4. NHẪN NHỤC

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
Trả lời bài viết
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

PHPT1 K.IV - BÀI THỨ 7: LỤC ÐỘ TIẾP THEO - TINH TẤN BA LA MẬT & NHẪN NHỤC BA LA MẬT
PHẬT HỌC PHỔ THÔNG QUYỂN 1

Sa môn THÍCH THIỆN HOA

KHÓA IV: DUYÊN GIÁC VÀ BỒ TÁT THỪA PHẬT GIÁO

Bài thứ 7: LỤC ÐỘ tiếp theo (TINH TẤN BA LA MẬT & NHẪN NHỤC BA LA MẬT)

ÐỘ THỨ TƯ: NHẪN NHỤC BA LA MẬT

A. MỞ ÐỀ


Kinh Hoa Nghiêm có nói: "Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai" (một niệm lòng sân hận nổi lên, thì trăm ngàn muôn ức cửa nghiệp chướng đều mở ra). Thật vậy, lắm người vì một phút không dằn được cơn tức giận, mà đánh đập vợ con đến tàn tật, đốt phá của cải quý báu của ông cha để lại, rồi phải ân hận suốt đời. Lắm lúc, vì không làm chủ được tánh nóng nẩy mà tình cốt nhục phải chia ly, nghĩa vợ chồng phải phân rẽ, bạn chí thân trở thành kẻ oán thù...

Người học đạo cũng vậy, nếu gặp nghịch cảnh không nhẫn nhịn được, thối chí nản lòng, đôi khi phải bị đọa đày. Như ông Ðộc giác tiên nhân, vì một niệm sân hận không nhẫn được, mà phải bị mất cả năm pháp thần thông. Ông Uất đầu lam phất, vì sân hận mà phải đọa làm loài phi ly trùng (chồn bay). Nên sách có nói: "Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn" (Nghĩa là một đóm lửa sân, có thể đốt tan muôn mẫu rừng công đức).

Vậy muốn trừ sân hận một cách có hiệu quả, phải tu pháp Nhẫn nhục Ba la mật.

B. CHÁNH ÐỀ

I. ÐỊNH NGHĨA


"Nhẫn" là nhịn, chịu đựng những cảnh trái mắt nghịch lòng. "Nhục" là điều sỉ nhục, điều xấu hổ, làm tổn thương đến lòng tự ái của mình.

Nhẫn nhục Ba la mật là nhẫn nhục đến chỗ cùng tột không còn ai có thể nhẫn nhục hơn thế nữa.

II. THÀNH PHẦN CỦA NHẪN NHỤC BA LA MẬT

1. Thân nhẫn. Ðối với nghịch cảnh như nắng mưa, nóng lạnh, đói khát, đau ốm, hoặc bị người đánh đập, hành hạ, làm bức não nơi thân, mình cũng cam chịu, không phàn nàn hay chống cự lại. Ðây là chịu đựng về phần thể xác.

2. Khẩu nhẫn. Thân đã nhẫn chịu không chống lại người mà miệng cũng không thốt ra những lời nguyền rủa độc ác, trước những lời mạ nhục chua cay, mắng nhiếc tồi tệ hay đánh đập tàn nhẫn.

3. Ý nhẫn. Nhẫn nhục cả trong tâm, không căm hờn, không oán giận, không nổi lên ý phản đối, những tư tưởng hắc ám để trả thù.

Trong ba thứ nhẫn này, "ý nhẫn" là khó nhất và quan trọng nhất. Có nhiều khi thân có thể chịu đựng được cực hình, nhưng miệng vẫn lẩm bẩm nguyền rủa. Thêm một từng nữa, miệng tuy không thốt ra những lời phản đối, nguyền rủa, nhưng ý vẫn ngấm ngầm phản đối, và tức giận vẫn đốt cháy tim gan.

Ðến khi "tâm ý" cũng không ngấm ngầm nổi dậy phản đối, sự tức giận lắng xuống tận đáy lòng; đứng trước mọi nghịch cảnh, lòng vẫn phẳng lặng như không, thì nhẫn nhục mới thật là hoàn toàn.

Nếu bên trong mà chưa nhẫn được, thì thế nào giận dữ cũng có ngày xuất hiện ra trong lời nói và hành động.

III. PHẢI NHẪN NHỤC NHƯ THẾ NÀO MỚI ÐÚNG CHÁNH PHÁP?

1. Nhẫn nhục có chấp tướng. Nhẫn nhục vì sợ quyền thế; nhẫn nhục vì đang nằm trong hoàn cảnh bất lợi chưa thể trả thù được; nhẫn nhục để mong cầu được người khen, hay được chức trọng, quyền cao; nhẫn nhục vì khinh bỉ đối thủ, hay tự cho mình cao hơn người, không thèm chấp nê, phản đối. Nhẫn nhục như thế là nhẫn nhục chấp tướng vì còn do dục vọng tham, sân, si, mạn thúc đẩy, chưa phải là nhẫn nhục ba la mật.

2. Nhẫn nhục không chấp tướng. Người tu hạnh nhẫn nhục ba la mật, trước hết phải do ý muốn diệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, tật đố, tự ái, tham lam...Nếu có người chửi mắng, mình phải bình tĩnh tự nghĩ rằng: "Ta có làm điều gì sái quấy không? Nếu có, thì ta bị sỉ nhục là phải, ta nên cảm ơn người. Nếu ta trong trắng, thì những lời sỉ nhục ấy có dính líu gì đến ta đâu, mà phải khổ tâm nghĩ đến?"

Hơn nữa, người tu nhẫn nhục còn nhắm mục đích trao dồi lòng từ bi và hỷ xả, ta nhẫn nhục không oán giận, không trả thù là vì ta thương người, ta muốn xem mọi người như thân thuộc anh em. Ta nhẫn nhục vì ta không muốn cuộc đời là một đấu trường, một bãi chiến, một lò lửa của sân hận, đốt thiêu tất cả.

Chúng ta hãy tập cho được nhẫn nhục như ông Purna trong câu chuyện sau đây: "Khi Phật còn tại thế, một đệ tử của Phật, ông Purna xin Phật đi qua truyền đạo tại xứ Chronaparanta, là một xứ có tiếng rất hung ác. Phật hỏi ông Purna:

- Ông đã phát nguyện đem đạo pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nhưng nếu họ không nghe, lại còn dùng lời hung ác mắng chửi ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế tôn, con nghĩ: Họ là người tốt, vì họ không dùng cây đánh đập con, hay lấy đá ném con.

Phật hỏi tiếp:

- Nếu họ lấy cây đánh ông, hay dùng đá ném ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế tôn, con nghĩ: Họ vẫn còn lòng nhân, vì họ không chém giết hay đập con đến chết.

Phật lại hỏi:

- Nếu họ chém giết hoặc đánh chết ông thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế tôn, con nghĩ: Họ là ân nhân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau khổ, bỏ được bọc thúi tha, từ biệt đời sống khốn nạn này.

Ðức Phật khen:

- Hay lắm ! Ông nhẫn nhục được như vậy thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo được!

Ông Purna qua xứ Chronaparanta truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đều qui đầu Phật pháp cả.

Nhẫn nhục như ông Purna mới thật đúng là nhẫn nhục ba la mật, nghĩa là nhẫn từ ngoài thân đến trong tâm, nhẫn mà không thấy mình nhẫn và cảnh nhục để nhẫn.

IV. CÔNG ÐỨC CỦA PHÁP NHẪN NHỤC BA LA MẬT

Như đoạn mở đầu đã nói, lửa sân hận có thể đốt thiêu tất cả những gì quí báu, mà loài người đã xây dựng được trên thế giới này. Lửa sân hận chỉ có thể bị dập tắt bằng nước nhẫn nhục Ba la mật.

Không nhẫn nhục thì gia đình ly tán, bạn hữu chia lìa, tớ thầy đoạn tuyệt, đồng bào xung đột, thế giới chiến tranh.

Có nhẫn nhục thì gia đình sum họp, bạn hữu tương thân, tớ thầy trung tín, đồng bào đoàn kết, thế giới hòa bình. Riêng đối với bản thân, không nhẫn nhục thì lửa giận thiêu đốt lòng mình và dục vọng hoành hành, sự nghiệp tiêu tan, mọi người xa lánh, đạo quả khó tròn.

Có nhẫn nhục thì lòng từ chan chứa, thanh tịnh tràn lan, sự nghiệp dâng cao, người người quí trọng, đạo quả viên thành.

Vì nhận thấy công đức lớn lao và quí báu của nhẫn nhục cho nên cổ nhân đã có nhắn nhủ với người đời một cách mạnh mẽ như sau:

Nhẫn nhẫn nhẫn, trái chủ oan gia tùng thử tận

Nhiêu nhiêu nhiêu, thiên tai vạn họa nhất tề tiêu

Mặc mặc mặc, vô hạn thần tiên tùng thử đắc

Hưu hưu hưu, cái thế công danh bất tự do


Nghĩa là:

Nhẫn nhẫn nhẫn (thân nhẫn, miệng nhẫn, tâm nhẫn) thì những điều trái chủ oan gia từ đây dứt hết.

Nhịn nhịn nhịn (thân nhịn, miệng nhịn, tâm nhịn) thì ngàn tai muôn họa đồng thời tiêu.

Nín nín nín (thân nín, miệng nín, tâm nín) thì cảnh giới thần tiên vô hạn cũng do đây mà được.

Thôi thôi thôi (thân, miệng, tâm đều thôi) thì những công danh cái thế không còn tự do.

C. KẾT LUẬN

Chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa giá trị và công đức lớn lao, quý báu của nhẫn nhục. Giờ đây chúng ta chỉ còn quyết tâm thực hành ngay pháp môn này. Nhất là đối với Phật tử nào đã nhiều lần bị lửa giận tàn phá tâm can, gia đình và sự nghiệp của mình, hãy mau mau tu tập pháp nhẫn nhục này. Ðừng để phải ăn năn, hối tiếc và khổ đau thêm một lần nữa vì lửa nóng giận.

Kẻ tu hành lại càng gấp rút thực hành pháp môn này. Không có gì tai hại cho sự nghiệp tu hành của mình và làm cho người chung quanh khinh lờn, xa lánh bằng sự nóng giận, cộc cằn nơi một kẻ xuất gia cầu đạo. Dù những người ấy có tinh thông kinh điển bao nhiêu, tu hành bao nhiêu, mà khi thấy nét mặt họ đỏ gay, giọng nói họ quát tháo, cử chỉ họ mất tự chủ, thì người chung quanh không còn tin tưởng ở sự tu hành của họ nữa, vì sự nóng giận tố cáo họ một cách hùng hồn.

Chúng tôi tưởng không cần phải nói nhiều hơn nữa về những tai hại của giận dữ, vì chắc rằng những ai đã có lần giận dữ cũng đã thấy rõ như thế rồi.

Ðể kết luận bài này, chúng tôi chân thành cầu mong cho mọi người cùng chúng tôi, đều thật hành pháp môn nhẫn nhục này một cách có hiệu quả, để cõi đời thêm phần an lạc.
Được cảm ơn bởi: Vân Quý, Tudotutronghanhphuc, Mintleaf, Rainbowlight
Đầu trang

Vân Quý
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 688
Tham gia: 21:12, 12/02/13

Re: 4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi Vân Quý »

Cháu cảm ơn bài viết này.
Hôm nọ ngồi viết thư pháp đầu năm, cháu đã chọn viết chữ NHẪN 忍.
Trong lá số tử vi của cháu, rất rất nhiều người đều khuyên cháu phải NHẪN.
Đọc bài viết này, thật sự thấy cháu vẫn rất hời hợt chưa NHẪN được mấy.
Rất khó rất khó để mà làm được như bài viết này nhưng chắc chắn cháu sẽ cố gắng hơn.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc, KMD, Mintleaf
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

NHẪN NHỤC
MINH CHIẾU

PL. 2544 – 2000


Lời Nói Đầu


Đây không phải là một sáng tác. Tài liệu nhỏ này chỉ trích soạn những lời hay ý đẹp trong các bài giảng của chư Tôn Đức, sách báo của Phật giáo đã xuất bản từ trước đến nay, hệ thống lại thành một bài giảng chuyên đề.

Công việc của chúng tôi là lượm lặt những bông hoa thơm đẹp để kết thành một tràng hoa đẹp.

Phổ biến tập tài liệu này, ước mong nó sẽ cung cấp một vài kiến thức cần thiết cho quý vị “Tân Giảng sư”, cũng như sẽ là tài liệu nghiên cứu cho những người học Phật sơ cơ.

Kính mong quý vị cao minh chỉ giáo những điểm còn khiếm khuyết.

Cẩn Chí

Minh Chiếu





Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Kính thưa quý vị,

Duyên khởi:


Những cuộc chiến tranh khốc liệt, nhân loại tàn sát lẫn nhau, máu chảy thành sông, xương chất thành núi, phải chăng là do sân hận gây nên? Sân hận là một trong ba nguyên nhân căn bản làm con người khổ đau. Trong kinh, Phật mệnh danh là ba độc: Tham, Sân, Si.

Tánh sân hận có từ lúc chúng ta mới sanh, không cần rèn tập, không cần học hỏi. Những hoàn cảnh nghịch với lòng ưa thích của ta, tự nhiên sân hận phát khởi. Nếu chúng ta không biết cội gốc của nó và không dùng phương pháp diệt trừ, thì bể khổ mênh mông chưa biết đâu là bờ bến.

Người tu hành mà ngọn lửa sân nổi lên thì đốt cháy hết công đức. Một mình ta sân hận, mọi người xung quanh ta đều bị ảnh hưởng đau khổ. Cuộc chiến tranh vừa qua đã chứng minh điều đó.

Chúng sanh sống ở cõi Ta Bà làm sao khỏi gặp nghịch cảnh? Gặp nghịch cảnh ai lại không sân hận? Nên đức Phật đã dạy cho chúng ta phương pháp “Nhẫn Nhục” để đối trị lòng sân hận. Và đó cũng là đề tài mà chúng tôi sẽ trình bày hôm nay.

Định danh:

Thế nào là Nhẫn Nhục?

Nhẫn Nhục là vui vẻ, bình tĩnh chịu đựng những người khác sỉ nhục, mắng nhiếc, đánh đập, vu khống ta, và hoàn cảnh trái nghịch với tâm ý ta, mà ta không giận hờn, không thù oán.

Nhẫn có nghĩa là chứng nhập hay nhận biết đích thực giữa cái đúng và cái sai, nhận biết đích xác các hoàn cảnh không có nhất định là vinh với nhục. Vinh hay nhục chỉ tùy theo quan niệm mà thôi. Ví dụ: thông thường người đời cho tù tội là nhục nhã mất thể diện, nhưng đối với những nhà cách mạng thì chốn lao tù là nơi rèn luyện ý chí, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Thánh Gandhi bị tù tội dưới chế độ thực dân Anh, ai dám bảo đó là điều sỉ nhục? Chúng ta nhẫn nhịn một cuộc cãi vã vô lối, người xung quanh cho ta bị sỉ nhục, trái lại những người hiểu biết thì cho sự nhẫn nhịn ấy mới cao thượng. Cãi cọ để tranh hơn với người không biết lẽ phải là điều vô ích.

Trong Kinh đức Phật dạy Nhẫn có hai loại: một là nhẫn với tất cả chúng sanh, hai là nhẫn trong mọi hoàn cảnh, danh từ Phật giáo gọi là Sanh Nhẫn và Pháp Nhẫn.

1. Sanh Nhẫn: Gồm có 2:

a. Đối với người dù thân hay sơ, ta đều khởi tâm cung kính, tôn trọng. Ta thường nhường nhịn mà không chấp trách sân hận, cho dù họ khó tánh, có những ngôn ngữ thô tục khiêu khích, có những cử chỉ ngang ngược đối với ta.

Ở đời gặp thật nhiều cảnh khó nhẫn. Có người vô ý tông va vào ta lại còn trách ta. Có người cứ đem rác trước nhà người mà đổ, đi xe thì xả rác bừa bãi, khạc nhổ lung tung trong xe, nếu có người khuyên nhủ thì trở lại ương ngạch hỏi: Đây có phải nhà ông hay nhà bà mà ra miệng? Đang giấc ngủ ngon lành nhà bên cạnh mở máy thu thanh hay la rầy vợ con ầm ỉ. Một anh vô tài bất tướng mà mình phải phục tùng vì lẽ anh ta có địa vị, cấp bực thế lực hơn mình. Ở trường hợp này trùng hợp với câu thơ:

“Trời ơi ngó xuống mà xem,

Người khôn đi học, thằng ngu dạy đời”

b. Đối với các loài vật, dù nhỏ như ruồi, muỗi, sâu kiến… làm cho chúng ta khó chịu nhưng không bao giờ khởi tâm tức giận giết hại chúng. Một thức ăn ngon mà đàn ruồi cứ tranh nhau đậu vào! Ta đang thiu thiu ngủ mà bầy muỗi cứ vo ve nơi lỗ tai! Ta đang tụng kinh mà con rệp trong cổ áo cứ cắn mãi! Ta mới quét dọn sạch sẽ mà con chó đến phóng uế trước nhà,…

Thật là những trường hợp khó nhẫn, nếu chúng ta không có một tình thương rộng lớn, một sự chịu đựng cao độ, một lòng tha thứ rộng rãi.

2. Pháp Nhẫn: cũng có 2:

a. Đối với cảnh bên ngoài như: gió, mưa, nóng, lạnh, đói, khát, già, bệnh, chết chóc… ép bức thân thể ta đau đớn khó chịu mà ta vẫn thản nhiên không bực tức, không than thở, không quở trời trách đất.

b. Đối với tự tâm, khi tiếp xúc với những cảnh buồn rầu tủi hổ ta yên lặng chịu đựng đã đành, trái lại gặp những cảnh vui vẻ vinh dự cũng vẫn bình tĩnh thản nhiên, thất bại không chán nản, thành công không kiêu hãnh.

Nhẫn Nhục gồm có Thân nhẫn, Khẩu nhẫn và Ý nhẫn. Thân nhẫn là chân tay không múa men đánh đập nhưng chưa nhẫn được về miệng và ý, vì miệng còn la rầy chửi mắng, ý còn thù ghét. Lại có người thân nhẫn, miệng nhẫn – thân không còn phát ra những hành động hung hăng, miệng không còn phát ra những lời thô ác, nhưng ý vẫn cón oán hờn.

Có 4 giai đoạn về Nhẫn Nhục của phàm và Thánh:

1. Phục nhẫn: Người tu hành mới phát tâm mới nhịn cảnh thuận nghịch, phải luôn luôn chú ý khắc phục tâm mình, gọi là Phục nhẫn.

2. Nhu thuận nhẫn: Khắc phục tâm mình đã lâu, tâm đã thuần thục, gặp duyên gặp cảnh không phải chú ý lưu tâm mà vẫn nhịn được một cách tự nhiên, vì đã nhu hòa với cảnh thuận nghịch.

3. Vô sanh nhẫn: Các bậc Thánh chứng ngộ tất cả các pháp tự tánh của nó vốn là vô sanh – Loài hữu tình và vô tình đều do duyên sanh tánh không, đương bản thể chính là không. Do đó, đối với tánh không của các pháp, tâm tu nhẫn không động, tự chứng quả vô sanh, gọi là Vô sanh nhẫn.

4. Tịch diệt nhẫn: Quả vị Thánh Nhân, chứng cảnh giới Niết Bàn tịch diệt, cả hai tướng động tịnh đều khế hợp với bản thể Chơn Như, gọi là Tịch diệt nhẫn.

PHƯƠNG PHÁP NHẪN NHỤC:

Muốn tu hạnh Nhẫn Nhục, chúng ta phải nhận xét tất cả mọi nghịch cảnh chẳng khác nào như làn gió thoảng qua, không có gì đáng làm cho chúng ta phải bực tức nóng giận. Đồng thời phát tâm từ bi rộng lớn, thương xót tất cả mọi người, mọi loài hiện đang đau khổ. Khi lòng từ ái của ta hiển lộ thì sân hận không còn.

Khi bị sỉ nhục, ta nên xét mình có lỗi hay không? Nếu có thì phải nhận lỗi, ăn năn sám hối. Trái lại, thì những điều sỉ nhục ấy chẳng dính líu đến mình. Cũng như có người đem vật cho mình mà mình không nhận lãnh.

Ngày xưa đức Phật còn tại thế, một hôm đang thuyết pháp, có người đến sỉ mắng Ngài thậm tệ. Phật vẫn điềm nhiên bất động. Người kia lấy làm khó chịu hỏi Phật: Vì sao tôi nhiếc mắng sỉ vả ông như thế mà ông tự nhiên như tuồng không có sự gì xảy ra? Phật dạy: Bình thường ngươi có khi nào đem một vật gì tặng biếu ai không? Người kia đáp: Có! Phật hỏi lại: Nếu họ không nhận thì thế nào? – Họ không lấy thì tôi đem về chứ sao? Phật dạy: Ta cũng thế, ngươi sỉ nhục ta, không khác ngươi đem cho ta một vật gì, ta không nhận lãnh thì thôi có sao đâu!”.

Người tu hạnh Nhẫn Nhục trước hết phải triệt trừ lòng sân hận, kiêu mạn, tật đố, đừng thấy mình quan trọng, dẹp lòng tự ái, phải luôn luôn hỷ xả.

Lại phải thường xuyên suy nghiệm sự thật các pháp không thường còn chỉ toàn là danh từ do ý thức của chúng ta ghép lại, đặt vào đó một ý nghĩa. Từ đó mọi vật trở thành có tốt xấu, phải trái theo sự phân biệt của mình.

Ví dụ: Khi chúng ta bị mắng: “Ông ngu lắm!”, “Bà là một người độc ác!”, nếu chúng ta đem phân tích từng chữ một thì nó sẽ vô nghĩa. Thế mà khi nghe câu nói trên chúng ta sẽ giận dữ phản ứng. Chỉ vì sự cố chấp mù quáng của ý thức mà thôi.

Có một câu chuyện vui như thế này:

Hai anh chàng thanh niên vào công viên nghỉ mát, thấy một thiếu nữ đang ngồi trên ghế đá, dưới chân có một con chó. Hai anh chàng thách đố nhau: nếu ai chỉ nói hai tiếng và một cử chỉ nào đó làm cho cô kia vui cười rồi cũng nói hai tiếng và điệu bộ nào đó làm cho nàng giận dữ. Hễ ai thực hiện được thì thắng cuộc. Người kia phải đãi một chầu cơm.

Một chàng đến trước mặt thiếu nữ vòng tay lễ phép: “Thưa má!”, nàng thiếu nữ tưởng chàng ta là một người điên, bèn cười ngặt nghẽo.

Nhưng chàng ta liền xoay qua con chó, cũng vòng tay lễ phép thưa: “Thưa ba!”, nàng liền tỏ thái độ giận dữ bỏ đi nơi khác, kết quả anh chàng này thắng cuộc.

Cứ đem phương pháp phân tách mà dùng trong những hoàn cảnh nghịch ý, lòng sân si sẽ không có cơ hội phát khởi, chúng ta không còn bị nó dắt dẫn. Vì thế nên biết sân giận là do vô minh “Chấp Ngã”. “Chấp Ngã” ở đây gồm cả:

- Ngã si: Si mê chấp thân ngũ uẩn giả hợp thật là thân ta.

- Ngã kiến: Chấp kiến thức của ta là đúng hơn tất cả.

- Ngã mạn: Chấp ta hơn tất cả mọi người, không ai bằng ta.

- Ngã ái: Thương mến bảo vệ thân ta bất cứ khi ta thọ sanh loài nào.

Tiền thân của đức Phật khi còn làm vị Nhẫn Nhục Tiên Nhân, tu hành nơi núi rừng thanh vắng. Một hôm, có vua Ca Lợi dắt cung phi mỹ nữ dạo chơi trên triền núi chợt gặp ông Tiên ngồi yên lặng trên một tảng đá, lợi dụng lúc vua ngủ, các mỹ nữ liền hái hoa đến dâng cúng.

Khi vua thức dậy, đi tìm thì thấy các mỹ nữ đang đứng vây quanh hầu vị Tiên nhơn. Vua Ca Lợi sanh lòng ganh ghét liền đến hỏi vị Tiên nhơn:

- Ông tu hạnh chi?

- Tôi tu hạnh Nhẫn Nhục!

Vua liền rút gươm chặt cả tay chân và xẻo tai vị Tiên nhơn, nhưng vị Tiên nhơn vẫn không sân giận. Vua còn hồ nghi hỏi:

- Có lẽ ông nhẫn bề ngoài chứ trong tâm ông đâu khỏi oán hờn tôi?

Ông Tiên thề rằng:

- Nếu tôi có oán hờn Ngài thì chân tay tôi rời ra luôn, còn tôi không hờn giận Ngài thì tay chân tôi hoàn lại như cũ.

Tiên nhơn nói vừa dứt lời, tay chân, tai mũi liền nguyên như trước, vua thấy thế hết sức cảm động và xin sám hối tội lỗi.

Thuở đức Phật còn tại thế có một người đệ tử của ngài tên là Phú Lâu Na xin Phật đi qua xứ Chronaparanta (Du Lư Na) truyền đạo. Dân xứ này rất hung ác, Phật hỏi ngài Phú Lâu Na:

- Ngươi đã phát nguyện đem Đạo Pháp của ta đến truyền bá cho dân xứ ấy, nếu họ đã không nghe còn dùng lời hung ác chửi mắng ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ là người tốt, vì họ không dùng cây đập con hay lấy đá liệng con.

Phật hỏi:

- Nếu họ lấy cây đánh ông hay dùng đá liệng ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ vẫn còn hiền từ, vì họ không chém giết hay đánh đập con đến chết.

Phật lại hỏi:

- Nếu họ chém giết hoặc đánh chết ông, thì ông nghĩ sao?

- Bạch Thế Tôn! Con nghĩ họ là người đại ân của con, vì nhờ họ mà con thoát được thân đau khổ, bỏ được bọc thịt thối hôi, từ biệt cuộc đời đau khổ này.

Phật khen:

- Hay lắm! Ông nhẫn nhục được như vậy thì mới có thể qua xứ ấy truyền đạo.

Ngài Phú Lâu Na qua xứ ấy truyền đạo không bao lâu, dân chúng xứ ấy đều qui đầu với Phật Pháp.

Nhờ Nhẫn Nhục mà ngài Phú Lâu Na đã thành công trong việc truyền đạo. Đây là một hạnh mà các thầy trong ban Hoằng Pháp cũng như các Phật tử ra đảm đang Phật sự không thể thiếu. Và cũng vì nhận thấy hạnh Nhẫn Nhục cần thiết nên khi tiễn chân quý Giảng sư lên đường để thừa hành Phật sự các tỉnh, quý vị Hòa Thượng đã nhắc đi nhắc lại tinh thần chịu đựng của ngài Phú Lâu Na trên đây mà chúng tôi vẫn nhớ mãi.

Xưa có một nhà hiền triết có một bà vợ rất dữ. Một hôm, ông đang ăn uống cùng bạn bè, không biết bà ta xích mích gì với ông, bà ta chạy đến đạp đổ cả bát đĩa. Các bạn ông đều tức giận, riêng ông vẫn điềm nhiên vui vẻ. Họ hỏi vì sao ông có thể nhẫn được những việc như thế? Ông đáp: Có gì khó! Các bạn hãy xem như vừa bị một gà mái đau đẻ nhảy bậy làm thiệt hại trên.


SỰ NHẪN NHỤC QUA CA DAO, TỤC NGỮ VIỆT NAM

Ngày xưa, điều khó khăn nhất, cực khổ nhất của người con gái, có lẽ là cảnh đi làm dâu. Ở nhà chồng, người dâu phải chịu đựng bao nhiêu sự bắt bẻ, sự dằn vặt của mẹ chồng, chị chồng, em gái chồng. Nên ca dao Việt Nam có những câu như:

“Làm dâu vụng nấu vụng kho,

Chồng không bắt bẻ, sợ mụ O nhún trề”.

“Một trăm ông chú không lo,

Lo về một nỗi mụ O nỏ mồm”.

Tôi nghe nói gặp trường hợp chị chồng, em gái chồng ghét nàng dâu, thường lén bỏ thêm muối vào đồ ăn, để mẹ chồng la mắng nàng dâu.

Lại có những nàng dâu gặp hoàn cảnh xấu số:

“Ghê mẹ chồng trước đánh đau

Gặp mẹ chồng sau mau đánh!”

Vì lẽ đó, mà người chồng khi cưới vợ đã khuyên lơn, dặn dò vợ mình rất nhiều điều, nhất là vấn đề Nhẫn Nhịn, để cho gia đình được êm ấm hạnh phúc:

“Từ khi em về làm dâu,

Anh thì dặn trước, bảo sau mọi lời.

Mẹ già dữ lắm em ơi!

Nhịn ăn nhịn mặc, nhịn lời Mẹ Cha.

Nhịn cho nên cửa nên nhà,

Nên kèo nên cột, nên xà tầm vông.

Nhịn cho nên vợ nên chồng,

Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà.

Đi chợ thì chớ ăn quà,

Đi chợ thì chớ dần dà ở trưa.

Dầu ai bảo đợi bảo chờ,

Thì em nói dối con thơ em về!”

Chắc có Phật tử ở đây đã trải qua đoạn đường làm dâu đắng cay như thế nào. Có một Phật tử kể tôi nghe – Khi về nhà chồng bà phải nuôi bà mẹ chồng bị bán thân bất toại. Trong thời gian ấy, bà phải săn sóc, hầu hạ, kể cả chạy tiền ăn uống thuốc thang, nhất là chịu đựng sự khó tính của người bệnh. Chắc chắn trong trường hợp này, nếu nàng dâu không có lòng nhẫn nại cực độ thì khó vượt qua hoàn cảnh ấy.

Trong đời sống hôn nhân, để giữ hòa khí trong gia đình, ca dao đã từng khuyên nhủ:

“Chồng giận thì vợ làm lành,

Miệng cười hớn hở hỏi anh giận gì?”

Vợ chồng sống gần gũi nhau trọn đời, thương yêu chăm sóc nhau chu đáo, nhưng cũng dễ trái ý nhau. Nên người ta nói:

“Vợ chồng là nghĩa già đời,

Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn!”

Để vợ chồng thương yêu, chia sẻ, kính nhường nhau, xây dựng gia đình hạnh phúc, thiết nghĩ nên thực hành một số gợi ý như sau:

v Tránh chỉ trích, chê bai, nhạo báng nhau. Nhất là không nên hơn thua phải trái. Vì như thế dễ mất hòa khí trong gia đình. Người Trung Quốc rất tâm đắc câu: “Hòa khí sanh tài”…

v Không nên giận lâu. Trái lại, nếu có điều gì chưa thông suốt nên bàn bạc với nhau. Hãy bỏ tật nói dai. Nhất là không nên tạo những cuộc “chiến tranh lạnh”.

v Trước mặt người khác nên tôn trọng nhường nhịn nhau. Nếu có dịp nên khen nhau. Tiếng khen như liều thuốc sẽ xóa sạch các thành kiến.

v Nên đề cao lòng tự trọng của nhau. Tránh xúc phạm nhau. Nhất là không nên khen chê với mục đích so sánh vợ chồng người khác.

Ca dao còn dạy:

“Chồng giận thì vợ bớt lời,

Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê”.

Hoặc là:

“Đương khi chồng giận mình đi,

Hết khi nóng giận đến khi vui vầy.

Ngãi nhân như bát nước đầy,

Bưng đi mà đổ, hốt rày đặng đâu”.

Nói như thế, chắc quý Phật tử sẽ hỏi vì sao chỉ bắt các bà nhẫn, còn không nhắc đến các ông? Theo tôi, có lẽ gia đình là nguồn an ủi của người đàn ông, vì các ông đã nhẫn nhiều ngoài xã hội.

Mà sự nhẫn nhịn cũng là một thứ khí giới của quý bà, theo câu: “Nhu thắng cang, nhược thắng cường”. Trong gia đình mà người đàn bà không nhẫn nhịn, gia đình ấy khó mà yên vui hạnh phúc.

Người chồng ngoại tình, nếu người vợ không bình tĩnh, thiếu nhẫn nại, không biết cách lôi kéo người chồng trở về, thì gia đình sẽ dễ đổ vỡ.

Những người có kinh nghiệm trong cuộc sống, thường nhắc nhở những kẻ hậu lai: “Muốn gia đình êm ấm, người vợ cũng như người chồng phải không bao giờ quên câu: “NHỊN, NHỊN, NHỊN”. Ở đây nói ba chữ “NHỊN” là thân nhịn, miệng nhịn, ý nhịn”.

Trong hôn nhân, buồn phiền nhiều hơn vui sướng. Cái ngon ngọt của gia đình không bao giờ là cái ngon cái ngọt thuần túy, mà bao giờ cũng là cái ngon cái đắng của người ăn khổ qua hay ăn ớt.

Tục lệ đám cưới vợ chồng đeo cho nhau chiếc “Nhẫn”. Nhẫn có nghĩa là “Nhẫn Nhịn”. Vì biết rằng trong tương lai, cuộc sống chung của hai người, không sao tránh khỏi những cảnh cơm không lành, canh không ngọt, những trường hợp bất đồng ý kiến với nhau; khi đó, người vợ cũng như người chồng phải nhìn vào chiếc nhẫn, để mà nhẫn nhịn, có thế mới duy trì được hạnh phúc gia đình. Và đây cũng là ý nghĩa, công dụng của chiếc nhẫn.

Có những cuộc hôn nhân không được lâu dài, nguyên nhân là vì vợ chồng không nhẫn nhịn nhau. Nên có người định nghĩa danh từ “hôn nhân” một cách dí dỏm: Năm đầu anh nói em nghe, năm thứ hai em nói anh nghe, và đến năm thứ ba thì cả hai vợ chồng đều nói và hàng xóm nghe.

Xưa có một người tánh hay nóng giận. Anh ta xin bà Tiên chỉ cho phương thuốc để trị tánh ấy. Bà Tiên dạy: Khi nào anh sắp giận hay đang giận thì uống ngay một chén nước lạnh, nếu chưa hết giận thì uống tiếp một chén nữa, uống khi nào hết giận mới thôi.

Lại có một phương pháp khác là khi nào nổi giận thì nên lấy gương soi mặt, khi nào thấy mình không còn đỏ mặt tía tai mới thôi. Theo ý tôi người Phật tử khi nóng giận nên vào bàn Phật để chiêm ngưỡng dung nhan hoan hỷ của đức Phật và lễ bái Ngài thì sẽ trị được bệnh này.

Thuở xưa, có hai anh em làm quan trấn nhậm một địa phương, một thời gian sau người em được lệnh vua đổi đi tỉnh khác. Khi tiễn em lên đường, người anh dặn em: “Em đến xứ ấy đừng ỷ quyền cao chức lớn mà sanh tâm kiêu căng, khinh chê người dưới, em nhé!”.

Người em thưa rằng: “Em đến xứ ấy tuy hằng ngày không được lời khuyên dạy của anh, nhưng em hứa lúc nào cũng noi theo gương nhu hòa nhẫn nhục của anh, dù họ có giận phun nước bọt vào mặt em, em cũng chùi mà không giận họ”.

Người anh dạy rằng: “Em nhẫn như vậy cũng chưa hoàn toàn. Người ta giận phun nước bọt vào mặt, em cứ để vậy cho nó khô, không nên lau, vì lau đi người ta còn giận mà phun nữa”.

Nhẫn được như người em đã là một chuyện khó, mà nhẫn như người anh thì quý hóa biết bao!

Người Phật tử muốn tu hạnh Nhẫn Nhục phải luôn tâm niệm những lời Phật dạy sau đây:

“Người nào ngăn được cơn giận dữ nổi lên như dừng được chiếc xe đang chạy nhanh, mới là kẻ chế ngự giỏi, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương hờ mà thôi”.

“Cũng như trên đất, ta có thể vứt bất cứ vật gì, dù chua, dù ngọt, dù sạch, dù dơ, đất vẫn thản nhiên một mực trơ trơ, không giận cũng không thương”.

“Kẻ nào bị kẻ khác làm nhục mà trong lòng không sinh mối ác cảm, kẻ ấy đã thắng một trận vẻ vang”.

“Nếu con đòi hỏi mỗi khi đi đến đâu thiên hạ phải trải chiếu hoa cho bước chân con khỏi bị đau đớn và gai góc sỏi đá, thì điều đó khó thực hiện. Chi bằng hãy mang một đôi hài Nhẫn Nhục, thì tha hồ mà xông bờ lướt bụi”.

“A Đa La nên biết: Làm thinh, bị người chê; ít nói cũng bị người chê. Làm người mà không bị chê, thật là chuyện khó ở thế gian này”.

“Toàn bị người chê cả, hay toàn được người khen cả, là điều quá khứ chưa từng có, hiện tại tìm không ra, mà vị lai cũng không dễ gì thấy được”.

Ở đời, nếu ta được người này khen tất bị người khác chê, lại có điều người này chê mà người khác khen. Thiệt là mâu thuẫn! Làm thế nào cho vẹn toàn, làm thế nào đừng để ai chê, đừng phiền lòng ai cả?

Ta đặng “bằng khen” người này khen ta làm rạng rỡ vinh dự gia đình, người khác chê ta chuộng hư danh; trong khi ta làm ăn phát đạt, người này khen ta tài giỏi lanh lợi, người khác chê ta “bóp thắt dân nghèo”. Ta tu hành đạo đức thường làm lành, đi chùa, niệm Phật thì có kẻ lại chê ta làm việc vô ích tiêu cực. Từng trải thói đời, Nguyễn Công Trứ đã viết:

“Ở sao cho vừa lòng người,

Ở rộng người cười, ở hẹp người chê

Cao chê ngỏng, thấp chê lùn,

Béo chê béo trục béo tròn,

Gầy chê xương sống, xương sườn bày ra”

Đức Phật dạy:

“Một người hiền chịu thua 100 người hung bạo không phải nhục, vì thua là thua sự hung bạo chứ không phải thua lòng nhân từ”.

“Biết im lặng đúng lúc là biết nói một cách khôn ngoan”.

“Người ta đã lăng mạ tôi, người ta đã đánh đập tôi, người ta đã bóc lột tôi”. Kẻ nào đã nói ra lời ấy là hết giận rồi. Thế mà ở trên trái đất này, cái làm cho hết oán hờn, không phải là lòng oán giận mà là lòng thương yêu. Đó là một câu châm ngôn xưa như trái đất. Nhiều người không biết câu châm ngôn: “Chúng ta hãy tự nén lòng ở trái đất này. Những kẻ nào đã biết câu châm ngôn này, thì không còn tranh chấp với ai nữa!”.

Có một lần tôi vào một ngôi chùa, thấy câu đối:

- Một chút giận, hai chút tham,

Lận đận suốt đời ri cũng khổ.

- Trăm lần nhịn, ngàn lần lành

Thong dong tất dạ thế mà vui.

Cho nên nhà của Phật là nhà Từ Bi, áo của Phật là áo Nhẫn Nhục, tòa ngồi của Phật là tòa Pháp Không.

Năm 1963 Phật giáo bị chế độ Ngô Đình Diệm đàn áp. Những người con Phật biểu tình đòi hỏi tự do tín ngưỡng, công bằng xã hội, họ đã bị lựu đạn cay, chó bẹc-rê cắn, cảnh sát mật vụ đánh đập… Nhưng, những người con Phật vẫn chấp tay niệm Phật, chịu đựng để thực hiện tinh thần Nhẫn Nhục Bất Bạo Động của Phật giáo.


TAI HẠI KHÔNG NHẪN NHỤC

Trong Kinh Hoa Nghiêm nói:

“Nhất niệm sân tâm khởi, bá vạn chướng môn khai”.

Nghĩa là: Một khi lòng sân giận nổi lên thì trăm ngàn cửa nghiệp chướng đều mở ra. Cơn nóng giận nổi lên các hành vi bạo ác dễ hiện bày. Nhiều người tu hành, cả đời làm lành, tạo phước nhưng vì một phút nóng giận đã thiêu đốt mọi công đức xưa nay. Trong sách nói: “Nhất sân chi hỏa năng thiêu vạn khoảnh công đức chi sơn”. Nghĩa là: “Một chút lửa sân có thể đốt cháy ngàn vạn dặm rừng công đức”.

Lần lượt chúng ta xem tai hại không Nhẫn Nhục:

1. Tai hại về thân thể: Người không Nhẫn Nhục thì không dằn nỗi những cơn nóng giận, mà cơn nóng giận nổi lên sẽ làm tổn thương thân thể. Những người đau tim không dằn được cơn giận có khi phải thiệt mạng. Các chứng bệnh khác tăng lên trầm trọng phần nhiều cũng do lòng sân hận mà ra. Người sân giận sẽ có một gương mặt xấu xí, vì máu giận làm cho các gân mặt nổi lên; có khi mặt tái mét, tay chân run rẩy, miệng nói lắp bắp. Nhiều người sau cơn cãi vã nóng giận, uống năm bảy thang thuốc chưa lại sức.

2. Tai hại về tâm tính: Những người không Nhẫn Nhục, thường nóng nảy, ít phán đoán, chuyện quấy đã giận, việc phải cũng la, tâm trí lúc ấy tối tăm, không còn phân biệt phải trái gì nữa. Tục ngữ có câu: “No mất ngon, giận mất khôn”. Vì không còn sáng suốt để suy xét hỏng cả đại sự, còn bị người đời khinh chê:

“Giận lên là phát cơn điên,

Người khôn hóa dại, người hiền hóa ngu”

Người cầm đầu một tổ chức, một công sở mà thường nóng giận, ít điềm tĩnh, thiếu phán đoán, thì khó lãnh đạo.

3. Tai hại ở đời hiện tại: Người thường hay giận, bộ mặt nhăn nhó, tánh tình gắt gỏng, mọi người sẽ lánh xa, không ai thích gần. Người ấy sẽ cô độc với mọi người, thậm chí cô độc với chính mình. Trong gia đình, vợ con sợ sệt, huống chi ngoài xã hội. Hiện tại mất cảm tình với tất cả mọi người, không ai giúp đỡ để thành tựu một công việc gì, dù chỉ là một việc tầm thường.

Lúc nóng giận, lửa sân hừng hực thiêu đốt, có khi liều lĩnh, đến hết cơn giận thì lại lo sợ ăn năn, nên ca dao thường nói:

“Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang

Đánh được người, mặt vàng như nghệ”.

Hoặc:

“Chưa đánh được người, mày xanh mắt tía

Đánh được người rồi hồn vía lên mây”.

Nhiều người nóng giận, đánh đập vợ con đến mang thương tích, sau phải ân hận. Lại nhiều người vì nóng giận đập phá đồ đạc, chén bát, sau sắm lại, rồi phải nợ nần, túng thiếu.

4. Tai hại ở đời sau: Hiện tại đã khổ vì sân hận, tương lai càng khổ hơn nữa. Trong Kinh nói: Người hay giận sau khi chết, sẽ đọa vào địa ngục bị lửa dữ đốt cháy. Sanh vào loài súc sanh sẽ làm loài rắn.

Người hay nóng giận, không rũ bỏ hận thù sau khi chết sẽ sanh về loài A Tu La, loài này háo chiến hăng sự tranh cãi đánh nhau. Đó là quả báo của lòng sân hận. Nếu làm thân người thì bị người chung quanh khinh ghét.

Thuở xưa, có hai vị tu hành, kết bạn cùng nhau. Trong hai người có một người thường sân giận, nhưng cũng hay bố thí. Vị kia thấy bạn mình như thế, thường khuyên lơn can gián, song vị ấy tánh sân giận vẫn không suy giảm. Người hay nóng giận qua đời, vị kia biết bạn mình sẽ sanh làm loài A Tu La, nhưng nhờ phước báo bố thí mà làm Thần Rắn ở miếu cung đình, hưởng sự cúng dường của những người đến hành hương cầu phước. Ngài bèn tìm đến miếu ấy để khuyên giải chú nguyện, cứu người bạn thoát khỏi thân rắn, đặng sanh làm người.

Xưa ông Uất Đầu Lam Phất tu hành đã chứng được định của các cõi Thiền, nhưng vì giận các loài chim cá thường làm ông động niệm, do đó làm ông tức tối thề sẽ làm loài chồn có cánh để giết hại hai loài ấy. Sau ông phải đọa làm loài “chồn bay”.

Ông Độc Giác tiên nhơn vì trời mưa, đất trơn nên bị té, tức giận sau đó ông dùng định lực làm 9 năm không mưa, nhân dân khổ sở, cuối cùng bị nàng dâm nữ cưỡi cổ.

Có câu chuyện “Họa tùng khẩu xuất” như sau:

Thuở xưa, ở trong một cái hồ kia có một con rùa và hai con cò trắng thường lui tới, làm bạn với nhau.

Năm ấy đại hạn. Suốt một năm ròng rã trời không mưa. Nước trong hồ cạn dần. Mặt trời thiêu đốt gay gắt, nước nóng, các loài thủy tộc chết lần chết hồi.

Trong hồ, chú rùa ngồi đứng không yên, đầu óc luôn luôn suy nghĩ một phương kế thoát khỏi cái chảo nóng này.

May thay! Có vợ chồng cò đến chơi. Thấy bộ dạng thiểu não của rùa, vợ chồng cò ân cần hỏi thăm:

- Có chuyện gì buồn, mà trông bác lo nghĩ thế?

Rùa rầu rầu đáp:

- Hai bác ôi, tôi đang gặp đại hoạn, phen này chắc chết không còn gặp mặt hai bác nữa.

Chàng cò chận lời:

- Chúng ta là bạn bè thân thiết, sung sướng cùng chia thì hoạn nạn cùng chịu. Bác hãy cho chúng tôi biết nguyên nhân nào làm bác phiền muộn, họa may chúng ta có thể tìm phương giải quyết.

Rùa trả lời thống thiết:

- Không biết hai bác lúc này làm ăn thế nào, chứ tôi hai hôm nay chưa có gì ăn lót dạ. Nước cạn dần thế này, trước sau gì cũng không thoát được bàn tay độc ác của lũ chăn trâu. Cách đây 5 năm tôi đã bị chúng bắt một lần, may nhờ một bà già mua phóng sanh nên tôi mới sống đến ngày nay.

Trong lúc chàng cò đang suy nghĩ thì chị cò liền hỏi:

- Sao bác không đi đến một nơi khác xem thế nào?

- Hai bác thử nghĩ, xưa nay tôi có từng đi đâu! Vả lại tôi quá chậm chạp. Thôi, thà chết nơi chôn nhau cắt rốn còn hơn.

Bỗng chàng cò hớn hở, ngóng cổ lên nói lớn:

- Bác khỏi lo! Cách đây mười dặm, có một hồ sen không khi nào cạn mặc dù là lúc trời hạn hán. Chúng tôi sẽ đem bác đến đấy, trước là giải quyết sinh kế, sau nữa được gần nhau lúc tối lửa tắt đèn.

Nhưng chàng rùa lộ vẻ thất vọng:

- Trời ơi! Mười dặm? Một dặm tôi đã đi đến chưa, huống nữa là mười dặm, thôi tôi đành chịu chết vậy!

- Điều ấy bác không nên lo, chàng cò tin tưởng nói. Chúng tôi đã có phương pháp; nhưng có điều hơi khó, bác cần phải bình tĩnh và can đảm.

- Bác thử nói xem, chàng rùa vội vàng hỏi, khó thể nào tôi cũng cố gắng.

Chàng cò giải thích với một điệu bộ quan trọng:

- Phương pháp như thế này: Hai vợ chồng tôi tha một nhánh cây, mỗi người một đầu, bác thì ngậm ngay chặng giữa. Chúng tôi sẽ tha bác đến cái hồ kia. Nhưng có một điều quan trọng bác nên nhớ, trong lúc chúng tôi bay, bác phải ngậm chặt vào cây, không được nói năng hỏi han gì cả. Chỉ trong vòng nửa giờ là chúng ta đến nơi. Bác nhớ nhé! Tôi dặn lại: dầu gặp trường hợp nào bác cũng phải ngậm miệng không được nói năng.

Chàng rùa ra dáng hiểu biết:

- Thôi, tôi nhớ rồi.

Sửa soạn xong, chàng cò lại tha thiết dặn lại lần cuối cùng:

- Đó, bây giờ bác muốn ho hen hay nói gì thì nói đi. Chớ chốc nữa mà mở miệng thì nguy hiểm lắm đấy!

Xong đâu đấy, cả ba làm theo ý định. Bốn cánh vỗ mạnh, hai cặp chân cò duỗi thẳng, chàng rùa hỏng mặt đất rồi từ từ lên cao.

Được nâng lên cao, chàng rùa lần đầu tiên thấy những cảnh kỳ lạ hiện ra trước mắt: Bao nhiêu là cảnh đẹp! Đã bao lần chàng định mở miệng hỏi cho thỏa tính tò mò, nhưng lại nhớ đến lời dặn quan trọng của anh chàng cò trắng.

Rủi thay, trên đường hành trình của chàng rùa không qua khỏi cặp mắt tinh quái của lũ trẻ.

Một đứa la lớn:

- Anh em ơi! Ra coi đây nè! Hai con cò tha một con rùa. A ha! Vui quá!

Bọn trẻ đồng la ầm lên. Một thằng lớn nhất trong bọn hét lớn:

- A ha! Thật giống hai thằng mổng dắt một anh thầt bói. A ha! Thầy bói! Thầy bói!

Không dằn được tức giận, chàng rùa định bụng trả lời: “Mặc kệ chúng tao, mắc mớ gì chúng mày, đồ nhãi con!”. Nhưng tội nghiệp thay vừa mới mở miệng, rùa ta đã rơi xuống và tan thân vì đụng nhằm một tảng đá!

Đức Phật dạy: “Ở đời đã biết bao nhiêu người vì không giữ cái miệng, nói không đúng thời mà phải mang họa, như trường hợp con rùa trên đây. Này các đệ tử! Họa từ miệng phát sanh, vậy các con hãy giữ gìn cái miệng”.

Lại có câu chuyện tiếp nhan đề “Sự tích chim Tu Hú”.

Ngày xưa, có hai nhà sư Năng Nhẫn và Bất Nhẫn. Hai người cùng cạo đầu xuất gia từ ngày còn trẻ và cùng tu ở một ngôi chùa hẻo lánh. Sau một thời gian tu luyện, bỗng một hôm Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chánh quả.

Bất Nhẫn nghĩ mình tu hành không kém bạn, mà không được hưởng cái may mắn sớm như bạn, thì rất buồn. Chàng đến trước tòa sen hết sức kêu nài với đức Phật, bày tỏ lòng chân thành tu đạo cùng mọi sự khổ hạnh đã trải qua của mình. Đức Phật khuyến khích chàng:

“Nhà ngươi chuyên tâm cầu đạo lại là người trong sạch, thật đáng khen ngợi. Nhưng tính tình nhà ngươi vẫn như con trâu chưa thuần, chưa thể đắc đạo được. Vậy hãy cố gắng tỏ rõ tấm lòng Nhẫn Nhục trong một cuộc khổ hạnh trường kỳ, rồi sẽ theo bạn cũng chưa muộn. Và đây, ta tặng ngươi những viên thuốc thần có thể nhịn đói nhiều ngày”.

Bất Nhẫn nghe lời, bèn lên núi, chọn một gốc cây bắt chước người xưa ngồi xếp bằng, ngồi im lặng như thế mãi trong ba năm, dù gặp nghịch cảnh cũng không phản ứng.

Từ hôm đó, Bất Nhẫn như một vật vô tri vô giác. Những con sâu con kiến bò khắp người chàng. Những con thú cà vào người chàng. Những con chim ***** phẹt lên đầu chàng. Chàng đều không hề bận tâm. Chàng chỉ tâm tâm niệm niệm những nghĩa lý của đạo Phật.

Cứ như thế, trải qua hai mùa hè và sắp sửa qua một mùa hè thứ ba là kết liễu cuộc tu luyện. Tự dưng một hôm có hai vợ chồng chim chích ở đâu đến làm tổ ngay trên đầu của Bất Nhẫn. Chàng cứ để yên, mặc chúng muốn làm gì thì làm. Chim mái đẻ trứng. Hai vợ chồng thay phiên nhau ấp. Rồi trứng nở, những con chim con kêu léo nhéo suốt ngày. Nhưng Bất Nhẫn vẫn thản nhiên, nhẫn được tất cả.

Chỉ còn mười ngày nữa là Bất Nhẫn hết hạn ngồi dưới gốc cây, hôm đó, chim vợ đi tìm thức ăn cho con, suốt cả buổi chiều nó không kiếm được chút mồi nào. Mãi đến gần tối, lúc lượn qua một cái hồ, chim vợ thấy một con nhện giăng tơ trong hoa sen. Nhện nhác thấy chim liền ẩn vào giữa những cánh hoa, chim cố tìm nhưng không thấy. Không ngờ, vừa tắt ánh mặt trời hoa sen đã cúp ngay những cánh nhốt chim lại. Chim cố tìm lối chui ra nhưng những cánh hoa vây bọc dày quá chim đành bất lực.

Sốt ruột, chim chồng bay đi bay về kiếm vợ. Đàn con đói mồi nháo nhác suốt đêm! Mãi đến sáng hôm sau hoa nở, chim vợ mới thoát được bay về. Một cuộc cãi lộn nổ ra bên tai Bất Nhẫn. Ghen tương, chim chồng nhiếc vợ hết lời, nhưng chim vợ hết lòng bày tỏ nỗi lòng trinh bạch của mình. Cuộc đấu khẩu kéo dài suốt cả một buổi sáng và có cơ chưa chấm dứt. Bất Nhẫn rất khó chịu. Thêm vào đó, đàn chim con kêu đói chiu chít điếc cả tai.

Nhè lúc vợ chồng chim tiếp tục cuộc cãi vã, Bất Nhẫn đưa tay lên đầu giật phắt cái tổ chim, vất mạnh xuống đất và nói: “Đồ khốn! Chỉ có một chuyện đó mà chúng mày làm điếc cả tai ông từ sáng đến giờ!”.

Thế là công sức tu luyện của Bất Nhẫn sắp hoàn thành thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát.

Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí. Trước tòa sen, chàng hứa sẽ tìm cách tỏ rõ sự hối lỗi của mình. Chàng tìm đến một khúc sông nước chảy mạnh, tình nguyện làm người chèo đò đưa khách bộ hành quá giang mà không lấy tiền. Chàng quyết chở cho đến người thứ một trăm mới thôi.

Lần này Bất Nhẫn tỏ rõ một người nhẫn nại. Tuy bên sông thường vắng khách, chàng vẫn không chịu bỏ dở công việc. Luôn trong hai năm chàng chở được chín mươi tám người mà không xảy ra chuyện gì.

Một hôm vào khoảng giữa thu, nước sông tràn về chảy xiết hơn mọi ngày. Trời bỗng đổ trận mưa lớn, giữa lúc đó có một người đàn bà dắt một em bé đòi qua sông. Bà ta có vẻ là vợ một viên quan sở tại, chưa bước xuống thuyền đã dọa Bất Nhẫn:

“Chú nhớ chèo cho vững nghe không, che mui cho kín. Nếu để chúng ta bị ướt thì liệu chừng kẻo roi quất đít đó”.

Nghe nói thế Bất Nhẫn bừng bừng nổi giận, nhưng chàng cố nhịn và vẫn giữ vẻ mặt tươi cười đáp:

“Bà và cậu đừng sợ gì cả. Tôi xin cố sức”.

Rồi chàng vận dụng hết tài nghệ đưa hai mẹ con nhà nọ qua sông được vô sự. Lúc sắp lên bờ, người đàn bà bỗng kêu lên:

“Ta quên khuấy đi mất. Có một gói hành lý bỏ quên ở quán bên kia. Vậy nhà ngươi chịu khó chèo qua lấy hộ”.

Bất Nhẫn nín lặng cắm cổ chèo qua sông giữa sóng gió. Mãi đến gần tối, chật vật lắm chàng mới đưa được gói hành lý sang cho người đàn bà. Nhưng khi soát lại gói, người đàn bà nọ lại kêu lên:

“Thôi rồi! Còn một đôi giày của thằng bé bỏ dưới gầm giường. Thế nào ngươi cũng phải gắng lấy cho ta một lần nữa”.

Người đàn bà nói chưa dứt lời thì Bất Nhẫn đưa tay chỉ vào mặt:

“Cút đi đồ chó ghẻ! Ta đâu phải sinh ra để hầu hạ mẹ con nhà mày mãi đâu”.

Người đàn bà đó vốn là đức Phật Quan Âm hiện hình xuống thử lòng người đệ tử khổ tu đó bấy giờ lại hiện nguyên hình và cất tiếng bảo chàng:

“Nhà ngươi vẫn chưa thực tâm Nhẫn Nhục, như thế thì tu gì mà tu!”

Bất Nhẫn thẹn quá đành cúi đầu nhận lỗi.

Sau đó Bất Nhẫn bị hóa kiếp thành một giống chim mà người đời sau quen gọi là chim tu hú. Họ bảo thứ chim đó vào khoảng cuối hè sang thu hay xuất hiện, đúng vào lúc xảy ra câu chuyện giữa Bất Nhẫn và Phật Bà.

Kể theo Truyện cổ Việt Nam

Của Nguyễn Đổng Chi

Hai câu chuyện trên cho chúng ta thấy:

Chàng rùa vì không Nhẫn nên tan thân mất mạng.

Hai vợ chồng chim vì không Nhẫn nên kết quả gia đình tan nát.

Anh chàng Bất Nhẫn vì không Nhẫn nên không thành chánh quả mà hóa kiếp thành tu hú.

Trong gia đình, vợ chồng không Nhẫn Nhục thì cuộc sống xào xáo bất ổn, hạnh phúc dễ đổ vỡ. Anh em không Nhẫn Nhịn thì sẽ sanh thù hiềm. Lãnh tụ các quốc gia không Nhẫn Nhịn thì sẽ xảy ra thế giới chiến tranh. Đó là những kết quả tai hại của lòng sân giận, hay nói cách khác là không Nhẫn Nhục.

LỢI ÍCH CỦA NGƯỜI TU HẠNH NHẪN NHỤC

Như trên quý vị đã thấy tai hại không tu hạnh Nhẫn Nhục. Vậy tu hạnh Nhẫn Nhục sẽ được lợi ích gì? Người tu hạnh Nhẫn Nhục thân thể ít bệnh do không bị kích thích mạnh của lòng nóng giận. Nếu đã mắc phải các chứng bệnh sẽ giảm lần, người bệnh tim cần bình tĩnh, không buồn rầu nóng giận. Người Nhẫn Nhục gương mặt thường tươi tắn, cặp mắt luôn luôn lộ vẻ hiền từ. Mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều đáng mến.

Nhờ ít nóng nảy, con người sẽ dễ phán đoán và sáng suốt trong mọi trường hợp. Đức Nhẫn Nhục bồi đắp cho lòng từ bi trí tuệ thêm mạnh mẽ, dồi dào. Nhờ thế mà thành tựu những sự nghiệp ở đời cũng như trong đạo.

Hiện tại, người tu hạnh Nhẫn Nhục rất đông bạn bè, do giàu lòng thiện cảm với tất cả mọi người, nên làm việc gì, họ cũng đều được giúp đỡ. Người Nhẫn Nhục không có kẻ thù, mà chỉ có bạn thân.

Xưa, đời Đường bên Trung Hoa có gia đình ông Trương Công Nghệ, chín đời họ hàng đều ở chung với nhau một nhà, nhưng không có chuyện gì xích mích xảy ra. Vua Cao Tôn nghe tin mới ban tặng gia đình ông một quả táo, thử xem ông phân chia cách nào. Ông Trương Công Nghệ liền cho người nhà đem nấu quả táo, rồi chia cho mỗi người một chén nước.

Vua hỏi: “Làm thế nào mà gia đình ông chín đời ăn ở với nhau thuận thảo như vậy?” Ông Trương Công Nghệ liền dẫn vua đi và chỉ trên vách, vua thấy chỗ nào cũng đều thấy viết một chữ “Nhẫn”. Ông Nghệ giải thích: “Gia đình chúng tôi chỉ tu một chữ “Nhẫn”. Anh nhịn em, vợ nhịn chồng, bà con nhịn nhau chỉ nhờ thế mà họ hàng được thuận thảo với nhau”.

Xưa vua Thuấn bị người cha là Cổ Tẩu (mù) nghe lời bà dì ghẻ, kiếm đủ cách để giết ông, nhưng nhờ năng Nhẫn mà sau ông được vua Nghiêu truyền ngôi.

Xưa Mẫn Tử Khiên, mẹ mất sớm, bị dì ghẻ ác nghiệt đày đọa, sau cha ông biết được định đuổi người đàn bà độc ác ấy đi. Nhưng Mẫn Tử Khiên đã khóc lóc nói: “Xin cha đừng đuổi kế mẫu, vì người còn ở lại thì chỉ một mình con khổ thôi, còn người đi rồi thì cả hai em con đều khổ”. Nhờ sự năng Nhẫn của Mẫn Tử Khiên mà cảm hóa được bà dì ghẻ ác độc.

Xưa ông Trương Lương ba lần lượm dép cho cụ già, đã thức suốt đêm để được gặp cụ già. Sau được cụ già chính là Tiên ông Huỳnh Thạch Công thâu làm đệ tử và truyền cho quyển Thiên Thư, để an bang tế thế.

Xưa Lưu Bị tam cố thảo lư (3 lần hạ mình đến nhà tranh) mới thỉnh được Khổng Minh làm Quân Sư.

Có một câu chuyện vui về chữ “Nhẫn” – Một ông già nọ, nghe gia đình ông Trương Công Nghệ nhờ tu một chữ Nhẫn mà gia đình được vui vẻ thuận thảo. Ông về bắt chước cũng viết 100 chữ “Nhẫn” với ý định sẽ dán khắp nhà. Khi ông chuẩn bị dán, thì một bầy cháu cả nội lẫn ngoại xúm lại hỏi ông: “Chữ này chữ gì đẹp vậy ông?”. Ông vui vẻ nói: “Chữ Nhẫn đó con!”. Một đứa lại chỉ một chữ khác hỏi: “Vậy chữ này chữ gì ông?”. Ông ôn tồn đáp: “Thì cũng chữ Nhẫn đó cháu!”. Một đứa khác lại cầm một tờ đến hỏi: “Chữ này chữ gì sao giống mấy chữ kia vậy ông?” Ông không còn vui vẻ ôn tồn nữa mà nổi giận la lên: “Mẹ chúng bay, đi chỗ khác chơi, chữ nào lại không phải chữ Nhẫn, mà cứ hỏi hoài!”.

Nói về Nhẫn Nhục không thể không nhắc đến truyện “Quan Âm Thị Kính”.

Ngày xửa ngày xưa, có một người trải qua nhiều kiếp; kiếp nào từ bé đến lớn cũng giữ mình đức hạnh và chân tu. Cứ luân hồi chuyển tiếp như vậy đến 9 lần, nhưng chưa đặng thành Phật.

Đến kiếp thứ 10, người này được thác sanh ở nước Cao Ly làm con gái một nhà họ Mãng, tên là Thị Kính. Nàng có vẻ đầy đặn, mặt mũi dễ coi, tính tình điềm đạm. Lớn lên, nàng thờ Cha Mẹ hết lòng, việc nhà việc cửa chăm lo rất đảm. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho một anh chàng học trò họ Sùng tên là Thiện Sỹ. Cũng giống như nhà vợ, bên nhà chồng cũng chẳng khá giả gì. thấy chồng chăm học, không chơi bời, Thị Kính không ao ước gì hơn, nàng càng ra công tần tảo cho chồng dốc lòng nấu sử sôi kinh.

Một đêm, bên cạnh án thư Thiện Sỹ ngồi đọc sách, Thị Kính cùng ngồi may một bên. Hai người chung nhau một ngọn đèn dầu. Chồng học mãi thấy mệt mỏi, bèn ngã lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ chuyện trò một chốc rồi thiu thiu ngủ. Thị Kính cố giữ yên lặng cho chồng yên giấc. Nàng có thì giờ ngắm nghía kỹ khuôn mặt tuấn tú của chồng. Bỗng nàng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. “Ồ, sao lại có sợi râu xấu xí thế này, người ta bảo râu mọc ngược là tướng bạc ác. Ta phải lén nhổ đi cho chàng mới được!”. Nghĩ vậy, sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may, Thị Kính liền cầm lấy mở ra định nhổ sợi râu, không ngờ lưỡi dao sáng loáng vừa đưa đến gần thì Thiện Sỹ cũng vừa chợt tỉnh. Trông thấy vợ tay cầm con dao chỉa vào mặt trong lúc mình chợt ngủ quên, Thiện Sỹ nghĩ ngay đến chuyện đen tối, liền vùng dậy nắm cổ tay và la lên: “Chết thật! Nàng định cầm dao giết tôi lúc đang ngủ ư?”. Thị Kính đáp: “Không phải đâu! Thấy chàng có sợi râu mọc ngược thiếp định tâm lén nhổ nó đi kẻo trông xấu xí lắm!”. Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt chồng nhất định không tin như vậy: “Thôi thôi! Đừng khéo chống chế. Làm sao có chuyện nhổ râu khi ta đang ngủ. Muốn nhổ thì đợi ta tỉnh dậy, hoặc ban ngày ban mặt thì có hay không?”.

Giữa lúc ấy, người mẹ Thiện Sỹ nằm ở buồng bên cạnh nghe cãi nhau cũng xô cửa bước ra. Vừa nghe con trai kể lại chuyện, bà đã mồm loa mép giải: “Trời ơi! Con này to gan thực! Dám đang tay làm những việc tày trời, may mà con ta trở dậy kịp, không thì còn gì tánh mạng”. Thị Kính nước mắt giàn giụa, cố gắng phân trần: “Mẹ nghĩ xem, con có thù vơ oán chạ gì mà phải làm như vậy. Chẳng qua con muốn làm cho chồng con đẹp mặt…”.

“Rõ ràng mày định tâm giết chồng, bị bắt hai năm rõ mười mà còn chối leo lẻo”. Người mẹ Thiện Sỹ chẳng ưa gì nàng dâu nên một mực đổ tội. Thị Kính thấy giải bày mãi không ăn thua, nên ngồi xuống cúi đầu nức nở. Câu chuyện từ bé xé ra to. Cuối cùng gia đình họ Sùng không muốn con cháu có nòi ác nghiệt, Thị Kính bị đuổi về nhà bố mẹ đẻ.

Buồn chán cho số phận éo le, một hôm nàng cải trang thành một chàng trai, nhân đêm tối bỏ nhà khăn gói ra đi. Nàng đi, đi mãi, cố tìm trú ngụ một nơi thật xa quê hương để xóa bỏ những ký ức đau xót. Sau cùng đến một tỉnh khác, ở đây có chùa Vân, nàng tìm đến xin cạo đầu quy y. Sư cụ không biết là gái nên nhận cho làm tiểu, đặt là Kính Tâm. Sự đời đã tắt lửa lòng. Từ đây nàng yên tâm cùng kinh kệ.

Nhưng tu hành ở chùa Vân chưa được bao lâu thì một việc mới lại xảy đến với nàng. Tuy ăn mặc nâu sòng, nhưng vẻ mặt của chú tiểu ấy đã làm cho nhiều trái tim của các cô gái làng thổn thức. Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, những ngày lễ chùa thấy tiểu Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm nhớ thầm. Thị Mầu si mê cố tìm cách quyến rũ. Tuy bị khước từ, nàng vẫn không sao quên được chú tiểu. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trai trong nhà, không ngờ bụng ngày một lớn. Bị làng phạt vạ, cô gái nghĩ rằng nếu thú thật thì chẳng hay ho gì bèn đổ tội cho tiểu Kính Tâm. Vì thế tiểu Kính Tâm cũng bị làng đòi đến khảo tra. Dù bị đánh tả tơi, nàng cũng không dám nhận liều, cũng như không để lộ mình là gái. Sư cụ chùa Vân thấy tiểu bị đòn đau thì thương tình kêu xin với làng nộp vạ, bảo lãnh cho tiểu được tha về. Nhưng sợ miệng thế gian mỉa mai ô danh chốn thiền môn, nên sư bắt tiểu phải dựng một cái lều cư ngụ ở phía ngoài cổng chùa. Nàng cam tâm chịu đựng, cắn răng không hề van xin hay than thở.

Thị Mầu sau đó sinh được một trai. Đã trót đổ vấy cho tiểu Kính Tâm, nên nàng lại đem đứa con bỏ ở cửa tam quan. Kính Tâm lại thêm một phen bối rối. Nhận lấy đứa bé thì không khác gì hành động thú tội, mà không nhận thì làm ngơ sao đành trước một đứa bé vô tội thế kia. Nhưng những tràng khóc oa oa của đứa trẻ sơ sinh đã khiến nàng mất hết ngần ngại. Lập tức nàng bế đứa bé vào lều chăm sóc, và từ đó ngày ngày một công việc mới chiếm hết thì giờ và tâm trí của nàng, nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm. Mặc cho dân làng kẻ cười người chê đến rát cả mặt, nàng vẫn âm thầm chịu đựng, tuyệt không có lấy một lời oán thán.

Cứ thế trong sáu năm, nàng trông nom đứa bé như chính con mình, trong khi đứa bé ngày một sởn sơ khôn lớn, thì sức nàng ngược lại ngày một mỏi mòn kiệt quệ. Một hôm, biết mình không thể sống được nữa, tiểu Kính Tâm bèn viết một phong thư để lại cho bố mẹ đẻ, trong đó nàng thuật lại đầu đuôi nỗi mình Nhẫn Nhục bấy chầy. Lại dặn dò đứa bé sau khi mình chết thì trao thư lại cho sư cụ trên chùa.

Khi khâm liệm, mọi người mới hay tiểu Kính Tâm là gái, và ai nấy đều thấy rằng sự chịu đựng của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Để tỏ lòng hối hận, sư cụ chùa Vân bèn cho lập một đàn chay cầu cho nàng được siêu sanh tịnh độ. Dân làng bắt Thị Mầu phải để tang và bắt phải trả mọi chi phí ma chay. Hôm cử hành đàn chay, thì trên trời giữa một đám mây năm sắc, đức Phật Thiên Tôn hiện ra phán truyền cho Kính tâm thành Phật Quan Âm.

Ngày nay, để chỉ cho nỗi oan to lớn, người ta thường bảo “Oan Thị Kính” là từ truyện này mà ra.

Kể theo Truyện cổ Việt Nam

của Nguyễn Đổng Chi


Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy nàng Thị Kính có ý định xắp râu chồng, bị buộc tội giết chồng, thật sự khó thanh minh nỗi oan ức của mình. Trái lại Thị Mầu vu oan Thị Kính dễ thanh minh quá! Chỉ cần la lên: “Tôi là gái!” là không còn bị tra khảo, không còn bị miệng đời mai mỉa, cười chê. Thế mà nàng đã làm thinh chịu đựng tất cả, Nhẫn Nhục tất cả, sức nhẫn ấy biểu lộ một nghị lực phi thường. Nghị lực phi thường ấy được bắt nguồn từ tâm từ bi, hỷ xả vô lượng của Thị Kính.


NHẪN NHỤC CÓ LÀM CHO CON NGƯỜI YẾU HÈN KHÔNG?

Có người sẽ cho rằng, đức Nhẫn Nhục của Phật dạy sẽ làm nhụt chí khí dũng mãnh của con người, vì Nhẫn Nhục là chịu đựng, đương đầu với nghịch cảnh, dù phải hay trái, không nên chống trả. Như thế, có kẻ sẽ lợi dụng đức Nhẫn Nhục của nhà Phật làm lợi khí để đàn áp những người tu Phật thì sao?

Xin đáp: Nhẫn Nhục của Phật dạy chẳng những không khiến người ta yếu hèn, ngu dại, mà làm cho người ta mạnh mẽ, sáng suốt và rộng rãi nữa. Như trên chúng ta đã nói, người tu hạnh Nhẫn Nhục phải nhận biết rõ rệt cái vinh, cái nhục, lẽ phải điều trái. Như vậy nếu đứng trước một sự áp bức, bất công mà vì hèn nhát, không dám phản ứng thì đó là một điều sỉ nhục, chứ không phải Nhẫn Nhục.

Người tu hạnh Nhẫn Nhục biết phát huy dũng khí, làm chủ được bản thân mình. Một người có đầy đủ lòng từ bi, hỷ xả, có trí tuệ minh mẫn, mới có thể thực hành nhẫn nhục. Do đó con người ấy không yếu hèn, trái lại rất dũng mãnh, giàu nghị lực.

Thuở xưa, Hàn Tín là vị anh hùng, mà chịu lòn trôn kẻ côn đồ giữa chợ. Đó cũng một điều Nhẫn Nhục để thành đại sự mai sau. Thánh Gandhi Nhẫn Nhục trước sự đàn áp của người Anh và những kẻ háo chiến, Ngài không có một tấc sắt trong tay, không làm rơi một giọt máu; nhưng tình thương bao la đối với dân tộc bị đau khổ dưới ách thực dân Anh, Ngài đã đấu tranh trực diện với kẻ thù. Thứ khí giới tạo nên sức mạnh cho Gandhi là Nhẫn Nhục và tinh thần Bất Bạo Động. Ngài đã chiến thắng, tự do. Sự chiến thắng ấy không phải bạo lực thắng bạo lực; mà chân lý đã thắng bạo lực.

Để kết luận, chúng ta thấy đức tính Nhẫn Nhục rất cần thiết cho đời sống con người. Người Nhẫn Nhục tự nâng cao phẩm chất đạo đức của mình. Nhẫn Nhục là một hạnh trong Lục Độ, giúp con người tự an lạc cho mình, đem niềm an vui hạnh phúc cho người chung quanh. Tu hạnh Nhẫn Nhục tức là phát huy tâm Từ Bi Hỷ Xả. Nhẫn Nhục để đối trị sân hận. Do đó, Nhẫn Nhục không dành riêng cho người xuất gia mà trở thành giá trị cần thiết cho chúng ta để kiến lập cuộc sống an lạc và đạo hạnh.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

Kinh Pháp Cú - Dhammapada
HT. Thích Thiện Siêu dịch từ bản Hán ngữ

XIV. PHẨM PHẬT ĐÀ
180. Chư Phật thường dạy Niết bàn là quả vị tối thượng. Nhẫn nhục là khổ hạnh tối cao. Xuất gia mà não hại người khác, không gọi là Sa-môn[117].

CHÚ THÍCH
[117] Trong Tứ phần (giới bản) đức Như Lai Tỳ Bà Thi dạy: “Nhẫn nhục đệ nhất đạo, Phật thuyết vô vi tối, xuất gia não tha nhơn, bất danh vi Sa-môn”.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

Phải tu nhẫn nhục - Pháp Sư Tịnh Không

https://www.youtube.com/watch?v=oeyT83M ... %BE%C3%82M
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tu Là Chuyển Nghiệp
HT. Thích Thanh Từ

HẠNH NHẪN NHỤC

Nói đến nhẫn nhục thì đa số người đều có quan niệm rằng: nhẫn là phải nhục. Nhưng, kỳ thật nhẫn có phải là nhục không ? Nhẫn nhục là chữ Hán, dịch theo tiếng Việt là nhịn chịu, chớ không phải nhẫn là nhục. Nếu nhẫn là nhục thì Phật bị nhục nhiều lắm, vì Ngài nhẫn hoài. Song, Ngài là bậc trí tuệ và từ bi, có đủ mọi công đức cao cả, người đời tán dương công hạnh ấy, nên gọi Ngài là Đấng Đại Hùng Đại Lực, vậy thì nhục ở chỗ nào?

Tại sao chúng ta phải tu hạnh nhẫn nhục? Phật nói cõi Ta bà là cõi khổ, chúng sanh sanh trong cõi Ta bà phải có sức chịu đựng. Ta bà còn có nghĩa là kham nhẫn; kham là có thể chịu được, nhẫn là nhận chịu. Nỗi khổ ở cõi Ta bà chúng sanh có thể chịu nổi, chớ không phải không chịu được. Chúng ta kiểm điểm lại, từ khi khôn lớn cho tới ngày nay, những điều xảy ra trong cuộc đời này có bao nhiêu điều như ý và bao nhiêu điều bất như ý đối với chúng ta ? Có đến 70% điều bất như ý, còn lại chừng 30% điều như ý. Điều mình không bằng lòng mà nó cứ đến hoài, làm sao vui được ? Điều mình muốn mà nó ít đến nên cuộc đời khổ nhiều vui ít. Khổ nhiều mà chịu nổi là nhờ có sức kham nhẫn. Có kham nhẫn mới sống được trong cõi Ta bà này. Song, nhẫn ở đây không phải chỉ nhận chịu sự mắng chửi, đối xử tệ bạc của người đời, mà nhẫn ở đây là nhịn chịu mọi trường hợp.

Trường hợp thứ nhất là nhịn chịu sự đòi hỏi quá đáng ở nội tâm mình, đó là tham dục. Tham dục có nhiều thứ là tham tiền của, tham sắc đẹp, tham danh vọng, tham ăn ngon, tham ngủ kỹ. Nếu thỏa mãn những thứ tham đó thì con người nên hay hư. Chắc chắn là hư, thế nên phải nhịn bớt. Muốn mười chỉ thỏa mãn năm ba thôi, nếu đòi thỏa mãn trọn vẹn thì không thể nào ổn được. Chẳng hạn như tham ngủ, đối với một thanh niên trung bình ngủ bảy tiếng đồng hồ là đủ, vừa có thì giờ làm việc hoạt động cho cơ thể khỏe mạnh, vừa có thì giờ học hành cho tinh thần sáng suốt minh mẫn, nếu ngủ một ngày mười hoặc mười hai tiếng đồng hồ thì thân thể béo phệ nặng nề, tinh thần uể oải mê mệt sống một đời bê tha gàn dỡ. Vì vậy mà phải hạn chế sự ngủ nghỉ cho có chừng mực. Khi hạn chế không cho ngủ như ý thích là đã bắt mình phải nhịn chịu để giảm bớt lòng tham ngủ. Rồi đến tham tài, tham sắc, tham danh, tham lợi, đều phải hạn chế, không cho thỏa mãn đúng mức. Như vậy, đối với ngũ dục trong thế gian này, chúng ta luôn luôn phải có sức kham nhẫn để hạn chế nhịn chịu lòng tham của mình. Tiết chế đó là tu nhẫn nhục.

Thứ nữa, bản thân chúng ta khi gặp cảnh bức ngặt như muỗi mòng, nóng lạnh, đói rét… xảy ra bất thường, chúng ta cũng phải nhận chịu tất cả. Ví dụ đang tụng kinh muỗi cứ bay vo ve cắn trên đầu trên mặt đau nhói, nếu đưa tay lên đập muỗi thì loạn động mất trang nghiêm, nên phải đứng yên. Bị muỗi cắn đau nhức mà phải đứng yên nhận chịu đó là nhẫn nhịn muỗi mòng. Hoặc khi đang ngồi thiền bỗng có cảm giác con gì bò nhột trên mặt, rồi bò lên cổ rồi chui vô lỗ tai… nhột nhột khó chịu. Nếu xả thiền ra xoa chà thì xao động, bất an và rồi cứ xoa chà hoài, vì hết chỗ này lan qua chỗ khác. Nên phải nhịn chịu không xoa chà, ngồi yên. Đó là nhẫn nhịn sự phiền toái bức bách trên thân. Hoặc đang khi nắng nóng mà phải làm việc ngoài trời, mồ hôi ra nhễ nhại, vẫn vui với việc làm không bực bội, không than rên, không bỏ dỡ công việc, đó là nhẫn chịu sự nóng bức. Để thấy, nhẫn không phải chỉ nhẫn nhịn khi bị người chửi mắng lấn hiếp, mà chúng ta còn phải nhẫn nhịn với bản thân mình: lòng tham quá trớn cũng phải hạn chế, nóng giận quá đáng cũng phải điều phục, thân nhọc nhằn nóng bức, đói rét cũng phải kham chịu. Đó là nhẫn ở tâm mình và nhẫn ở thân mình.

Thế thường, người đời quan niệm nhẫn là khi người ta nói làm trái tai gai mắt, mình phải trân mình, mím môi để nhịn. Nhẫn theo cách này thì có giới hạn, nhẫn lần thứ nhất, rồi lần thứ hai, đến lần thứ ba thì không chịu nổi. Nên có nhiều người hay nói: “Tôi nhịn đó nghe, tôi nhịn một lần, hai lần rồi, lần thứ ba tôi không nhịn được nữa đó !” Do vì trân mình mím môi để nhịn nên có giới hạn. Phật dạy chúng ta nhẫn không phải gồng mình chịu, mà nhẫn với cái nhìn bằng trí tuệ biết như thật, nên rất nhẹ nhàng êm ái. Tại sao nhẫn nhục mà êm nhẹ như vậy ? Phật dụ người dữ mắng chửi hãm hại người hiền, giống như kẻ ngậm nước bọt ngửa mặt phun trời xanh. Nước bọt không tới trời mà rớt lại trên mặt người phun. Ở trên, trời vẫn xanh không có chút bợn nhơ nước bọt, cũng như người hiền không thọ pháp ác nên vẫn an vui không khổ. Phật lại còn nói: “Người dữ muốn hại người hiền giống như người đứng ngược gió ném bụi”. Người đứng dưới gió hốt bụi ném, gió đùa bụi lại phủ trên đầu trên mặt người ném. Người bị ném thì bụi không bay tới, nên không dơ không dính bụi. Như vậy người hiền bị người dữ hại vẫn bình thản không buồn, vì thấy việc làm ác của họ không có tác động đến mình, chỉ gây hậu quả không tốt cho họ mà thôi, nên không buồn. Song, người đời thì không như vậy, nghe ai ở xa xa nói đến tên mình, là đã nổi tức lên giành cái khổ về mình rồi.

Đó là không biết tu nhẫn nhục. Nếu nghĩ kẻ kia mắng chửi muốn hại mình, cũng giống như họ đang ngửa mặt trên trời xanh mà phun nước bọt thì lúc đó giận hay là thương họ ? thấy họ ngu khờ tội nghiệp, làm sao giận được ? Nhẫn như vậy đâu có bậm môi trân mình gắng gượng chịu, mà quá nhẹ nhàng ! Nhẫn được như vậy là nhờ trí tuệ thấy được lẽ thật.

Tôi nói thế, quí vị sẽ nghĩ Phật dạy những trường hợp bị phỉ báng, bị mạ nhục, bị ép bức… thì chúng sanh phải nhẫn. Còn Phật là bậc mà ai cũng tôn kính đâu dám xúc chạm đến Ngài, nên Ngài đâu có nhẫn. Phật dạy phàm phu chúng ta nhẫn, Ngài có nhẫn không ? Phật nhẫn nhiều hơn chúng ta. Phật thành đạo đi giáo hóa, có rất nhiều người tin và theo Ngài, nhất là đệ tử của ngoại đạo. Một hôm Phật đi khất thực trong làng Bà-la-môn, thầy Bà-la-môn tại địa phương đi theo sau kêu tên Phật chửi, vì đệ tử ông đã theo Phật, Phật chậm rãi đi trước, ông cứ đi theo sau chửi hoài. Phật cứ vẫn làm thinh đi không nói gì hết. Ông tức quá, chạy tới trước đón đường Phật hỏi:

Cù-đàm, ông có điếc không, tại sao tôi chửi mà ông không trả lời ?

Phật đáp bằng câu hỏi:

– Giả sử nhà ông có giỗ, ông mời khách đến dự. Tiệc xong khách ra về, ông đem quà bánh tặng khách, khách không nhận, thì quà bánh đó về ai ?

– Tôi tặng mà họ không nhận thì về tôi chớ về ai !

– Cũng vậy, ông chửi ta, ta không nhận thì có dính gì với ta đâu !

Chúng ta thấy, mắng thì mắng, chửi thì chửi, Phật nghe mà không nhận thì có dính gì với Ngài, nên Ngài bình thản như không có gì. Còn chúng ta thì dễ dính, người ở đằng xa xì xầm có tên mình là theo dõi lắng nghe, để rồi sanh chuyện với họ; động tới là dính, nhạy lắm ! Phật không gồng mình mím môi nhẫn như chúng ta, Ngài dùng trí tuệ biết người đó đang si mê nên nóng nảy nói bậy, đáng thương, họ nói một lúc rồi sẽ nghỉ. Đâu phải Phật không gặp người đời làm phiền nhiễu, mắng chửi Ngài, nhưng Ngài không động vẫn an nhiên bình thản. Chúng ta ngày nay tu, giả sử có ai nói: “Ông đó tu hú chớ tu cái gì !”. Thì đã nổi giận rồi. Nếu thật tu thì chúng ta không nổi giận, mà đã nổi giận, đó là tu hú chớ còn gì nữa. Chính vì muốn cải chánh, mình là người tu đàng hoàng nó đã tố cáo mình không khéo tu rồi. Người khéo tu sẽ nghĩ rằng: Ông muốn nói gì thì nói, việc ông làm ông biết, việc tôi làm tôi biết, khỏi phải cải chánh làm gì. Song, cái bệnh chung của con người là ưa thọ nhận, nên động tới mình là nhận liền để rồi dính mắc, sanh bao nhiêu thứ phiền não trần lao.

Người tu Phật, không phải chỉ có người mới tu bị khảo đảo, người này theo phá, người kia theo chọc, mà các vị tu càng cao khảo đảo càng lắm; mới tu thì khảo đảo ít, tu lâu khảo đảo nhiều. Tại sao vậy ? Người tu giống như đứa học trò đi học vậy; học lớp 5 thì bài học bài thi dễ, học lớp 10 thì bài học và bài thì phải khó. Tới lớp 12 thì bài học và bài thi càng khó hơn nữa; học càng cao chừng nào thì bài học và bài thi càng khó chừng nấy. Đừng tưởng rằng tu cao rồi mọi việc xảy ra đều như ý hết. Tu mà muốn mọi việc đều như ý thì đâu có tu. Nói như vậy, nghe hơi lạ ! Tu là chuyển cái dở thành cái hay, chuyển tật xấu thành tánh tốt, nếu mọi việc đều như ý hết thì đâu có gì chuyển đổi, không chuyển đổi tức là không tu. Thế nên chúng tu, lâu lâu có người đến chửi, coi có còn giận không. Nếu còn giận thì tự thấy mình còn dở, phải nổ lực tu hơn nữa để điều phục bệnh sân giận của mình. còn nếu ai gặp mình cũng xá cũng trọng hết thì đâu có gì để sửa, không sửa tức là không tu. Như vậy chúng ta tu mà có cơ hội thử thách thì sức tu của mình mới mạnh. Cho nên nói đến tu là nói đến nhẫn nhục. Người tu mà không nhẫn nhục thì không có tu. Thí dụ tu mà ai động tới là chửi, người ta chửi mình một câu, mình chửi lại mười câu, không để thua một lời thì đâu có tu. Tu là phải có sức chịu đựng, kham nhẫn để chuyển hóa mình và chuyển hóa người.

Một lần khác, Phật cũng đi giáo hóa ở một làng Bà-la-môn nọ, số người Bà- la-môn theo Phật rất đông. Thầy bà-la-môn làng này tức giận lắm. Nhân lúc Phật đi khất thực, ông đi theo sau Phật chửi, Phật thong thả đi, ông cứ đi theo sau chửi hoài. Đến ngã tư đường Phật lấy tọa cụ trải trên đất ngồi kiết già, thầy Bà-la-môn chạy lại trước Phật hỏi:

Cù-đàm, ông thua tôi chưa ?

Phật bèn nói kệ:

Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua hai đều xả
Ấy được an ổn ngủ.

Phật dạy người tranh giành để phần mình được hơn, thì bị kẻ thua oán hận âm mưu ám hại, sẽ khổ. Còn người cảm thấy mình bị lấn hiếp, bị thua phải ráng nhịn nhục, cho qua hồi nhiễu nhương thì lòng tức tối, bất an không ăn ngủ được, cũng khổ. Cho nên cả hai ý niệm hơn thua đều phải buông xả hết thì tâm thần mới được an ổn thoải mái mà ngủ nghỉ. Chúng ta thấy người giành hơn và kẻ thấy mình thua, cả hai đều chuốc khổ. Thế nên phải sáng suốt nhìn cho thấu cái lý thật của mọi sự việc đến hay đi, mà buông xả bỏ qua không buồn không giận. Thế thường người không làm ác làm quấy, mà bị kẻ xấu miệng cho là ác là quấy thì buồn giận. Và rồi kẻ làm ác làm quấy bị chê là ác là quấy cũng giận, đó là những người không biết tu. Đối với người biết tu, lỡ bất giác làm điều ác quấy bị chê là ác quấy, liền tự tỉnh, nhận lỗi và cám ơn thì mọi chuyện êm xuôi tốt đẹp. Còn nếu không làm ác quấy mà bị chê là ác quấy thì người nói ác quấy đó là kẻ không sáng suốt, đầu óc loạn động bất thường, thấy không đúng lẽ thật. Đối với người không tỉnh, bất thường (điên đảo), có nên đi cự lộn với họ không ? Nếu chúng ta cự lộn với họ thì chúng ta cũng là kẻ si mê bất thường như họ. Cả hai trường hợp nếu nhận đúng lẽ thật thì không buồn giận. Trường hợp nếu mình là người tốt mà bị chê là ác quấy, mình biết mình rõ hơn người biết mình, nên bình thản cười thôi. Như vậy mình mới còn là người tốt, nếu lúc đó nổi nóng nói bậy thì thái độ của mình chứng minh mình là kẻ xấu ác rồi. Lâu nay chúng ta xử kỷ tiếp vật đúng hay sai ? Đa số là sai. Nghĩa là mình thấy mình tốt, ai nói mình xấu, nổi giận liền. Mà đã nổi giận thì xấu chớ tốt sao được ? Chỉ có người bị chê mà vẫn tươi tỉnh vui vẻ, ai nói sao cũng cười thì người đó mới trọn vẹn tốt. Đó là nhẫn nhục không có nghĩa gồng mình chịu đựng, mà dùng trí thấy đúng lẽ thật. Khi thấy đúng lẽ thật rồi, chúng ta mới có khả năng kham nhẫn được mọi trường hợp bất như ý xảy ra. vậy tất cả người tu muốn cho tiến bộ, có kết quả tốt là phải có đức nhẫn nhục.

Sau đây tôi nói về hạnh Quán Âm qua ý nghĩa biểu trưng của tượng Quán Thế Âm Bồ Tát. Tượng Bồ Tát Quán Thế Âm chúng ta thấy có lắm tượng, ở đây tôi chỉ nói ý nghĩa pho tượng phổ thông là Quán Âm Thanh Tịnh Bình Thùy Dương Liễu. Tượng hình người nữ đứng trên hoa sen, tay mặt cầm cành dương liễu, tay trái cầm bình thanh tịnh, trong bình đựng nước cam lồ. Quí Phật tử đi chùa tụng kinh Phổ Môn hằng lạy theo mười hai câu nguyện, trong đó có câu: “Nam mô thanh tịnh bình thùy dương liễu, Quán Âm Như Lai cam lồ sái tâm nguyện”. Câu nguyện này diễn tả đúng hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm.

Tại sao tượng Bồ Tát Quán Thế Âm lại là người nữ ? Theo kinh Di Đà nói: Người sanh về cõi Cực lạc tuy chưa chứng quả Thánh, vẫn không có tướng nam tướng nữ. Kinh A-hàm nói: Người nữ có năm chướng không thể thành Phật. Thế sao Bồ Tát Quán Thế Âm lại hiện thân người nữ ?

Bồ Tát quán Thế Âm hiện thân của đức từ bi. Muốn nói lên tình thương chân thành tha thiết nhất trong con người, không tình thương nào qua tình thương mẹ thương con, vừa thâm thúy vừa bao la khó có thể hình dung đo lường được. Cho nên Bồ Tát Quán Thế Âm hiện thân là một người mẹ hiền của nhân loại, hay của tất cả chúng sanh. Người mẹ dầu bận công ăn việc làm gì, một khi nghe tiếng con kêu khóc, mẹ buông bỏ tất cả vội vàng chạy lại vỗ về con. Ngài Quán Thế Âm cũng thế, dù bận việc giáo hóa ở đâu, một khi nghe tiếng kêu than của chúng sanh Ngài liền hiện thân đến an ủi. Vì thế gọi Ngài là Bồ Tát Quán Thế Âm, mẹ hiền của tất cả chúng sanh. Lúc nào cũng lắng nghe tiếng nấc nở từ cõi lòng của đàn con dại đang đắm chìm trong bể khổ mênh mông, để đến xoa dịu cứu thoát, khiến mọi khổ não đều được tiêu tan.

Tay mặt Ngài cầm cành dương liễu là tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Tay trái cầm bình thanh tịnh đựng nước cam lồ là tượng trưng cho tâm từ bi. Chỉ có cành dương liễu mới có khả năng mang nước cam lồ rưới mát chúng sanh.

Dương liễu là loại cây vừa dẻo vừa mềm, gặp gió mạnh thì uốn mình theo chiều gió, gió dừng là trở về vị trí cũ. Nếu cứng như cành cây lim, cây gỏ thì gió không thể lay, một khi bị gió lay là phải gảy. Nếu yếu như cành liễu thì chỉ buông rủ theo chiều gió. Cứng quá, mềm quá đều không có sức chịu đựng lâu dài. Cành dương liễu nhờ sức mềm dẻo nên khéo tùy duyên mà không mất vị trí. Tức là tuy chiều theo cảnh mà không bị cảnh chi phối. Vì thế, cành dương liễu được tượng trưng cho đức nhẫn nhục. Nhẫn nhục không có nghĩa ai làm sao cũng được, ai bảo gì cũng nghe. Chính bản chất của nó là khéo tùy thuận người, để hướng dẫn họ theo đường lối hay lập trường của mình. Tùy thuận mà không bị người chi phối, ngược lại chi phối được người. Người nhẫn nhục mới trông qua thấy rất yếu hèn, kỳ thật họ có sức mạnh phi thường, đã tự chiến thắng được tình cảm và phản ứng của bản năng. Họ đã vượt ra ngoài phạm trù con người phàm tục, nếu lấy con mắt phàm tục nhìn họ thì không thể nào hiểu nổi. Người chửi ta giận, người đánh ta đỡ, đó là bản năng tự vệ của tất cả mọi người. Bị chửi mà không giận, bị đánh mà không đỡ, ấy mới là việc khó làm, phi bậc Thánh giả đâu thể làm được. hằng ngày chúng ta sống theo tình cảm, theo bản năng, thấy những phản ứng như vậy cho là phải lẽ, hợp lý. nếu thấy người bị chửi mà không giận, chúng ta đâm ra bực tức, khi dễ họ, cho là kẻ hèn yếu nhác nhúa. Đâu ngờ, những kẻ ấy đã đứng trên đỉnh chúng ta, mà chúng ta ở dưới vẫn tự cao tự đại.

Nước cam lồ là thứ nước rất trong, mát và thơm ngọt, do hứng ngoài sương mà được. Chữ cam là ngọt, chữ lồ đọc trại chữ lộ, tức là sương hay mốc. Khi người ta bị nóng bức khô khan, nếu được một giọt nước cam lồ vào cỗ sẽ thấy ngọt ngào mát rượi. Nước cam lồ tượng trưng cho lòng từ bi của Bồ-tát. Khi chúng sanh bị lửa phiền não thiêu đốt, thiết tha cầu cứu nơi Bồ-tát. Ngài sẽ mang nước từ bi đến dập tắt và đem lại cho người sự mát mẻ an lành. Chúng ta đang sống trong nhà lửa tam giới, ngọn lửa phiền não của chúng ta đang cháy rần rần, nếu không có giọt nước từ bi của Bồ-tát, chắn hẳn tất cả chúng ta đều phải chết thiêu trong lò phiền não.

Từ bi là lòng thương không vụ lợi, không phân biệt thân sơ, không thấy có quý tiện, lòng thương chân thật bình đẳng. Sự quí báu cao cả của nó, chỉ có nước cam lồ mới đủ tính cách tượng trưng. Nước cam lồ chẳng những cứu người qua cơn khát cháy cổ, mà còn đem lại cho người mùi thơm ngon ngọt dịu. Từ bi chẳng những cứu người trong cơn nguy khốn mà còn đem lại cho người nguồn an lạc vô biên. Bởi tính chất quí báu vô thượng của nước cam lồ như vậy, nên phải đựng nó trong cái bình thanh tịnh. Vì của quí bao giờ cũng được đựng trong món đồ quí.

Bình thanh tịnh là tượng trưng cho ba nghiệp trong sạch. Chúng ta ôm ấp lòng từ bi muốn ra cứu độ chúng sanh, nếu thân khẩu ý chưa trong sạch thì khó mong thực hiện lòng từ bi. Nếu cố gắng thực hiện, một thời gian cũng lạc về danh hay lợi. Ví như người có khoa y dược sẵn sàng chữa trị bệnh khổ cho người, khi những con bệnh được lành, đương nhiên có sự đền đáp hay khen ngợi trên báo chí, nếu người ấy ý chưa trong sạch dễ móng lòng danh lợi. Do đó, dần dần làm hoen ố lòng từ bi. Cho nên, muốn thực hiện lòng từ bi, điều kiện tiên quyết là ba nghiệp phải thanh tịnh.

Muốn mang nước cam lồ ra rưới mát chúng sanh phải dùng cành dương liễu làm phương tiện. Bởi vì chúng sanh trong đời này nghiệp chướng quá sâu dầy ít khi thấy lẽ phải. Họ chỉ sống theo bản ngã, sống vì dục vọng của họ, khó ai làm cho họ hài lòng. Dù người ấy sẵn sàng tiếp giúp họ trong khi khốn đốn, mà họ vẫn không biết ơn, đôi khi còn phản bội. Người sẵn lòng từ bi ra tế độ chúng sanh, nếu thiếu nhẫn nhục thì sự tế độ khó được viên mãn. Không phải ai ai cũng sẵn sàng đưa tay cho ta dìu ra khỏi đường nguy hiểm hết đâu, dù họ là những kẻ mù. Có kẻ tin đưa tay cho ta dìu đi, song giữa đường vấp phải những hòn đá nhỏ, hay chạm phải những gốc cây, là họ sừng sộ với ta. Có kẻ dìu đi được một đoạn, họ cho là nhọc nhằn khổ sở, không muốn đi nữa, rồi kiếm chuyện làm khó dễ ta. Có kẻ không ưng đưa tay cho ta dìu, lại còn mắng nhiếc ta thậm tệ. Ở những trường hợp đó, dù ta có thiện chí muốn cứu giúp họ thế mấy, nếu thiếu đức nhẫn nhục, thử hỏi ta có thể làm được việc gì ? Bởi thế người học đạo từ bi, trước phải tập đức nhẫn nhục, khi nhẫn nhục được thuần rồI mới ra thực hiện từ bi. Chưa tập được đức nhẫn nhục đã vội ra thực hành hạnh từ bi, chẳng những không làm được hạnh từ bi, mà lại phát sanh sân hận là khác. Cho nên phải có cành dương liễu rồi, sau mới nhúng nước cam lồ rưới mát chúng sanh.

Sau đây tôi nhắc câu chuyện cổ tích có liên quan đến đức Quán Thế Âm để sáng tỏ thêm ý nghĩa nhẫn nhục. Câu chuyện rất được nhiều người biết đến là Quán Âm Thị Kính. Thị Kính là người đàn bà có chồng, một hôm chồng đang ngủ, nàng thấy có sợi râu mọc ngược nên lấy kéo cắt bỏ. Chẳng may bị chồng và gia đình chồng hiểu lầm cho nàng có ý ám sát chồng, nên nàng bị trả về cha mẹ đẻ. Lễ giáo ngày xưa rất nghiêm khắc, người con gái ở trong gia đình đàng hoàng khi có chồng, mà bị đuổi về là một sự nhục nhã lớn cho gia đình. Thị Kính đang kham chịu cái nhục này. nếu là hạng nhi nữ thường tình không chịu nhục nổi thì hủy mình tự tử. Thị Kính không làm việc đó, giả trai vô chùa tu, đó là bước nhẫn nhục thứ nhất.

Vốn dĩ người có nhiều vẻ đẹp nên khi xuất gia ở chùa. Thị Kính bị các cô để ý. Thị Mầu là một trong những cố ấy, nàng lại là đứa con gái không đoan chính thiếu đạo đức. Nàng thương Thị Kính, không được Thị Kính đáp lại nên sanh lòng oán hận, bèn lang chạ với kẻ thất phu có thai, rồi cáo gian cho Thị Kính là tác giả của bào thai. Thị Kính bị trị tội đánh đập. Khi bị hành hình nhục nhã tại sao Thị Kính không minh oan rằng: Tôi là người nữ giả trai đi tu, mà cứ làm thinh chịu ? Bấy giờ không có chùa Ni mà chỉ có chùa Tăng, nên Thị Kính phải giả trai để được ở chùa. Nếu khai mình là người nữ thì được tha tội, nhưng về chùa thì không được chấp nhận cho ở tu chung với tăng. Trường hợp thứ hai Thị Kính nhẫn nhục để được tu, dù với giá nào cũng phải chịu. Trước Thị Kính cam chịu nhục nhã ở đời để đi tu. Bây giờ cam chịu mọi hình phạt đau đớn nhục nhã, chờ thả ra để được về chùa, vì sự tu mà nhẫn như vậy. Hai cái nhẫn này dễ làm hay khó ? Nếu là chúng ta chắc không chịu nổi.

Nhưng tới lần thứ ba thì tuyệt đỉnh. sau khi bị đánh đập, tai tiếng không tốt, Thị Kính đã bị nhà chùa nghi không cho ở trong chùa mà cho ở ngoài hiên. Bấy giờ Thị Mầu sanh con đem bỏ trước hiên chùa. Nếu không quan hệ máu mủ tình cảm, thì đứa bé khóc mặc nó, nó có ra sao cũng mặc nó, nào có liên hệ gì với mình ! Thế mà khi thấy đứa bé vô tội bị bỏ hoang khóc oe oe Thị Kính liền ôm vào nuôi dưỡng. Bây giờ muốn trắng án chỉ cần không nhận không nhìn đứa bé là được giải oan rồi. Song, thấy đứa bé bị bỏ hoang, nóng ruột ôm nuôi, như vậy ai tin Thị Kính trong sạch ? Chính Hòa Thượng cũng đâm ra nghi ngờ. Tại sao Thị Kính làm như thế ? Vì lòng từ bi ! Thà cứu một mạng sống mà mình bị khổ, hơn là ngồi yên để mặc cho người đau khổ. Nuôi đứa bé không dễ dàng. Đã bị dư luận không tốt, lại còn không phương tiện nuôi dưỡng – không tiền, không sữa, không thức ăn… phải vào xóm làng để xin. Đi tới đâu cũng bị khinh thường phỉ báng. Thế mà Thị Kính mặc nhiên ai chửi thì chửi, ai khinh thì khinh, việc nên làm vẫn cứ làm, ngày ngày vẫn đi xin sữa để nuôi trẻ, mấy năm trời đứa bé mới lớn. Nhẫn như thế là tột độ rồi. Chúng ta bị mắng một câu đã ngủ không được, còn thị Kính ngày nào cũng bị miệt khinh, cũng bị chửi mắng mà vẫn cứ an nhiên làm. Công đức ấy cỡ nào, lòng từ bi bao lớn, đức nhẫn nhục có thiếu không ? Do đức nhẫn nhục cao tuyệt nên lòng từ bi mới viên mãn. Nhẫn nhục và từ bi viên mãn thì quả Phật hiện kề. Thực hiện lòng từ bi là phải cam chịu cái khổ, cái xấu cái nhục… mà không sờn lòng nản chí, biết điều đó là thiện cứu giúp cho chúng sanh hết khổ thì cứ làm, mặc người đời không biết cứ khen chê mắng chửi. Được như vậy thì công hạnh mới viên mãn, đạo quả mới thành tựu. Chúng ta thấy Thị Kính từ cái nhẫn nhục ban sơ, là thay vì khổ nhục quyên sinh thì trốn đi tu. Lần thứ hai, thay vì minh oan để được trắng án thì chịu nhục, chịu đòn để được tu. Lần thứ ba không vì danh dự, không vì sống cho mình mà sống vì người khác, cứu mạng chúng sanh. Khi hạnh nhẫn nhục và lòng từ bi viên mãn thì đạo quả thành tựu. Bấy giờ Thị Kính được tôn xưng là Bồ Tát Quán Thế Âm.

Qua câu chuyện Quán Âm Thị Kính, chúng ta thấy việc tu hành rất cụ thể, muốn thể hiện lòng từ bi là phải thực hiện trọn vẹn hạnh nhẫn nhục. Nếu thiếu nhẫn nhục thì lòng từ bi khó viên mãn và đạo quả cũng khó thành tựu. Chúng ta tu muốn thành Phật, muốn thể hiện lòng từ bi mà không chịu nhẫn nhục, như thế là ăn gian, không thật tu. Người thật tu thì phải tu nhân như thế mới được quả như thế, chớ tu nhân này mà đòi quả khác là không được. Chúng ta thấy rất rõ ràng và cụ thể, ai tu hành đến độ cao, muốn viên mãn đạo quả đều phải kham nhẫn mọi sự khó khổ, đắng cay không sờn lòng nản chí, thì lòng từ bi mới thể hiện tròn đủ, đạo quả mới viên thành.

Vậy, tất cả người phát tâm tu đều phải học hạnh nhẫn nhục. Có nhẫn nhục chúng ta mới thành người Phật tử chân chính. Nếu không nhẫn nhục, người ta nói một câu nặng một, đáp lại một câu nặng gấp hai, như vậy không phải là người tu. Đáp lại bằng đã không có tu rồi, huống nữa là hơn. Vì vậy tu là phải nhẫn. Nhẫn không có nghĩa gồng mình chịu, mà dùng trí tuệ thấy đúng lẽ thật, buông xả mọi hơn thua phải quấy với người, không cố chấp phiền hận. Người chửi mình, mình không nhận, đó là xả bỏ. Nếu bị chửi một câu mà nhớ hoài không quên, rồi sanh sân si phiền não thù hằn tự mình chuốc khổ và làm người khác khổ lây, đó là không nhẫn, không tu. Vậy tất cả ai tu cũng đều phải thực hành hạnh nhẫn nhục.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:03, 25/04/14

4. NHẪN NHỤC

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục Giảng Giải
Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Thi Ca 4

Dịch:

PHÀM THÁNH KHÔNG HAI

Thân từ vô tướng xưa nay không
Huyễn hóa phân chia thành nhị kiến.
Ta, người như móc cũng như sương,
Phàm, Thánh như sấm cũng như chớp.
Công danh phú quí đồng mây trôi
Năm tháng đời người dường tên bắn.
Chút tình thương ghét chợt dấy lên
Khác nào bỏ bột đi tìm bánh.
Mày ngang mũi dọc cũng như nhau
Phật với chúng sanh không khác mặt.

Ai là phàm chừ ai là Thánh
Nhiều kiếp kiếm tìm không căn tánh.
Không tâm chẳng thị cũng chẳng phi,
Chẳng kiến không tà cũng không chánh.
Đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương
Tỳ-kheo Khánh Hỷ công đức thánh.
Tự giác giác tha độ đường mê
Khắp cõi mát lành không nóng bức.
Anh thấy chăng
Người mất trước đó là ai?
Người được sau đó là ai?
Hai tâm sai khác một dòng mạng.
Rốt cuộc tám muôn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni.
Đồng nhiếp vào gương trí rộng lớn tròn đầy Như Lai.
Chao!

Giảng:


Ai tu cũng có quan niệm chuyển phàm thành Thánh, hay tiến từ nhân vị phàm phu lên quả vị Thánh. Đây là ước nguyện chân chánh, nhưng sao Thượng Sĩ nói phàm Thánh không hai? Ngài giải thích:

Thân từ vô tướng xưa nay không
Huyễn hóa phân chia thành nhị kiến.


Thân của chúng ta từ Thể vô tướng, xưa nay vốn là không, do duyên hợp tạm có hình tướng huyễn hóa. Thế mà chúng ta phân chia hai thứ: ta người, phàm Thánh, phải quấy... Tất cả những cái thấy phân biệt hai bên gọi là nhị kiến. Đã là thân huyễn hóa không thật thì thân nào là phàm, thân nào là Thánh?

Ta, người như móc cũng như sương
Phàm, Thánh như sấm cũng như chớp.


Thấy ta khác thấy người khác, nhưng sự thật ta và người huyễn hóa tạm bợ như sương như móc, sáng thấy mờ mờ nắng lên tan mất không còn. Phàm Thánh cũng vậy. Vừa nói phàm vừa gọi Thánh thoáng chốc là mất đi, giống như sấm vừa nổ vang sau đó liền dứt tiếng, chớp vừa lòe sáng cũng tắt ngay. Vì nó là ý niệm ngôn ngữ hai bên đối đãi, không thật, không bền.

Công danh phú quí đồng mây trôi
Năm tháng đời người dường tên bắn.


Sự giàu sang danh vị ở cõi đời, ai cũng thèm khát mong muốn, muốn cho mình có địa vị trong xã hội để nở mặt nở mày, muốn cho mình được giàu sang sung sướng. Nhưng giàu sang danh vị không bền lâu, mới tiền rừng bạc bể đó chẳng bao lâu trắng tay, vừa tiền hô hậu ủng đó trở thành kẻ lưu đày. Giàu sang danh vị chẳng khác nào chòm mây trôi nổi bồng bềnh trong hư không, vừa thấy đó là mất đó. Tuổi đời mấy mươi năm chúng ta tưởng chừng như dài lắm, nhưng ngồi nhớ lại ngày tháng qua thấy nhanh như tên bắn. Những câu này Thượng Sĩ chỉ cho chúng ta thấy tánh chất của nhân ngã, phàm Thánh, công danh phú quí, thời gian năm tháng chỉ là ý niệm hai bên không thật, thoáng có rồi không, đừng có mê chấp.

Chút tình thương ghét chợt dấy lên
Khác nào bỏ bột đi tìm bánh.


Trong lãnh vực tu hành, muốn nhận ra Pháp thân thanh tịnh có sẵn nơi mình mà khởi niệm thương ghét thì Pháp thân bị che khuất, không làm sao nhận ra được. Giống như muốn ăn bánh mà bỏ bột, vì bỏ bột thì không có bánh. Muốn cho Pháp thân hiển lộ thì phải dứt niệm thương ghét, vì thương ghét là niệm hai bên; những niệm hai bên lặng hết thì Pháp thân hiện tiền. Cũng như biết lấy bột làm bánh thì có bánh ăn. Mục đích tối thượng của sự tu hành là chúng ta nhận ra Pháp thân hằng hiện hữu nơi mình, nếu để niệm thương ghét, buồn giận, hơn thua, phải quấy dấy lên là nuôi dưỡng cái thứ phản bội che đậy Pháp thân trong sáng của mình. Nó là giặc phá hoại của báu nhà mình, phải gan dạ xa lìa xả bỏ chớ theo nó. Quí vị có gan dạ xa lìa vọng niệm, hay nó dấy lên lưu luyến nuôi dưỡng? Nuôi dưỡng dòng niệm trước độ mười lăm phút mới bỏ, dòng niệm sau khởi tiếp tục nuôi nữa, cứ như thế nuôi hết niệm này tới niệm kia! Nuôi thương ghét buồn vui... hết ngày này tới tháng kia, tới năm nọ, cho tới già chết. Ai nuôi nó thì không nhận ra Pháp thân chân thật của mình, ai buông sạch vọng niệm, không cầu ngộ, Pháp thân vẫn hiện tiền.

Mày ngang mũi dọc cũng như nhau
Phật với chúng sanh không khác mặt.


Phàm và Thánh là một hay hai? Nói một không được, nói hai cũng không thông. Giả sử có một người phát tâm tu; khi mới phát tâm phiền não vẫn còn, nên gọi là phàm, nhưng nhờ họ tinh tấn tu hành dẹp bỏ hết phiền não, dứt sạch niệm hai bên, ngộ được Pháp thân thanh tịnh gọi là Thánh. Vậy, người còn phiền não khi trước và người ngộ Pháp thân lúc sau là một hay hai? Nếu là một tại sao trước kia không gọi người đó là Thánh mà gọi là phàm? Tu hết phiền não giác ngộ mới gọi người đó là Thánh? Nói phàm nói Thánh dường như hai, nhưng sự thật không phải hai. Vậy, tất cả người phàm, nếu khéo tu buông hết vọng tưởng, ngộ được Pháp thân chân thật thì là Thánh, nên nói Phật với chúng sanh không khác mặt. Chỗ này còn một ý nữa là, đa số người đời cho rằng Phật là nhân vật có ba mươi hai tướng tốt, có hào quang phóng ra sáng rỡ, ngự trên tòa sen rất uy nghiêm. Người tu chỉ là con người bằng xương bằng thịt, tầm thường như bao nhiêu người đời. Giả sử như vị ấy tu dẹp hết vô minh phiền não, hoàn toàn giác ngộ thành Phật, nhưng không đủ ba mươi hai tướng tốt, không phóng hào quang, không ngồi tòa sen, mà đi vào xóm làng để hóa duyên, gặp quí vị, quí vị cho đó là Phật hay chúng sanh? Nhìn qua thân hình thì thấy cũng như mọi người! Khi còn mê cũng là thân này, cũng mày ngang mũi dọc, khi giác ngộ rồi cũng là thân này cũng mày ngang mũi dọc. Nhưng chỉ khác ở mê và ngộ chớ thân tứ đại không khác. Thế nên Thượng Sĩ nói:

Mày ngang mũi dọc cũng như nhau
Phật với chúng sanh không khác mặt.
Ai là phàm chừ ai là Thánh
Nhiều kiếp kiếm tìm không căn tánh.


Căn cứ vào thân tứ đại này, hỏi ai là phàm ai là Thánh làm sao phân định để trả lời? Phàm và Thánh không cố định, người mê gọi là phàm người giác gọi là Thánh. Mê giác là ở nội tâm người, chớ không do thân thể hình hài mà nên. Con người ai cũng mang thân tứ đại như nhau, không khác; nhưng khi mê là phàm khi giác là Thánh. Muốn tìm kiếm nguồn gốc căn tánh của mê và giác khó mà tìm được, dù trải qua nhiều đời nhiều kiếp cũng không tìm được. Vì mê giác không có cội gốc làm sao mà tìm?

Không tâm chẳng thị cũng chẳng phi
Chẳng kiến không tà cũng không chánh.


Không tâm đây không phải là tâm không ngơ, mà là tâm không dấy niệm. Tâm không dấy niệm thì không có chuyện phải (thị) quấy (phi). Sở dĩ chúng ta thấy đây là phải kia là quấy, là do chúng ta khởi niệm phân biệt, nếu tâm hằng lặng lẽ không khởi niệm thì đâu có phải quấy. Người tu mà không khởi niệm phân biệt, không cho đây là phải kia là quấy, thường bị người đời cho là ba phải. Vì người đời khởi động niệm nên nói đây phải kia quấy. Người không khởi niệm làm sao xác định cái nào phải cái nào quấy? Nếu cần phải nói thì nói không phải không quấy, mà nói như thế thì người đời cho là ngu, không biết phải quấy. Người đời do quá khôn nên thấy phải quấy, tốt xấu, hơn thua đủ thứ. Còn người thật tu không phân biệt phải quấy thì bị cho là ngu. Như vậy quí vị có gan dạ làm kẻ ngu không? Đa số người đời thích khôn hơn là ngu, vì khôn mới cãi lý hơn người, còn ngu thì đâu có cãi, cũng không hơn ai. Không khởi niệm phải quấy thì có gì để cãi! Giả sử tất cả Tăng Ni ở đây, không có ai còn khởi niệm phân biệt phải quấy thì, đi từ Thiền đường đến phòng Tăng đến trai đường, đi đâu cũng không có tiếng cãi lý hơn thua. Nếu quí vị còn niệm phải quấy thì đi đâu cũng nghe quí vị nói cãi ồn ào, từ bên Tăng lẫn bên Ni. Chẳng hạn như thấy cành hoa hồng, người nói tốt người nói xấu, rồi cãi nhau. Xế chiều thì hoa hồng rã cánh rụng hết, vậy hoa hồng tốt hay xấu? Thật là vô lý, vật hết sức là tạm bợ, thế mà chúng ta cứ chấp chặt vào đó để tranh cãi, cãi cho ra lẽ, nhưng rốt cuộc rồi chẳng tới đâu! Đó là nghiệp thức của chúng sanh, do có tâm thức phân biệt, nên mới có phải có quấy. Nếu không tâm phân biệt, nào có thị có phi. Do tâm phân biệt phải quấy, nên mới khởi kiến chấp pháp này là tà, pháp kia là chánh; tà chánh là do tâm chấp trước mà ra. Nếu không khởi niệm không chấp trước thì cái gì tà, cái gì chánh?

Đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương
Tỳ-kheo Khánh Hỷ công đức Thánh.


Thượng Sĩ trình bày phàm Thánh không khác, không thị phi, không chánh tà. Tiếp theo Ngài dẫn câu chuyện người đồ tể tên Quảng Ngạch bỏ nghề giết hại phát nguyện tu, chẳng bao lâu được giác ngộ, nên nói đồ tể Quảng Ngạch thành nguyện vương (kinh Đại Bát Niết-bàn). Khánh Hỷ nghĩa là vui mừng, là tên của Tôn giả A-nan, em con nhà chú của Thái tử Sĩ-đạt-ta. Ngài ra đời ngay khi Thái tử Sĩ-đạt-ta thành Phật. Thái tử thành Phật là niềm vui mừng lớn của nhân loại, nên Ngài được đặt tên là Khánh Hỷ. Khi lớn lên Ngài xuất gia làm Tỳ-kheo, làm Thị giả hầu cận bên Phật, là một trong những đệ tử lớn của đức Phật, là bậc đa văn có đức hạnh đầy đủ, tu chứng được quả Thánh. Thượng Sĩ nói Tỳ-kheo Khánh Hỷ hầu cận Phật tu thành Thánh, người đồ tể tu cũng thành Thánh. Chỗ này cho thấy, chẳng riêng người gần gũi Phật như Thị giả A-nan tu mới thành đạo, mà tên đồ tể từng làm nghề giết hại sanh vật, nếu khéo tu cũng thành tựu đạo quả. Như vậy nói ai phàm ai Thánh? Đâu phải đồ tể là phàm, đâu phải Tỳ-kheo là Thánh, mà phàm Thánh chỉ ở mê và giác. Vậy, với người giác ngộ không nói ai là phàm ai là Thánh.

Tự giác giác tha độ đường mê
Khắp cõi mát lành không nóng bức.


Tự mình tu được giác ngộ rồi, ra giáo hóa giúp cho người người được giác ngộ như mình, cũng ra khỏi mê lầm, khiến cho cõi đời này được an vui thanh thoát. Nói theo Thượng Sĩ là khắp cõi mát lành không nóng bức. Trọng tâm của người tu là phải làm sao tu cho mình được giác ngộ, sau đó giáo hóa người cũng được giác ngộ, như thế mới đem lại an vui lợi ích cho chúng sanh. Ví dụ Tăng Ni trong Thiền viện, nếu ai cũng tỉnh giác biết thân này và ý niệm của tâm là huyễn hóa không thật, biết niệm khởi là gốc tạo nghiệp, không khởi vọng niệm, không chạy theo cảnh, không chấp thân là thật. Toàn chúng cả trăm người ai cũng thấy như vậy thì từ sáng tới chiều đâu có bực bội phiền não, ngày nào cũng an lành mát mẻ. Quí vị thấy như thế nhắc nhở cho mọi người cũng thấy như thế, thì cõi đời này thanh tịnh an vui dường nào! Sở dĩ bây giờ có vui buồn phiền não là tại chúng ta chưa tỉnh giác, nên sanh khởi nhiều chuyện lôi thôi.

Anh thấy chăng,
Người mất trước đó là ai?
Người được sau đó là ai?


Thượng Sĩ hỏi chúng ta có thấy chăng, thân này hư hoại chết đi là ai? Người chết tái sanh thân khác là ai? Thân cũ thân mới (thân tiền ấm, thân hậu ấm) dường như là hai thân hai tâm. Song, sự thật nó chỉ là một dòng sanh mạng; thân trước hoại mất là tử, thân sau được tức là sanh. Sanh tử thấy như có đây được kia, nhưng thật chỉ là mình chớ không có ai khác. Thế nên Thượng Sĩ nói:

Hai tâm sai khác một dòng mạng.

Tất cả niệm được niệm mất đều không thật. Nó là gốc của nghiệp dẫn chúng sanh đi trong luân hồi sanh tử. Không phải cái này được sanh cái kia bị mất là hai cái khác biệt.

Rốt cuộc tám muôn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni.
Đồng nhiếp vào gương trí rộng lớn tròn đầy Như Lai.
Chao!

Đà-la-ni là tổng trì, gồm giữ tất cả. Tất cả pháp hữu vi có hình tướng sai biệt có sanh có diệt, đồng nhiếp chung một Tánh giác như nhau, hay nói cách khác là đồng nhiếp chung một gương Trí tuệ Phật rộng lớn của mình. Vậy, gương Trí tuệ Phật của mình mới là cái gốc, còn tất cả tướng sanh diệt chỉ là cái tạm giả dối không thật. Thấy như vậy mới là thấy tột cùng.

Tóm lại, với đôi mắt giác ngộ thấy phàm Thánh không hai. Nhưng người đời thấy là hai và lúc nào cũng nghĩ phàm phu tu để được làm Thánh. Phàm Thánh không hai, mê là phàm, giác là Thánh; tuy mê giác có khác ở nội tâm, chớ thân không khác. Chúng ta tu muốn được giác ngộ là phải biết rõ vọng niệm là si mê dẫn đi trong luân hồi sanh tử, nên không dấy niệm phải quấy hơn thua không chạy theo ngoại cảnh.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”