trên ngồi trước mọi người, Phật tử đến chùa đều đảnh lễ cúng dường, muốn gì được nấy, tha hồ hưởng thụ, không gặp khó khăn thử thách nên không biết mình tu đến đâu? Tuy tu mà không có ai chọc phá nên không biết sân giận phiền não còn hay hết. Hoặc không có ai bỏ đói, đâu có biết kham nhẫn cơn đói đến đâu? Vì vậy, giai đoạn sau của người tu, cần phải có thử thách, để trắc nghiệm xem tu đã thật sự tiến bộ chưa? Có đối xử bình đẳng giữa kẻ xấu người tốt, kẻ sơ người thân chưa?

Thế nên tu trong cảnh thuận được an ổn thấy có tiến bộ, thì chưa tin mình đã tiến thật sự, an ổn thật sự. Khi nào gặp nghịch duyên thử thách mà vẫn thản nhiên an ổn vượt qua thì mới thật là tiến bộ. Ví dụ tôi tuyên bố tu hạnh nhẫn nhục, nhưng tôi cứ ở trong cảnh thuận, không có người đến chửi mắng khi dể, vu oan giá họa, thì làm sao tôi biết được tâm nhẫn nhục của tôi đến đâu? Người tu khi phát nguyện tu hạnh nào, cần phải có duyên nghịch để thử thách cho vượt qua mới thành tựu hạnh tu. Giống như đứa học trò qua một năm học, cuối năm, chịu sự khảo hạch của giám khảo, trả lời đúng mới được đậu. Việc tu hành nói thì dễ, tưởng tượng thì dễ, sống trong thuận cảnh cũng dễ. Nhưng, đối diện với thử thách, vượt qua một cách thản nhiên, không bị sân si phiền não làm ô nhiễm mới thật là khó.

Thế thường, người đời khi bị chửi mắng, đánh đập, lấn hiếp thì cho đó là ma quỉ theo phá không cho tu. Ngược lại, đối với người tu Phật, thấy đó là Bồ-tát nghịch hạnh, giúp cho mình cái duyên thù thắng để sớm thành tựu viên mãn công hạnh tu hành. Vậy khi quí vị phát tâm tu, nếu gặp duyên thuận gần gũi được bạn lành tận tâm giúp đỡ mọi mặt, thì biết đó là thiện hữu tri thức ở mặt thuận, chúng ta cũng phải nỗ lực tu tiến, chớ bằng lòng trong cảnh thuận rồi quên tu. Nếu gặp nghịch duyên, người xấu ác phá phách làm chướng ngại, thì biết mình đang gặp thiện hữu tri thức ở mặt nghịch, chúng ta càng cố gắng nỗ lực vượt qua, không thối chí nản lòng bỏ tu. Đối trước người giúp đỡ hay làm chướng ngại mình vẫn bình thản, tâm không chao động, ấy mới là oán thân bình đẳng, khi giúp đỡ họ thì giúp như nhau tâm không thiên vị. Hiểu như thế, chúng ta sẽ không thắc mắc khi đọc kinh Pháp Hoa thấy Phật kể chuyện Đề-bà-đạt-đa trải qua nhiều kiếp về trước, tạo nhiều duyên nghịch trong đời tu hành của Phật. Sau đó Phật kết luận Đề-bà-đạt-đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài, nhờ thiện tri thức Đề-bà-đạt-đa mà Ngài mau thành tựu Phật quả.

Người tu mà chỉ mong gặp cảnh thuận, gặp người hiền thì không biết rõ khả năng tu của mình. Người mong ước như thế chỉ tu với Phật chớ không tu với chúng sanh. Song, Phật không cần chúng ta tu với Ngài, vì lạy Phật hoài Ngài cũng không mừng, chê Phật mãi Ngài cũng không buồn. Thế nên không cần tu với Phật, mà phải tu với chúng sanh, thì sự tu hành mới có ý nghĩa. Muốn được như thế, phải luôn nhớ người chửi mắng gây phiền chướng cho mình, biết đâu là Bồ-tát thị hiện giúp mình tu tiến.

Chúng ta không nên tưởng Bồ-tát là những vị từ trên trời giáng xuống, có hào quang có phép linh, để chúng ta đến đảnh lễ cầu xin việc này việc nọ. Bồ-tát hiện thân rất thực tế, có khi lại tầm thường, ở bên cạnh mà chúng ta không biết. Sách xưa ở Trung Hoa có ghi lại câu chuyện: Tại chùa Quốc Thanh ở núi Thiên Thai có hai vị Bồ-tát tên Hàn Sơn và Thập Đắc. Ngài Hàn Sơn không ai biết rõ tông tích. Một hôm trời lạnh như cắt, Ngài từ trong núi lạnh đi ra, quần áo rách rưới bẩn thỉu, vô chùa xin ở. Do từ núi lạnh đi ra, nên Ngài được gọi tên là Hàn Sơn. Còn ngài Thập Đắc thì do Thiền sư Phong Can đi khất thực về, gặp đứa bé bị bỏ bên đường bơ vơ, Ngài đem về chùa nhờ nuôi, đặt tên là Thập Đắc, nghĩa là lượm được. Hai vị sống trong chùa rất là bần hàn, ăn thì không ngồi trên quả đường như chúng, lại ra sau bếp lượm cơm dư cơm đổ lọc rửa lại để ăn. Ngủ thì ngủ ngoài hiên chùa, sống không cần ai biết đến. Tuy nhiên, các Ngài sống rất vô tư hồn nhiên. Sau khi Thiền sư Phong Can tịch, quan Tri phủ ở gần chùa bị bệnh, mộng thấy ngài Phong Can chỉ cho món thuốc, ông uống lành bệnh, nên ông rất tin tưởng Ngài. Lại một hôm ông mộng thấy ngài Phong Can bảo ông có muốn đảnh lễ Bồ-tát, thì đến chùa Quốc Thanh tìm hai ngài Hàn Sơn và Thập Đắc mà đảnh lễ, hai ngài là Bồ-tát Văn-thù và Phổ Hiền thị hiện. Quan Tri phủ đến chùa tìm, Hòa thượng Trụ trì bất đắc dĩ cho gọi hai Ngài ra. Tuy thấy hai Ngài ăn mặc lôi thôi dơ bẩn, thái độ ngây ngô, nhưng ông vẫn đảnh lễ. Hai Ngài biết tông tích mình đã bại lộ liền cõng nhau chạy vô núi, mất luôn. Đó là Bồ-tát thật mà mọi người không nhận ra được. Nên người đời thường ỷ mình khôn lanh, tranh giành hơn thua, lắm khi phạm tội với Bồ-tát mà không hay!

Tóm lại, điều giác ngộ thứ sáu Phật dạy Bồ-tát khi làm việc lợi tha, phải biết rõ tâm lý hoàn cảnh căn cơ của từng người, thực hành lòng từ bi bình đẳng, không phân biệt thân sơ ân oán, tha thứ mọi lỗi lầm cho người, nhất là thương xót cứu giúp người nghiệp chướng nặng nề tạo nhiều tội ác.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

"Sáu phép Ba La Mật" được trích từ "Bồ Tát Tại Gia, Bồ Tát Xuất Gia - Kinh Duy Ma Cật Giảng Luận" của thiền sư Thích Nhất Hạnh.

Sáu phép Ba La Mật

Tiếp đó Bụt nói về sáu phép Ba-La-Mật (Paramita): Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định, và Trí tuệ.

Bố thí tài vật:
Đứng về phương diện bố thí tài vật mà nói, những gì mình đã đem chia sẻ cho người khác, những thứ đó mới đích thực là của cải còn lại của mình. Tài sản còn giữ trong nhà, không hẳn là của mình. Khi cho tức là mình đã đầu tư vào sự an ninh và hạnh phúc ngày mai của mình. Những của mà mình đã bố thí sẽ còn mãi đó, và mình không cần phải giữ gìn chúng. Ngược lại, những của mà mình chưa bố thí thì mình phải cất giữ, nhưng không chắc mình giữ được chúng trong đời này, đừng nói đến đời sau!
Khi vị Bồ tát thực tập bố thí như vậy thì ba nội kết lớn nhất trong con người của họ, tức là tham, sân và si, sẽ càng ngày càng tiêu mòn đi. Vì khi bố thí chân thật, mình sẽ không bị vướng mắc, không có tâm tham đắm, cho nên nội kết về tham nhỏ đi dần dần. Khi bố thí mình có lòng thương, năng lượng của tình thương sẽ làm giảm đi năng lượng của giận hờn. Trong khi đó tâm từ bi sẽ làm tiêu mòn niềm sân hận của mình. Ngoài ra, khi bố thí để hồi hướng đến đạo giải thoát thì khối si mê của mình càng ngày càng nhỏ lại, và từ từ nó biến mất đi.

Đối với thân bằng quyến thuộc:
Bụt còn nói đến thái độ của người Bồ tát tại gia đối với cha mẹ, vợ con, và bạn bè của mình. Bụt dạy rằng cha mẹ của mình đời này có thể không phải là cha mẹ của mình trong những đời khác. Bạn hữu cũng vậy. Bạn hữu lúc vui không phải là bạn hữu lúc buồn. Con cái cũng tương tự. Vì thế đừng vì cha mẹ, vì vợ con, vì thân thuộc mà tạo ra những nghiệp bất thiện, những ác nghiệp cho đời này và cho đời sau, dù cho những ác nghiệp đó nhỏ như là một sợi lông hay một cọng cỏ.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

"If you can't feed a hundred people, then feed just one."
- Mother Teresa
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

Công đức của pháp bố thí - Hòa Thượng Thích Giác Hạnh

https://www.youtube.com/watch?v=XX6oVZH ... el=DieuHue
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

Truyện Cổ Phật Giáo

Tập 1
Thích Minh Chiếu
Sưu tập

---o0o---

Phần 05

Gương Bố Thí

Ngày xưa có một vị Bồ tát, nhân thấy cuộc đời vô thường cho đến cả thân mạng và của cải cũng vậy. Nên Bồ tát phát tâm dõng mãnh đem tất cả sản nghiệp của mình bố thí.

Trong khi bố thí Bồ tát không phân biệt người oán kẻ thân, miễn thấy ai thiếu thốn khổ sở là Ngài đem lòng thương xót và tận tâm giúp đỡ. Cũng vì thế, nên lòng nhân từ của Ngài vang khắp mọi nơi, và ai nghe đến tên Ngài cũng đều cảm phục.

Nhân đó, một vị Thiên đế Thích chưởng quản Dục giới sanh lòng ghen ghét lo sợ. Ông ta thầm nghĩ: “Nếu vị Bồ tát này tu hạnh bố thí quảng đại như vậy không bao lâu phước đức của người sẽ hơn ta và khi ấy địa vị Thiên Ðế Thích này chắc gì ta giữ mãi được”. Nghĩ thế rồi; Thiên Ðế Thích bày mưu kế để lung lạc hạnh bố thí của Bồ tát. Ông bèn dùng thần thông hóa hiện một cảnh địa ngục ghê rợn trước mắt Bồ tát và trong địa ngục ấy, một tội nhân đang bị hành hạ khổ sở… Thấy tội nhân bị hành hạ Bồ tát thấy làm đau đớn thương xót trong khi ấy thì Thiên Ðế Thích kia liền đến chỉ vì chuyên tu hạnh bố thí, nên ngày nay y phải chịu quả báo đau khổ và nếu ngươi tu hạnh bố thí, thì sau này khi mạng chung, ngươi cũng phải đọa vào địa ngục này để chịu mọi điều đau khổ như thế. Vậy, ngươi còn muốn tu hạnh bố thí nữa không?”.

Nghe Thiên Ðế Thích nói, Bồ tát rất ngạc nhiên, và bảo với Thiên Ðế Thích rằng: “Tôi chưa hề nghe ai nói bố thí mà bị đọa vào địa ngục và chịu mọi đau khổ!”. Ðế Thích trả lời: “Nếu ngươi không tin, thì ngươi thử đến hỏi tội nhân ấy”. Bồ tát liền đến hỏi tội nhân: “Ngươi vì duyên cớ gì mà phải chịu hình phạt như thế?”. Tội nhân trả lời: “Cũng vì lúc sanh tiền có bao nhiêu tiền của tôi đều đem giúp hết cho người, nên nay tôi chịu quả báo đau khổ ở đây”. Bồ tát lại hỏi: “Nếu ngươi đem tiền của bố thí mà nay phải chịu quả báo đau khổ, vậy những kẻ được bố thí thì sao?”. Tội nhân đáp: “Những kẻ được bố thí, sau khi mạng chung sẽ được sanh lên cõi trời hưởng quả báo an vui”.

Nghe vậy Bồ tát vui vẻ nói: “Sở dĩ ta đã bố thí là vì muốn cho chúng sanh thoát khổ được vui… Nhưng nếu vì bố thí mà thân ta phải đọa vào địa ngục để chịu muôn ngàn đau khổ, ta cũng vẫn vui lòng. Vả lại cứu giúp chúng sanh mà thân mình bị đau khổ cũng là điều rất thường đối với Bồ tát”.

Thiên Ðế Thích nghe vậy, rất lấy làm cảm phục và cung kính hỏi rằng: “Vì chí nguyện gì mà người có những hành động quả cảm như thế?” Bồ tát trả lời: “Chí nguyện của ta không ngoài mục đích cầu Phật đạo để cứu khổ chúng sanh”.

Sau khi biết rõ chí nguyện của Bồ tát, Thiên Ðế Thích tự thấy hối hận, liền thành kính đến quì trước Bồ tát: “Thưa Ngài chỉ vì nghiệp chướng mê mờ, sợ mấy quyền vị Ðế Thích nên tôi giả bày cảnh địa ngục ấy, để hầu lung lạc chí nguyện bố thí mà phải chịu quả báo đau khổ! Nghĩ lại hành động lỗi lầm của tôi, tôi rất hổ thẹn và đau đớn. Vậy trước Ngài tôi xin sám hối và xin nguyện sẽ mãi mãi noi gương bố thí cao quý của Ngài; và nguyện sẽ hết lòng giúp đỡ những ai trong cõi Dục giới này, phát tâm tu hạnh bố thí.”

Thuật giả: Chơn Trí

Sướng gì hơn sướng làm lành
Cho bao nhiêu của để dành bấy nhiêu
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Re: 1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

Truyện Cổ Phật Giáo

Tập 1
Thích Minh Chiếu
Sưu tập

---o0o---

Phần 02

Ðời Người Trong Một Câu ! ! !

Nhà vua ấy, ngay từ lúc lên ngôi báu đã giao cho một viên đại thần cái trọng trách sưu tầm dưới các bầu trời xa lạ những tinh hoa rải rác trong vũ trụ và những triết lý của cuộc đời. Ý cửu trùng muốn thu nhập những cái hay ở đời để dựng một nguyên tắc trị dân.

Ba mươi năm trời đã qua, vị thanh niên anh tuấn nấy, chờ đợi tóc đã điểm bạc. Lễ khánh thọ ngũ tuần đã cử hành long trọng trong Hoàng cung. Lúc ấy quan đại thần cũng về với đoàn lạc đà, bốn vó trắng bụi đàng xa, và trên lưng chất hơn nghìn sách quý mà vị đại thần đã có công kết tập.

“Trẫm đã nhiều tuổi rồi, tinh hoa của trời đất nhiều đến thế. Trẫm làm sao xem hết. Khanh mang về rút ngắn lại cho trẫm đủ thời giờ xem.”

Ðoàn lạc đà lại chở những pho sách đi và mười năm sau nữa, bộ sách rút ngắn lại còn năm trăm quyển được dâng lên ngự lãm:

Nhà vua vuốt chòm râu bạc phau ngần ngại phán:

“Hãy còn nhiều quá. Tuổi trẫm đã lớn, đọc sao cho kịp. Khanh chịu khó về gạn lọc một lần nữa những tư tưởng huyền diệu trong ấy”.

Viên đại thần tận trung không hề nghĩ đến số năm tháng đã tàn tạ trên đầu, lui về một nơi u tịch kết tinh kho tư tưởng.

Sau năm năm triền miên, với bao nhiêu tinh hoa và tư tưởng cổ kim đông tây, viên quan già nua mừng rỡ khi thấy kết quả: năm trăm cuốn dồn lại chỉ còn một pho sách dầy. Một pho sách đầy chứa tất cả triết lý của muôn cuộc đời!

Cuốc sách dầy ấy, một buổi sớm được mang vào ngự lãm. Nhưng nhà vua đã nằm yên trên giường bệnh, chung quanh ngự y chầu chực.

Vừa mở mắt nhìn vị đại thần tận tâm và cuốn sách quý giá. Một nụ cười nhàn nhạt nở trên môi vua như ánh hoàng hôn.

Vua thở ra một giọng yếu nhỏ, viên đại thần quỳ xuống lắng tai đón lấy:

“Trẫm yếu lắm, một trang sách còn chưa thể xem được huống là cả cuốn… Song trước khi nhắm mắt, trẫm háo hức muốn biết qua những tư tưởng gì, những triết lý gì, đã chi phối cả đời người, đã điều khiển cả một vân mệnh… Khanh khá rút ngay quyển sách này thành một câu hay vài chữ cho trẫm xem kịp và đủ sức hiểu…”

Nét mặt viên đại thần trở nên trầm ngâm và hai mắt già nheo lại. Tử thần đã chờn vờn đâu đó. Các ngự y cúi đầu trước số mệnh. Nhà vua nằm yên khắc khoải chờ. Thời gian như ngừng hẳn lại. Không khí trở nên nặng nề và nghiêm trọng. Vàng son nội điện tự nhiên cũng hóa rầu rĩ. Mọi người chăm chú và kính cẩn nhìn viên đại thần đang lặng lẽ đem cuộc đời thu vào một câu. Sau một hồi suy nghĩ, viên đại thần từ từ bước đến bên án. Cả bộ Văn phòng tứ bảo hình như run khi bàn tay già đưa ra.

Bàn tay kính cẩn nâng cây bút, và nhẹ nhàng vạch trên mảnh hoa tiên những nét buồn lung linh. Mọi người đều ngó theo. Thần chết lúc ấy đã chập chờn đầu long sàng. Ðã mấy lần nhắm mở. Vua mới cất được mấy tiếng cuối cùng: “SANH LÃO BỆNH TỬ”.

Thuật giả: Tâm Phước

Một đời người luống qua vô ích
Chỉ kết liễu trong ân hận
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

THIỀN SƯ VÀ TÊN TRỘM
Thích Tánh Tuệ


Thiền sư nói với tên trộm:

“Ngươi muốn trộm bát vàng của ta, ta muốn trộm trái tim của ngươi”

Với những người bình thường, gặp một tên trộm là việc chẳng vui vẻ gì.

Thế nhưng, đối với các bậc Thánh nhân, gặp một tên trộm lại là một điều thú vị. Câu chuyện cảm hóa những tên trộm dưới đây của các trí giả mang đến cho chúng ta thật nhiều cảm xúc.



Khi Bồ Tát Long Thọ tu hành, cuộc sống của ông vô cùng giản dị, gia sản duy nhất chỉ là một cái bát. Nhưng ông lại là thiên tài với trí tuệ vô song, ngay đến cả đức vua cao quý, hoàng hậu hay những người có địa vị, quyền lực đều là học trò của ông.

Có một vị hoàng hậu rất sùng kính Thiền sư Long Thọ, đã đặc biệt làm ra một cái bát kim cương quý giá cho ông. Khi hòa thượng Long Thọ cầm cái bát bằng sứ đến hoàng cung, hoàng hậu nói với ông rằng: “Ta muốn ngài đáp ứng cho ta một việc”.

Thiền sư Long Thọ nói: “Trên người tôi chẳng có thứ gì ngoài cái bát này, hoàng hậu muốn tôi làm chuyện gì nào?”.

Hoàng hậu nói: “Ta chính là muốn cái bát đó”.

Ông nói: “Vâng, vậy mời người nhận lấy nó”.

Hoàng hậu lại nói: “Vẫn chưa hết, ta muốn đổi cho ngài cái bát của ta, hãy nhận lấy cái bát này”. Hòa thượng đáp: “Không vấn đề gì, bát nào cũng được”.

Ông hoàn toàn không biết rằng hoàng hậu đã ngầm đưa cho mình một cái bát bằng vàng quý giá. Trên đường trở về, ông dừng chân tại một ngôi miếu đổ nát. Trước đó, có một tên trộm đã phát hiện chiếc bát quý giá quý giá trên tay Thiền sư Long Thọ, liền bám theo ông đi vào trong miếu.

Ngôi miếu chỉ còn lại 4 vách tường, không có mái che, mọi thứ hoang tàn đổ nát. Trên bức tường có một cánh cửa sổ, và tên trộm trốn ở bên ngoài thám thính. Anh ta biết rằng các nhà sư Phật giáo mỗi ngày chỉ ăn một bữa, liền tính toán: “Đợi đến khi ông ta ăn no ngủ say, mình có thể ra tay, đó là thời điểm thích hợp nhất. Hơn nữa, ngôi miếu này đã hoang phế nhiều năm, một bóng người cũng không có, quả là thuận lợi”.

Sau khi Thiền sư Long Thọ ăn no liền ném cái bát ra ngoài cửa sổ ngay chỗ tên trộm đang ẩn nấp. Tên trộm không thể tin vào mắt mình: “Sao lại có loại người như thế này? Ăn no rồi lại vứt cái bát quý giá này đi, hay là cái bát này không có giá trị gì?”. Thế là tên trộm đứng dậy hỏi: “Tôi có thể vào hỏi ông mấy điều được không?”.

Thiền sư Long Thọ nói: “Chàng trai, để dẫn cậu vào đây, ta đã phải ném cái bát ra đó! Cậu vào đi, cái bát đó ta cho cậu, nên cậu không phải là tên trộm, nó là món quà của ta. Ta là một người nghèo không có gì ngoài cái bát này, ta cũng biết rằng mình không thể giữ nó được lâu, bởi vì khi ngủ cũng sẽ có người lấy mất. Cậu đã không ngại phiền phức mà đi theo ta từ thủ phủ về đây, ta sớm đã biết điều đó rồi. Thời tiết mùa hè rất nóng, xin đừng từ chối món quà của ta!”.

Tên trộm nói: “Ông thật kỳ lạ, ông không biết cái bát này rất quý giá sao?”.

Thiền sư Long Thọ nói:

“Sau khi ta lĩnh ngộ được chân lý cuộc đời thì những điều khác đều không còn giá trị nữa rồi!”.

Tên trộm nhìn Long Thọ và nói: “Vậy xin ông hãy nói cho tôi biết, ông đã lĩnh ngộ được chân lý gì mà còn giá trị hơn chiếc bát vàng này vậy?”.

Thiền sư Long Thọ đáp: “Một điều rất đơn giản!”

Tên trộm nói: “Trước khi ông nói ra hãy để tôi giới thiệu, tôi là một tên trộm nổi tiếng”.

Thiền sư nói: “Ai mà không như thế chứ, đừng quan tâm đến những thứ vụn vặt đó! Bởi vì con người sinh ra đều tay trắng, về sau lại có được rất nhiều thứ từ những người khác, nên tất cả mọi người đều là tên trộm, cho nên đừng lo lắng. Dù cậu làm gì cũng không thành vấn đề, chỉ cần làm tốt là được, và cần nhớ kỹ: Khi cậu ăn cắp đồ của người khác, cậu hãy nghĩ đến cảm giac của họ. Nếu cậu không thể cân nhắc đến cảm xúc của người khác, vậy đừng ăn cắp nó. Chỉ có nguyên tắc đơn giản vậy thôi!”.

Tên trộm nói: “Điều này quá dễ dàng. Nhưng sau này liệu tôi có thể gặp lại ông không?”.

Thiền sư Long Thọ nói: “Ta sẽ ở lại đây hơn 10 ngày. Thời gian này cậu đều có thể đến, nhưng trước tiên cậu hãy làm theo những gì mà ta đã nói”.

Tên trộm đã thử điều này trong mười ngày, và anh ta thấy rằng đó là việc làm khó nhất trên đời. Có những lúc muốn trộm đồ, nhưng khi nghĩ tới cảm giác của người khác, thì ham muốn ăn trộm đồ của anh ta lại tan biến đi. Ngay cả khi anh ta vào ăn cắp trong cung điện, lúc mở ra những ngăn tủ đầy vàng bạc châu báu khiến anh ta không suy nghĩ gì hết, nhưng anh ta lại nhớ tới lời hứa, nên đành không trộm đồ nữa.

Cuối cùng, anh ta không trộm một thứ gì, liền đến gặp Thiền sư Long Thọ và nói: “Cuộc sống của tôi đã bị ông đảo lộn hết rồi. Bây giờ tôi không thể ăn cắp bất cứ thứ gì hết”.

Long Thọ đáp: “Vấn đề là ở cậu chứ không phải ở ta. Nếu cậu muốn quay trở lại nghề cũ, thì hãy quên đi cảm giác của mình”.

Tên trộm lại nói: “Nhưng những khoảnh khắc đó rất quý giá. Cả đời tôi chưa bao giờ được tự do như hôm nay, yên ổn, an tĩnh, vui vẻ, kể cả những vật báu trong vương quốc cũng không thể so sánh được. Bây giờ thì tôi đã hiểu ra ý nghĩa trong câu nói ‘sau khi hiểu được chân lý thì những điều khác đều không có giá trị’ của ông rồi. Tôi đã nếm được hương vị của nước cam lộ, và tôi nghĩ ông mỗi thời mỗi khắc đều đang đắm mình trong đó rồi. Ông có thể nhận tôi làm đệ tử và cho tôi đi theo được không?”.

Thiền sư Long Thọ nói:

“Quả thực mỗi thời mỗi khắc ta đều tham ngộ chân lý. Lúc đầu khi cậu đi theo, ta đã muốn cảm hóa để cậu trở thành đệ tử của ta rồi. Lúc đó, cậu muốn trộm cái bát vàng của ta, nhưng ta lại muốn giữ tâm cậu ở lại. Việc làm của chúng ta ngẫu nhiên nhưng lại trùng hợp thần kỳ”.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

Bài thứ 10: Độc thư
(Bạch Vân gia huấn - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Bài thứ mười khuyên cần đọc sách,
Sách là thầy dạy mách cho ta.
Bao điều đạo lý sâu xa,
Văn minh khoa học bao la đất trời.
Ham đọc sách thì trời chẳng phụ.
Có chí bền ắt làm nên (1)

Mẹ cha vui bởi con hiền,
Gia đình hòa thuận đẹp yên mọi phần
Đạo đức cao, quỷ thần nể sợ,
Được mọi người giúp đỡ tin yêu.
Thấy việc thiện hãy làm theo,
Biết lỗi sửa lỗi là điều đáng khen

Cách đối xử phải nên suy xét,
Đừng cạn tình trái nết – mất lòng.
Muốn nhanh vội việc khó xong,
Ham lợi nhỏ việc lớn không hoàn thành (2)

Tre uốn mạnh chẳng vênh cũng gẫy,
Chó cắn càn bởi thấy cùng đường.
Đánh chuông chuông tất kêu vang,
Người quá uất ức sẵn sàng đấu tranh.
Chớ nên hám lợi hám danh,
Ít ham muốn mới yên lành bền lâu.

(1) Nguyên chữ Hán là:
"Độc thư thiên bất phụ
Hữu chí sự cảnh thành"

(2) Nguyên chữ Hán là:
"Dục tất bất đạt,
Kiến tiểu lợi tắc đại sự bất thành"
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

NAM QUỐC DÂN TU TRI
PHAN-BỘI-CHÂU Tiên sinh

CHƯƠNG THỨ IV
N. 8.- Lòng nhân-ái

Loài người sanh dục, gốc vì ái tình. Ái là mậm tình, tình là hạt ái. Bởi hay biết ái, mới gọi rằng nhân. Ta với song thân, với huynh với đệ. Với già với trẻ, đều phải thương yêu. Nòi giống thương nhau, lại là mật thiết. Cũng khí cũng huyết, cũng thịt cũng da. Ta biết thương ta, phải thương người với. Xưa lời Phật nói, lợi kỷ lợi tha. Ái tự một nhà, suy ra một nước. Kìa loài tàn ngược, là giống beo hùm. Người quý tấm lòng, nhất là nhân ái.

ÁI TÌNH: tình thương yêu. SONG THÂN: cha mẹ.
LỢI KỶ: lợi cho mình. LỢI THA: lợi cho người.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1733
Tham gia: 11:03, 25/04/14

1. BỐ THÍ

Gửi bài gửi bởi KMD »

Truyện Cổ Phật Giáo

Tập 1
Thích Minh Chiếu
Sưu tập

---o0o---

Phần 01

Bố thí bất nghịch ý

Thuở xưa, có một nước hiệu là Diệp Ba, vua tên là Thi Tí, lấy phép chơn chánh trị vì, chẳng hề làm tổn lê dân. Vua có 4.000 quan thượng thơ, 500 thớt voi bạch, cai quản 60 tiểu bang và 800 thôn xã. Vua tuy có hai muôn vương phi mỹ nữ, song không có bà nào có con. Ngài khẩn cầu chư Thánh chúng, Thần núi, Thần nước.

May thay! Một bà bỗng có thai.

Thiên tử bổn thân săn sóc chánh cung rất chu đáo. Ngài lại ra lệnh lo nào nệm thúy gối loan cho bà an nghỉ, nào món ăn cho mỹ vị, thức uống cho tinh khiết đặng bà dùng. Sau chín tháng đến ngày mãn nguyệt khai hoa, bà sanh đặng một hoàng nam đặt tên là Tu Ðại Noa. Hay tin này, cả thảy quý phi trong cung điện đều hớn hở vui mừng.

Thời gian qua, Thái tử Tu Ðại Noa đã được 16 tuổi. Ngoài văn võ kiêm toàn, lại thêm lễ nhạc cung đàn cũng là tột chúng. Ngài phụng kính Hoàng-phụ và Mẫu-hậu chẳng khác chi như thánh. Vua cha lại dựng riêng cho Hoàng-tử một đài các nguy nga rực rỡ. Tuy trẻ tuổi, song Ðông cung lại quý sự phước thiện, bố thí cho nhân loại, thượng cầm hạ thú. Ý Ngài chỉ muốn cho tất cả chúng sanh được an vui tự tại.

Khi đến tuổi trưởng thành, vua cha đính hôn cho Ngài với nàng Mạn Trà, con một vị Thiên tử. Công chúa sắc đẹp tuyệt trần và đức hạnh không ai sánh kịp.

Ngày tháng qua, vợ Ðông cung sinh được một trai, gái. Thuở ấy Hoàng tử nhớ pháp bố thí Ba La Mật. Ngài xin phép vua cha dạo chơi và xem cảnh vật, Ngài thấy những người nghèo, đui, điếc, câm, đi dọc đường, trong lòng ưu ái, không hân hoan chút nào. Vua cha hỏi, Ðông cung nói: “Tâu Hoàng phụ, con ra thành thấy người nghèo, điếc, đui, câm; con động mối từ tâm, xót lòng trắc ẩn. Con muốn tâu Hoàng phụ biết ý muốn của con, song con còn ngần ngại e Hoàng phụ không nhận lời”.

Hoàng thượng nói: “Con muốn điều gì, cha cũng hoan hỷ ban cho như ý”. Ðông cung nói: “Con muốn lấy tất cả trong kho tàng của Hoàng phụ, đem bố thí cho mọi người, bất luận ai xin vật chi thì con cho vật ấy”, Hoàng phụ đáp: “Hay thay con cứ thi hành theo bổn nguyện, cha không cấm cản”.

Ðông cung xin các quan hầu cận đem đồ châu báu ra bày biện nơi bốn cửa thành và ngoài chợ đặng bố thí cho tất cả nhân loại. Tám phương trời đất đều hay việc lành của Hoàng tử. Bốn hướng xa xôi ngàn dặm, đua nhau lặn suối trèo non, đến chịu thọ thí. Người đói rách, Hoàng tử cho ăn mặc, kẻ xin bạc vàng châu báu, Hoàng tử lại cấp cho, ai ai cũng được lòng hả dạ.

Thời ấy có một ông vua nghịch sanh lòng nham hiểm, hay tin Hoàng tử bố thí bất luận là ai cùng vật gì, mới hội các đình thần và các vị Bà La Môn trong nước bàn bạc rằng: “Ta nghe vua nước Diệp Ba có một thớt tượng bạch, tên là Tu Ðàn Diên chạy bay được trên liên hoa. Voi ấy đã dõng mãnh lại mạo hiểm trong việc chiến tranh, trăm trận trăm thắng, chả biết chư khanh có ai chịu đi xin voi ấy chăng?”. Các quan văn võ lắc đầu trương mắt nhìn nhau; song trong hàng Bà La Môn có tám ông tâu rằng: “Chúng tôi nguyện làm như ý, cúi xin Hoàng thượng ban cho chúng tôi ít đồ hành lý”. Vua dạy cấp đồ đi đường và nói rằng: “Ta rất tin cậy các ngươi, nếu các ngươi xin được voi ấy, ta sẽ trọng thưởng”.

Tám ông Bà La Môn tay cầm tích trượng lên đường, khi lên thác khi xuống ghềnh, lần hồi đã tới nước Diệp Ba. Chúng hỏi thăm đến trước cửa đền Hoàng tử, thảy đều chống gậy kim cương, chân đứng chân treo, day mặt vô cửa. Người giữ cửa vào báo cho Ðông cung, Ngài liền ra thi lễ một cách tôn trọng, chẳng khác chi nghĩa cha con. Ðoạn thái tử hỏi: “Bạch quý Ngài, quý Ngài ở đâu đến đây? Ði đường sá xa xôi có cực khổ chăng? Cảm phiền quý Ngài cho tôi biết có việc chi quan hệ mà phải chịu nhọc nhằn treo chân như thế này?”. Tám vị Bà La Môn đáp: “Thưa Hoàng tử Ðông cung, chúng tôi mạn nghe Ðông cung mở đường phước thiện, bố thí bất luận là ai cùng bất cứ của cải gì, nên danh thơm của Ngài truyền khắp tám phương, công đức của Ngài quả thật vô lượng vô biên, xa gần đều chúc tụng, không còn một ai không biết. Chúng bần đạo lấy đó tin chắc chắn như lời. Thưa Hoàng tử Ðông cung, thật Ngài là con cõi thượng thiên, thế thì lời nói Ngài còn hơn kim thạch. Vậy nếu Ngài thành tâm bố thí, chúng bần đạo xin Ngài hoan hỷ cho chúng tôi bạch tượng bay trên liên hoa”.

Ðông cung liền đến chuồng ngựa dắt ra một con voi bạch song các vị Bà La Môn lại nói: “Thưa Hoàng tử Ðông cung, không phải thớt voi này, chúng tôi xin đây là xin bạch tượng chạy được trên hoa sen, tên nó là Tu Ðà Diên”. Hoàng tử đáp: “Cha tôi thương mến voi ấy lắm, chẳng khác chi tôi, tôi không thể tự quyền cho các Ngài. Nếu tôi cho thì cha tôi hết thương tưởng tôi, lại còn đuổi tôi ra khỏi nước nữa”. Nhưng Ðông cung lại nghĩ rằng: “Trước kia ta đã lập trọng nguyện Bố Thí Bất Nghịch Ý, nếu ta từ chối thì ta tự bác đại nguyện của ta, ta nên cho voi ấy mới có thể đạt được pháp Ba La Mật”. Ðông cung không còn ngần ngại nói: “Bạch quý Ngài, tôi không dám làm quý Ngài bận lòng vì một sự nhỏ nhen đó” Hoàng tử dạy tùy tùng thắng bành vàng và dắt tượng ra tức tốc. tay trái Ngài bưng nước rửa tay cho các vị Bà La Môn, tay mặt dắt voi trao cho quý khách. Vừa được voi bạch, tám ông Bà La Môn liền ca tụng “Bồ đề tâm” và cảm tạ Ðông cung, lộ vẻ hân hoan, và vội vã lên đường. Ðông cung lại còn nói vói: “Xin quý Ngài hãy đi cho chóng, kẻ Hoàng phụ tôi biết lại cho người theo bắt voi”. Trong nháy mắt, tám ông Bà La Môn biệt dạng.

Vừa nghe Hoàng tử cho kẻ nghịch tượng báu, các quan văn võ đều sững sốt, lo sợ rằng: “Nước ta nhờ có voi ấy mà dẹp nạn can qua”.Quần thần liền vào tâu với vua: “Muôn tâu bệ hạ, Ðông cung đã đem voi báu mà cho kẻ thù nhà, Bệ hạ dựng nên bờ cõi cũng nhờ có voi ấy oai phong lẫm liệt, một mình có thể chống cự 60 thớt voi khác như chơi; nay Ðông cung lại cho kẻ nghịch, chúng hạ thần cho đó là điềm mất nước. Chúng tôi tâm hồn rối loạn, cúi xin Hoàng thượng định đoạt. Bố thí bất nghịch ý của Ðông cung theo thiên kiến của chúng tôi thì chẳng kíp thì chầy, Hoàng tử chẳng những vét sạch cả của cải trong kho tàng mà thôi, lại chúng tôi sợ e Ngài còn cho cả nước và vợ con Ngài nữa”.

Vua nghe tâu không bằng lòng, liền cho đòi một vị Ðại thượng thơ đến hỏi: “Khanh cho Trẫm biết có phải Thái tử bắt bạch tượng cho kẻ nghịch chăng?”.

Muôn tâu Bệ hạ quả thật như lời.

Vua hội nghị tất cả đình thần để thẩm án Ðông cung. Một quan thượng thơ tâu: “Kẻ nào vào chuồng tượng thì chặt chân, kẻ nào dắt tượng thì cắt tay, kẻ nào thấy dắt tượng thì móc mắt”. Một quan thượng thơ khác lại tâu: “Xin Hoàng thượng cho công án tử hình cho cả thảy thủ phạm và đồng lõa”. Thấy quần thần phân vân và ý kiến không đồng, Vua lại thêm tha thiết và phán với triều đình: “Con Trẫm chẳng những ham tu tuệ mà thôi, lại còn mộ đường phước thiện. Ðối với mấy điều ấy Trẫm không thể ngăn cản, huống chi nay Trẫm nỡ đành bắt buộc hành hình cùng hạ ngục”. Một vị Ðại Thượng thơ bác bẻ ý kiến cả thảy triều đình, rồi quỳ xuống tâu: “Theo thiển kiến của tôi, Ngài nên đuổi Thái tử ra khỏi nước và đày người ở chốn lâm sơn 12 năm hòng người ăn năn hối ngộ”.

Vua theo ý kiến ấy, dạy đòi Ðông cung vào hỏi: “Có phải ngươi bắt bạch tượng cho kẻ nghịch chăng?”

- Muôn tâu Hoàng phụ, quả thật vậy.

Vua lại hỏi: “Sao ngươi lại dám bắt bạch tượng cho kẻ nghịch mà không trình cho ta hay trước ?”

- Thưa Hoàng phụ, trước kia Hoàng phụ cho phép con bố thí như ý mà không ngăn cấm một việc chi. Bởi thế nên con không tâu lại với Hoàng phụ việc con làm phước.

Thánh Hoàng nói: “Lệnh ta ban thuộc về ngọc ngà châu báu, chớ không can hệ với tượng bạch”.

Thái tử đáp: “Muôn tâu Hoàng phụ, các vật ấy đều là của cải của Hoàng phụ tất cả, con không ngờ phải ngoại trừ tượng bạch”. Hoàng thượng phán: “Ngươi phải tức tốc ra khỏi nước này, ta đày ngươi tại núi Ðàn Ðặc 12 năm.

Thái tử tâu: “Con không cải lệnh Hoàng phụ, song con xin Hoàng phụ cho phép con ở lại thêm bảy ngày đặng bố thí thêm cho mãn nguyện”.

Thiên tử phán: “Ta dạy ngươi cũng vì sự bố thí của ngươi thái quá, chẳng những làm tiêu tan kho báu của ta, lại làm cho nước mất một linh vật. Ngươi không được ở lại đây thêm bảy ngày, hãy ra khỏi nước bây giờ, ta không cho phép đâu”.

Thái tử tâu: “Con không dám trái lệnh Hoàng phụ, nhưng vì con còn chút ít của cải riêng, muốn đem bố thí cho trọn vẹn chớ con không dám đá động đến kho tàng của nước nữa…”

Hai muôn cung phi đồng xin vua để cho Hoàng tử ở lại bảy ngày rồi sẽ đày đi cũng chẳng muộn.

Vua nhận lời.

Thái tử dạy cho gia dịch truyền cho thập phương hay: ai muốn của cải, thì đến Ngài cung cấp cho.

Nhân dân ở bốn phương trời nghe đồn đều tới cửa đền; Hoàng tử rất ân cần thiết đãi thức ăn uống, chăm nom phân phát của cải, mọi người đều được vui vẻ. Trong bảy ngày, bố thí hết của cải. Người hàn vi trở nên phú quí; cả muôn người đều nhờ đó được no ấm hân hoan.

Ðông cung vào từ tạ Công chúa Mạn Trà và nói rằng: “Vì tôi bố thí thái quá, đã vét sạch kho tàng lại còn cho kẻ nghịch tượng bạch kỳ tài, nên Hoàng phụ và triều đình đày tôi 12 năm lên núi Ðàn Ðặc”.

Bà Mạn Trà nói: “Muốn nước thạnh nhà an, tôi xin cầu chúc Ðức Thánh hoàng, các thượng quan cùng quân nhân lớn nhỏ trong nước, thảy đều được giàu sang, an vui vĩnh viễn. Còn tôi thì nguyện theo cùng Thái tử vào chốn thâm sơn mà tu hành pháp Bát nhã”.

Ðông cung nói: “Người nam tử ở núi non hiểm địa còn khó giữ được bình tĩnh với cọp hùm cùng các loài thú dữ khác; Vương phi đã quen thanh nhàn, làm sao chịu nổi với cảnh khó khăn và đời vô vị. Công chúa ở thì đài các nguy nga, mặc ròng tơ lụa, nghỉ toàn nệm gối, ăn uống tinh đồ mỹ vị; còn trên sơn lâm, nghỉ toàn màn trời chiếu đất, nệm gối bằng cỏ rơm, thức ăn toàn là hoa quả. Lại thêm mưa, gió, sấm sét, sương, tuyết làm cho vỡ mặt kinh tâm. Khi lạnh thì lạnh thấu xương, khi nóng thì nóng phỏng trán. Nơi cây cối không bề nương dựa, dưới đất thì cỏ gai, đá sỏi cùng loài sâu bọ độc địa, làm sao Vương phi lại chịu nổi cảnh Khổ ấy?”

Bà Mạn Trà đáp: “Nếu thiếp xa cách Hoàng tử thì cần gì nệm thúy gối loan, sơn hào hải vị. Hôm nay đứng trước hoàn cảnh này thì lẽ đương nhiên chàng đâu thiếp đó cho trọn đạo vợ chồng. Nước lấy cờ làm biểu hiệu, khói thì có lửa, vợ thì có chồng. Thiếp chỉ biết gởi thân cho lang quân, mặc dầu mưa tối nắng chiều. Thiếp tưởng: lang quân chẳng khác chi thần thức của thiếp, nếu thần thức xa lìa thì thân kia tan rã. Vả lại lúc lang quân lập đàn bố thí, thiếp cũng dự vào, khi lang quân lìa quê hương nếu có người đến xin thọ thí, Thiếp biết nói làm sao với họ? Lúc thiếp nghe ai khẩn cầu với thí chủ, thiếp quá cảm động có thể chết đặng vậy”.

Ðông cung nói: “Tôi mở đường bố thí, không từ chối một ai, nếu có người đến xin hai con, tôi rất hoan hỷ nhận lời. Khi ấy Công chúa không vui lòng hưởng ứng, có phải làm rối loạn tâm từ thiện của tôi không? Tốt hơn là Công chúa đừng theo tôi làm chi”.

Mạn Trà đáp: “Hoàng tử chớ có lo xa, tôi xin tán thành mọi việc phước thiện. Lang quân ôi! “Trong trời đất không còn ai nhân đức hơn lang quân!”

Ðông cung nói: “Nếu quả Vương Phi đồng tình thì không gì quý hóa bằng!”.

Ðông cung dắt vợ con vào viếng mẹ và từ giả lên đường. Thái tử thưa: “Cúi xin Mẫu hậu hãy năng nhắc nhở Thánh hoàng; lấy luật chân chánh trị nước chăn dân, chớ để tà đạo sang nhập nước nhà”.

Nghe lời Ðông cung, Hoàng hậu bồi hồi cảm động âu sầu. Bà nói giữa cung phi: “Ta đem thân cứng cỏi như sắc đá, lấy lòng bền bỉ hơn gang thép mà phò Hoàng thượng không chút chi lỗi lầm. Nay ta có một mụn con vỏn vẹn, nó lại bỏ ta mà đi, tưởng tới chừng nào thì tâm bào ta đứt từng đoạn! Nhớ khi con còn trong bụng mẹ, chẳng khác chi lá trên nhành, càng ngày càng lớn, ta nuôi con đến tuổi trưởng thành, nó lại đi xa, bỏ ta hiu quạnh! Các Vương phi khác sẽ được thú vui chơi, còn ta thì Hoàng thượng sẽ hết yêu vì ta nữa. Ta xin thành tâm chú nguyện cùng cao xanh cho con ta mau được trở về xứ sở”.

Ðông cung cùng vợ con đồng lạy mẹ rồi lui ra.

Hai muôn quý phi mỗi bà đều đem ngọc trân châu đặng hiến cho Ðông cung; bốn ngàn Thượng thơ đem tràng hoa và báu dâng cho Hoàng tử.

Hoàng tử ra cửa thành hướng Bắc, Ngài lấy cả thảy bảy vật báu, ngọc và bông hoa bố thí cho mọi người. Cả thảy quan dân lớn nhỏ vô số đến đưa đón chật đường, chen nhau dâng lễ vật cùng chúc từ cho Hoàng tử. Họ bàn luận cùng nhau và nói: “Ðông cung thái tử là người trọn lành, là bậc vĩ nhân trong nước. Vì sao Hoàng thượng lại xua đuổi một vị Hoàng tử quý nhất và hiếm có trong đời này?”. Cả thảy mọi người đều hoài tâm thương tiếc.

Ra khỏi thành, Hoàng tử xin thần dân trở gót đặng Ngài lên đường. Lúc quay lưng, quan dân lớn nhỏ đều bi cảm và khóc nức nở.

Thái tử lên xe với vợ con, tự cầm cương dục ngựa. Ði một khoảng đường xa xa. Thái tử dừng xe dưới bóng cây nghĩ mát. Bỗng có một người Bà La Môn đến xin Ngài con ngựa. Thái tử mở ngựa ra cho, rồi để hai con lên xe, mang gọng xe vào kéo thế cho ngựa, Công chúa thì ở sau xe đẩy tới. Ði thêm được một khúc đường, lại gặp một người Bà La Môn, đón xin cái xe. Ðông cung liền nhận lời. Ði một khúc xa hơn nữa, lại gặp người Bà La Môn xin bố thí. Thái tử nói: “Tôi không muốn từ chối, song của cải tôi đã hết”. Người Bà La Môn đáp: “Nếu Ngài không còn của cải gì khác, nhờ Ngài cho tôi y phục của Ngài đang mặc trong mình”. Ðông cung lấy quần áo tốt của mình cho, rồi mặc đồ cũ. Ði một đổi xa nữa, lại gặp một người Bà La Môn đến thọ thí, Ngài cho quần áo của hai con. Ðông cung đã bố thí cả xe, ngựa, của cải và áo quần mà không buồn không tiếc một chút nào. Bấy giờ Ðông cung thì cõng con trai, Công chúa thì bồng con gái, đi bộ lên đường. Cả thảy vợ chồng con cái đều hân hoan, nhắm non thẳng dặm.

Núi Ðàn Ðặc xa lắm, cách châu thành hơn 6.000 dặm. Muốn đi đến nơi, phải trải qua không biết bao nhiêu hầm hố bùn lầy, phải nhịn đói chịu khát nữa.

Cứ ngày đi đêm nghỉ, xuân qua thu lại, hè mãn đông sang, tội nhân đã đến núi Ðàn Ðặc. Hoàng tử ngắm xem phong cảnh thấy núi cao chơm chởm oai nghi, cây cỏ sầm uất thạnh mậu. Các thứ chim ca hót với giọng véo von, hồ trong hoa nở nước ngon trái ngọt với vô số ngỗng, hạc, vịt, chài cùng các loài chim ăn dưới nước.

Hoàng tử nói với vợ: “Ở đây cây mọc thẳng bằng, cao sừng sựng tận trời xanh mà không lay động. Chúng ta sẽ được uống nước ăn trái ngọt, ở trong hang đá; chúng ta sẽ tu hành pháp Bát nhã (Phương pháp dùng trí tuệ để quan sát chiêm nghiệm, tìm tòi sự thật của sự vật). Ðông cung vô núi, cả thảy thượng cầm hạ thú đều vui mừng đến nghinh tiếp Ngài.

Trên chóp núi có một vị tu hành tên là A Châu Ðà. Ngài được 500 tuổi và đức hạnh dung thông. Ðông cung đến thi lễ rồi lui ra đứng dậy và nói: “Bạch Ngài hiện giờ chúng tôi chưa biết phải ở nơi nào có thức ăn uống?”.

Ông A Châu Ðà đáp: “Toàn núi này là cảnh thiên thai, Ngài ở đâu lại không được? Núi này chỗ nào cũng tinh sạch và thanh tịnh, Ngài muốn hành pháp Bát nhã lại còn đem vợ con theo làm chi”.

Hoàng tử chưa kịp trả lời, bà Mạn Trà chận hỏi: “Ngài tu được bao lâu?”

- Tôi ở núi này được đâu 400 hay là 500 năm.

- Một người như tôi ước tu bao nhiêu năm mới đắc huệ? Giả tỷ tôi ở núi này lâu hơn cổ thọ cũng khó tính cho ra đến chừng nào đạt được đạo Bồ đề.

Ông tiên đáp: “Kỳ thật mấy câu chuyện ấy, tôi cũng không biết được”.

Ðông cung hỏi: “Ngài có nghe nói đến tên Thái tử Tu Ðại Noa, con của vua nước Diệp Ba chăng?”.

Vị tu sĩ đáp: “Tôi thường nghe nói đến tên, song không biết mặt”.

Thái tử nói: “Ðông cung ấy là tôi đây”.

Vị tu sĩ hỏi: “Ngài muốn tu pháp môn nào?”.

Thái tử đáp: “Tôi muốn tu theo Ðại thừa”.

Vị tu sĩ nói: “Ðối với công đức của Ngài, tôi tưởng chẳng bao lâu Ngài đạt được mục đích viên mãn: Chừng Ngài đắc đạo vô thượng, hoàn toàn sang suốt, tôi sẽ là đệ tử thứ nhất của Ngài có phép siêu phàm nhập thánh”. Rồi ông chỉ cho Thái tử một chổ ở. Thái tử bắt chước ông tròng cương vào đầu và vấn tóc, lượm nhánh và lá cây cất bốn lều tranh cho mình, vợ và con.

Con trai tên là Ða Ly 7 tuổi, mặc quần áo bằng cỏ rơm theo cha, con gái tên là Kê Na Diên mặc quần áo bằng da nai theo mẹ.

Trên núi chim chóc và cầm thú vui cười tỏ lòng tín ngưỡng và sùng bái Hoàng tử. Khi Thái tử đi tới đâu thì ở đó hang hóc nội mạch nước, cây khô lại đơm bông trổ lá, loài sâu bọ và ác thú thảy đều trốn mất: loài thú ăn thịt trở lại ăn cỏ, cây sai trái, chim đồng tình kêu hót. Bà Mạn Trà lo hái trái cho Hoàng tử và con ăn. Còn hai trẻ khi thì đi chơi với cầm thú nơi mé rạch, khi lại ở đó suốt đêm. Lần kia đuổi thú chơi, con trai Ða Ly cởi sư tử, sư tử nhảy, Ða Ly té xuống đất trầy mặt chảy máu. Một con khỉ thấy, leo lấy lá cây chùi máu, rồi dắt lại bờ ao rửa. Hoàng tử thấy tấn tuồng ấy, thầm nói: “Loài cầm thú cũng có lòng thương nhân loại như vậy”.

Trong thời kỳ ấy, tại xứ Câu Lưu có một người Bà La Môn nghèo khổ, bốn mươi tuổi, không con, có vợ, Vợ chàng thì yểu điệu, đẹp đẽ, phương phi; còn chàng thì xấu xa, mình mẫy đen điu, diện mạo quá dị tướng, chẳng khác chi yêu ma quỷ mị. Vợ chàng gớm ghét mong sao chàng chết phứt cho rồi. Ngày kia cô ta đi múc nước gặp một đám trai tráng nhạo báng chồng nàng và nói: “Bà thì ví tợ thiên kim, cớ sao lại làm vợ một người như thế?”.

Cô ta trả lời: “Cái đầu già nua ấy bạc trắng như sương, sớm tối tôi hằng trù rủa cho nó chết, chẳng biết sao nó không nhúc nhích”. Ðáp rồi tự than thân trách phận, về nhà khóc lóc với chồng. “Thiếp đi múc nước gặp một lũ trai tơ xúm nhau diễu cợt. Vậy chàng phải kiếm cho thiếp một con đòi, chừng nào có đứa ở thiếp khỏi đi xách nước, bọn ấy mới hết chọc ghẹo thiếp”.

Người chồng trả lời: “Tôi nghèo xác da xác chiếu, nàng lại muốn tôi mọi ở đâu?”

Vợ đáp: “Nếu không có, tôi tình nguyện bỏ nhà ra đi.” Nàng lại tiếp lời: “Tôi có nghe Hoàng tử Tu Ðại Noa, vì bố thí thái quá nên bị vua cha đày tại núi Bàn Ðặc. Ngài có một trai, một gái, chàng nên thân hành đến đó xin hai trẻ”.

Chồng bác lời rằng: “Núi Bàn Ðặc xa hơn 6.000 dặm, khó đi đến nơi huống nữa là xin Thái tử một việc mà Ngài không thể cho!”.

Vợ lên tiếng: “Nếu chàng còn dụ dự, tôi sẽ mượn con dao tự tử ngay”.

Chồng xuống giọng: “Thôi đừng vội giận, nàng coi sắp cho tôi ít đồ hành lý gì?”.

Vợ nói: “Ði thì đi đi, nhà ta thiếu trước hụt sau, còn đòi đồ hành lý gì?”.

Người Bà La Môn cụ chuẩn bị ít món ăn rồi lên đường, Ðến xứ Diệp Ba đi ngay lại cửa thành, chàng ta mới hỏi người giữ cửa: “Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Ðông cung Tu Ðại Noa ở đâu hiện giờ?”.

Người giữ cửa không dám trả lời vào báo Hoàng thượng hay. Vua nghe tức giận và phán rằng: “Cũng vì lũ này mà ta đày Thái tử, sao chúng nó còn đến đây làm chi?”

Người Bà La Môn được đòi vào quỳ tâu: “Muôn tâu Thánh hoàng tôi ở xứ xa lại, vì cái thanh danh của Hoàng tử Ðông cung đâu đâu đều biết, trên thấu cửu thiên, dưới tận cửu tuyền, Ðông cung có lòng bác ái không hề để một ai thất vọng. Bởi vậy nên ở xa, tôi cũng lặn lội đến đây chú ý thành tâm yêu cầu một việc cùng Hoàng tử”.

Vua nói: “Ðông cung ở chốn quạnh hiu, trong thâm sơn và quá nghèo khổ, người còn có vật chi nữa mà bố thí”.

Người Bà La Môn tâu: “Muôn tâu Hoàng thượng, tuy biết Ðông cung khiếm khuyết mọi vật, song tôi cũng chỉ nguyện đến tận nơi ra mắt Ngài”.

Vua dạy người chỉ đường.

Người Bà La Môn nhắm núi Bàn Ðặc thẳng dặm băng ngàn. Chàng vào núi gặp người thợ săn liền đón hỏi: “Xin ông thi ân cho tôi biết Hoàng tử Tu Ðại Noa có ở trên núi này không?”.

Thợ săn tuy biết Ðông cung bị đày ở đây cũng vì bố thí cho dòng Bà La Môn, song không chỉ chỗ lại còn bắt chàng trói vào gốc cây đánh một trận nhừ tử, mắng nhiếc quá lời và nói: “Ta muốn cho ngươi vài mũi tên và ăn thịt ngươi, ngươi còn thiếu vật chi mà đến đây hỏi thăm Thái tử”.

Người Bà La Môn nghĩ: “Ta sẽ bị tay người này giết, vậy ta phải thiết kế đánh lừa người mới mong toàn tánh mạng”. Nghĩ rồi liền nói: “Theo lẽ phải Ngài phải hỏi tôi nguyên nhân trước khi hành phạt tôi cho đáng”.

Thợ săn đáp: “Ngươi muốn nói việc chi?”.

Người Bà La Môn nói: “Thưa Ngài đức Thánh hoàng hồi tâm thương nhớ Thái tử Ðông cung, dạy tôi đi tìm Hoàng tử đặng thỉnh về nước”.

Nghe vậy, thợ săn hối hận liền mở trói thả ra, nhận lỗi và nói: “Tôi thật vô lễ, xin ông miễn chấp, cũng bởi không hay không biết có chỉ Thánh hoàng nên mới lỗi lầm như hôm nay”. Nói rồi chỉ chỗ ở của Ðông cung.

Người Bà La Môn đi thẳng đến lều trang của Ðông cung, Hoàng tử thấy đặng vui mừng, ra tiếp rước, thi lễ và hỏi thăm: “Ông ở đâu lại? Có lẽ ông đi đường mệt nhọc thì phải? Ông đến tôi có việc chi chăng?”.

Người Bà La Môn thưa: “Tôi ở xa lắm, thân tôi khốn đốn không cùng, đương giờ tôi đói khát nữa”.

Hoàng tử lật đật thỉnh vào cốc mời ngồi, đem trà nước và trái cây dâng người Bà La Môn nói: “Thưa Ðông cung Thái tử, tôi gốc ở nước Câu Lưu, đã lâu tôi nghe lòng từ thiện của Ngài, thập phương thế giới đều mến danh thơm và đức hạnh của Ngài. Tôi quá nghèo khổ nhưng Ngài thương tưởng tôi, cho tôi một vài vật”.

Thái tử đáp: “Kính ông chẳng có việc gì tôi từ chối nhưng rủi cho ông, hiện giờ tôi không còn món gì”.

Người Bà La Môn nói: “Thưa Ðông cung, nếu Ngài không có gì, xin Ngài cho tôi hai trẻ con của Ngài để phụng dưỡng tôi lúc tuổi về già”.

Hoàng tử đáp: “Ông ở xa lại chú tâm xin hai con tôi, tôi không lẽ từ chối”.

Lúc đó hai trẻ đi chơi, Thái tử kêu lại, và nói: “Có một người Bà La Môn ở xa đến xin hai con, cha đã hứa lời ưng chịu, hai con hãy đi với người”.

Hai trẻ chạy đến một bên cha khóc rằng: “Chúng con đã từng biết nhiều người Bà La Môn, song chúng con không hề thấy người nào dị tướng như thế. Chắc người này không phải trong họ của Bà La Môn đâu, người ấy là quỷ yêu! Nay mẹ con đi hái trái chưa về, cha lại bắt con cho yêu tinh ăn thịt chúng con phải chết mất. Ðến chừng mẹ con về kêu con chẳng thấy, thì chẳng khác gì bò mẹ kiếm con, người sẽ bi lụy, than van, đau khổ”.

Thái tử nói: “Hai con chớ quá bịn rịn, cha đã hứa lời không thể thất tín. Người Bà La Môn này không phải là tà ma quỷ mị chi, không ăn thịt con đâu mà ngại gì, hai con hãy đi đi”.

Hoàng tử lấy nước rửa tay cho người Bà La Môn, rồi kéo tay hai con cho người Bà La Môn dắt đi.

Hai trẻ không chịu đi, chừng trở lại trước mặt cha quỳ xuống và nói: “Thưa cha chẳng hay chúng con phạm tội gì trong kiếp trước mà ngày nay chúng con phải chịu lắm điều thống khổ. Chúng con là dòng vua, nay phải làm tôi tớ cho kẻ phàm phu. Trước mặt cha, chúng con xin sám hối các tội lỗi, có lẽ nhờ đó sự phiền não và nghiệp chướng của chúng con sẽ được tiêu trừ và hạnh phúc lại đặng phát khởi, mong sao đời này sang đời khác chúng con không còn gặp phải bước gian truân như thế nữa”.

Ðông cung nói với hai con: “Cả thảy ái tình đều là ảo mộng, một ngày kia phải hủy hoại vạn vật đều vô thường, mấy ai giữ trọn vẹn một vật chi nơi trần thế. Hai con hãy đi, chẳng nên dùng dằng, chừng nào cha đắc đạo Bồ Ðề, cha sẽ độ hai con”.

Hai trẻ, đôi mắt đỏ ngầu nói với cha: “Xin cha trao lời vĩnh biệt của hai con lại cho mẹ con, chúng con quá đau lòng vì nghĩa mẹ con xa cách đời đời, lại không giáp mặt tỏ phân một lời trong khi mẹ bắc con nam. Chẳng còn nghi vì nữa, cũng bởi tiền căn nghiệp báo của chúng con, nên nay chúng con phải chịu như vậy. Chúng con nghĩ đến khi mẹ chúng con về thấy mất hai con, người sẽ khổ tâm, đau đớn sầu não chẳng cùng, lo cho thân chúng con phải chịu đói rách phiêu lưu nơi đất khách.”

Người Bà La Môn nói: “Tôi già yếu, hai trẻ chạy bỏ tôi theo mẹ chúng nó, tôi lụm cụm theo bắt chúng nó sao được. Xin Ðông cung trói nó giùm tôi.”

Thái tử liền trói hai con giao cho người Bà La Môn dắt đi, nhưng hai đứa nhỏ cưỡng lại chẳng chịu, người Bà La Môn mới đánh chảy máu. Ðau đớn thay cho Ðông cung, thấy tình cảnh như vậy động lòng sa nước mắt. Cả trái đất đều rung động, Hoàng tử và cầm thú theo sau đưa đón hai trẻ, tới chừng biệt dạng mới trở về. Các loài lục súc trở lại chỗ cũ hai trẻ thường chơi thấy cảnh chẳng thấy người, xúc động rên than thảm thiết, lăn lộn dưới đất.

Người Bà La Môn dẫn hai đứa nhỏ đi được xa xa, dọc đường đứa trai vấn dây trói vào cây không chịu đi, chú ý chờ mẹ chúng nó đến cứu. Người Bà La Môn nổi giận, lấy cây đánh nhừ tử, đến chừng chúng nó xin thôi đánh, chịu đi, mới nới tay.

Hai đứa nhỏ ngước mắt lên trời vái rằng:

Thần linh ôi! Hởi thần linh ôi!

Hoan hỷ mách giùm mẹ chúng tôi.

Xét dạ con đi sầu chất chứa.

Ðau lòng mẹ ở lụy quên thôi.

Chạnh tình nuôi dưỡng chưa thù đáp.

Ðoái nghĩa cưu mang chẳng đắp bồi.

Ở biết bao giờ cho rảnh nghiệp?

Cuộc đời thiết tưởng bạc hơn vôi.

Cũng ngay lúc đó, Công chúa ở trên núi, nháy mắt khó chịu, bà lấy làm lạ và nghĩ: “Thuở giờ tôi chẳng hề có cảm động thái quá như hôm nay, chắc hai trẻ mắc phải tai nạn rồi.” Bà liền bỏ giỏ trái lại đó, hối hả ra về.

Khi Công chúa về thấy Ðông cung ngồi một mình không có hai con, bà vô lều tranh kiếm không có, bà lại trở ra mé rạch-chỗ chúng nó hay chơi giỡn cũng không thấy. Bà chỉ thấy mang, sư tử, khỉ, mấy thứ thường chơi với nó mà thôi. Bà Mạn Trà trở lại chỗ Thái tử ngồi và hỏi hai con ở đâu? Thái tử không nói.

Bà lại hỏi nữa: “Khi hai con ở xa thấy tôi đem trái về chúng nó chạy nhào lăn dưới đất, rồi lồm cồm ngồi dậy nhảy nhót: Mẹ về; khi chúng nó thấy tôi ngồi ở đâu thì đến ngồi kế một bên, thấy bụi bặm dính mình tôi liền phủi. Bây giờ tôi không thấy con tôi và chúng nó không lại gần tôi, nó ở đâu? Ai bắt nó? Không thấy con tôi, lòng tôi đứt từng đoạn! Chỉ cho tôi biết con tôi đi đâu và đừng làm cho tôi phải cuồng tâm”.

Bà nói đi nói lại ba lần, Hoàng tử vẫn điềm nhiên không thốt một lời. Bà lại càng đau đớn hơn nữa. Bà nói chua cay như vầy: “Mất con tôi còn chịu được song sự lặng thinh của lang quân làm cho tôi thêm rối loạn”.

Ðông cung nói: “Có người Bà La Môn ở xứ Câu Lưu đến xin hai con và tôi đã cho rồi”.

Công chúa thoạt nghe quá cảm động, vụt té xuống đất, bà đau đớn không cùng.

Ðông cung nói: “Công chúa hãy nguôi lòng. Phu nhân hãy nhớ lại việc xưa, hồi thuở Phật Ðề Hòa Kiệt La ra đời. Lúc đó tôi là một người Bà La Môn, tên là Ba Sô Vệ, còn Công tước phu nhân là con gái Bà La Môn tên là Tu La Ðà, Công chúa cầm bảy liên hoa, còn tôi thì nắm trong tay 100 bạc. Tôi mua năm bông sen của Công chúa đặng cúng dường Phật, còn Vương phi thì đem thêm hai bông khác cho tôi dâng cúng Phật. Phu nhân lại lập nguyện như vậy: “Tôi nguyện cầu sao trong những kiếp vị lai tôi cứ được làm vợ chàng, dầu lịch sự, dầu xấu xa tôi không hề xa chàng”.

Tôi có nói với Công chúa rằng: “Nếu nàng muốn làm vợ tôi thì phải tuân theo chánh ý tôi, tôi sẽ đem hết tâm lực hành pháp bố thí, không hề thối chuyển cùng trái ý một ai. Trừ cha mẹ tôi, ai xin vật chi tôi đều hoan hỷ. Công chúa ưng chịu bằng lòng. Nay tôi cho hai con, Vương phi lại làm rối loạn đến mối từ tâm của tôi”.

Nghe Ðông cung nói, bà liền tỉnh ngộ; bà nhớ lại trong kiếp quá khứ kia, bà có hứa hẹn và nhận các việc bố thí của Thái tử.

Ðế Thích thấy Thái tử hành pháp bố thí Ba La Mật Ða, cố ý thử lòng Thái tử. Ngài hóa thân làm người Bà La Môn xấu xa và cũng dị tướng như người trước, đến trước mặt Thái tử và thốt rằng. “Ðông cung ơi! Tôi hằng nghe Ðông cung rất hoan hỷ làm các việc phước thiện và không hề từ chối việc chi. Vậy tôi đến đây xin bà Vương nữ, vợ của Ðông cung”.

Hoàng tử đáp: “Công chúa là người của Ngài”.

Công chúa nói: “Nếu Thái tử cho tôi rồi, lấy ai mà giúp đỡ Thái tử”.

Ðông cung nói: “Nếu tôi không cho Công chúa thì tôi không đạt được đạo vô thượng Ba La Mật”.

Thái tử múc nước rửa tay cho người Bà La Môn và dắt vợ cho người.

Ðế Thích đã nhận được lòng Thái tử không còn tiếc việc chi. Các thiên thần lại ca tụng lòng từ bi bác ái của Ðông cung, tức thì trời đất tối tăm, thế giới đều rung động.

Người Bà La Môn dắt Công chúa ra đi, được bảy bước, trở lại trả Công chúa cho Thái tử.

Thái tử hỏi: “Sao Ngài không giữ Công chúa cho Ngài? Công chúa nết na tánh hạnh xấu chăng? Trong cả Hoàng nữ, Công chúa là cực phẩm phu nhân, nàng là Công chúa của một nhà vua kim thời. Cũng vì tôi mà nàng phải nhảy vào vạc dầu sôi, trong đống lửa đỏ, phải chịu ăn uống kham khổ không hề than thở vì đau khổ phong trần; trong mỗi sự hành động, nàng rất ân cần chú ý và gương mặt vẫn thư thái tươi cười. Ngài nên đem nàng đi, tôi mới được an vui”.

Người Bà La Môn nói với Ðông cung: “Ta không phải là Bà La Môn, ta là Thiên Ðế Thích. Ta đến thử lòng Ngài. Nhưng bổn nguyện của Ngài là chi?” Nói xong Ðế Thích hoàn nguyên hình diện mạo oai nghi dung nhan tuyệt mỹ.

Công chúa đảnh lễ Ðế Thích và cầu xin ba điều: “Trước nhất xin Ngài làm sao cho người Bà La Môn đem lại hai con tôi về bán tại bổn xứ, cho chúng tôi được về nước cho chóng”.

Ðế Thích đáp: “Bà sẽ như nguyện”.

Ðông cung nói: “Kính ngài, tôi nguyện sao cho cả thảy chúng sanh đều được giải thoát và hết khổ về sự sanh, già, bệnh, chết.”

Ðế Thích: “Lời nguyện của Ngài thật vĩ đại cao thượng không chi hơn. Nếu muốn sanh cõi trời, làm vua Thượng thiên, làm đại Hoàng đế tại cõi trần, trường thọ như bá, như tùng, thì tôi có thể làm được như ý; chớ cái oai linh tối yếu trong ba giới ta ngoài bản năng tôi.”

Ðông cung tiếp: “Tôi tạm xin cho được giàu có muôn xe đặng bố thí hơn xưa. Tôi mong sao cho Hoàng phụ cùng các quan đại thần hoài tâm sum hiệp cùng tôi”.

Ðế Thích đáp: “Bản nguyện của Ngài sẽ được thành tựu.” Dứt lời Ðế Thích biến mất.

Ðồng thời khi ấy người Bà La Môn dẫn mấy đứa nhỏ về tới nhà. Vợ chàng ra đón và nhiếc rằng: “Thật chàng quả lớn mật to gan mới đem mấy trẻ này về đây. Nó là dòng dõi vua chúa, sao chàng lại tàn nhẫn đánh đập đến nỗi vết tích máu mủ đầy mình. Hãy tức khắc đem bán đi và kiếm đứa khác cho tôi”. Chồng nghe lời vợ đem bán trẻ con.

Ðế Thích thể theo lời nguyền của Công chúa liền đổi ý cho người Bà La Môn đưa qua nước Diệp Ba.

Ðến xứ ấy, các quan và dân nhìn biết con của Ðông cung cháu nội của đức Kim Thượng, lớn nhỏ đều động lòng thương xót liền vào tâu vua.

Vua nghe nói lấy làm ngạc nhiên, cho đòi vào. Xa xa vừa chợt thấy Hoàng tôn, Thiên tử, Hoàng hậu, quần thần và cung phi đều khóc nức nở. Vua hỏi người Ba La Môn làm sao mà có mấy đứa trẻ này? Nó tâu: “Tôi xin Ðông cung Thái tử”.

Vua kêu cháu đến và muốn ôm, nhưng nó khóc không chịu lại gần. Vua hỏi giá cả. Người Bà La Môn chưa kịp trả lời, Hoàng tôn mạn tâu: “Trai định giá một ngàn bạc với một trăm bò cái, gái định giá hai ngàn bạc với hai trăm bò cái”.

Vua nói rằng: “Lẽ thường thì người ta yêu chuộng con trai hơn con gái, sao trai lại rẻ giá hơn gái?”

Hoàng tôn nói: “Tâu Bệ hạ những cung phi mỹ nữ của Bệ hạ không phải là quyến thuộc của Ngài, người thì hèn hạ kẻ lại hoa đời; nhưng ai được Hoàng thượng yêu vì thì được tăng phẩm tước, trang điểm mỹ lệ, ăn uống sung sướng! Ngài chỉ có một mụn con trai mà Ngài đày chốn non rừng rậm, còn Ngài thì sớm tối sung sướng với cung phi, chẳng chút đoái hoài tới nghĩa cha con. Ðó rõ ràng biểu thị trai ít có giá trị hơn gái”.

Thoạt nghe, vua liền tỉnh ngộ, khóc than rằng: “Ta tội cùng cháu, lẽ nào cháu chẳng chịu lại gần ta? Ghét ta hay sợ người Bà La Môn?”. Hoàng tôn vội tâu: “Chúng con đâu dám tự phép ghét Hoàng thượng và chúng con cũng chẳng sợ gì người Bà La Môn này. Xưa chúng con là con vua, cháu chúa, nay lại tôi tớ kẻ phàm phu. Làm sao đứa nô bộc lại dám lòn dưới tay Hoàng thượng? Bởi vậy nên chúng con không thể tự tiện làm việc ấy”.

Hoàng tôn dứt lời, vua thêm sầu muộn. Liền đó Thánh hoàng trả theo giá định của người Bà La Môn, rồi kêu hai cháu hai trẻ chạy vào lòng Ngài. Vua ôm cháu vuốt ve và hỏi: “Cha con ăn mặc những gì trên núi?”.

Hai cháu nói: “Cha con ăn toàn lê hoắc (tên trái cây) mễ cốc, mặc áo vải quần nâu, có trăm thứ chim làm cho cha con được giải khuây và không chút chi phiền.”

Vua cho người Bà La Môn về.

Hoàng tôn tâu: “Người Bà La Môn đói khát, xin Thánh hoàng cho một bửa cơm”.

Vua nói: “Vậy chớ cháu không giận nó sao, lại còn cho nó ăn uống nữa?”.

Hoàng tôn tâu: “Cha con ham tu phước huệ, đến nỗi không còn vật chi bố thí nên đem hai con cho người, người là chủ của hai con, chúng con rất tiếc chưa làm nô lệ cho người, hòng khỏi phụ lòng bác ái của cha con. Chúng con sao đành để người đói khát. Cha chúng con còn cho chúng con được thay, huống chi bố thí một bửa cơm có lẽ nào Hoàng thượng từ chối?”.

Vua lại sai sứ giả đi triệu Ðông cung về. Ðược lệnh, sứ thần đi tìm Hoàng tử; tới núi Ðàn Ðặc liền tuyên đọc Thánh chỉ và xin Ðông cung lập tức về cung.

Ðông cung đáp: “Hoàng thượng đã đày ta ở núi này 12 năm và còn một năm nữa mới mãn hạn, chừng nào khâm kỳ viên mãn ta sẽ về chẳng muộn”.

Sứ giả về tâu lại cho vua nghe, rồi Thánh hoàng tự tay hạ bút đề thơ cho Thái tử như vầy: “Con thật đáng vị hiền nhân, nên lấy dạ khoan hồng quên chuyện đã qua. Con giận dữ có ích lợi gì, không trở về Tổ quốc. Cha đợi con về đặng đoàn viên cộng hưởng sự an vui”.

Khâm sứ mang bức thơ đem đưa cho Ðông cung.

Tiếp chiếu, Hoàng tử liền quỳ lại trước mật chiếu, đoạn lui lại, đi vòng mật chiếu bảy vòng rồi mới khai thơ ra đọc.

Hay tin Hoàng tử sắp hồi trào, các loài cầm thú nhảy nhót cảm động, kêu gào tha thiết, suối khe bỗng cạn, thú cái dứt sữa, chim chóc hót tiếng như than như sầu.

Hy hữu thay loài cầm thú cũng biết đau thương trong khi vĩnh biệt!

Ðông cung và Công chúa đổi y phục lên đường.

Nghe tin Ðông cung về nước, vua địch dạy thám tử bắt bành vàng cho bạch tượng, lại đem theo một ô vàng đựng bạc, một ô bạc đựng vàng đón đường Thái tử xin trả lại và tỏ dấu ăn năn hối ngộ cùng Hoàng tử như vầy: “Trước kia bởi mê muội tôi cố ý xin Ngài voi báu, vì tôi nên Ngài phải bị đày ở thâm sơn rừng rậm. Nay nghe tin về nước, tôi rất vui mừng cho khâm sứ đưa bạch tượng trả lại cho Ngài cùng dâng chút lễ bạc vàng, rất trông mong được Ngài hạ cố thứ lỗi cho tôi.”

Ðông cung nói: “Giá như một người kia sắm sửa các thức ăn đủ mùi vị và dâng cho ai dùng, người ấy ăn vô rồi nhả ra, thức ăn đó còn hương vị thanh khiết chăng? Các việc bố thí của tôi chẳng khác chi đồ ăn kia, thế thì tôi không thể bắt voi lại. Các quan hãy lên tượng mà về và nói tôi có lời cảm tạ nhà vua.”

Thám tử lên voi về tâu lại nhà vua. Cũng nhờ câu chuyện con voi mà vua địch được tỉnh ngộ, trở nên người hiền, thành bậc trượng phu. Vua quan và dân lại tín ngưỡng đạo Bồ đề và bắt đầu hành pháp vô thượng Ba La Mật Ða.

Hoàng thượng, cha Ðông cung ngồi đón con. Hoàng tử chợt thấy, vội trổi bước đảnh lễ sát đất rồi theo sau vua cha. Cả thảy văn quan, võ tướng và lê dân rất hoan hỷ đồng rải bông, đốt hương trầm treo cờ lọng, rưới nước thơm dưới đất, làm lễ tiếp rước Ðông cung một cách long trọng linh đình.

Ðông cung đã về tới thành, liền vào lạy và vấn an Hoàng hậu.

Hoàng thượng giao cho Ðông cung hết thảy kho tàng trong nước. Thái tử đem ra bố thí cho thập phương và còn nhân đức hơn xưa. Sự bố thí của Ngài viên mãn nên sau này Ngài sẽ chứng quả Niết bàn (Cảnh giới hoàn toàn an vui, sung sướng, không còn phiền não, đau khổ.)

Ðức Phật nói với ông A Nan: “Ðó là cách ta hành pháp bố thí trong một tiền kiếp của ta. Ðông cung Tu Ðại Noa tức là ta đó vậy.

Thuật giả: Minh Châu
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”