Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Chia sẻ các loại tài liệu, sách, phần mềm
Trả lời bài viết
succinum
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 459
Tham gia: 17:21, 08/05/12

Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi succinum »

[TẠP CHÍ KHHB SỐ 26 RA NGÀY 30/11/1972]
BÌNH GIẢI LÁ SỐ TỬ VI CỦA TUY LÝ VƯƠNG
Lá số:
Hình ảnh
Rất hiếm có những lá số được hưởng đủ cả Phúc Lộc Thọ. Được như vậy ắt phải khác thường, đáng để cho học giả Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu.
Hoặc cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức của người tuổi gì, đóng đúng vào cung ấy tính theo địa bàn trong lá số, thì là người được hưởng phúc dẫu cung Mệnh có xấu, cũng được âm một nửa tính cách xấu. Tuy Lý Vương tuổi Mão, được cung Phúc Đức đóng đúng vào cung Mão theo địa bàn, sự hưởng Phúc là lẽ tất nhiên.
Đầy đủ cả Phúc Lộc Thọ, như vậy, Tuy Lý Vương hẳn là người phúc lớn. Vậy cung Phúc Đức của lá số này được những cách gì? Trước hết cung này “vô chính diệu đắc tam không” vì Tuần Triệt cùng Tài Bạch chiếu lại, Địa không ở cung Thê chiếu lên. Các sao Âm Dương, Long Phượng, Cự Cơ, Tả Hữu, Đại Tiểu, Không Kiếp, Kình toàn là đắc địa. Thêm vào đó, bộ tứ linh Long, Ly, Quy, Phượng (Long Trì, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các) thì cung Phúc Đức này tốt vô cùng, chủ về cường thịnh, quý hiển… Nếu luận về mồ mả, thì được một ngôi mộ kết phát đến tột bực, nào là ba … (1 từ bị thiếu chữ) án ở trước mặt, hai bên tả hữu, long chầu, hổ chực, voi quỳ, phượng múa, nào là cờ biển, tàn quạt, v.v… ngôi đất to lớn, như vậy, ắt phải phát đến Đế Vương…
Cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ có chi chứng tỏ rằng cha và anh em Vua không?
Cung Phụ Mẫu có Liêm Trinh đắc địa, cung Dần thuộc Mộc sinh cho Liêm Trinh Hỏa, vậy Liêm Trinh lại càng tỏ rạng, Liêm Trinh ngộ Tướng Quân, là người có quyền uy xuất chúng.
a) Tam Hóa hợp chiếu: Hóa Lộc (cung Nô Bộc), Hóa Quyền (cung Giải Ách) cùng chiếu xuống. Hóa Khoa (cung Thê) lục hợp.
b ) Lưỡng trùng thiên lộc: Hóa Lộc, Lộc Tồn cùng ở một cung (Nô Bộc) chiếu xuống. Hai sao này không khắc nhau nếu ở hai cung Dần, Ngọ.
c) Quyền sinh sát: Hóa Quyền, Tràng Sinh, Kiếp Sát. Ba sao này cùng ở một cung (Giải Ách) nên ảnh hưởng càng mạnh.

Phải chăng chỉ là vua mới có quyền như vậy?
d) Binh, Hình, Tướng, Ấn: Cách Tướng Quân, Quốc Ấn ở cung Phụ Mẫu, Thiên Hình, Phục Binh ở cung Giải Ách. Cách này tuy là cách của võ tướng, nhưng đã là vua thì mặc nhiên có quyền hành nguyên nhung trong thiên hạ.
e) Tướng, Ấn, Khoa, Quyền cách: Hóa Khoa ở cung Thê, lục hợp với cung Phụ Mẫu, Hóa Quyền ở cung Giải Ách, chiếu. Cách này chủ về đại vinh hiển.
g) Ấn phù cách: Quốc Ấn cung Phụ Mẫu. Đường Phù cung Thê, lục hợp. Đường Phù tức là lệnh tiêu, hay cờ lệnh, hay một thứ phù hiệu để chứng tỏ lệnh ở nơi nào xuất phát.
h) Thai, Cáo, Quang Quý cách: Tức là bộ tứ quý Thai Phụ (cung Nô Bộc chiếu), Phong Cáo (tại bản cung), Thiên Quý (cung Thê, lục hợp), Ân Quang (cung Phúc Đức do triều củng).
(Ít người biết cách triều củng này, cung Mão củng cung Dần, cung Dần triều cung Mão).
i) Không Kiếp Tỵ Hợi cách: Địa Không, Địa Kiếp đắc địa ở cung Thê lục hạp. Hung tinh đắc địa, phát dã như lôi.
Có nhiều cách hay kể trên tỏ ra cha được đại quý hiển, có uy quyền tột chúng. Như vậy, chỉ có vua mới ứng hiện được!


Cung Huynh Đệ cũng có những cách hay như cung Phụ Mẫu vì cung Giải Ách và cung Nô Bộc chính và hợp chiếu.
Ngoài ra, sau Thất Sát, chính tinh đắc địa, sao Thiên Khôi là “Tại quốc vi nhân trưởng” với thêm hai cách đặc biệt:
1) Long Vân khánh hội: Thanh Long cư Thìn là Long cư Long Vị, giữa chân tướng con rồng. Hóa Kị là đám mây. Thanh long chiếu vào cung Bào thì anh là chân mệnh Đế Vương. Rồng có mây thì rồng mới linh động.
2) Phong Hổ đồng hành: Phi liêm là gió, cư ngay bản cung. Sao Bạch Hổ tại cung Thê, tức là cung Hợi. Hổ tung hoành vào ban đêm, trong khoảng giờ Hợi thì uy lực nhiều nhất Bạch Hổ hội với Phi Liêm có Triều củng (cung Hợi triều cung Tý).
Có cha và anh làm vua, không lo đương số lại đói rách khổ sở! Con người ta, ảnh hưởng của gia đình rất cần thiết cho sự nghiệp và địa vị trong xã hội. Vì lẽ đó trong số Tử Vi, cung Mệnh được đặt vào giữa hai cung Phụ Mẫu và Huynh Đệ. Có hai cung giáp tốt, cung Mệnh cũng được tốt lây tại số này, cung Mệnh lục hợp với cung Huynh Đệ, nên được hưởng 30/100 cái tốt của cung đó.

Các cách hay của cung Mệnh.
Cung Thiên Di đối chiếu có Âm Dương được Lộc Tồn (lục hợp) nên sáng tỏ thêm ra, Long Phượng chủ quyền quý. Kình Dương đắc địa tức là cái bút, chủ văn chương nổi tiếng. Hai cung Quan Lộc và Tài Bạch, tam hợp với cung mệnh có Tam Thai, Bát Tọa, chủ quyền quý văn chương, Cự Môn, Thiên Cơ, đắc địa ở cung Dậu là Tài Quan cách, Tam Thai, Bát Tọa, cũng chủ sẽ quyền quý văn chương. Đà La là cái nghiên mực thuộc về văn chương. Sao Thiên Mã đóng tại cung Tỵ thành Chiến Mã, ngựa dùng vào chiến trận ắt là ngựa thực hay. Như vậy, đương số có tài mẫn tiệp xuất chúng.
Để ý sao Tang Môn, sao Cự Môn thành Lưỡng Môn, đi cùng với Long, Phượng, Thai Tọa chiếu vào Mệnh, nên đương số được sống trong cảnh cửa cao nhà rộng, lầu son gác tía.
Sao Cô Thần, Quả Tú, thủ chiếu Mệnh mà đương số không bị cảnh sống cô độc, luôn luôn đầy đàn vợ con bên cạnh vì Mệnh thuộc Thổ, cung an Mệnh cũng thuộc Thổ, sao Quả Tú lại thuộc Thổ. Riêng sao Cô Thần thuộc Hỏa. Đây thuộc về luật chế hóa Ngũ Hành (Sinh, khắc, chế, hóa): “Thổ đa, Hỏa tức” nghĩa là nhiều Thổ thì Hỏa tắt, nên sao Cô Thần mất hiệu lực (Đàn ông kỵ Cô Thần, đàn bà kỵ Quả Tú).
Cung Thiên Di giáp Quyền Lộc, cũng là một cách rất hay. Tam Hóa (Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa) rất cần thiết cho sự quý hiển mà không có Hóa nào chiếu vào Mệnh.
Như vậy phải hiểu rằng. Tuy Lý Vương là người được hưởng phúc và không phải là người gây nên những sự nghiệp vĩ đại!


Cung Tử Tức có sao Tử Vi và Thiên Tướng, chính tinh, được Thiên Phủ, Vũ Khúc chiếu, Liêm Trinh đắc địa chiếu, không có các sao sát hại. Theo vào đó, được Đế Vượng đối chiếu thì sự đông con theo lối lũy tiến.
Ngoài các cách hay chính của các cung kể trên, còn thiếu sót nhiều cách hay phụ nữa, kể hết thì bình giải quá dài. Bài này cần thiết đối chiếu các đại hạn và các tiểu hạn trong lá số Tử Vi, xem có đúng với quãng đời vinh nhục của Tuy Lý Vương hay không?

Đại hạn từ 22 đến 31 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Thê, có tứ sát tinh Không, Kiếp, Kình, Đà và bại tinh Tang, Bạch, Khốc, chủ về tang thương. Vậy trong thời kỳ của đại hạn, Tuy Lý Vương phải bị một các tang lớn là thân phụ, vua Minh Mạng băng hà. Trong đại hạn còn có sao Thiên Mã, chủ về việc thay đổi, Tuy Lý Vương phải thay đổi nếp sống sau khi chịu tang.
Năm Canh Tý, Tuy Lý Vương 22 tuổi. Tiểu hạn tại cung Tuất, Thái Tuế lưu niên tại cung Tý. Tính cả thiên bàn cùng địa bàn năm đó thì bị các sao: La, Võng, Thương, Sứ, Cô Thần và Tang Bạch lưu niên cùng Linh Tinh: Cung Mệnh đã có sẵn Kình Đà, nay lại thêm Kình Đà lưu niên, nên bị đại tang.
Đại hạn từ 32 đến 41 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Tử Tức. Cung này có nhiều sao tốt (đã nói ở trên) nên là thời kỳ được hưởng hưng vượng:
Năm Tân Hợi, Tuy Lý Vương, 33 tuổi được ủy nhiệm giữ chức Giám Đốc Tân Học.
Tiểu hạn năm đó đóng tại cung Tài Bạch, Thái Tuế lưu niên tại cung Hợi. Tính cả thiên bàn cùng địa bàn thì có Cự Cơ đắc cách, Đại Tiểu Hao đắc địa, Không Kiếp đắc địa, Thai Tọa, Tả Hữu, Mã ngộ Khốc, Khách và Khoa ngộ Không (Địa Không) ứng vào cách tự nhiên được ân điển làm quan lớn, không phải như các người khác phải leo dần từng bậc thang danh vọng.
Để ý thấy năm Giáp Dần, Tuy Lý Vương được vinh phong Tuy Lý Công và năm Mậu Dần được thụ tước Tuy Lý Vương, vì tiểu hạn hai năm đó đóng tại cung Huynh Đệ và Thái Tuế lưu niên của hai năm Dần đóng tại cung Phụ Mẫu là hai cung tốt nhất trong lá số.
Hai tiểu hạn đó thuộc hai đại hạn 42~51 và 52~61 cùng tốt cả.
Năm Đinh Mão, Tuy Lý Vương 49 tuổi. Không nói gì đến số Tử Vi ta thấy phần nhiều người khi tới 49 tuổi đều lo năm đó xấu vì là năm trùng hợp với tuổi, sẽ bị các vận hạn xấu, hoặc bị chết, hoặc bị tang, hoặc bị gặp những sự không may như kiện tụng mất của, v.v…
Năm đó, tiểu hạn ở ngay cung Mệnh, có các sao Cô, Quả, Dương, Đà, Hỏa, Tang, Điếu. Cung địa bàn có Hư, Khốc, Hổ, Không, Kiếp, Đại Tiểu Hao. Các sao lưu niên năm đó như Tang Bạch, Kình Đà lưu niên đều đóng đúng vào các cung mà các sao ấy sẵn có. Hơn nữa sao Hóa Kỵ lưu niên đóng vào cung Tài Bạch cũng chiếu về tiểu hạn. Vậy năm đó, Tuy Lý Vương phải chịu đại tang thân mẫu.
Đại hạn 62-71 tuổi, Đại Hạn này đóng tại cung Thiên Di giáp Thương Sứ, có các ác sát tinh là Không, Kiếp, Khốc, Quả, thì đại hạn này Kình xấu, kém xa các đại hạn vừa qua.
Năm Quý Mùi, Tuy Lý Vương 65 tuổi, tiểu hạn đóng tại cung Quan Lộc, Thái Tuế, ở ngay tại cung đại hạn, cả hai đều có Không Kiếp. Như vậy cả ba đại hạn Tiểu hạn, Tuế hạn có đủ bộ lục sát tinh: Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa, Linh (Linh Tinh ở cung Tuất, cũng vào cung Mùi): Lục bại tinh Tang Bạch, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao nên Tuy Lý Vương bị cách tuột hết cả chức tước. Thêm vào các cách xấu đó, hai sao Cô Quả làm cho Vương phải xa gia đình, lưu đầy tại Quảng Ngãi. Sao Tang Khốc hợp với các sao xấu làm cho Vương bị một cái tang đau đớn, phải khóc, là người con bị án tử hình. Vương bị hạ ngục vì các sao Bạch Hổ, Quan Phù. Hai sao này chủ về hình án, lưu đầy.
Vận hạn to tát như vậy mà không bị chết là vì có sao Hóa Khoa hóa giải. Sau Giải Thần và Thiên Giải giúp sức cho Hóa Khoa.
Năm Ất Dậu, Tuy Lý Vương 67 tuổi, đại hạn vẫn ở cung Thiên Di. Tiểu hạn lại đóng ngay tại cung Thiên Di nên ảnh hưởng hai sai Giải Thần và Thiên Giải phát huy đến tột độ, sao Hóa Khoa cũng cùng chiếu cả vào hai hạn. Thêm vào đó, Thiên Quan quý nhân ở ngay cung Tuế hạn, Thiên Phúc quý nhân sẵn có (ở giữa cung Mệnh và cung Mão theo địa bàn, vì cung Mão là cung Mệnh thứ hai của đương số), Tuy Lý Vương thoát khỏi cảnh lưu đầy và được phục hồi chức tước… Được như vậy, không những do các sao kể trên mà còn phụ thuộc vào hai sao Quang Quý…
Đại hạn 72-81 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Nô Bộc thấy có Đào Hồng ở đối cung thì biết rằng trong Đại hạn này, Tuy Lý Vương phải từ giã cõi đời.
Năm Đinh Dậu, tiểu hạn ở cung Thiên Di (cung Mùi) và Tuế hạn ở cung Tài Bạch (cung Dậu)
Cộng các sao của Đại hạn, Tiểu Hạn, Tuế Hạn thấy đủ bộ lục sát Tinh: Địa Không, Địa Kiếp (cung Hợi chiếu lên Tiểu hạn) Đà La (cung Tỵ chiếu vào cung Dậu là Tuế hạn) Linh Tinh (cung Tuất chiếu vào Đại hạn) Hỏa Tinh (ở ngay cung Tuế hạn)
Lục bại tinh: Đại Hao và Thiên Hư (ở cung Tuế hạn) Tiểu Hao và Thiên Khốc (ở cung Mão chiếu vào Tiểu hạn và Tuế hạn) Tang Môn (cung Tỵ chiếu vào Tuế hạn) Bạch Hổ (cung Hợi chiếu lên Tiểu Hạn).
Các sao lưu niên như Tang, Hổ, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao và Kình Đà cũng lại đóng cả vào chỗ các cung đã có sẵn. Hai sao Thiên Giải và Giải Thần ở cung Tiểu Hạn không phải để giải cái xấu. Chính hai sao đó giải thoát linh hồn.
Còn nhiều các cách khác xấu: như Suy-Bại-Tuyệt, như Văn Khúc ngộ Hóa Kỵ (cung Thìn lục hợp với Tuế hạn) như Bạch Hổ gặp Hổ lưu niên ở cung Mão là cung Mệnh thứ hai… như Cô Quả v.v…
Tháng, Ngày, Giờ mà Tuy Lý Vương trút hơi thở cuối cùng, bình giải cả ra đây e bài này quá dài.

(Linh Cơ)
Được cảm ơn bởi: barcarole_1709
Đầu trang

thatsat275
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:10, 15/08/16

Re: Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi thatsat275 »

Tuy Lý vương trước có tên là Nguyễn Phúc Thư (阮福書), sau được ban tên Nguyễn Phúc Miên Trinh (阮福綿寊), sinh ngày 19 tháng 12 năm Kỷ Mão (3 tháng 2 năm 1820) tại viện sau Thanh Hòa điện. Ông là con trai thứ 11 của Nguyễn Thánh Tổ Minh Mạng, mẹ ông là Tiệp dư Lê Thị Ái (黎氏愛), người An Triền (Phong Điền, Thừa Thiên). Vốn thông minh, hiếu học, tính nết đôn hậu lại được mẹ và thầy Thân Văn Quyền[1] dạy dỗ chu đáo, nên ông sớm nổi tiếng là người uyên bác, sáng tác thơ giỏi và thạo cả nghề thuốc.

Năm 1839, Miên Trinh được phong là Tuy Quốc công (綏國公), cho lập phủ riêng gọi là Tĩnh Phố, ở bên cạnh Ký Thưởng viên của người anh khác mẹ là Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Năm Tự Đức thứ 4 (1851), Hoàng đế bắt đầu lập Tôn Học đường (尊學堂), cử ông giữ chức Đổng sự. Năm 1854, ông được phong Tuy Lý công (綏理公).

Năm 1865, Tự Đức chuẩn cho ông kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Hữu Tôn Nhân, nhưng vì mẹ mất, ông xin từ để cư tang, đến năm sau mới tựu chức, rồi thăng Tông Nhân Phủ Tả Tông Nhân (1871). Năm 1878, ông được phong làm Tuy Lý Quận vương (綏理郡王), rồi thăng làm Tông Nhân Phủ Hữu Tông (1882).

Năm Quý Mùi (1883), Tự Đức lâm bệnh nặng, Miên Trinh có vào Y viện hầu thuốc, nhưng không công hiệu, không lâu sau thì Tự Đức giá băng mất. Ông được tin cẩn và được Tự Đức di chiếu cùng Thọ Xuân Vương giúp đỡ việc triều chính, trong thời gian này ông được phong tước Tuy Lý vương (綏理王). Sách Vua Minh Mạng với Thái y viện kể:

Bấy giờ, trong Hội đồng phụ chính, Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường nắm nhiều quyền hành, lại đứng đầu phái chủ chiến, tích cực chống thực dân Pháp. Họ thực hiện các cuộc phế lập để chọn ông vua đứng về phe mình. Trong cuộc phế lập ấy, Lãng Quốc công Hồng Dật lên ngôi, cải nguyên Hiệp Hòa, và Miên Trinh được tấn phong Tuy Lý Vương...
Tuy có lòng yêu nước thương dân, nhưng vì chịu sự chi phối của hệ ý thức phong kiến (lấy quyền lợi triều đình, hoàng tộc làm đầu) nên Miên Trinh ngấm ngầm chống đối Tường và Thuyết. Rồi Hồng Sâm[2], con trai của Miên Trinh, mưu cùng vua Hiệp Hòa, nhờ tay thực dân Pháp để trừ hai người ấy. Việc bại lộ, cả vua và Hồng Sâm đều bị giết.
Miên Trinh sợ hãi, lánh đến sứ quán Thương Bạc xin tá túc, nhưng Tham biện Nguyễn Cư không cho. Cùng đường, ông đem cả gia đình xuống Thuận An xin tị nạn trên tàu Pháp do Picard Destelan chỉ huy.[3]
Mười ngày sau (30 tháng 11 năm 1883), mặc dù được Khâm sứ De Champeaux che chở, nhưng vì Tôn Thất Thuyết đòi, nên Pháp trao trả ông cho triều đình Huế. Ông bị Tôn Thất Thuyết cách hết chức, giáng xuống tước Tuy Lý Huyện công (綏理縣公), đày vào Quảng Ngãi (1884). Mãi đến khi Đồng Khánh lên ngôi (1886), ông mới được tha về và cho khôi phục tước Tuy Lý công.

Năm 1889, Thành Thái nguyên niên, ông được cử làm Ðệ nhất phụ chính thân thần, kiêm nhiếp Tôn Nhân Phủ Tả Tôn Chính, tấn thăng Tuy Lý quận vương như trước. Năm 1894, tháng 7, vì có công lao lớn, ông lại được tấn phong làm Tuy Lý vương (綏理王).

Năm 1897, vì tuổi già, ông xin về nghỉ, chẳng bao lâu thì bị bệnh mất ngày 24 tháng 10 năm Đinh Dậu (18 tháng 11 năm 1897), hưởng thọ 77 tuổi. Nghe tin ông mất, Thành Thái cấp một ngàn quan tiền lo việc tang và ban thụy là Ðoan Cung (端恭). Mộ Tuy Lý Vương ở cạnh mộ mẹ, nay thuộc phường Phường Đúc, sát bên đường Bùi Thị Xuân, thành phố Huế.

Hậu duệ
Tuy Lý vương có tất cả 40 con trai và 36 con gái
Đầu trang

thatsat275
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1739
Tham gia: 11:10, 15/08/16

Re: Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi thatsat275 »

Mệnh Thân đều VCD,cuộc đời Phúc Lộc Thọ đều có,công danh tốt.Tuy Lý Vương là hoàng tử Việt Nam,con trai vua Minh Mạng,sinh năm Kỷ Mão 1819,mất năm 1897,thọ 79 tuổi.Thời xưa,tuổi thọ như thế này là cao rồi.Quan điểm mệnh VCD thường phi yểu tắc bần cũng là sai lầm.Rất nhiều người mệnh VCD là tỉ phú,tổng thống,hoàng tử,công danh,phúc lộc thọ đều tốt.
Đầu trang

Mi la
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 240
Tham gia: 22:48, 11/03/19

Re: Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi Mi la »

Em cũng có lá số tựa như vậy, nhưng lộn ngược lại. Thiên di ở sửu.
Đến giờ vẫn chưa từng có người yêu. Vậy chắc quả tú không loại bỏ được.
Đầu trang

hungton
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1550
Tham gia: 01:18, 25/08/17

Re: Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi hungton »

Quý vị nghiên cứu Tử vi mến ,
Lá số không có 6 phù tinh : Tả Hữu . Xương Khúc , Khôi việt là đã quá kém về moị mặt như : bằng cấp , kiến thức trí tuệ lại thêm không có Tam Hóa Khoa Quyền lộc , Lộc tồn thì làm sao mà được triều đình Huế cử giữ chức : Đệ nhất Phụ chính đại thần < tương đương đệ nhất Tể Tướng < Thủ tướng > . Xin góp ý kiến để quý vị suy luận . Lá số của 1 người tầm thường cách số hạng B cũng có ít nhất 1 bộ trong 3 bộ phù tinh , và 1 trong Tam Hóa hoặc Lộc Tồn . Cho dù có Hung Sat́ Tinh Miếu đ̣ia Thủ Mệnh cũng phải có 1 trong Tam Hóa , hoặc Lộc tồn .
Khoa Tử vi có cách xếp hạng : Khoa bảng ,quyền tước , danh chức với các bộ sao rõ ràng chi tiết , chứ không phải là GỌT SAO một cách VÔ nguyên tắc ở các cung nhược< Phụ , Điền, Nô, Giải , Tử Tức , Bào ,> để TẠO THÀNH CÁCH CỤC của lá số. Cung Mệnh Thân đã không có Sao Quyền tinh mà Cung Phúc có thì giòng họ có quyền tước , chứ lá số Không có . Đây là MAN THUYẾT : Tạo nên sự nghi ngờ về tính khoa học của khoa Tử vi VN . Đây là lý do đã làm cho một môn phái Tử vi không còn phát triển được nữa. .
Nay kính ,
Mến,
Đầu trang

Nmtuan93
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 683
Tham gia: 00:38, 14/08/19

Re: Bình giải lá số Tử Vi của Tuy Lý Vương

Gửi bài gửi bởi Nmtuan93 »

Tam hóa không tính lục hại.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Thư viện”