PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Hệ thống Giới Kinh (tiếp)


Như vậy, hệ thống Giới Kinh của Đức Thế Tôn phải được thấy trên quan điểm hành triết Phật tức là thấy trên quan điểm triết bất nhị. Người đọc, người hành, người nghiên cứu… mọi người khi tiếp cận Giới Kinh Phật mà tiếp cận trên các góc độ quan điểm: Thuyết triết ba phải (tức là chẳng rõ hành triết là gì) , thuyết triết duy vật, thuyết triết duy tâm… Thế thì đọc, nghiên cứu, tu vô lượng kiếp cũng không có kết quả gì



Khi đọc, nghiên cứu, thực hành bất kỳ một Pháp nào nằm trong Giới Kinh Phật mà Chánh Kiến, Chánh Tư duy đến mức: Chánh niệm tỉnh thức về Kiến và Tư duy của bản thân rằng: Ta hiểu rất rõ triết bất nhị là gì và ta đang đọc/nghiên cứu/hành 1 pháp bất nhị của Đức Thế Tôn. Lúc đó, người này sẽ hệ thống lại được hết hệ thống Giới Kinh Phật ở cấp độ phân biệt độ tín cẩn của Kinh Pháp đang đọc.


Tại hơn 2500 năm sau thời Đức Thế Tôn. Thứ Báu vô giá Đức Thế Tôn “nhét” trở lại thế giới này chắc chắn là thứ mà các tồn tại vô thượng ở các Đạo khác vừa nhòm ngó vừa không lấy được vừa bực mình. Rõ ràng, đây là thứ không nên xuất hiện ở thế gian vì nó làm đảo lộn mọi thứ của các tồn tại khác. Bởi thế khi Phật Đạo ngồn ngộn phát triển mang tới một khả năng “cử thế phi thăng” và uy hiếp các tồn tại… điều gì đến cũng đến: Các đại hội Phật giáo ra đời và các Kinh Pháp được biên soạn lại.


Giờ đây, để hệ thống Giới Kinh, người hành triết Phật cần làm bước thứ nhất: Bất kỳ Kinh nào đọc phải đứng trên hệ quy chiếu Bất Nhị (Đạo Trung) để mà thấy các Kinh nào nhuốn màu duy tâm đơn lẻ, duy vật đơn lẻ, siêu hình đơn lẻ thì tham nghiên các bản Kinh khác ắt sẽ thấy chỗ sai lệch. Phải loại bỏ ra các Kinh Pháp mang màu sắc duy tâm đơn lẻ, duy vật đơn lẻ, siêu hình đơn lẻ.


Mới có Chánh Kiến và Chánh Tư duy ở mức độ Chánh Niệm Tỉnh thức (niệm này ở đây chính niệm: Bất nhị đó) khi hệ thống Giới Kinh chưa chắc đã thấy rõ được mọi thứ chân như vì cấp độ này còn thấp lắm nhưng như vậy là đủ để bước vào phạm vi người hành Pháp Phật. Cấp độ đầu tiên: Cư sĩ. Tức là tu tại gia, tu tại ngay đời sống của người tu ở tại gia, tại xã hội tại thế gian bình thường như bao người khác.



Từ một tia Chánh niệm tỉnh thức về Đạo Trung (bất nhị) và người đó được gọi là cư sĩ Đạo Phật khi luôn luôn sống một đời sống trong cái Chánh niệm tỉnh thức này. Niệm này là niệm bất nhị.


Không phải 1 người cư sĩ lúc này trong đầu cứ “bất nhị” “bất nhị” có nghĩa là Chánh Niệm Tỉnh Thức đâu.


Tức là bất cứ cái gì (pháp gì) được 6 căn thu vào cũng phải Quán (pháp hành Quán đó) - hay trên quan điểm bất nhị mà Chánh Kiến nó, Chánh Tư Duy nó… để có được Chánh trí (thứ sau này biến thành Minh và xua vô minh và khi viên mãn là vô thương trí tuệ vô lậu đó) - thứ mà gọi theo phân tâm học phương tây là: Nhận thức đúng trên quan điểm bất nhị (Đạo Trung).

Vì có sự Chánh trí về mọi thứ mà 6 căn truyền vào với Chánh Kiến Chánh Tư duy đó - người này bắt đầu phản ứng lại với thế giới hay hoàn cảnh bằng Chánh Kiến Chánh Tư duy với Chánh niệm tỉnh thức làm cho hành động của mồm, hành động của thân và hành động của ý được Chánh, tức là:

Chánh tư duy (ý hành): Ý hành lúc này vì có cái Chánh trí về các thứ thu nạp qua 6 căn nên luôn luôn có Chánh Niệm Tỉnh Thức: Tư duy mọi thứ trên góc độ Đạo Trung hay bất nhị hay không ngả duy tâm không ngả duy vật.

Chánh ngữ (mồm hành): Khẩu hành lúc này chỉ nói ra lời với Chánh niệm tỉnh thức: Lời nói trên góc độ Đạo Trung, không duy vật không ngả duy tâm.

Chánh nghiệp (nghiệp hành): Hành nghiệp lúc này chỉ hành nghiệp với Chánh niệm tỉnh thức: Nghề nghiệp mà làm ở trên góc độ Đạo Trung, không ngả duy vật không ngả duy tâm.

Cháng mạng (thân hành): Thân hành (sống hành) lúc này phải luôn ở trong Chánh Niệm Tỉnh thức: Mình sống trên góc độ Đạo Trung, không ngả duy vật không ngả duy tâm.



Đọc đến đây, người Cư sĩ phải thấy được thứ đầu tiên khi bước lên con đường tu hành triết Phật. Đây là ngọn đèn mà người cư sĩ bắt đầu thắp lên để theo Phật. Mãi mãi về sau đều phải Chánh Niệm Tỉnh Thức - Đạo của Đức Thế Tôn là Đạo Trung, là Đạo bất nhị, nên mọi thứ đều phải ở trong Đạo này hay bất cứ điều gì đều phải dùng cái ngọn đèn vừa được thắp lên này soi (đứng trên bất nhị Quán Chiếu) mới có thể Chánh Kiến, Chánh Tư duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng…. Mới lần lần tiến đi trên con đường xa hơn.
Được cảm ơn bởi: Hồng Hạnh
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Các Pháp hành trợ Đạo


Đến bây giờ mà người hành triết Phật khi đọc đến đây mà còn chưa thắp lên ngọn Đèn Đạo Phật hay chưa hiểu được Đạo Phật là gì thì…. Người đọc cứ tiếp tục thường thức thôi, chưa nên có ý nghĩ gì về thế giới này Đạo của Đức Thế Tôn.


Đạo của Đức Thế Tôn đã được Đức Thế Tôn nói luôn là Đạo gì, như thế nào ở bài thuyết pháp đầu tiên sau khi người Chứng Đạo rồi. Ngọn đèn chúng ta phải thắp lên để đi theo Đạo của Đức Thế Tôn, đọc đến chỗ này người đọc phải biết nó là ngọn đèn gì rồi, và phải thắp lên rồi.


Nhưng cái ngọn đèn leo lét này (dù tương lai là ngọn đèn vô thượng, ngọn đèn vô lượng Quang) mà không có dầu hay nhiên nguyên liệu thì liệu nó có sáng mãi được? . Bởi thế trong hệ thống Giới Kinh của Đức Thế Tôn có mấy chục nguồn tiếp năng lượng cho ngọn đèn này dần dần sáng lên mãi thành vô lượng Quang xua tan màn vô minh. - Hãy nhớ, ngọn đèn này chính là Đạo của người tu hành triết Phật, là nơi chứ Lực tu, là thứ dùng để đạt mọi cấp độ cảnh giới cũng như làm bất cứ cái gì trên con đường tu nên phải gìn giữ cẩn thận.

Đạo Trung
Chánh niệm tỉnh thức: Đạo Trung


Theo hệ thống Giới Kinh còn được lưu truyền. Có tổng cộng 37 phẩm trợ Đạo. Hãy ghi nhớ, đây là các phương tiện quý giá sẽ trợ giúp mình trên con đường quay trở về nắm Cơ và nhiều hơn thế nữa. Nó là những thứ mà Đức Thế Tôn trợ giúp (Lực Phật, Lực Tha) để người tu đi đường mà ngọn đèn không tắt và càng lúc càng sáng hơn để đi được từng bước trên đường đi Đạo của Ngài.


Người tu nếu thắp được ngọn đèn như đang nói đây, khi đọc bất kỳ một phẩm trợ Đạo nào đều sẽ thấy nhiệm màu và biết phải tu hành như thế nào cho đúng. Không cần ai là giảng sư là người bình giảng hay abc mới thấy. Có khi những người bình giảng còn giảng giải sai hàm nghĩa vì cái ngọn đèn họ không thắp lên thì không rơi vào duy tâm chắc cũng thể loại siêu hình.



Tuy nhiên, đến đây vẫn chưa là Minh.


Các Phẩm trợ Đạo có thấp có cao. Có phẩm là dùng cho lúc cư sĩ nhưng có phẩm chỉ có tác dụng khi tới tu sĩ. Có những phẩm là bắt buộc phải thấy, rót trọn vẹn vào trong ngọn đèn (tu hành viên mãn - đạt được) thì mới đi được tiếp. Nó mà đơn giản kiểu chỉ cần cầm lấy rồi rót đổ vào bình dầu thì dễ quá.



Nếu đọc nhiều về Phật có lẽ chẳng ai không quen thuộc với cảnh: Thắp đèn của Đức Thế Tôn. Nó thường xuyên xuất hiện, từ ở trong nội dung chính của Kinh Pháp lẫn các râu ria của Kinh Pháp. Cảnh thắp đèn là 1 cảnh không thể thiếu ở hệ thống Giới Kinh Phật.


Hãy cố gắng lấy được thật nhiều những trợ lực của Đức Thế Tôn. Giới Kinh bao hàm tất cả. Giới Luật là thầy, và mấy chục phẩm trợ Đạo này chính là người trợ lực, hộ trì, hộ Đạo. Đừng có xót bỏ 1 ai cho rằng không cần. Phải đạt được, rót hết vào ngọn đèn - nó sẽ sớm nhiệm màu và toả ra vô lượng Quang thôi.



Về mặt ngọn đèn, nếu đến đây vẫn chưa Minh tâm kiến tánh hay cụ thể đầu tiên là: Thấy được Đạo của Đức Thế Tôn đã tuyên. Nguyện đi theo con đường Đạo của Đức Thế Tôn bằng Chánh Niệm Tỉnh Thức thắp lên cái ngọn đèn không bao giờ tắt (Chính là chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn đó) thì người đọc, người tu không cần phải quan tâm gì nữa về Đạo Phật vì đến Đạo Phật là gì và thắp lên ngọn đèn tức là luôn luôn chánh niệm tỉnh thức về Đạo Phật còn không làm được thì càng tu càng sẽ tẩu hoả nhập ma, không đem đến kết quả gì cho người tu ở ngay thời điểm hiện tại. Không đem đến cái gì cả.
Được cảm ơn bởi: Hồng Hạnh
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Giai đoạn Cư sĩ


Giai đoạn Cư sĩ vẫn chưa được gọi là một người tu Đạo nên cần phải phân biệt với một người là tu sĩ. Một tu sĩ là đã nguyện xuất khỏi thế gian và đã đạp được 1 bước vào việc xuất thế gian. Người bình thường chúng ta - cả đời dường như không bao giờ nhìn thấy được họ trừ khi có cơ duyên, Đại cơ duyên. Ở đây, không nói về những người tu sĩ giả danh. Chúng ta cần nhớ: Tu sĩ - người bình thường không thể nhìn thấy, nghe thấy, biết rõ thế nào vì họ dù mới chỉ bước 1 phần vạn bước chân vào con đường tu sĩ thì họ đã không phải người thế gian. Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, vì những duyên chưa thể hết nên đôi khi chúng ta mà có cơ duyên có thể thấy. Đã thấy là thấy cơ duyên, đã thấy cơ duyên là thấy. Còn nếu không phải tức là không phải cơ duyên hay không phải tu sĩ. Phật Luận này càng không phải viết cho tu sĩ vì họ đã là tu sĩ - họ có lối của họ - nên chúng ta không bàn về tu sĩ. Phật Luận vì thế giống như là “truyện của thế gian” - vậy thôi.


Thế gian có mấy ai là tu sĩ và cho đến bây giờ còn lại bao nhiêu? - Vì câu hỏi này nên chúng ta không nghĩ bàn ở đây. Tất cả ở đây chỉ là cư sĩ, nói về cư sĩ, nói cho cư sĩ dù có tóc hay không, cởi trần hay mặc quần… chúng ta giống nhau - chỉ là người thế gian.



Ở đây, ai cũng cần tự thấy:

1/ Như nói ở phía trên, bất cứ ai sinh ra đều hành triết để giải quyết các vấn đề của mình. Bạn hành có thể hành triết ba phải (tức chẳng theo thuyết triết nào mà lúc dùng thế giới quan này lúc dùn thế giới quan nọ và cũng chẳng hiểu thế giới quan là gì, nhân sinh quan là gì - cứ ba phải ở trong đầu thế nào thì dùng (sống) thế). Hoặc bạn hành triết Chúa, hoặc bạn hành triết các Đạo khác, hoặc bạn hành triết duy vật, hoặc bạn hành triết Phật. Như vậy, nếu bạn không hành triết Phật thì bạn cũng không cần quan tâm Phật Luận vì nó chẳng có tác dụng gì cho bạn.

“Một nhà triết học dù am hiểu mọi vấn đề của triết học đến đâu chăng nữa mà không áp dụng triết học đó vào để giải quyết vấn đề của mình trong cuộc sống - rõ ràng đó không phải là một nhà triết học hay người có nghiên cứu về triết học - đây chỉ là một nhà lý thuyết.” - Khi hành các triết khác, Bạn cũng không nên nghĩ rằng mình sẽ đọc thường thức về Phật để xem có gì hay thì áp dụng (đặc biệt là thể loại triết ba phải) - vì nghiệp là thứ không thể nói chơi.


2/ Người hành triết Phật với người không hành triết Phật ở xã hội chỉ khác nhau cái ngọn đèn như vừa nói phía trước. Ngọn đèn này là ngọn đèn chánh niệm tỉnh thức về Đạo Phật. Vì chánh niệm tỉnh thức nên nó không tắt. Nếu lúc sáng lúc tắt thì đó chưa phải là chánh niệm tỉnh thức - chưa là cư sĩ. Mới chỉ là ngoại Đạo mến mộ Đạo Phật mà thôi. Khi chánh niệm tỉnh thức không mất, tức là ngọn đèn không tắt. Ngọn đèn không tắt tức là chánh niệm tỉnh thức.


Ngọn đèn: Đạo Trung. Đạo Trung là gì
Chánh niệm tỉnh thức: Sống ở đời sống từ đây về mãi mãi mai sau thời thời khắc khắc dùng ngọn đèn Đạo Trung soi rọi mọi thứ. Tức là: Nếu nói theo ngôn ngữ triết học hiện đại là: Từ đây, người tu luôn sống với thế giới quan, nhân sinh quan của Đạo Trung.



Ngọn đèn này: Không dễ thắp đâu nhé. Khó lắm đó. Nhưng không sao, lúc sáng, lúc tắt nhưng biết rõ là lúc sáng lúc tắt là có duyên với Phật rồi… rồi từ từ nó sẽ tự không tắt nữa mà sẽ sáng liên tục.


Riêng việc thắp được ngọn đèn này: Người này đã vượt qua rất rất nhiều những người tu sĩ giả danh nhan nhản thời hiện nay… chưa cần phải biết những thứ nhiệm màu gì gì ở đâu, ở ai cả.


Vì sao? - Vì chỉ cần ngọn đèn này không tắt tức là họ luôn chánh niệm tỉnh thức về Đạo Trung trong cuộc sống - điều này là gì? - Là họ đang tỉnh thức rất rõ họ đang hướng tới sống theo giống như Đức Thế Tôn đó và họ đã và đang sống theo rồi - dù cách Đức Thế Tôn xa vô lượng dặm. Vì đây là Đạo Của Đức Thế Tôn, Con đường đi của Đức Thế Tôn.


Người chỉ cần sống ở Chánh niệm tỉnh thức Đạo Trung của Đức Thế Tôn dù chưa bao giờ đọc được 37 phẩm trợ Đạo mà ngọn đèn này đã có từ trước đó thì chỉ cần đọc qua 1 cái - rất nhiều phẩm trợ Đạo sẽ thấy như nhiều phẩm đã gần như là tu viên mãn rồi


Chúng ta nhớ: Ngọn đèn này không phải ngọn đèn dầu hay ngọn đèn tưởng tượng.


Phải thắp lên ngọn đèn này mới nghĩ các thứ tiếp theo. Còn mọi thứ Kinh Pháp khác chỉ là Trợ thôi mà. Ngọn đèn mới là cái sau này duyên ra Tâm … nên đèn không thắp mà đọc cả lố Kinh Pháp Phật khác gì nhà lý thuyết học hoặc cứ điên cuồng tu hành mấy cái pháp gì gì nào đó mà đèn không thắp khác gì dã tràng xe cát, khác gì lâu đài tình ái trên mây????


Nên phải thắp đèn.

Lúc đầu, thắp lên nó lại tắt, thắp lên nó lại tắt… nhưng kiên trì thắp đi thắp lại: Đến một lúc nó sẽ không tắt nữa.


Nhưng nhiều người kể cả đọc đến đây cũng không thấy rõ được đèn là gì cơ. Không thấy rõ thì thắp sao nổi, thắp không khí à. Nên nếu chưa thấy cái đèn thì phải kiên trì tìm, kiên trì, kiên trì tìm. Mà muốn tìm thấy, cũng phải có 1 phần trí tuệ hữu lậu nhất định mới rõ: Đèn ở đây là gì, thắp đèn là gì, Chánh niệm tỉnh thức ở chỗ này là gì. Đèn cứ tắt lại nhận ra thắp lại rồi tắt lại nhận ra thắp lại là gì - Không phải đang tu Chánh Niệm Tỉnh thức khi đèn cứ tắt lại thắp rồi nó vẫn tắt đó lại thắp… cho đến khi nó không tắt thì Chánh niệm tỉnh thức ra sao rồi????

Đây mới là Chánh niệm tỉnh thức để bắt đầu đi (đèn ko tắt rồi, bước đi thôi). Bước đầu tiên.


Bước đầu tiên của cư sĩ.
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

(Tiểu luận)

Nếu không có Luận thì nó đã mang tên là Giảng. Mà tên là “Phật Giảng” thì quá chi khủng bố, mà tại lúc này khủng bố không thể/chưa thể xuất hiện (cũng không nên hiểu khủng bố theo nghĩa cực đoan hay xấu ác). Vậy nên chỗ này là Luận:


Nhiều người đã từ lâu đặt 1 câu hỏi: Kinh Pháp Phật viết hoa lá cành hoang tưởng, ảo tưởng… động 1 chút trong Kinh lại nói: Người nghe xong Thế Tôn giảng là đã chứng nọ chứng kia thấy rất dễ dàng. Mình nghiên cứu, tu chứng mấy chục năm, thông suốt hết mọi Kinh Pháp mà còn chưa đi đến đâu..v.v. Rồi lại suy diễn theo ý cá nhân thế nọ thế kia - Thực tế đèn không thắp thì tu gì?


Rất nhiều người có trí tuệ hữu lậu của thế gian. Trí của họ tuyệt luân. Trong quá khứ đến hiện tại và xã hội hiện nay, rất nhiều người cũng đã từng nghĩ, suy tư và tìm cách thắp đèn hoặc tìm đèn - nhưng họ đi tìm đèn, họ đi khắp mọi Kinh Pháp Phật để tìm đèn, cuối cùng cũng vẫn không tìm ra. Dã tràng xe cát.


Rất nhiều người, vì mến mộ Pháp Phật , quyết tâm dứt bỏ tất cả bao gồm cả người thân gia đình xã hội vật chất và cạo tóc, đắp áo vào Chùa hoặc lên núi tu, nhiều người lập hạnh khổ, hạnh độc cư.v..v - họ cố gắng thực hành theo kiểu 1 người tu sĩ để hòng tìm con đường giải thoát theo Đạo Phật. Có nhiều người có trí tuệ tuyệt luân, sự kiên trì tuyệt luân, dũng khí tuyệt luân, lòng từ bi hỷ xả rất lớn nhưng kết quả đều chỉ là một vài những thứ không đáng nhắc đến nếu so với Các Kết Quả Phật.


Bởi sao? - Không phải những người này không tin Phật hay họ không tu được một Pháp nào đó đâu - ngược lại, những người này có khi còn có nguyện rất lớn, rất rất lớn. Toàn Ý muốn hành Đạo Phật nhưng kết quả chưa thực sự như công sức bỏ ra và vẫn cách con đường duy nhất thật xa chứ chưa nói đến giải thoát chân thực.


Có một số người thành công. Đừng nghĩ rằng không có. Thế gian này ẩn chứa rất nhiều thứ dù thế gian này vô thường.


Nguyên nhân đều ở chỗ: Không thắp ngọn đèn lên mà đã bước đi trên đường Đạo Phật như đúng rồi. Họ quên sạch lời Đức Thế Tôn: “Hãy tự thắp đèn lên mà đi”. Không thắp, đi cuồng đi dại thì đi đến đâu. Còn có người ảo tưởng đến mức: Đèn đây rồi, đèn đây rồi, đèn sáng đây rồi, đi thôi… - Cái cảnh người bình thường chúng ta tưởng tượng: Họ cầm 1 bản Kinh nào đó, đập mạnh xuống bàn và hô lên trong tâm tưởng… họ tưởng tượng ra họ đã thắp đèn.



Sau vài chục năm hoặc bao nhiêu năm ròng thực tập theo hình thức sống của người tu sĩ: Khả năng có những người nhận ra ngọn đèn và thắp lên: Thật tiếc thân họ giờ đây đã sắp hoại diệt (tức đã già, bệnh) - vậy còn tu gì nữa. Phí hoài cả 1 thân người. Những người này vẫn đáng tôn kính vì họ không bỏ cuộc. Lúc này chỉ cần thắp đèn họ có thể chứng rất nhanh. Tuy nhiên, cũng chỉ tới Sơ thiền trong Đạo Phật.



Sơ Thiền không phải chỉ ngồi kiết già và thiền giống như Thiền của ngoại Đạo mà đã phải là sơ thiền trong Đạo Phật. Sơ thiền của Đạo Phật là cảnh giới tu sĩ. Sơ thiền không phải chỉ là ngồi kiết già tập hơi thở hay vong ngã vong ý mà nhập được sơ thiền.


Trong Đạo Phật: Tứ Thiền được gọi là: Tứ Thánh Thiền hay Thánh Tứ Thiền. Nhập được sơ thiền, người cư sĩ lẫn người không phải là cư sĩ, người xã hội dù ngoại đạo hay mến đạo đều gọi là bậc: Thánh. Là Thánh khi so với người thế gian. Nên Sơ thiền ngoại Đạo không phải là sơ thiền của Đạo Phật.

Bây giờ thật nhiều người tập Thiền - nếu như họ nhận luôn là họ tập theo Thiền ngoại Đạo thì không bàn, nhưng rất nhiều người lại khoác cho nó chiếc áo: Tôi cũng theo Đạo Phật - cả danh cư sĩ, tu sĩ… còn nói rằng đã chứng hết thiền nọ thiền kia… - Đúng! Chứng thật, không những thế họ còn chứng lên đến Tứ Thiền và cao hơn nữa nhưng Không Phải Thiền Định Của Đức Thế Tôn.


Thế gian này rất nhiều thứ kỳ đặc và không phải chỉ có Đạo Phật mới có những kỳ đặc này nọ kia. Nếu chúng ta không theo con đường của Đức Thế Tôn thì cũng không cần phải theo. Đức Thế Tôn chưa có ép ai phải theo cả. Cũng chưa bao giờ “giơ cành ô lưu” hay “cây gậy” ra mà ép ai hay dụ ai… vì thế gian này không thiếu những kỳ đặc.


Ngọn đèn mà không thắp và luôn sáng thì lấy gì mà đi đường?

Nên người thế gian thường nghe xưa có “Mật Tông” - có vẻ rất huyền bí, nhiệm màu với những gì gì “Minh tâm kiến tánh” hay gì gì “Tánh thấy tánh nghe”…. - Chẳng qua cũng chỉ là thắp cái ngọn đèn mà thôi. Lắm trò! - Tất nhiên, những lời này không phải là phê phán hay khen “Mật Tông”


Nhắc đến việc phê phán khen chê trong nội bộ Đạo Phật: Người Luận cho rằng chẳng có Tông Thừa nào là cao là thấp cả. Đối với người luận tông thừa nào cũng như tông thừa nào, không hơn không kém. Khi thắp được ngọn đèn, thì đường nào mà chả vậy, pháp nào mà chả thế, có khác gì nhau đâu?

Thời Đức Thế Tôn còn thuyết pháp - có ai nghe hay đọc hay thấy Ngài chia chác phân biệt gì gì về tông thừa tông môn chi nhánh hay cấp bậc Pháp nọ Pháp kia không? - Có lẽ Ngài chỉ phân Tăng và Ni - dường như không cho ở cùng nhau..


Như vậy, không nên phân biệt vì ngọn đèn là không phân biệt. Nó vẫn sáng dù có bao nhiêu tông thừa hay các tồn tại ngoại đạo ở xung quanh. Dù họ có yêu có ghét có hoan hỷ có bình luận đúng sai có chấp nhận hay không chấp nhận, có được hưởng lợi hay không được hưởng lợi… - Ngọn đèn này nó đã sáng thì nó vẫn cứ sáng - không liên quan gì đến cao thấp đúng sai, sáng nhiều hay sáng ít. Vì sao? - Vì đây là ngọn đèn của người tu hành triết Phật đó, không phải ngọn đèn của đồng đạo hay ngoại đạo hay của ai của cái gì bên ngoài. Nên nó sáng thì chủ nhân ngọn đèn biết. Người ngoài, đồng đạo hay ngoại đạo có yêu ghét thích biết hay không biết hoan hỷ hay không hưởng lợi hay không.v.v. Chủ nhân của ngọn đèn chỉ biết ngọn đèn đang sáng soi đường cho chính họ và chỉ người đó. Không vì cái gì mà ngọn đèn tắt hay phân biệt sáng tối cho xung quanh.



Để tìm được cây đèn thì không khó lắm: Đức Thế Tôn đã nói rõ về Đạo của Ngài và nếu đọc trong Kinh như Kinh Chuyển Pháp Luân chúng ta sẽ thấy: Đạo của Ngài được tuyên ra là nói điều chưa từng được nói và tại bây giờ ai cũng biết: Đây là Triết Đạo bất nhị hay triết Đạo nhất nguyên. Như vậy, chỉ cần tri kiến về triết học, trở thành 1 người am hiểu triết học thì lúc đó sẽ thấy rõ cây đèn của Đức Thế Tôn.


Càng giỏi triết học thì càng thấy rõ cây đèn. Càng giỏi về triết học nhất nguyên thì khi thắp đèn cho sáng nó càng khó tắt.


Đây chính là một lợi thế của trí tuệ thế gian (hữu lậu). Hơn 2500 năm trước, trí tuệ thế gian sao có thể thông minh như ngày nay. Ngày nay, trí tuệ thế gian vượt xa và rất xa trí tuệ thế gian thời Đức Thế Tôn… nhưng nhiều người vì không hiểu thông những thứ đầu tiên, họ vội vã (vì con người tham sân si đầy mình) vứt đi hết cho rằng trí tuệ thế gian cũng là đồ bỏ vì Kinh Pháp họ đọc họ thấy thế mà… họ nhảy vào tu tu tu… cho mau thành Phật… ra quả gì???


Nhưng thời nay, sau hơn 2500 năm thì con người cũng có một bất lợi thế đó là: Sự huân tập khí nghiệp ở trong Cơ hay nghiệp đó nó lại rất lớn theo cái Dục Lạc thời đại. Vì thế 5 sợi dây triền cái Tham Sân Si Mạn Nghi nó rất bền chặt chứ nó không còn dễ dàng như thời Đức Thế Tôn.


Thời Đức Thế Tôn đã là vô lượng. Nhưng sự vô lượng vẫn còn tính bằng xxx số cát sông Hằng (ở Ấn, hay gọi là Hằng Hà Sa đó). Có lẽ sự vô lượng bây giờ đã được tính bằng xxx số cát của cả nước Việt thêm vào số lần xxx số cát mà Đức Thế Tôn nói. Mọi người thấy diễn giải dài dòng không? - Bây giờ nói số này là số vô cùng trong toán học (số 8 nằm ngang đó) - thì có dễ hiểu cho người bây giờ không.

Sự khác nhau rằng: Nó vẫn có biên. Gọi là giới hạn (trong toán học giờ gọi là “Lim”). Đối với những sự vô lượng ở trong hệ thống Pháp Phật vẫn tính được lim. Đúng (lim của “vô lượng”) - nhưng đây là một thứ biết vậy thôi chứ chưa dùng đến.



Như vậy “Chánh niệm tỉnh thức” - khả năng cũng có thể tìm được lời tham chiếu về điều này nếu như sử dụng các khái niệm nào đó của khoa học bên phương tây cho dễ hiểu hơn. Tuy nhiên, người Luận cho rằng: Vẫn phải THẤY hay còn là Chánh Kiến cái cụm từ này theo đúng hàm nghĩa nội diên của nó thời Đức Thế Tôn vì không thể dùng các khái niệm ngoại Đạo đi mô tả thứ mà liên quan chặt chẽ tới ngọn đèn.



Hãy nhớ câu trạch pháp thứ 3:

“Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn. Từ đây về sau mãi mãi sống trong Chánh niệm tỉnh thức này.”



Đèn mà không thắp lên cho sáng và không cho nó lúc tắt lúc sáng thì tu làm gì? Vì Đức Thế Tôn đã nói rất rõ: “Hãy tự thắp đèn lên mà đi” trong di chúc. Không thắp đèn mà cứ tu tu tu thì khác gì người đi trong mê chứ không phải người đi trong đêm nữa.



Thấy đèn thì dễ như đã vừa nói phía trên. Thắp đèn cũng không khó.


Thắp đèn là ta đi theo Đạo Trung, không duy tâm không duy vật, cứ có cả tâm vật vật tâm … không ngả bên nào…


Đọc thì dễ, làm điều này cũng dễ? Mà luôn luôn sống (chánh niệm tỉnh thức) với điều này có còn dễ?


Ví dụ nhé:


Nghiệp đi:

Đọc Bát Chánh Đạo, đọc qua cả 1000 ngàn bài bình luận giảng giải của các bậc thầy bậc sư. Hiểu biết thông suốt lắm rồi. Giờ mình là cư sĩ. Mình bỏ cái nghề nghiệp đang làm và bị coi là ác nghiệp là mổ lợn, mình quyết tâm làm cái nghề chân chính, thiện hơn theo đúng như người cư sĩ nên làm. Giả dụ là nghề thợ xây thợ hồ đi. Cứ lấy cái nghề ví dụ sao cho tương đối ít dính mắc này đi. Làm công ăn lương và chẳng động chạm gì những tham muốn ham cầu…


Xây cái nhà cho nhà chủ. Nhà chủ bảo thế nào thì mình làm thế. Rất ok. Hết ngày tính công lấy tiền như đã thoả thuận. Rất ok.

Vậy bây giờ:

1/ Có người đến nhờ nhờ xây dựng một công trình gì đó bên Chúa Đạo, tôn tạo oai nghi của vị nọ vị kia. Mình có làm hay không?

2/ Nhà chủ thì ok, mình thì cũng ok, nhưng nhà chủ lại cứ muốn bớt tiền công ở 1 vấn đề gì đó với lý do gì đó, mà thực tế cuộc sống của mình và liên quan không ảnh hưởng gì dù có thêm hay bớt chỗ này. Vậy mình có làm hay không?

3/ Mình nhận lời mai làm cho 1 người rồi. Vừa nhận xong thì người khác đến nhờ làm cho họ và trả công cao hơn nhiều nhưng phải ngay ngày mai. Cái người đầu kia thì mình biết là giờ mình chỉ cần báo lại là họ vui vẻ đồng ý lùi đến hôm sau ngay. Vậy trường hợp này mình có lùi người nhờ trước để làm cho người nhờ sau không?

…..

Nếu như: Người có Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn, họ thấy rất rõ họ nên làm gì, không nên làm gì ở mọi trường hợp như trên dù họ chưa cần hiểu 37 phẩm trợ Đạo là gì nhưng vì họ luôn luôn tỉnh thức và biết rõ bản thân sống theo Đạo Trung - dù vẫn chỉ là người ở thế gian.


Chỉ khi thắp ngọn đèn đó sáng. Ít nhất là khi đọc 37 phẩm trợ Đạo thì ngọn đèn phải sáng tức ở trong Chánh niệm tỉnh thức về Đạo Của Đức Thế Tôn thì 37 phẩm trợ Đạo này, càng đọc càng thấy rất dễ thực hành. Và nếu ở đời sống thường ngày cứ khi nào bản thân ở trong Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn thì đảm bảo là họ sẽ thực hành 1 trong 37 phẩm trợ Đạo để giải quyết việc phát sinh với họ rất nhẹ nhàng dễ dàng và theo đúng Đạo của Đức Thế Tôn.


Tuy nhiên, không có gì là mì ăn liền hay 1 bước mà nhập Thánh giống như một vị thời Đức Thế Tôn. Không nên ảo tưởng.
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Kinh Chuyển Pháp Luân


Tìm đèn, thắp đèn và duy trì ánh sáng ở ngọn đèn không phải là dễ đâu. Nếu dễ vậy thì từ xưa đến nay hơn 2000 năm đã không thiểu các bậc Thánh xuất thế gian.


Một người dù có tự cho là hiểu/thấy và rõ Đạo Trung hay Đạo của Đức Thế Tôn hay Đạo Phật thì cũng không thể tự nhiên hay làm 1 cái là được ngay việc “Từ đây về sau sống mãi mãi trong Đạo của Người” - Họ người này có muốn và có ý chí có nguyện lực muốn sống được mãi mãi trong Đạo của Người khi đã thấy rõ Đạo của người thì nó cũng là một quá trình mà chỉ khi đạt / THẤY bản thân đã đạt Chánh Niệm Tỉnh Thức thì mới là sống được ở trong Đạo Đức Thế Tôn. Hay khi THẤY rõ được bản thân đã luôn luôn sống trong Đạo Đức Thế Tôn thì cũng có nghĩa lúc này họ đã đạt được cái gọi là: Chánh Niệm Tỉnh Thức.


Tại sao? - Tôi đã thâm nghiên Đạo Phật, nghe giảng Kinh đọc giảng Kệ đủ nhiều để hiểu về Chánh Niệm về Tỉnh Thức về Chánh Niệm Tỉnh Thức. Tôi đã áp dụng đúng như vậy và thấy như vậy để tu hành Đạo Phật… mà bây giờ lại thấy người Luận Chánh Niệm Tỉnh Thức một cách khác thường như này???


- Chánh Niệm: Thường được hiểu là suy nghĩ chân chính, chính đáng, đúng đắn, niệm hay ý thức đúng đắn, cụ thể. Niệm là cái hiện tại tiếp diễn. Chánh Niệm khác với Chánh Kiến ở chỗ: Kiến là sự hiểu biết. Kiến là thứ có thể đã xảy ra và bản thân vẫn còn ghi nhớ và bất cứ lúc nào vẫn có thể đưa ra. Niệm thì luôn luôn thay đổi, một lúc có thể có rất nhiều niệm đang cùng xuất hiện, sau đó nó sẽ mất đi. Khi mất đi nó thể được ký hoặc vô ký (được ghi nhớ hoặc quên). Như vậy niệm không phải chỉ là 1 niệm cụ thể, không những vậy người bình thường cùng một lúc có khi có rất nhiều niệm cùng tồn tại. Theo khoa học đã ghi nhận nghiên cứu hiện nay thấy: Một ngày một người bình thường có khoảng từ 60000 tới 100000 niệm xuất hiện và mất đi. Nên ở trong Giới Kinh việc có nhiều Pháp trợ Đạo tu Niệm là không có gì ngạc nhiên. Tất cả chỉ để dần dần đưa về Vô Niệm.


Nhưng ngược với Chánh là Tà hay không chính đáng, sai. Vậy trả lời theo kiểu này, khác gì cứ lật trái lật phải 2 mặt rồi lấy cái nọ khái niệm cái kia, lấy cái kia khái niệm cái này… cuối cùng đúng sai là thế nào, tà chánh là thế nào?


Tà: Là ngoại Đạo. Không có đúng có sai. Ngoại Đạo là tà. Thế gian này không có cái gì đúng, cái gì sai. Chỉ có đúng hay sai, tà hay chánh, thiện hay ác khi đứng ở trên một chuẩn (bất kỳ) nào đó mà phân biệt. Như vậy, đầu tiên nhất và là khởi đầu của tất cả: Phải đứng ở trên Đạo của Đức Thế Tôn. Lấy cái đứng này làm Chánh. Từ cái đầu tiên này mới có cái phân biệt: Không đúng với Đạo Đức Thế Tôn là Tà.


Vì có vô lượng niệm, vừa nói phía trên khoa học hiện nay còn đã nghiên cứu định lượng ra một ngày có khoảng bao nhiêu niệm như vậy xuất hiện trong đầu 1 người. Nên để có được Chánh Niệm đâu có dễ. Niệm nó sinh ra 1 thời gian nó lại mất. Nhiều khả năng còn chưa kịp nhận thức ý thức xem niệm này là niệm chánh hay ta hay niệm gì, kiểu niệm gì nó đã biết mất rồi còn đâu.


Chẳng lẽ đi tu niệm: 1+1 = 2 là Chánh niệm. Rõ, đây cũng là Chánh Niệm. Nhưng 1+1=2 có làm cho chúng ta Chánh Niệm được đây là thiện, đây là ác không, có làm cho chúng ta chánh niệm được đây là Pháp Phật, đây không là Pháp Phật không? Tu Chánh niệm 1+1=2 thì chỉ ra cái Chánh Niệm 2+2=4, 4+1=5… là đúng.


Như vậy, để đi được trên con đường Đạo Phật - chúng ta đầu tiên phải có cái Chánh Niệm về Đạo Phật. Khi cái Niệm này nó đi vào Ký được rồi mới trở thành Chánh Kiến về Đạo Phật.


Tỉnh thức là rõ ràng, không mê mờ, mê mang hay tán loạn. Vì Niệm nó rất nhiều và nó chạy loăng quăng (tức sinh diệt lúc nhanh lúc chậm và biến đổi liên tục). Vì sao niệm lại lắm và vô đối lượng như thế? - Vì nó bị 6 trần lôi kéo qua 6 căn nên bình thường có bao giờ nó đứng im hay cố định được lâu đâu. 6 trần lôi nó đi đâu thì nó chạy theo đấy và 6 trần thì nó tác động liên tục không dứt nhưng lại biến đổi không ngừng. Nên thông qua 6 căn, niệm cũng biến đổi không ngừng là vậy. Chỉ khi ngủ, niệm sẽ ít nhưng lúc này lại rơi vào hôn trầm thuỵ miên. Mà đọc đến đây ta còn chưa rõ cả cái gì rơi vào hôn trầm thuỵ miên khi ngủ ở đây thì có muốn tu khi ngủ cũng làm sao mà tu được gì.

Nên tỉnh thức là rõ ràng, không mê mờ, không tán loạn cái niệm đang xuất hiện là niệm Chánh. Chúng ta đừng nắm cái niệm Tà, cũng đừng quan tâm hay Ký niệm này là niệm Tà, niệm kia là niệm tà, niệm tà này tránh ra..v.v. Chúng ta chỉ Ký niệm này là Niệm Chánh để sau này khi đi sâu hơn chúng ta còn Quán hay dùng các Pháp tu. v.v. Mới đạt được hiệu quả Phật thâm diệu nhiệm màu ngay khi tu tập, tu hành.


Không Ký tức là Vô Ký tức là không ghi nhớ. Ghi nhớ tức là Ký. Bước đầu, chúng ta chỉ Ký cái Chánh Niệm Tỉnh Thức. Mà Ký là do CƠ nó làm, là Vô Thức nó làm, - là cái mà gọi là huân tập khí hay nghiệp khí nó làm… tức cái này người bình thường làm sao biết được nếu không tu, không tập… Người bình thường chỉ biết cố gắng ghi nhớ cái này, cố gắng ghi nhớ cái kia, cố gắng quên cái này, cố gắng quên cái kia… họ làm sao biết phương pháp của ĐỨC THẾ TÔN.

Như vậy, ngay từ việc đầu tiên, còn mới chỉ là mến Đạo Đức Thế Tôn chưa được coi là cư sĩ.. chúng ta đã phải có được cái đầu tiên gọi là Chất này thì sau này con đường mới là con đường nhiệm màu.



Chánh niệm tỉnh thức : Tức là chỉ để Ký cái Đạo của Đức Thế Tôn. Chúng ta đã bắt đầu tìm cách bằng 1 cách có chủ ý, mục đích đưa cái Nghiệp chúng ta tạo đời này của chúng ta vào trong Cơ rồi (Ký đó). Nhưng Ký - Cơ chưa chắc đã nhận ngay đâu. Nên phải thường xuyên Ký nhiều những cái Nghiệp mà chúng ta chủ đích tạo ra đưa vào mà cái nghiệp khí này là cái chúng ta đang hành Đạo Đức Thế tôn. Khi nó vào Cơ đủ nhiều, đến lúc đó trong ngoài giáp hợp thì màng ngăn tiềm thức, vô thức mới phá được 1 cách dễ dàng chứ. Trong Giới Kinh Phật, có nhiều trợ Đạo giúp tu tập cái này. Kinh điển là Như Lý Tác Ý - 1 pháp hành để sử dụng trợ đạo. Nói theo phương tây phân tâm học thì Như Lý Pháp Ý không khác gì Tự Kỷ Ám Thị. - Chúng ta đừng nghĩ Ngoại Đạo thấp kém hay gọi là Tà nên họ hành ác, họ đểu giả… những cái này không có trong khái niệm Đạo Phật. Những cái gì của ngoại Đạo chúng ta gọi là Tà - thế thôi. Còn chúng ta tri kiến được thì để so sánh, tham chiếu, để Quán - một pháp cũng được hành để sử dụng trợ Đạo. Mà trợ Đạo có 37 phẩm như còn lại hiện nay ở Giới Kinh - sai đúng chưa cần phân biệt vì cứ dùng đi đã, xem có dùng được không. Muốn dùng được thì phải lấy hành pháp mà dùng thì mới dùng được. Dùng làm gì, dùng để rót vào cái đèn.


Không có đèn thì phải tìm đèn. Biết đèn rồi thì phải thắp lên. Thắp lên rồi thì phải duy trì nó sáng mãi không tắt và càng ngày càng sáng lên hơn nữa. Để nó sáng dần sáng dần lên hơn nữa thì phải bước đi. Muốn bước được đi thì phải cầm cái đèn đang sáng đó soi mà mỗi bước là 1 cấp độ ánh sáng hơn. Và để như vậy thì phải lần lần dụng trợ Đạo để nó tiếp nhiên liệu cho đèn. Muốn dùng được trợ Đạo thì phải hành pháp để sử dụng được trợ Đạo đó. Hành pháp tức là dùng cái Pháp thực hành của Đức Thế Tôn. Trong giới Kinh có đầy đủ. Dùng kiến thức hệ thống giới Kinh phân nó vào 4 đế. Rồi dần dần sẽ biết 4 đế đó rất diệu dụng.



Đến đây chúng ta đã biết Kinh Chuyển Pháp Luân có vai trò như thế nào vì đã được giảng gần như là cơ bản đầy đủ cho người mộ Đạo Phật lẫn người cư sĩ ở phía trước.


Cấu phần của Kinh Chuyển Pháp Luân bao gồm:

1/ Thông tri về điều chưa từng được nói đến, về thứ Đạo chưa từng được Chứng Tri giờ đã được chứng tri, đã được nói đến. Đạo này chính cái Đạo đang được Luận. Đạo này chính là Đạo của Đức Thế Tôn.

Vậy thì muốn đi Đạo này, hãy Ký nó vào. Có Ký vào thì mới đến được phía sau. Chứ cứ Ký duy vật mà đòi tu Đạo của Thế Tôn. Ký duy tâm mà đòi chứng Quả theo Thế Tôn. Hay Ký ba cái lăng nhăng gì đó rồi miệng luôn xoen xoét rằng: Tôi đi tu Đạo của Thế Tôn… vô ích.


Ký cho Cơ nó phải nhận cái Ký này tức là Đạo của Thế Tôn trở thành Chánh Niệm Tỉnh Thức trong đời sống từ nay đến mãi mai sau.



2/ Để Chánh niệm tỉnh thức được Đạo của thế Tôn. Tám trợ Đạo đầu tiên có ngay tác dụng cho việc Ký hay tu tập chánh niệm tỉnh thức Đạo của Thế Tôn cũng như diệu dụng về sau trên đường tu khi viên mãn đó là: Bát Chánh Đạo:

Chánh Kiến
Chánh Tư Duy
Chánh Ngữ
Chánh Nghiệp
Chánh Mạng
Chánh Tinh Tấn
Chánh Niệm
Chánh Định



Trong Phật Luận này, phía trước đã nói đến Chánh Nghiệp. Bây giờ nói đến Chánh Tinh Tấn


Bằng những gì chúng ta đã biết từ trước kia tới đây và những gì ở phía sau: Chúng ta Chánh Tinh Tấn tu hành. Đây là bước quan trọng. Không tinh tấn thì những cái đã thấy từ đầu đến giờ phỏng có ích. Hãy tinh tấn cái thấy.

Vì có Chánh Tinh Tấn nên chúng ta mới đi đến cái nấc Chánh Niệm.

Nấc Chánh Niệm trong Bát Chánh Đạo: Lúc này không phải chỉ là sống trong Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn nữa. Mà là đã thấy rõ: Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn đã viên mãn. Không cần phải niệm gì nữa mà mọi niệm sinh ra diệt đi trong đầu cũng đều là niệm của Chánh Niệm Tỉnh Thức về Đạo của Đức Thế Tôn. Ngọn đèn đã sáng bất diệt. Người tu đã tự nhiên thiên thành bước lên 1 cấp mới rồi. Bước được vào đây khéo họ có thể dùng các nhiệm màu còn nhiều hơn ăn cơm. Cấp độ này đã là ngoài sức tưởng tượng ở xã hội vì cấp độ này đã tiến tới có thể dùng Thiền để làm việc lớn của việc tu rồi… - tức đã vào sơ thiền rồi.



Chánh niệm ở Bát Chánh Đạo này đâu có phải là cái sơ sơ như nhiều người đang hiểu, được giảng, đang giảng: Tôi đang chánh niệm đây, tôi ghi nhớ điều tốt, tôi quán điều lành tôi chỉ niệm điều chánh….

Sự ghi nhớ, chúng ta phải hiểu là Ký. Ký đến mức để cho Cơ nó nhập hay nó nhận cái Ký này và vì ngay từ đầu buổi tu hành chúng ta đã chỉ cho Ký cái Đạo của Ngài nên huân tập khí Nghiệp tạo đời này đều là nghiệp nằm trong Đạo của Ngài - vì thế mới là Chánh. Vì điều đó nên đến đây, mọi thứ niệm ra hay từ Cơ trả ra hay từ Nghiệp Quả ập về đều chỉ xoay quanh Đạo của Ngài. Người tu đã chìm và chỉ sống trong Đạo của Ngài rồi. Mọi sự quán chiếu bây giờ đều chỉ là quán chiếu trong Đạo của Ngài. Đây là viên mãn đó.

Thân và tinh thần sẽ hợp nhất và người tu THẤY được Tâm là gì. Viên mãn này còn được gọi là: Vô Lượng Tâm Từ.



Mọi thứ không tự nhiên tới đâu. Làm gì có chuyện ngồi đây và niệm rằng: Tôi là người từ bi. Tôi có tâm từ. Tôi có tâm từ bi. Tôi phải thực hành tâm từ. Tôi sẽ Từ với mọi người. Tôi sẽ có thật nhiều tâm từ vì tâm từ chính là tánh Phật, ai cũng có. Tôi sẽ khai thác tâm từ, tôi sẽ chỉ sống với tâm từ. Tôi sẽ không giết hại chúng sinh, tôi sẽ không hại ai… tôi sẽ không làm hại ai và chúng sinh, tâm tôi từ…. Và chỉ ngồi ăn và ngồi như trên (thì đúng là chỉ ngồi và niệm như trên thì thân khẩu ý không hại ai thật, Từ thật chứ không phải là không)… - Như này Có đạt được vô lượng tâm từ viên mãn không???

- Đây là ỨC CHẾ TÂM - Là pháp tu tự kỷ ám thị thuần tuý của Ngoại Đạo… là thứ làm sao đưa đến vô lượng Từ chân Chánh. Kể cả có Chứng Sơ thiền và cố đạt viên mãn tinh thần và thân hợp nhất thấm nhuần thì làm sao mà đi tiếp được vì đến đây mới chỉ là bước đầu tiên của tu sĩ thôi… còn rất dài. Làm sao mà đến được bước thứ 2 rút Tâm lại nằm trong thân chứ chưa nói mấy cảnh giới trồng sen tạo tác các thông thần cho Tâm …


Nên Chánh Định chẳng cần nghĩ bàn ở đây vì nó không phải của chúng ta Luận .




3/ Tứ Diệu Đế: Phía trước đã nói, đây là 4 tiên đề và toàn bộ hệ Giới Kinh sẽ được phân vào đây để tu chứng. Dùng 4 tiên đề này để tu chứng mọi thứ trong hệ Giới Kinh Phật.



Phía trên chúng ta đã nói đến việc dùng pháp hành để sử dụng các trợ đạo, sử dụng các trợ Đạo để rót năng lượng vào ngọn đèn. Vậy, làm thế nào để biết: Ak đây, ta đã dùng được pháp hành này đây, ta dùng pháp hành để sử dụng được trợ đạo này đây, đây, ta biết ta đang sử dụng được trợ đạo này đây, ak, đây, ta biết ta đang dùng trợ đạo rót năng lượng vào ngọn đèn đây, ak, ta biết ngọn đèn đã sáng hơn lên rồi đây… - Làm thế nào để người tu nhận thấy được những điều này?


Chẳng lẽ là đi kể với bạn? Đi hỏi thầy nhờ thầy chứng? - Mà ai là thầy mới là điều cốt lõi. Đức Thế Tôn không còn, Ngài không chỉ định ai dẫn dắt “quần hùng“, cũng chẳng chỉ định ai làm thầy ngoài việc nói: Lấy giới Luật làm thầy…

Vậy là ai chứng cho?


Chính là Tứ Diệu Đế.


Mỗi một Đế, Đức Thế Tôn đã tuyên 3 chuyển. Chuyển nhận biết (chánh kiến) chuyển thực hành (tu tập) và chuyển chứng tri (thấy rõ).

Phía trước đã nói: Phân hết hệ thống Giới Kinh vào đây. Giờ cần chứng cái nào thì nhìn đó là Thấy mình chứng tri chưa.


Đừng ảo tưởng quá mức nhé. Người bình thường là hay ảo tưởng sức mạnh lắm. Chánh Kiến có khi còn không đạt được nhưng đọc 1 hồi thì có khi đã tự cho là Thấy - Chứng tri được rồi…


Nên, phải tu từ cái đầu tiên. Tưởng rằng, tu như này thì biết bao đời bao kiếp nhưng nó dễ lắm và nhanh lắm một khi chỉ cần nắm được 1 tia của cái bấc là lần ra 1 tia của cái đèn là thắp được 1 tia của ánh đèn hoặc bất kỳ, nắm được tia nào thì dùng tia đó lần các tia kia. Mà một khi đã đã thắp được 1 tia sáng thì rất nhanh lần ra hình dáng cái đèn cái bấc rồi thế là ánh sáng sáng hơn rồi đến đây sẽ rất nhanh cái đèn càng ngày càng rõ và ánh đèn càng lúc càng sáng càng thực…. Và rồi bước vào Chánh Tinh Tấn lúc nào không hay.



Ảo tưởng đến mức: Đi tìm bằng được hình dáng cái đèn thực thì: Đến nhà triết học thực thụ chuyên ngành triết nhất nguyên - nghiên cứu cả đời cũng chưa chắc có kết quả, câu trả lời…. Nói gì Chánh Niệm Tỉnh Thức Ký nó vào tới mức Cơ nó nhận như vốn dĩ là vậy…


Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Cỗ Xe Đạo Phật


Trước khi đi vào phần thâm sâu hơn của Giới Kinh Phật, người luận tiếp tục làm rõ hơn về những điều đã Luận đến đây.


Bắt buộc phải thắp đèn, dù đang ở đâu đang ở vị trí nào thì cũng phải thắp đèn, đèn có sáng thì mới đi được. Đèn không sáng không ra Quả gì. Dã tràng xe cát.


Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn chính là ngọn đèn, chính là Đạo chính là ngồi lên cỗ xe Đạo Phật.


Để có được Chánh niệm tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn thì phải dùng các pháp hành trợ Đạo của Giới Kinh để tu sửa ra, chứng tri ra cái chánh niệm tỉnh thức này, thực hành cho nó viên mãn hay an trú vĩnh viễn mọi niệm trong sự tỉnh thức về Đạo của Đức Thế Tôn.

Những pháp hành trợ Đạo đầu tiên để tu tập cái Chánh niệm tỉnh thức này là 6 pháp đầu của Bát Chánh Đạo như đã liệt kê.


Ví dụ: Chánh Kiến. Đầu tiên, muốn có Chánh kiến thì trước tiên người tu phải biết đâu là Tà kiến. Tà kiến là ngoại Đạo, mọi thứ thuộc duy vật, duy tâm, siêu hình dù đúng hay sai thì nó đều là sai hết, tà hết. Đâu có phải là chánh.

Ví dụ: Trên toàn bộ giảng đường Đại Học được giảng: “Vật chất quyết định ý thức”. Điều này là đúng, hoàn toàn đúng với người ở bên duy vật. Nhưng với người ở Đạo Đức Thế Tôn thì không cần phải niệm, kiến đúng sai gì. Đây là tà kiến. Người tu thấy rõ điều này tức là người tu có Chánh kiến.

Ví dụ: “Trên đầu ba thước có Thần Minh. Có quan thần cai quản tất cả không thể trốn thoái được số phận”. Điều này với người ở Trong Đạo Đức Thế Tôn đâu có cần phải xem có thật vậy hay không thật vậy. Đây là tà kiến, đâu phải Đạo Đức Thế Tôn. Người tu thấy rõ điều này tức là người tu có Chánh kiến.

Ví dụ: “Đạo Đức Thế Tôn là Đạo Trung, Đạo bất nhị vậy thì nó giống như Đạo Trung Dung của Nho Giáo”. - Đây rõ ràng là Tà kiến. Người tu nhận thấy rõ điều này là Chánh kiến.

Tiếp theo. Cùng ở trong Đạo Đức Thế Tôn thì lại phải phân được rõ: Thế này là đúng, thế này là sai, nhận thấy rõ được như vậy. Đây là Chánh Kiến. Nếu chưa nhận thấy rõ đúng sai thì phải dùng Chánh Tư Duy để phân biệt. Muốn dùng Chánh Tư duy đôi khi phải Quán. Mà chưa đủ năng lực Quán cho ra kết quả thấy rõ đúng sai thì phải để ở trạng thái biết và không có ý kiến. Đây là Chánh Kiến.

Ví dụ: “Đồng Đạo bảo tu niệm NammoADiDAPHAT làm gì có cho ra kết quả gì mà đám cư sĩ thi nhau đi nghe giảng” - Vậy, phải có Chánh Kiến về điều này. Nếu đã dùng Quán dùng Chánh Tư Duy và luôn luôn thấy biết rằng (tỉnh thức), khi quán, khi chánh tư duy về điều này đều nằm trong Đạo Đức Thế Tôn mà vẫn chưa ra kết quả thấy rõ đúng sai thì người tu phải không có ý kiến gì về điều này. Đây là chánh kiến.


Cũng như thế với Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh tấn…


Cứ dùng Chánh niệm tỉnh thức về Đạo Đức Thế Tôn, 6 pháp trên và Quán mọi thứ từ 6 trần mang tới qua 6 căn - chỉ sau một thời gian không dài, người tu đã Ký (ghi nhớ) một hệ thống Ký về Đạo Đức Thế Tôn, nó sẽ bắt đầu ngấm vào trong vô thức (CƠ).

Khi thực hành như trên, vì Chánh Niệm về Đạo Đức Thế Tôn thường xuyên được sử dụng nên các phụ niệm, các tạp niệm nó tự nhiên không chen chân được vào Ký. Hay thông tin 6 trần đưa vào trong 6 căn để Ký (ghi nhớ) được trong não bộ đã đi qua 1 bộ lọc mà ở đó đa phần là Ký những thứ Trong Đạo Đức Thế Tôn. Số khác nằm bên ngoài Đạo đã dần dần giảm bớt rất nhiều…


Không còn một cách thức hay phương pháp nào Quy Y và có hiệu quả hơn điều đã chỉ ra phía trước bởi vì: Phương Pháp Chánh Niệm Tỉnh Thức Sống trong Đạo Đức Thế Tôn đã là ngồi lên Cỗ Xe Đạo Phật.


Tuy nhiên, vì căn tánh khác nhau nên người tu sẽ không ai có kết quả như ai. Bởi sẽ có rất nhiều người dù quyết tâm dùng Quán sao cho đúng, dùng chánh tư duy sao cho đúng, dùng chánh niệm tỉnh thức sao cho đúng nhưng vẫn không thể nào nhận thấy điều này là đúng hay là sai chánh pháp. Vậy Chánh Kiến cái gì cũng: Tạm thời để đấy, không có ý kiến…. Thì đến bao giờ mới Chánh tri, mới Minh.


Như vậy, để có được những tinh tấn thiết thực. Cần phải phải phân loại căn tánh người tu để sử dụng những pháp trợ, hành những pháp phù hợp. - Đây cũng là nguyên nhân của việc phân chia ra các tông thừa.

Tuy nhiên, mọi tông thừa đều phải dựa vào ngọn đèn như đã nói. Phải thắp được ngọn đèn sáng lên mới đi được.
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Căn tánh hay căn cơ: Thấy - Biết


Thí dụ: Một người đang đi bộ bình thường về phía trước, rồi đột nhiên vô tình người này quay lại nhìn phía sau chếch lên thì thấy 1 vật như hòn đá hay mũi tên (còn chưa kịp nhìn rõ) đang lao vun vút sắp đánh thẳng vào đầu mình. Không có suy nghĩ và bất cứ tạp niệm gì nay điều gì của ý thức lúc này. Người này cố gắng cúi gập người xuống né tránh. - Ví dụ này có lẽ rất nhiều người đã gặp với những sự việc tương tự… thường được mọi người hiện nay giải thích và hiểu: Đây là bản năng…


Với ví dụ trên chúng ta có 1 số vấn đề đặt ra như sau:

1/ Họ thực sự vô tình quay đầu lại nhìn hay có điều gì đó vô hình thôi thúc trong vô thức mà quay lại?

2/ Rõ ràng khi quay lại. Cái vật đang bay đến là Trần. Mắt đang nhìn là căn thu. Nhưng Ý căn chưa kịp khởi niệm gì. Vậy cái gì đã sai khiến hành động của thân? - Và cái sai khiến hành động của thân khi này nó do đâu mà thấy biết Trần kia khi mà ý căn còn chưa khởi niệm?



Thí dụ 2: Một người tên A đang đi bình thường về phía trước. Một người đằng sau bỗng gọi: A ơi. - A quay đầu lại ngay lập tức mà không cần suy nghĩ gì.


Trong thí dụ này có vấn đề đặt ra.

1/ Đã được đọc, nghe, giảng giải và thầy nhắc đi nhắc lại lý vô thường vô ngã. Làm gì có cái ta, làm gì có cái ngã. Vậy tại sao chỉ cần nghe câu “A ơi” là mình (thân) phản ứng?


2/ Cũng như thí dụ trước: Nhĩ căn là căn thu Trần nhưng Ý căn còn chưa kịp khởi niệm gì mà thân đã hành. Vậy cái gì điều khiển cái thân hành này. Nó ở đâu và thông qua đâu mà nó thấy biết Trần (Thanh)?



Với người đã thắp được ngọn đèn ở phía trước và đã đọc Phật Luận này khả năng có thể suy tư ra một số mấu nhưng có phải là Chánh hay không thì điều này phải tự thấy. Chứ nghĩ không thì nhiều người nghĩ được ra mà. Ai mà chả nghĩ được chắc có gì đó thông nhau với 6 căn và rõ ràng sự thấy biết này dường như không phụ thuộc vào 1 căn nào đó nhưng vẫn qua 6 căn. Đặc biệt qua 2 ví dụ thì rõ ràng căn Ý - căn duy nhất nằm trọn trong não cũng không khác gì 5 căn kia mấy. Rõ ràng cũng chẳng phải là cái căn điều khiển.


Vậy bình thường chúng ta có thấy sự tồn tại của cái căn điều khiển này không hay chúng ta nghĩ rằng chúng ta đang rất có ý thức về hành động của chúng ta… nhưng đến đây đã thấy căn ý đâu phải là căn điều khiển và cái mà ta vẫn nghĩ rằng ta ý thức được ta nhưng đâu có phải vì Khi thấy biết sự thực trên chúng ta mới thấy biết: Có 1 căn điều khiển. Nó cũng thông với 6 căn. Có những lúc nó làm theo y như ý thức điều khiển nhưng có những lúc và sự thực là nó không nghe lệnh ý thức, nó muốn điều khiển gì là nó điều khiển… nhưng rõ ràng: Nó thông với 6 căn. Thông là tốt rồi chứ nếu kín thì… Đạo của Thế Tôn sao mà áp được.


Chính cái thông này là cái cửa mà người tu sẽ gửi Ký (ghi nhớ) - Đạo Đức Thế Tôn vào trong cái căn này qua cái cửa này hay qua 6 căn (chứ đến đây, ai đã biết là cửa nào, nhưng đã thấy biết rằng nó thông qua 6 căn - thu nhận trả)


Như vậy, thông qua 6 căn - người tu nhét Đạo Của Đức Thế Tôn vào.

Ngày xưa, Mật Tông làm gì có biết khái niệm vô thức, ý thức, tiềm thức… để nhận ra cái CƠ phía trước đã nói là cả 1 quá trình. Còn đèn thì họ lại thắp sáng hết rồi vì họ đều cạo đầu và kiểm tra chán rồi chứ chẳng phải là cư sĩ chúng ta.


Chỉ là cái này mà trở thành “Mật Tông”. Còn bây giờ, khả năng lại chẳng ai quan tâm: Vì đa phần còn quên hết “Chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn” để Ký là gì.


Rõ ràng, để việc Ký diễn ra đạt kết quả rốt ráo thì việc Quy Y và thực tập là quan trọng nhất ở đây.



Mật Tông có lẽ còn pháp hành nhưng dường như đã thất truyền ở đời. Họ phải có cái pháp hành gì đó mà hiệu quả nhồi nhét, nhồi nhét, nhồi nhét Đạo Đức Thế Tôn vào Cơ đạt một hiểu quả rất cao làm cho cái gọi là vô thức tràn đầy CƠ Đạo Đức Thế Tôn.

Lúc đó dù chưa nắm được cái CƠ này thì mọi phản ứng của CƠ này để điều khiển thân hành và các thứ khác đều có thêm điều kiện Đạo Đức Thế Tôn ở trong đó rồi. Lúc này mới chỉ làm người tu Sống Trong Đạo của Đức Thế Tôn một cách tự nhiên như vốn dĩ như vậy, không cần phải nghĩ suy gì nữa vì mọi thứ đã chỉ còn là Đạo Đức Thế Tôn và nghiệp lực từ xưa…



Trừ một vài trường hợp đặc dị ra. Căn cơ này là căn cơ cao nhất.

Có pháp hành phù hợp họ sẽ tu rất nhanh vì có lẽ ở đây liên quan đến sự Ngộ chứ không phải là trí hữu lậu do nghe giảng, đọc hiểu mà ra. .
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Tiểu luận 2


Theo được đến đây, hẳn nhiều người đã thấy rõ: Dường như Đạo Đức Thế Tôn liên quan rất nhiều tới cái phân tâm học phương tây (vô thức tiềm thức ý thức) và những tiểu thuyết thiên hướng tinh thần lực của họ…


Tất nhiên liên quan mật thiết không những khoa học phương tây, tâm linh phương tây mà triết học duy vật biện chứng, triết duy vật siêu hình, thô sơ .v.v. Đều liên quan cả. Vì Đạo Đức Thế Tôn bao dung tất cả. Nó chứa tất cả và nó không thiên lệch bên nào. Đạo Đức Thế Tôn đi cả 2 nhưng bởi vì cái bản chất nghiệp lực lại nằm ở phía căn vô hình nên trước tiên phải trọng tu cái này để lấy nó làm chính, rồi cái sắc thân chỉ là vô thường nên chỉ nương nhờ cái thân này để tố pháp thân hoá thân và cả sắc thân lẫn thân khác. Vẫn phải tu sửa cả báo thân nhưng nó ở cấp độ dễ hơn nếu so với việc tu sửa cái trong đầu.


Khoa học phương tây - chúng ta đừng nghĩ họ là bọt nước - đặc biệt là những lý thuyết hay phương pháp thực hành trong phân tâm học. Họ siêu nhiên cái lực tinh thần, thần hoá hoặc tâm linh hoá, đôi khi cũng siêu hình hoá - họ có rất nhiều pp, lại làm ra các nhiệm màu nhiều khi người thường nghe đã mê mẩn và có khi mắt mũi tỏ ra ngạc nhiên, khó tin..v.v. Điều này, người tu hành Đạo Phật, nên biết là biết. Không đúng sai. Tập trung vào Chánh Niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn.


Dù họ có siêu nhiên thế nào, Đức Thế Tôn cũng đã khẳng định rồi, không thể nào đạt kết quả nhiệm màu như Đạo Phật. Không có niềm tin, nghi ngờ hay phủ định… sẽ Thất Niệm ngay.



Khi người tu đã đạt được một sự tinh tấn nhất định ở bước đầu tiên là: Chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn… người này chắc chắn thấy có nhiều nhiệm màu. Những nhiệm này, không phải mang đi để khoe mẽ và đặc biệt là thực hành các mục đích Ngoại Đạo - Ở đây, cứ rời khỏi Chánh Niệm Tỉnh Thức Đạo Đức Thế Tôn là ngoại đạo rồi. Dùng nó cho chính bản thân trên con đường đi thì rất tốt. Đây cũng có thể gọi là 1 tự lực và sự thực là vậy. Nếu không dùng nó để đi Đạo thì chẳng lẽ dùng để hưởng dục lạc hay đoạ lạc sao?


Phải nhớ rõ, các trợ pháp càng tu tập nâng cao được lên thì càng lên cấp và khi viên mãn sẽ vô cùng nhiệm màu. Đều sẽ là tôn thần hộ pháp cả.


Một điều nữa:

Ở góc độ tu tinh thần, phương tây hiện đại thì vừa nói qua qua kia rồi, nhiệm màu khi thấy đạt được chỉ cần 1 phần nấc nhất định của Chánh Niệm Tỉnh Thức Đạo Đức Thế Tôn là đã thấy vượt qua các tiểu thuyết, tiểu thần thông mà phương tây đang rao nhan nhản về lực tinh thần rồi.

Ở đây, phía trước có nhắc tới Pháp Luân Công và Chuyển Pháp Luân của Đức Thế Tôn cùng rất nhiều các giáo phái lưu truyền cổ xưa Trung Ấn.

Về Pháp Luân Công - một ngoại Đạo bình thường, người tu Đạo Đức Thế Tôn chúng ta tri kiến coi như là để đỡ phải vọng tưởng trên con đường tu hay sinh Nghi, mấy nữa lại khó giải:

Pháp Luân Công họ tu 7 Luân Xa trong thân. Chúng ta không nói về nhiệm màu và công năng. Chúng ta hãy tự thấy rằng: Bằng vào Chuyển Pháp Luân và Đạo Đức Thế Tôn - Chúng ta đã thấy được rằng: Chúng ta đã đang và chỉ tu thẳng một Luân trên đầu. Luân cao nhất. Vì chỉ tu 1 luân này nên lúc đầu có vẻ chậm chạp bị họ chê cười - tuy nhiên. Ta biết Đạo của Ta đang đi là Đạo Đức Thế Tôn. Sự nhiệm màu là không thể bàn luận và cái mà muốn tới đó là: Chân Chánh giải thoát, chân chánh trở về…
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Bài thuyết Pháp thứ hai của Đức Thế Tôn


Ở bài thuyết Pháp thứ nhất - cũng là tên của đề mục Luận này: Chuyển Pháp Luân nó vô cùng thâm sâu nhiệm màu từ cái tên Kinh tới toàn bộ nội dung Kinh. Nó ẩn chứa CÂY ĐÈN, ÁNH ĐÈN, CÁCH THẮP ĐÈN VÀ TRIẾT LÝ VỀ ĐẠO CỦA ĐỨC THẾ TÔN - cũng như bước đầu vạch ra việc tu tinh thần trong việc tu ra TÂM PHẬT là tu cái gì: Chỉ hướng tới trực tiếp tu tập 1 Luân thứ 7 cao nhất trên đỉnh đầu bằng phương pháp hành tu tuyệt luân trong Giới Kinh Phật - Đó là thắp đèn.

Người có căn tánh cao nhất là người nhận THẤY điều này khi nghe bài Kinh này. Lấy đó là đường chính của người này, lực chính, cách đánh phá chính để tu hay giải quyết mọi vấn đề của người tu ở các nấc trong Giới Kinh Phật hay tu chứng các cảnh giới.

Tuy nhiên, 5 phần người thấy đèn thắp ánh sáng khả năng chỉ có 1 phần người phù hợp. 4 phần còn lại mới chỉ là người mến Đạo. Vì Đạo của Đức Thế Tôn khi được tuyên ra lần đầu tiên là thứ dựng dậy lại thứ chưa từng có, chưa hề được Chứng Tri, chưa hề được tuyên giảng nay đã được Chứng Tri và tuyên giảng, nó thâm sâu nhiệm màu, làm sao mà dễ liễu Ngộ.

Như vậy, Đức Thế Tôn tiếp tục mở Báu ngôn - thần thông giáo hoá về: Vô Ngã Tướng .


Rõ ràng, đọc tên Kinh đã thấy sâu sắc nhiệm màu. Dễ hiểu hơn tên Kinh: Chuyển Pháp Luân. Vì khi đọc vào nội dung Kinh, ai cũng có thể hiểu: Đức Thế Tôn giảng về cái tôi, cái của tôi, giảng về cái thế giới vô thường hoại diệt, giảng về vô ngã tánh - Điều này để trực chỉ việc tu hành thân


Muốn tác động vào cái Thân, không phải là tác động theo nghĩa hiểu: Cải tạo vật chất các duyên hợp của thân để cho thân thành thường, cũng không phải tu thân là biến cái thân thành kim thân, thần thân hay thành thân thanh tịnh, thường hằng, chứa oai lực, oai thần…

Mà thông qua việc tu tập hay liễu nghĩa bài Kinh này - dùng cả 6 căn liên hoàn hỗ trợ nhau làm con đường chính để Ký Cơ - tác động vào Cơ.

Tuy nhiên, nếu bài thuyết Pháp đầu tiên là thấy tất cả về Đạo Của Đức Thế Tôn - thắp ngay đèn và tất cả những gì đã thấy, sẽ thấy thì bài Kinh thứ 2 này, trọng tâm là phải Thấy Sắc Thân .


Khi thấy sắc thân, người tu sẽ duy trì được cái ngọn đèn lâu tắt hơn nếu như đã le lói sau bài thứ nhất hoặc tìm thấy cái đèn dễ hơn hoặc có thể thắp được đèn sáng lên… : Chúng ta nhận thấy: Đây là bài Kinh bổ trợ tuyệt đối nhiệm màu cho việc thắp đèn hay việc tu Chánh niệm tỉnh thức về Đạo Đức Thế Tôn.


Chỉ có 2 bài Kinh đầu này là hai bài Kinh hệ thống toàn bộ việc thắp đèn - hay Chánh Niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn. Các bài Kinh sau đều chỉ xoay quanh cái hệ thống này hay hỗ trợ hay trợ đạo hay chỉ ra các nấc tu hành hay chỉ ra các phương pháp tu hành ở mỗi nấc… mà càng đi về phía sau có những bài Kinh sẽ chỉ giảng cho 1 vấn đề, chỉ để giải quyết 1 vấn đề của người tu.



Sự vô thường, vô ngã vô tự tánh - Nó sẽ làm cho người tu bỏ luôn cái con đường vật chất hay còn tơ tưởng về “cực đoan” duy vật mà quay trở về liễu nghĩa Đạo Đức Thế Tôn từ đó mà tự sáng đèn.


Người phải đến đây mới sáng được đèn: Căn tánh xếp thứ dưới căn tánh đã nói, tạm được người Luận nêu tên: Căn tánh hay căn cơ 6 căn thông
Đầu trang

hathao207
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 00:39, 18/01/14

Re: PHẬT LUẬN (tác giả: Vô Danh)

Gửi bài gửi bởi hathao207 »

Chuyển Pháp Luân: Căn Cơ 6 căn


Đến đây, người tu Phật đã phải thấy: Nếu như không thể sử dụng 1 căn nào đó trong 6 căn trực tiếp có thể liễu Ngộ sự Thấy Biết thì phải tập trung thấy biết qua cả 6 căn.


Tại sao, lại không thể giác Ngộ sự Thấy Biết ngay lập tức. Đức Thế Tôn đã chỉ rõ, cụ thể súc tích, không thể suy suyển cho người tu (từ đây chỉ nói từ người tu, không nói từ người đọc): Đó là do 5 ấm


5 ấm là nơi chứa đựng mọi thứ mà người tu cho rằng: Đó là tôi, đó là của tôi, đó là thật, đó là thường, đó là tất cả, đó là như vậy… Người có căn cơ thấy biết đã liễu Ngộ luôn không phải bằng sự tri kiến như đã nói ở phần căn cơ đó rằng: Có 1 căn không thể nhận biết, điều khiển tất cả nên làm gì có cái tôi, cái của tôi cái, cái tôi làm chủ… tất cả đều do 5 ấm này mang lại những hiểu biết điên loạn.


Ở đây, quay trở về Tâm 5/ được nói chi tiết ở phần Tâm. Người tu sẽ thấy cái tâm 5/ đó có được là do 5 ấm này lưu giữ và đem lại. Bao gồm:


Ấm Sắc: Về vật chất

Ấm Thọ: Về cảm, nhận, thấy biết (hữu lậu) - khác với cái Thấy biết vô lậu của cái căn làm chủ ta mà người có căn cơ kia đã liễu Ngộ. Chúng ta đừng nghĩ về sự giỏi kém thông minh ngu dốt ở đây: Người liễu Ngộ chưa chắc đã đi xa được đâu vì mọi thứ đều có lý của nó (nghiệp lực).

Ấm Tưởng: Sự suy tưởng (danh)

Ấm hành: Sự vận động

Ấm Thức: Về tinh thần


Trong Kinh Thế Tôn đã nói rõ. Rất chi tiết, cụ thể từng từ, ngữ.



Từ đây, người tu phải áp dụng một phương pháp tu hành tổng hợp đồng thời tu 6 căn vì mọi thứ đều thông qua 6 căn này. Hệ thống hành tu này cũng chiếm phần lớn hệ thống Giới Kinh nếu như không muốn nói là phải tu tất cả.


Chúng ta thấy phía trước, có những người khi liễu Ngộ - có những trợ Đạo là họ lập tức đã chứng tri và dùng được luôn như vốn dĩ như vậy vì họ đã thấy đạt luôn rồi.

Ở đây, pháp nào, trợ Đạo nào cũng phải tu tức là sửa, lần lần mới thấy và mới chứng và mới rõ ràng, mới làm Chánh niệm, Tỉnh thức, Chánh Kiến, Chánh tư duy… - mới làm mọi thứ (Gọi là Hạnh) nâng nâng dần lên từ từ.


Căn cơ này rất vững chắc. Không có bị thiên lệch hay lỏng lẻo khi đạt các hạnh. Khi tu từ tốn, lần lần đầy đủ cả 6 căn từng ít một, 5 ấm sẽ sáng dần lên một cách đều nhau và tương đối khó sai lầm (tẩu hoả nhập ma).


Trong lịch sử, có nhiều câu nói truyền lưu kiểu truyện cười: Bỏ xuống đồ đao, lập tức thành Phật

Tuy rằng là câu nói đùa và không nằm trong Chánh niệm tỉnh thức Đạo Đức Thế Tôn nhưng về mặt tri kiến hữu lậu, nó không hề vô tri.


Đồ đao giống như là Ma. Mà Ma là 5 ấm. Bỏ đi 5 ấm này, lập tức thành Phật!
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”