Môc huynh đã viết: ↑09:21, 06/04/18
Môc huynh đã viết: ↑09:09, 18/03/18
Môc huynh đã viết: ↑14:28, 27/02/18
....................
* Riêng việc chỉnh sửa lá số tiếp theo, nên tuần tự theo quy luật tự nhiên, đầu tiên là Mặt Trời(sao Thái dương) Mặt Trăng(sao Thái Âm) tương tác với Trái Đất, đứng từ góc nhìn của Bắc bán cầu ( vị trí Việt Nam), tiếp theo tuần tự cho cả nhóm sao chính tinh và Phụ tinh, với mục đích xác định độ cường nhược( MVĐH và BH) => tác động ảnh hưởng của từng sao tương ứng với từng vị trí trên lá số, như vậy chúng ta mới có thể đưa ra lời luận giải chi tiết cụ thể về sự tốt hay xấu cho dương số trong vận hạn cụ thể...
...............................
Trục nghiêng của trái đất tạo ra bốn mùa khác biệt mang tính chu kỳ:
https://www.youtube.com/watch?v=il0kVWFH2Hs
........................................
SỰ SỐNG KHỞI NGUỒN TỪ TRÁI ĐẤT.
NHỜ CÓ HỎA TỪ TRONG LÕI CỦA TRÁI ĐẤT.
NHỜ CÓ NƯỚC TRÊN BỀ MẶT CỦA TRÁI ĐẤT.
MẶT TRĂNG, MẶT TRỜI TẠO SỰ TIẾN HÓA...
........................
TIỀN NHÂN THÌ TẠO DỰNG, HẬU NHÂN THÌ PHÁ!?
* Đến thời điểm này thì xem ra không còn ai có lý luận để phải tranh cãi gì thêm, khi cùng quan sát hình ảnh lá số tử vi đã được tiền nhân xác lập với cách cục NHẬT NGUYỆT TỊNH MINH ở trên, theo hình ảnh không gian).
- Nhật Nguyệt Tịnh Minh là: Mặt Trời và Mặt Trăng cùng sáng, đồng nhất tại một thời khắc(giờ Âm lịch) của không gian và thời gian hợp thành.
- Vậy thì lập luận của ông Tạ Phồn Trị và TS HHQuốc có trái với đạo của Trời Đất và Trăng hợp thàng không? Câu trả lời mình xin dành cho các bạn.
* Nếu chỉ quan xát theo đường phân giới thẳng của trục Dần Thân ở lá số trên, thì rõ ràng cái thời điểm để ta chọn cho việc xác định có sự tranh huy của cặp Âm Dương, phải là ở 02 cung Dần và Thân và mình đã không lầm lẫn như đoạn trích theo link dưới: ''NÓI VỀ LÝ THIÊN VĂN...''
- Hoặc như sự quả quyết: '' Tại trục Mão Dậu là giao điểm của ban ngày và ban đêm, của bóng tối và ánh sáng..." của TS HH Quốc trong hình ảnh và lập luận (dưới)
http://vietdich.blogspot.com/2013/12/gi ... -thai.html
* Nếu tuân thủ theo thuyết Âm Dương Ngũ hành thì lá số Tử vi không chỉ đơn giản như vậy( trong Dương có Âm và trong Âm có Dương) nhưng vẫn phân định rõ được Thái cực trong mọi thời điểm ta cần nhận diện và không phải ngẫu nhiên tiền nhân vẽ ra hình ảnh Lưỡng ghi Âm và Dương xoắn kết với nhau khăng khít như vậy, đặc biệt tương ứng với thế đứng của 14 chính tinh trong một lá số Tử vi(Tứ tượng), tại thời điểm sao Thái Dương trong thế Thái cực Dương ngụ Tỵ cung.
NÓI THÊM VỀ LÝ THIÊN VĂN CỦA CẶP ÂM DƯƠNG (theo ông Tạ Phồn Trị)
https://kakalotta.wordpress.com/2010/12 ... BB%A9-hoa/
HỎI: Ông dùng điều kiện thiên văn “giữ cho hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” để định hai sao Âm Dương. Điều kiện này có thực cần thiết không? Thiết tưởng cho cặp Âm Dương ứng với mặt trăng, mặt trời hoặc nói Thái Âm, Thái Dương đại biểu hai yếu tố âm dương cũng cho kết quả tương tự.
ĐÁP: Trước hết cần nói rõ rằng điều kiện thiên văn “để hoàn cảnh của vũ trụ không đổi” được xử dụng trong việc định hai sao Âm Dương là do ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra, không phải tôi. Tôi chỉ là người ghi lại sự kiện này. Cần nói rõ thế vì tôi nghĩ rằng đây là một phát hiện hết sức quan trọng, ví như chiếc chìa khóa chính; không có nó không thể mở cánh cửa đã đóng kín nghìn năm của khoa tử vi. Cái công của người tái khám phá (tức ông Tạ Phồn Trị) vì thế phải được ghi nhận rõ ràng.
Đã biết kết quả rồi thì khó cảm nhận tại sao -từ căn bản khoa học- tìm ra cái lý nằm sau cách an hai sao Âm Dương lại là một tái khám phá to lớn, nên tôi xin lùi một bước để phân tích các thuyết -liên hệ đến cặp Âm Dương- đã có mặt trước thuyết của ông Trị.
Có hai thuyết chính.
Thuyết thông thường (mà ta sẽ gọi là thuyết A) là Âm biểu tượng mặt trăng, Dương biểu tượng mặt trời.
Thuyết A có ứng hợp với thực tế, nhưng không ứng hợp hoàn toàn vì tử vi có một cách lớn là Âm Dương Sửu Mùi, thường được gọi là “Nhật Nguyệt tranh huy”, nghĩa là mặt trời mặt trăng dành ánh sáng. Vấn đề là giờ Mùi (tùy trường phái mà ứng với thời gian 1-3 hoặc 2-4 giờ chiều) trời sáng trưng thì có lý do gì để mặt trăng có uy lực mà đòi “dành sáng” mới mặt trời? Muốn có “Nhật Nguyệt tranh huy” vào buổi chiều thì tất phải là lúc hoàng hôn; tức là sớm lắm cũng phải từ giờ Thân trở đi.
Ngoài ra, từ kinh nghiệm tích lũy lâu đời, người ta biết tính miếu hãm của cặp Âm Dương ngoài yếu tố thời (Dần đến Ngọ là thời của Dương, Thân đến Tý là thời của Âm, Sửu Mùi là thời tranh tối tranh sáng) còn có yếu tố vị (Dương an cung dương đắc vị, an cung âm thất vị; Âm ngược lại). Hiển nhiên mặt trời mặt trăng không phản ảnh yếu tố “vị” khá lạ lùng này.
Kế tiếp là một thuyết khác mà ta sẽ gọi là thuyết B. Thuyết B hoàn toàn đặt trên lý luận, cho rằng cặp Âm Dương chỉ giản dị là đại biểu của hai yếu tố âm và dương, tức là hai đơn vị nền tảng của thuyết Âm Dương.
Ưu điểm lớn của thuyết B là nó giải quyết được cả hai vấn nạn của thuyết A:
-Vấn nạn thời: Dần đến Ngọ ứng với hai hành mộc hỏa đều ứng với phát triển nên là khu vực dương, Thân đến Tý ứng với hai hành kim thủy ứng với sự dừng bước, thoái hóa nên là khu vực âm; nên Thái Dương đắc thời từ Dần đến Ngọ, thất thời từ Thân đến Tý; Thái Âm ngược lại. Thế là yếu tố thời được thỏa.
-Vấn nạn vị: Từ cách thành lập địa bàn ta đã phân 12 cung thành 6 âm, 6 dương,nên cho Thái Âm ứng âm, Thái Dương ứng dương thì yếu tố vị đương nhiên được thỏa.
Đồng thời, thuyết B dẫn đến một kết quả tự nhiên là ở hai cung Sửu Mùi cả hai sao Thái Âm, Thái Dương đều không đắc thời hoặc thất thời, nên ứng với cảnh tranh tối tranh sáng của hai yếu tố âm dương. Nói cách khác, trục Sửu Mùi là trục đối xứng của hai yếu tố Âm Dương. Với kết quả này, ta có quyền đòi hỏi rằng cặp Âm Dương phải vĩnh viễn đối xứng qua trục Sửu Mùi.
Có thể thấy rằng thuyết B đạt rất gần đến cái lý tối hậu nằm sau cách an cặp Âm Dương, thế nhưng nó có một thiếu sót trầm trọng là ngoài lý âm dương ra, ta không biết các vị trí của hai sao này ứng với các yếu tố nào khác của địa bàn. Lấy thí dụ trường hợp Thái Dương cư Tý, tất Thái Âm cư Dần. Thái Âm ở Dần đại biểu gì? Khởi đầu của hành mộc? Hoặc giả phối hợp với thuyết A để nói Âm Dương cùng ứng với giờ thì bảo Thái Dương cư Ngọ cực tốt hợp lý rồi, nhưng cùng lúc ấy Thái Âm cư Thân có ý nghĩa gì? Giờ Thân chưa phải là lúc mặt trời lặn sao có thể nói Thái Âm tốt được?
Cái độc đáo của lý tương ứng Thái Âm = Tháng, Thái Dương = Giờ mà ông Tạ Phồn Trị tái khám phá ra là nó vừa ứng với thiên văn (hai sao Âm Dương phối hợp để giữ hoàn cảnh của vũ trụ y hệt như thời điểm khai sinh của địa cầu là -tiết lập xuân- tháng Giêng giờ Tý), vừa tổng hợp được các tính chất chính của hai thuyết A và B kể trên. Tức là nó giúp cái lý của cặp Âm Dương trở thành đầy đủ và nhất quán.
Theo ông Trị tiết lộ thì nhờ ngồi thiền mà cuối cùng ông ngộ ra cái lý của cặp Âm Dương sau 20 năm liên tục suy nghĩ và bế tắc. Đã chuyên tâm nghiên cứu mà phải mất 20 năm suy nghĩ, lại thêm đốn ngộ mới suy ra được một điều thì điều ấy chắc không thể tầm thường.
* Nếu chúng ta chịu khó quan sát kỹ lại hình ảnh ở trên, thì không đến nỗi phải luẩn quẩn thắc mắc như các vị tiền bối ở đoạn trích trên.