Phúc đức cung

Hỏi đáp, luận giải về tử vi
Trả lời bài viết
hoang kim bao
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 546
Tham gia: 15:56, 11/12/13

Phúc đức cung

Gửi bài gửi bởi hoang kim bao »

LUẬN CÁC SAO Ở CUNG PHÚC ĐỨC

Sao Tử Vi tọa thủ cung Phúc Đức, là Thổ Tinh Tổ Sơn đại địa, gặp cát tinh thì phát phúc lâu dài, nếu gặp Hao, Triệt, Không Kiếp là giòng Trưởng bị bại, thứ thì thành, tha hương bôn tẩu, Tổ nghiệp không vượng, địa khí đã kiệt tàn.
Tử Vi là ngôi mộ Ngũ đại nội ở vào miếu vượng địa được hưởng phúc lâu dài, gặp Thiên Phủ, Thiên Tướng thì chung thân được cát tường, gặp Phá Quân thì lao tâm phí lực bất an, hội hợp Thiên Cơ là được hưởng phúc chung thân, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp phúc bạc.
Thiên Cơ là Mộc tinh, gặp Không là bóng cây, gặp Triệt là cành cây, cung cây có hoa đẹp và sinh nở được, nếu gặp được Đào, Hồng, Thai, Dưỡng là Phúc, gặp Đà La, Thiên Riêu là đất nghỉ không phát.
Sao Thiên Cơ ở cung Phúc Đức là chỉ về mộ Ông Nội, trước thì lao khổ sau mới được nhàn hạ, với Cự Môn thì có lao lực mới được yên lâu, với Thiên Lương thì được hưởng phúc, với Thái Âm là chủ khoái lạc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là bôn tẩu không được yên tĩnh.
Thái Dương là Hỏa Tinh gặp Địa Kiếp thì đất thật phẳng, gặp Xương Khúc là Cung Huyệt như nước ánh từng khúc trong vườn thượng uyển, thường an triệt lộ ở bên thì có tài văn võ, là bậc Đống Lương trong nước.
Nếu gặp Đà Kỵ Riêu Linh tức như nước không có mạch mà cứ tiết mãi ra hết ngoài, là như “Vân ám sơn lãnh” (Đỉnh núi bị mây phủ ám) thì nhân đinh bị chết nhiều, có tật ở mắt hay đui mù.
Là ảnh hưởng mộ Cha (Cha còn sống là mộ ông Nội) trong nhà hoang mang rồi mới phát phúc, với Thái Âm là con cháu được yên vui, sung sướng. Với Cự Môn là phí lực mới lâu yên, với Thiên Lương được sung sướng yên vui, nếu là số đàn bà mà có cung Phúc Đức như vậy hội với Cát tinh là chiêu được chồng hiền minh hưởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Kỵ Không Kiếp Kỵ Hao thì suốt đời không được mỹ mãn yên vui.
Vũ Khúc là Kim Tinh, hỉ kiến Tham Lang là Địa Khí cao hậu, sơn thủy hữu tinh, Văn võ toàn tài, xa quê hương thì phát Phúc, nếu gặp Tử Vi ở Hãm địa gia Dương Đà Khốc Hư Linh Kỵ là đất có hình dáng mà không có Huyệt, chôn ở đó là đất bại tuyệt, nếu lại gặp Tuần, Triệt, Phá Quân thì cũng làm được về Nghệ Thuật khéo léo, làm Nghệ sĩ chẳng hạn.
Vũ Khúc là mộ Tứ đại nội nếu ở Hãm địa là lao tâm phí lực ở miếu vượng địa là an nhiên hưởng phúc, có Phá Quân hội với là chạy Đông chạy Tây đời không yên tĩnh, với Thiên Tướng thì lão cảnh an khang, gặp Thất Sát là lâu mới được an khang, gặp Tham Lang càng về già càng hưởng được nhiều phúc, gặp Hỏa Linh miếu vượng là được an nhàn gia Dương Đà là hao tâm phí lực.
Thiên Đồng là Thủy Đới Thổ gặp Xương Khúc Khôi Việt Khoa Quyền là đất phát nhiều Quan. Sao Khôi lập ở ngoài chiếu vào là Thiên Hạ cái thế văn chương.
Nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Kiếp Không là Huyệt không được chính chỗ tuy phát mà chỉ bình thường.
Thiên Đồng là mộ Tứ đại ngoại, là được hưởng Phúc Thọ sung sướng, với Cự Môn ắt buồn phiền vui ít, với Thái Âm đồng cung là được hưởng phúc, cùng với Thiên Lương là thanh nhàn khoái lạc.
Liêm Trinh là Hỏa Tinh Đới Mộc gặp Thiên Tướng, Lộc Tồn đồng độ là địa khí nhiều mạnh và đẹp. Long, Hổ ở ngoài chầu lại thì quí được Vua phong, phú gia địch quốc. Nếu gặp Cô Thần, Quả Tú thì thành không có Tú khí, trai gái bị cô quả phải bôn tẩu tha hương.
Liêm Trinh là chỉ mộ Chú, đứng một mình là trong hoang mang thì có phúc, với Thiên Tướng là có Phúc Thọ, gặp Thiên Phủ là vui vẻ, an cư lạc nghiệp không bị ưu buồn, cùng Phá Quân là mộ không phát phải lao tâm phí lực, gia Dương Đà Hỏa Linh là lao khổ.
Thiên Phủ là Thổ tinh, tổ sơn đại địa, được phát phúc, trường cửu, nếu bị Tuần, Triệt, Kiếp Không là Trưởng bại thứ thành tha hương bôn tẩu tuy phát nhưng không lâu, địa khí đã kiệt.
Thiên Phủ chỉ mộ ngũ đại ngoại được yên tĩnh hưởng Phúc với Tử Vi là một đời khoác lạc, với Liêm Trinh thân thì yên mà tâm thì hoang mang, cùng Vũ Khúc, nhỏ thì cực khổ đắng cay, trung và vãn niên thì được an lạc hưởng Phúc gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp Hao Kỵ là lao khổ đệ nhất.
Thái Âm thủy tinh là địa thế cao vợi, gặp Khoa Quyền chiếu lại ắt được Mộc Tinh khí thủy an cực là đứng đầu Thiên hạ. Nếu gặp Khốc Hư Tuần Triệt, Đà Kỵ là giả huyệt không phải thật, con cháu không được thịnh vượng. Thái Âm là Mộ Mẹ (Mẹ còn chỉ mộ Bà Nội), nhập miếu là hưởng phúc khoái lạc, cùng với Thái Dương là cực mỹ, làm tăng đạo cũng được thanh khiết hưởng phúc lâu dài, cùng Thiên Cơ thì tâm hoang mang, với Thiên Đồng thì an tĩnh vô ưu, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là có sự ưu buồn thì tốt, đời không được yên tĩnh.
Tham Lang là thủy Tinh gặp Vũ Khúc Khoa Quyền Lộc là địa khí nhiều, âm ỉ lâu bền, đứng đầu thiên hạ, phát mộ Ngũ đại, Nếu gặp Tuần Triệt là như một mở một đóng, một may rủi nhưng cũng không đến nỗi là họa hại.
Tham Lang chỉ mộ Ông Nội, lạc hãm là lao tâm không nên gặp Liêm Trinh thì phúc bạc, cùng với Tử Vi thì về già ắt được an lạc vui vẻ.
Cự Môn là Thủy Đới Kim gặp Nhật, Hỏa Khôi Việt Cơ, Quyền Ấn là Vệ Huyệt (Khí Huyệt), các sao tốt cũng phụ là Văn Võ toàn tài, Riêu Đà Kỵ là hung táng là bị nơi Ác Sơn Ác Thủy, thì bị tai hung, trai gái bịnh tật yểu bần, hình ngục, huynh đệ bất hòa. Cự Môn chỉ mộ Bác ruột, lạc hãm là lao tâm không yên, cùng với Nhật có buồn có vui, cùng Thiên Đồng là huởng phúc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp là gặp nhiều sự ưu buồn.
Thiên Lương là Thổ Đới Mộc hỉ kiến Văn Khúc, Khoa Quyền là đất phát Văn mà Vũ chiều vậy. Nếu gặp ở nơi Hãm địa và Tuần Triệt Mã Kỵ là địa thế bị hư liệt, trai thì du đãng, gái đa dâm, phá tán Tổ nghiệp.
Thất Sát là Hỏa Đới Kim gặp Tử Vi Khoa Quyền là khi đất ấm áp trong trẻo đất cao trên đỉnh núi trùng trùng điệp điệp, long mệnh chạy tuy đoản (ngắn) nhưng ở ngoài chiều lại, là anh hùng oanh liệt, vũ liệt công hầu. Ở Hãm địa có Dương Đà Không Kiếp Kỵ Riêu Tuế tức là Cô long ngoài không chiều phục thì nhân đinh không vượng, yểu nhược tàn tật bình thường, lao tâm phi lực.
Là Mộ gì gặp Vũ Khúc thì lâu mới yên, với Liêm Trinh là cực nhọc, cùng Tử Vi thì trước lao khổ sau mới an nhàn về sau được toại ý.
Số Đàn bà mà cung Phúc đức có một sao Thất Sát tất chỉ làm Nô tỳ, Ca kỹ.
Thiên Tướng là Thủy Đới mộc gặp Khoa Quyền Khôi Việt là đất long mạch đang lên chiều cao vọi, đời đời Công Hầu bá tước. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp thì long mạch bị kim châm chích thương tàn trong hoạn lộ thì bị hoán cải, cách chức, là sĩ thứ thì bị thị phi.
Thiên Tướng chỉ mộ Cậu, đắc địa thì được an nhàn hưởng phúc sống lâu, gặp Tử Vi là khoái lạc, với Thiên Cơ thì hoang mang mà trong được tốt, cùng Thái Dương thì Phúc Thọ song toàn, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp thì tâm không được yên.
Phá Quân là Thủy Đới Thổ gặp Vũ, Khoa, Quyền, Khôi, Việt là Tú khí ắt Văn Võ kiêm toàn đỗ đạt cao. Nếu ở nơi Hãm địa gặp Liêm Phục Hình là đất ác khí như tinh sơn Kim hình khắc Mộc như bị mũi nhọn đâm vào chết. Là mộ cụ Ngoại, là lạc hãm là lao tâm phí lực, cùng Vũ Khúc là lâu mới yên, với Liêm Trinh là khổ cực.
Cùng Tử Vi là an lạc, gia Dương Đà Hỏa Linh Không Kiếp cả đời không được yên tĩnh.

Văn Xương là Kim Đới Thổ, nếu có Văn Khúc, Khôi Việt Tả Hữu là đất phát con cháu khôi ngô thông minh, phát về sự nghiệp Văn Chương. Nếu gặp Dương Đà Riêu Linh thì bị yểu triết bần cùng, gia Cát tinh nhập miếu là hưởng phúc an lạc.
Văn Khúc là Thủy Đới Hỏa gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là Long mạch hội lại rất nhiều, sơn tú thủy hoạt, con cháu trí tuệ thông minh. Nếu ở Hãm địa lại gặp Dương Đà, Hỏa Kỵ Riêu Tuế là đất võ khí, khí ác thủy xạ, tàn tật yểu triết.
Tả Phụ là Thổ Đới Kim, gặp Tử Vi là được Tú khí các tinh tú ở ngoài củng chiếu, tay long tay hổ an bày tuyệt mỹ thì tốt vi Cực Quí, nếu gặp Tuần Triệt Đà Hỏa Riêu Kỵ thì nhân đình bị bại yểu, làm ăn cực nhọc. Đứng một mình thì về già được an ninh.
Hữu Bật là Thổ Đới Thủy gặp Tử Phủ, Khôi Việt là đất tốt, đất được trúng huyệt ắt phú quí trường đại nhân đinh thịnh vượng, người trung hậu. Nếu gặp Tuần Triệt Riêu Kỵ tức là bị Vong Thủy hãm phá nhân đinh bần yểu.
Ở miếu vượng địa thì bình sinh được phúc lộc toàn, mỹ gia Cát tinh một đời ít ưu buồn.
Thiên Khôi là Hỏa Đới Kim gặp Tử Phủ Khoa Quyền là được long cung hậu khí ứng 2 người mà con trưởng được văn võ thọ trường. Nếu gặp Kiếp Thông Tuần Triệt Đà Kỵ thì lại bị phản lại, con trưởng bị bại tuyệt, con thứ thì phá tổ nghiệp bôn ba.
Thiên Việt là Hỏa Đới Mộc gặp Khoa, Quyền Nhật Nguyệt là đất cong cong ôm lấy mộ, được Tú khí con cháu văn hào đỗ Khôi Nguyên. Nếu gặp Thái Tuế Kình Đà Kỵ Kiếp Không Phá ắt là đất bị phạm hung sát, trai thì bị hình chu, gái thì dâm bật bại gia.
Khôi Việt có cả hai sao là quí lắm, quí nhân hưởng phúc an lạc.
Hóa Quyền là Mộc Đới Thổ gặp Khôi Việt Tham Vũ là đất hình cung, Tú khí, văn võ toàn tài, nếu gặp Khốc Hư Đà Kỵ tức là bị “Hoàng Truyền Thủy Thế” là cây bị nắng khô, trai thì tuyệt tự, gái truỵ thai.
Hóa Khoa là Thủy Đới Mộc Khôi Việt Tham Vũ Xương Khúc là đất đắc địa sinh nhân, Tứ khí, văn võ lại tài sinh người tuấn tú khôi ngô. Nếu gặp Tuần Triệt Không Kiếp là phản lại, tha hương cầu thực, hoán tổ ly tông.
Hóa Lộc là Thổ Đới Mộc gặp Xương Khúc Hồng Loan là cuộc đất sơn thủy hướng chiều, Long Hổ chầu lại, người Văn Hoa đẹp đẽ làm đến Công Hầu. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ tất bị các khách tinh ở ngoài phản phúc thì trai gái đều bị khốn cùng.
Hóa Kỵ là Thủy Đới Mộc là đất bị ác khí, có gặp Khoa Quyền Xương Khúc Khôi Việt tuy có Địa Long hậu khí, được quí hiển nhưng không bền ắt bị yểu triết bại tuyệt.
Long Trì là Thủy Đới Kim gặp Khoa Quyền Xương Khúc cùng với Thiên Lương, Phượng Cát là đất đắc địa, đỗ đạt cao tột, khoa giáp trùng phùng. Nếu gặp Đà Kỵ Dương Riêu Tuần Triệt tức là giả Huyệt, trong ngoài Long Hổ đều sai, trai thì gian trá lọc lừa, gái thì dâm ô.
Phượng Cát là thổ Đới Mộc gặp Khoa Quyền, Hồng Loan, Long Trì, Tử Phủ là đất được trong ngoài tú mỹ thì trai ăn học văn chương cao vọi, gái ắt Hoàng Phi. Nếu gặp Đà Kỵ Kiếp Không là Long Hổ bị thương tàn ắt không toàn mỹ.
Lộc Tồn thuộc Thổ gặp Cự Cơ Quyền Lộc thì được phú quí, làm quan đến Công hầu quí hiển, nếu gặp Không Kiếp Tuần Triệt, nhị Hao tức là Thủy triết bị tán bại, khốn cùng ly tổ. Ở miếu vượng địa là chung thân phúc hậu, gia Cát tinh được Hỉ Phúc.
Thiên Mã là Mộc Đới Hỏa gặp Khoa Quyền Khôi Việt là Văn Hoa tuấn tú quí hiển lại có kỳ tài. Nếu gặp Dương Đà Riêu Kỵ là tất bị Long Hổ lệch vẹo ắt trai gái dâm loạn, tàn tật yểu triết.
Thiên Quan quí nhân là dương Hỏa là đất đại quí gặp Xương Khúc Khoa Quyền Lộc, Khôi Việt là Văn Khôi cao sĩ, gặp Tham Phá Vũ là Vũ cách đến bậc Công Hầu. Nếu Tuần Triệt Hoa Cái, Tấu Thư là nhà Sướng ca có tiếng tăm, gặp Đà Kỵ Riêu Kiếp là bị tàn tật hôn mê ngu xuẩn.
Thiên Phúc quí nhân là ám Thổ, là cuộc đất rất đẹp, gặp Tử Phủ Hồng Đào thì trai làm Phò mã, gái Cung Phi. Nếu gặp Phá Đà Riêu Kỵ Tuần Triệt là hung địa, trai làm Đạo sĩ ly tổ phiêu lưu.
Phong Cáo là Thổ Đới Thủy gặp Tham Vũ Khoa Quyền là địa khí Cát tú; huyệt họa nơi nguy nga đẹp đẽ, được công dan hiển hách, vinh hoa phong tặng. Nếu gặp Tuần Triệt Đà Kỵ Hư Hỏa Kiếp ắt cả đời bôn tẩu không thì ở chốn thiền môn.
Thai Phụ là Thổ Đới Kim gặp Khôi Việt, Nhật Nguyệt Tả Hữu đều chầu về huyệt ắt được văn võ công hầu. Nếu gặp Không Triệt Riêu Linh Phá Cự là Sơn thủy thô sơ ắt bị tuyệt vong.
Tấu Thư là Kim Đới Thổ gặp Khôi Việt Nhật Nguyệt là văn học thành tài, nếu gặp Riêu Kỵ Thái Tuế là bại địa thì hay sinh ra người điên.
Hỉ Thần là Hỏa gặp Hồng Hỉ Phủ Cơ là Quí địa ắt phát Công Hầu nếu gặp Đà Kỵ Tuần Triệt Riêu Mã Mộc dục ắt là Thủy phá nguyên dầu (suối nước bị phá từ dầu), thì trai gái dâm đãng.
Bệnh Phù là Thổ Đới Mộc gặp Riêu Kỵ Dương Đà là Ác Thủy phạm nguyên oa (là hung ác thủy phạm huyệt) trai bị phong cùi, gái bất đắc kỳ tử.
Đại hao Tiểu hao là cuộc đất bị nung nóng, gặp Tử Phủ Khoa Quyền Khôi Việt cũng không được tốt.
Phục Binh là Hỏa Đới Kim gặp Khôi Việt Tuần Triệt Thất Sát là đại địa phát về Binh nhung uy chấn Thiên Hạ, nếu gặp Hình Kỵ Không Kiếp ở Tứ Mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi) thì không tránh được nạn đao binh ác sát.
Kình Dương nhập miếu là trong nhà bị động như ốm đau tang tóc thì mới bắt đầu phát phúc, lạc hãm là lao tâm lâu mới có lực, hội với Cát tinh thì giảm được ưu buồn, một mình thì thân tâm bất an.
Đà La đứng một mình thì làm việc cực khổ, nhập miếu là có phúc lộc, hãm địa là bôn ba, gia Cát tinh thì về già có phúc.
Hỏa Tinh thì lâu yên lao lực tâm khổ, gia Cát tinh thì về già được toại trí.
Linh Tinh là lao khổ gia Cát tinh thì bình hòa, đứng một mình thì cay đắng đa đoan.
Đẩu quân gặp Cát tinh thì năm đó được yên tĩnh, gặp hung tinh thì bị hung sát lâu mới yên.

Một lá số, ứng với nhiều cuộc đời, nó có những khung, những khuôn mẫu nhất định cho nó. Tuy nhiên, một lá số theo tính toán lý thuyết có tới hơn 10 ngàn người . Như vậy, một lá số có nhiều cuộc đời, cái sự hiểu cho đúng, cũng nhiêu khê . Nhưng có như thế, mới thấy câu hỏi xuất hiện tự nhiên : Thế làm thế nào để biết, hay phân biệt người a với người b trong cùng một lá số mới có ý nghĩa ?.

Phân biệt a, b trong một lá số có nhiều cách .
Như cách thông thường, mà xem ra có vẻ dễ thuyết phục nhất . Đó là cách dựa vào hình tướng tử vi .

Lời bàn :" thầy mù không thể xem giỏi tử vi vì không có mắt để nhìn hình tướng, họ muốn giỏi phải dùng môn khác trợ giúp như Kỳ Môn Độn Giáp vậy, ví dụ cụ BALA. Muốn xem chính xác phải giỏi nhiều môn vì dùng một môn thì độ chính xác không cao có khi sai lầm nhiều, Ví dụ một lá số có nhiều cuộc đời....nếu không dựa vào điều khác mà chỉ dựa vào lá số thì biết họ sẽ đi theo hướng nào trong những cuộc đời đó".

Sách Ngũ Hành hình tướng dùng ngũ hành mà luận xem hình tướng đương số sẽ thế nào, mọi người nói mệnh này ăn sao này không ăn sao kia nhưng bí quyết ở chổ tại sao cùng lá số mà người hình tướng này hình tướng kia nên dùng ngũ hành như chúng ta thường luận thì đâu có được.

Phương pháp nữa là dùng phong thủy âm trạch . Phương pháp này khó nhất, nhưng cũng bá đạo nhất. Vì thế, phải thật thân thiết mới dám dùng . Nhưng lợi ích thì vô cùng lớn . Bởi có thể thấy từ đó những hình thế của âm trạch phong thủy mà sửa đổi Long mạch sao cho phù hợp, không phải là cải số, mà là để đảm bảo cho người có số ứng với cái người có số tốt nhất trong cái lá số đó . Đã có lợi ích thì cũng có cái bất lợi . Mà bất lợi thì cũng ghê gớm, hại người và hại ta . Thế thời, phương pháp này lại càng ngày càng trở nên huyền bí, được ngụy trang dưới nhiều hình thái khác nhau .

Mỗi phương pháp đều có bí quyết !. Không thể nói phương pháp này hay hơn phương pháp kia . Nhưng nếu giỏi cả ba phương pháp đó thì tốt nhất . Bởi một khoa học về con người, thì tri thức không bao giờ là đủ để nghiên cứu nó .
Trích : Giai thoại về Tử Vi đời Tống
Vua Tống :
- Trẫm có một thắc mắc : Trong cùng một giờ, một ngày, một tháng, một năm, có hàng vạn vạn người sinh ra, không lẽ cuộc đời họ cũng giống nhau ư?

Tây Sơn lão nhân :
- Bệ hạ hỏi thực phải. Điều này có chép trong Tử-vi kinh, nhưng bệ hạ không ngự lãm mà thôi.

Nhà vua cầm cuốn sách lên:
- Trẫm đã đọc kỹ, đọc đến thuộc làu, mà không thấy đoạn ấy. Đạo-sư chỉ cho biết vấn đề này chép ở chương nào.

- Xin bệ hạ mở trang đầu, bài phú Tử-vi cốt tủy, sẽ thấy.

- Quả thực trẫm sơ ý. Khi mở sách, trẫm đọc ngay chương nhất, mà không đọc phần tựa. Thì ra tổ chép ở đó.

Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
Do ư phúc trạch cát hung.
Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan,
Thị tại vận hành hung cát.

À, hai câu này trẫm có đọc qua, mà không hiểu rõ cho lắm.

- Không phải mình bệ hạ, mà hầu như những đệ tử Hoa-sơn đời sau, khi xem số đều chỉ chú ý đến những cung Mệnh, Tài, Quan cùng vận hạn. Ít người chú ý đến cung Phúc cũng như cung Tật-ách. Cái chìa khóa khoa Tử-vi là câu này.

- Trẫm chờ đạo-sư chỉ dạy.

- Tâu bệ hạ, cung Phúc rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến ba cung Phu-thê, Tài-bạch, Thiên-di là lẽ đương nhiên. Nó gần như khống chế toàn cuộc đời về: Giầu-nghèo, thọ-yểu, sang-hèn, vinh-nhục, sầu-thảm và khổ-cực. Tùy theo cung Phúc tốt hay xấu mà biết đương số giầu hay nghèo, sống lâu hay chết yểu; sang hay hèn, sang cũng có nghĩa làm quan lớn, có danh tiếng hay không? Tức có vinh không? Rồi cuộc đời bi-ai hay toại chí đắc thế?

- Không ngờ cung phúc quan trọng như vậy. Nhưng trẫm vẫn chưa hiểu rõ hơn về những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm.

- Tâu bệ hạ, cung Phúc bao gồm nhiều yếu tố cuộc đời. Mà cung Phúc lại ứng vào với ngôi mộ mà đương số được hưởng phúc.

- Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin đạo-sư lấy một vài lá số làm tỷ dụ.

- Vâng, thần xin lấy số của Chiêu-văn quan đại học sĩ Vương Tăng cùng với số của Kinh-lược sứ Quảng-Tây lộ Vương Duy-Chính. Cả hai cùng sinh vào giờ Tỵ, ngày hai mươi tháng sáu năm Bính-Tý. Thế nhưng cuộc đời hai vị hoàn toàn khác nhau về chi tiết, nhưng đại thể thì giống nhau.

- Ừ nhỉ, khi bổ nhiệm hai người, trẫm đều xem qua số trước, nhưng trẫm sơ tâm không chú ý đến hai người cùng một số. Cả hai người cùng đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần. Đồng, Lương thủ mệnh, thêm Mã, Lộc, Tang, Hình, Tam-thai. Đồng, Lương là cách làm quan, nhưng đắc cách cực tốt Lộc, Mã giao trì. Tử-vi kinh nói Lộc, Mã giao trì, kinh nhân giáp đệ. Nên hai người tuy thi hai khóa khác nhau, mà cùng đỗ cao cả. Thời thơ ấu của Tăng thì yên ổn, nhung lụa. Còn thời thơ ấu của Chính thì khổ cực đến phải đi làm nô bộc. Cả hai cùng bị người anh ngu si, dốt nát, lêu lổng ghen tỵ, đánh đập. Cả hai năm trước đây vợ đều chết. Tăng tục huyền với con nhà danh gia. Chính tục huyền với con nhà bần hàn. Tăng làm quan tại triều, Chính trấn ngự Nam-thùy.

- Thần xin giải cái khác nhau đó. Cả hai vị cung Phúc-đức do Thái-dương thủ, ngộ Triệt, gặp Kiếp, Đà. Thái-dương chỉ vào ngôi mộ ông nội. Ngôi mộ ông nội của Tăng để vào đầu mỏm núi, hướng ra vòm sông, cảnh trí rất dẹp, giống như ngồi trong cái nghiên bút. Thế đất đó trong khoa Địa-lý gọi là Bút mặc, văn giai. Còn mộ ông nội Chính để vào khu ruộng trũng, phía trước có cồn dâu, trên cồn có tượng thờ hổ đá. Thế đất đó gọi là Bạch-hổ tọa trấn. Vì vậy Tăng thi đậu sớm, làm quan tại triều, chức tới tể thần, ngoài ra còn lĩnh Khu-mật-viện sứ. Còn Chính thi đậu trễ hơn mấy năm, gốc là quan văn, sang làm quan võ, hay Tử-vi kinh gọi là Xuất võ do văn .

Tây-Sơn lão nhân tiếp:
- Cả hai người, đều đắc cách Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương đến hai lần. Vì vậy Chính lĩnh kinh lược sứ Quảng-Tây, trấn Nam-thùy. Còn Tăng tuy ở triều, nhưng trong Khu-mật viện, y lĩnh trọng trách Nam-phòng cũng giống như trấn ngự biên cương.

- Trẫm tưởng chỉ một lần thôi chứ. Hai người cùng có cách Kình-dương cư quan tại Ngọ, là Mã đầu đới kiếm.

- Tâu bệ hạ, Thiên-hình, Thiên-mã thủ mệnh tại Dần cũng là cách Mã-đầu đới kiếm. Nhưng vì ngôi mộ ông nội của Tăng thiên về văn, nên tiến trình của Tăng văn nhiều hơn võ. Còn ngôi mộ ông nội Chính thiên về võ nhiều hơn văn, nên ngôi sao võ có dịp nổi dậy.

Lão nhân ngừng lại một lúc, rồi tiếp:
- Hồi thơ ấu, đức Thái-Tổ có người bạn tên Chu Năng. Hai người cùng số Tử-Vi. Cung Phúc-đức có Tham-lang tại Tuất. Ngôi mộ ứng với Tham-lang của đức Thái-Tổ kết phát nên người lập được nghiệp rồng. Còn ngôi mộ ứng với cung Phúc của Chu Năng ở vào chỗ cùng cực xấu, nên Chu cũng sáng nghiệp bằng cách qui dân lập được mấy ấp, được tôn làm hương trưởng, rồi sau khi chết được tôn làm thần Thành-hoàng. Đó bàn về phúc. Cung Phúc-đức bao gồm phần phúc và đức. Hai người cùng một số, nhưng tổ-tiên, ông-bà, bố-mẹ, và bản-thân xây dựng cái thiện-đức, thì đương số được hưởng phú, thọ, quý, vinh nhiều hơn. Phần yểu, bần, ai, khổ giảm. Còn như tiền nhân gây nhiều ác-đức, thì phú, thọ, quý, vinh giảm; mà yểu, bần, ai, khổ tăng.

Nhà vua hiểu ra:
- Như vậy những người cùng số, có cuộc đời hao hao giống nhau. Nhưng tùy theo ngôi mộ ứng với cung Phúc-đức táng ở thế đất kết hay bại, mà phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ khác nhau. Bây giờ tới vấn đề khác. Như số những người chết một lúc như chiến-tranh, đắm thuyền. Không lẽ số những người đó đều đến ngày ly thế cả hay sao?

- Tâu bệ hạ, trong Tử-vi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:
Vận con phải thua vận cha.
Vận người không bằng vận nhà.
Vận nhà không bằng vận làng.
Vận làng không bằng vận châu.
Vận châu không bằng vận nước.
Vận nước không bằng vận thiên hạ.

Nhà vua suýt xoa:
- Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực. Đó là vận con phải thua vận cha.

- Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.

- Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm. Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết, nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều người chết.

tuvilyso.net
Được cảm ơn bởi: công chúa mùa thu, Nhung Hua, Thao0808
Đầu trang

hoang kim bao
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 546
Tham gia: 15:56, 11/12/13

TL: Phúc đức cung

Gửi bài gửi bởi hoang kim bao »

Luận Cung Phúc Đức

Cung Phúc Đức là cường cung bậc nhất,chi phối tất cả 11 cung số trên thiên bàn Tử Vi,vì vậy việc luận đoán cung Phúc Đức phải hết sức cẩn trọng,tinh tường.

Khởi ngược theo thiên bàn Tử Vi bắt đầu từ cung Phúc Đức,theo liền sau Phúc Đức là cung Phụ Mẫu,rồi tới cung Mệnh và tiếp sau là cung Bào,cung Phu Thê,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền trạch,rồi lại về cung Phúc Đức cứ thế tuần hoàn,đủ thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cung Phúc Đức chi phối cà 11 cung số khác trên thiên bàn Tử Vi.

Phúc Đức là cung kép,Đức chỉ phần sinh tồn sinh lý,bao gồm dương trạch,quan lộc,tài bạch,Thiên di,phần thọ yểu,tật ách của bản thân đương số và những người liên quan như vợ con,họ hàng.Những ảnh hưởng đó đều do đạo lý,cách sống của đương số,tàng ẩn ý nghĩa tu thân tích thiện đức,để phúc mai hậu cho con cháu.Chữ Phúc chỉ phần âm,bao gồm cội nguồn,mộ huyệt,đức tin.Vì vậy,khi xem xét cung Phúc Đức,phải định hướng mạch lạc rõ ràng hai phần Phúc (âm phần) và Đức (dương thế) trước mọi luận đoán.Trình tự như sau :

1.ÂM PHẦN

A.Định vị Âm phần

Cung Phúc Đức an tại cung nào thì cung đó gọi là cung chính mộ.Thí du,an tại Dần,thì cung chính mộ của đương số ở sơn Dần,thuộc Mộc
Cung Sửu và Mão là hai cung giáp trước và sau của chính mộ Dần,cung Mão (đàng trước theo chiếu thuận) gọi là cung Tả mộ (mặt trước),cung Sửu ( đàng sau theo chiều nghịch) gọi là cung Hữu mộ (mặt sau).
Cung xung chiếu chính mộ là cung Thân gọi là cung Tiền án.
Hai cung Ngọ và Tuất trong tam hợp Dần Ngọ Tuất,cung Ngọ gọi là Thanh Long, cung Tuất gọi là Bạch Hổ.Thanh Long chỉ dòng tộc dương và bạch Hổ chỉ dòng tộc âm.
B.Ảnh hưởng của Âm phần

Cung chính mộ cư cung nào là hành của cung đó.Hành mộc ý nghĩa Sinh, Dưỡng,Tự trọng.Hành kim ý nghĩa An Toàn.Hành Hỏa ý nghĩa Thành Tích.Hành thổ ý nghĩa Sinh tồn,Sinh lý.Hành thủy ý nghĩa Giao tiếp.Từ ý nghĩa hành của chính mộ luận sự thụ hưởng phúc của đương số.
Cung Phúc Đức có một chính diệu tọa thủ,chính diệu ấy chính là sao cai quản ngôi mộ đó.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ,trường hợp hai chính diệu cùng một hành,tức là có hai ngôi mộ ở gần nhau,cùng chi phối ảnh hưởng tới đương số.Ví dụ : Cung Phúc Đức có Cự Đồng tọa thủ đồng cung.Cự,Đồng đều hành thủy,nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú bác (Cự Môn) và ngôi mộ tổ (Thiên Đồng) để ở gần nhau.
Cung Phúc Đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,trong đó có một chính diệu sinh Bản mệnh,đương số chịu ảnh hưởng của ngôi mộ sinh hành mệnh đó.Ví dụ,Cung Phúc Đức an tại Dần có Cự Nhật đồng cung,bản mệnh thuộc thổ.Như vậy,Cự Môn,mộ chú bác,hành thủy,không sinh được thổ.Còn Thái Dương, tượng ông nội,cụ nội,hoặc cha,hành hỏa sinh được bản mệnh thổ.Đương số chịu ảnh hưởng của sao cai quản ngôi mộ.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,đều không sinh được bản mệnh,thì bản mệnh sinh đựơc chính diệu nào là chịu ảnh hưởng của chính diệu đó.Ví dụ,cung Phúc Đức cư tại Mão do Cự,Cơ cai quản,bản mệnh hành kim. Như vậy cả Cự Môn (thủy,chú bác) và Thiên Cơ (mộc,ông nội) đều không sinh được bản mệnh kim,trong khi bản mệnh kim lại sinh được Cự Môn (thủy),nên bản mệnh chịu ảnh hưởng của sao Cự Môn (mộ chú bác).
Cung Phúc Đức có hai chính diệu đồng cung,mà không chính diệu nào sinh bản mệnh hoặc ngược lại,thì phải xem xét chính diệu nào bình hòa với bản mệnh, chính diệu đó ảnh hưởng đến bản mệnh.
Cung Phúc Đức Vô chính diệu,thì coi chính diệu của cung tiến án như chính diệu tọa thủ.
C.Chính diệu định thế Âm phần

Mộ tổ : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang,Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.
Hình sắc và thế đất : Tử Vi,Thiên Phủ,thế đất to lớn,gần núi đồi,với Tử Vi,linh khí từ tay trái triều lai,với Thiên Phủ triều lai tay phải.Thiên Đồng,đất trũng,xung quanh có nước.Vũ khúc,đất cao trơ trọi có hình như quả chuông dựng đứng.Tham Lang,đất nổi cao,cây cối rậm rạp.Thiên tướng,đất nổi cao vuông vắn như hình cái ấn.Thiên Lương,đất rời rạc,như hình con thoi,ở gần đường đi lối lại.Thất sát,đất khô nóng,có sắc đỏ.Phá Quận,đất không hình thể,rối rắm.
Mộ ông nội : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.
Thiên cơ,đất tốt,cây cỏ rậm rạp,tươi xanh.Thái Dương : Đất bằng phẳng.Thái Âm,thế đất hơi cao,chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.Liêm trinh,đất khô cằn,gồ ghề,nổi cao như hình người ngồi,lại có sắc đỏ hay vàng.Cự Môn,đất vuông vắn,thường ở gần dinh sở hay lâu đài,đào sâu,dưới có lớp đất mầu vàng.
2.DƯƠNG THẾ

Hung hay Cát của âm phần,bản Mệnh không có cơ may chỉnh sửa,buộc phải chấp nhận,tuy nhiên không chấp nhận một cách tiêu cực,tuy cho phần số an bài,mà chấp nhận một cách tích cực bằng việc tu thân cho cát tường phần đức (dương thể) để tích phúc,sinh dưỡng và làm thay đổi số phận,thụ hưởng cát tường.Tu thân là đạo sống cho dù Phúc cung cát hay hung.Trước hết,hãy bình tâm,vô tư,nhìn vào các diệu tinh cư Phúc cung mà chiêm nghiệm hung cát,sau đó tự mình rèn luyện tu thân hữu hình được hỗ trợ bới các sức mạnh vô hình.

A.Ảnh hưởng của các sao tọa thủ Phúc cung

14 chính tinh
Đây là nhóm sao quan trọng bậc nhất trong việc định giá phúc cung.Trong số 14 chính tinh này,thì nhóm chính tinh thuộc nhóm mộ Tổ,xa với đời sống hiện tại của bản mệnh,bao gồm : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang, Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.Và nhóm mộ Ông Bà,Cha mẹ, Chú Bác,gần với đời sống bản mệnh,bao gồm : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.Phân biệt vậy để biết rõ nguồn cội của phúc và ảnh hưởng gần,xa của mộ huyệt với bản mệnh. Từ đó luận hung cát.Hung cát chi phối mạnh nhất trên ba lịnh vực : Thọ yểu, không gian lập nghiệp và thành tựu lập nghiệp.
Các trung tinh ảnh hưởng Phúc cung

Các trung tinh : Tả Hữu,Long Phượng,Xường Khúc,Khoa Quyền Lộc,Lộc Tồn, Khôi Việt...được coi là các trung tinh thiện chí,nếu miếu vượng,đắc địa tất phò cho phúc cung cát lợi,trường hợp hãm,bại địa cũng không gieo rắc họa hại cho phúc cung.

Các trung tinh không thiện chí,đặc biệt hai nhóm sao Lục sát (Kình,Đà, Không,Kiếp,Hỏa Linh) và Lục bại ( Riêu Kỵ,Song hao,Tang Hổ),dù miếu vượng hay hãm bại cũng đều khiến phúc cung suy nhược.Trường hợp miếu vượng,thì hại phúc bản mệnh thời gian Mệnh (30 năm tiền) sau đó cát phúc cho bản mệnh thời gian Thân (30 năm hậu).Trường hợp Lục sát,Lục bại xấu hãm,kể như là phúc bạc,cả đời gian nan vất vả,không đựơc vừa ý hài lòng.

Các trung tinh,bàng tinh khác,khi hội hợp với nhau thành cách cát hoặc cách hung,có năng lực dịch biến Phúc cung,nhưng đó chỉ là những biệt cách,phải căn cứ vào cách cụ thể để xem xét.Ví dụ : Thiên Phủ độc thủ Phúc cung hội với Tam Không là cách vô cùng xấu hãm.Hoặc,Tham Vũ cư Phúc cung tại Sửu Mùi,gặp sao Hỏa hoặc sao Linh,là cách phúc cát,tăng thêm tuổi thọ,công danh hiển đạt,quyền quí.
B.Tu thân dưỡng Phúc

Tu thân nguồn cội : Đạo lý sống uống nước nhớ nguồn.Chăm sóc mộ huyệt dòng tộc,tổ tiên.Hiếu nghĩa với ông bà,cha mẹ.
Tu thân đức tin,sống thuận lý với hoàn cảnh,môi trường,thường nhật tích thiện đức để dưỡng phúc.
Được cảm ơn bởi: maiminh95, công chúa mùa thu
Đầu trang

thamlangff
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1715
Tham gia: 14:28, 08/08/19

Re: TL: Phúc đức cung

Gửi bài gửi bởi thamlangff »

hoang kim bao đã viết: 14:57, 20/01/14 Luận Cung Phúc Đức

Cung Phúc Đức là cường cung bậc nhất,chi phối tất cả 11 cung số trên thiên bàn Tử Vi,vì vậy việc luận đoán cung Phúc Đức phải hết sức cẩn trọng,tinh tường.

Khởi ngược theo thiên bàn Tử Vi bắt đầu từ cung Phúc Đức,theo liền sau Phúc Đức là cung Phụ Mẫu,rồi tới cung Mệnh và tiếp sau là cung Bào,cung Phu Thê,cung Tử Tức,cung Tài Bạch,cung Giải ách,cung Thiên Di,cung Nô Bộc,cung Quan Lộc,cung Điền trạch,rồi lại về cung Phúc Đức cứ thế tuần hoàn,đủ thấy vai trò cực kỳ quan trọng của cung Phúc Đức chi phối cà 11 cung số khác trên thiên bàn Tử Vi.

Phúc Đức là cung kép,Đức chỉ phần sinh tồn sinh lý,bao gồm dương trạch,quan lộc,tài bạch,Thiên di,phần thọ yểu,tật ách của bản thân đương số và những người liên quan như vợ con,họ hàng.Những ảnh hưởng đó đều do đạo lý,cách sống của đương số,tàng ẩn ý nghĩa tu thân tích thiện đức,để phúc mai hậu cho con cháu.Chữ Phúc chỉ phần âm,bao gồm cội nguồn,mộ huyệt,đức tin.Vì vậy,khi xem xét cung Phúc Đức,phải định hướng mạch lạc rõ ràng hai phần Phúc (âm phần) và Đức (dương thế) trước mọi luận đoán.Trình tự như sau :

1.ÂM PHẦN

A.Định vị Âm phần

Cung Phúc Đức an tại cung nào thì cung đó gọi là cung chính mộ.Thí du,an tại Dần,thì cung chính mộ của đương số ở sơn Dần,thuộc Mộc
Cung Sửu và Mão là hai cung giáp trước và sau của chính mộ Dần,cung Mão (đàng trước theo chiếu thuận) gọi là cung Tả mộ (mặt trước),cung Sửu ( đàng sau theo chiều nghịch) gọi là cung Hữu mộ (mặt sau).
Cung xung chiếu chính mộ là cung Thân gọi là cung Tiền án.
Hai cung Ngọ và Tuất trong tam hợp Dần Ngọ Tuất,cung Ngọ gọi là Thanh Long, cung Tuất gọi là Bạch Hổ.Thanh Long chỉ dòng tộc dương và bạch Hổ chỉ dòng tộc âm.
B.Ảnh hưởng của Âm phần

Cung chính mộ cư cung nào là hành của cung đó.Hành mộc ý nghĩa Sinh, Dưỡng,Tự trọng.Hành kim ý nghĩa An Toàn.Hành Hỏa ý nghĩa Thành Tích.Hành thổ ý nghĩa Sinh tồn,Sinh lý.Hành thủy ý nghĩa Giao tiếp.Từ ý nghĩa hành của chính mộ luận sự thụ hưởng phúc của đương số.
Cung Phúc Đức có một chính diệu tọa thủ,chính diệu ấy chính là sao cai quản ngôi mộ đó.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ,trường hợp hai chính diệu cùng một hành,tức là có hai ngôi mộ ở gần nhau,cùng chi phối ảnh hưởng tới đương số.Ví dụ : Cung Phúc Đức có Cự Đồng tọa thủ đồng cung.Cự,Đồng đều hành thủy,nên phải chịu ảnh hưởng của ngôi mộ chú bác (Cự Môn) và ngôi mộ tổ (Thiên Đồng) để ở gần nhau.
Cung Phúc Đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,trong đó có một chính diệu sinh Bản mệnh,đương số chịu ảnh hưởng của ngôi mộ sinh hành mệnh đó.Ví dụ,Cung Phúc Đức an tại Dần có Cự Nhật đồng cung,bản mệnh thuộc thổ.Như vậy,Cự Môn,mộ chú bác,hành thủy,không sinh được thổ.Còn Thái Dương, tượng ông nội,cụ nội,hoặc cha,hành hỏa sinh được bản mệnh thổ.Đương số chịu ảnh hưởng của sao cai quản ngôi mộ.
Cung Phúc đức có hai chính diệu tọa thủ đồng cung,đều không sinh được bản mệnh,thì bản mệnh sinh đựơc chính diệu nào là chịu ảnh hưởng của chính diệu đó.Ví dụ,cung Phúc Đức cư tại Mão do Cự,Cơ cai quản,bản mệnh hành kim. Như vậy cả Cự Môn (thủy,chú bác) và Thiên Cơ (mộc,ông nội) đều không sinh được bản mệnh kim,trong khi bản mệnh kim lại sinh được Cự Môn (thủy),nên bản mệnh chịu ảnh hưởng của sao Cự Môn (mộ chú bác).
Cung Phúc Đức có hai chính diệu đồng cung,mà không chính diệu nào sinh bản mệnh hoặc ngược lại,thì phải xem xét chính diệu nào bình hòa với bản mệnh, chính diệu đó ảnh hưởng đến bản mệnh.
Cung Phúc Đức Vô chính diệu,thì coi chính diệu của cung tiến án như chính diệu tọa thủ.
C.Chính diệu định thế Âm phần

Mộ tổ : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang,Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.
Hình sắc và thế đất : Tử Vi,Thiên Phủ,thế đất to lớn,gần núi đồi,với Tử Vi,linh khí từ tay trái triều lai,với Thiên Phủ triều lai tay phải.Thiên Đồng,đất trũng,xung quanh có nước.Vũ khúc,đất cao trơ trọi có hình như quả chuông dựng đứng.Tham Lang,đất nổi cao,cây cối rậm rạp.Thiên tướng,đất nổi cao vuông vắn như hình cái ấn.Thiên Lương,đất rời rạc,như hình con thoi,ở gần đường đi lối lại.Thất sát,đất khô nóng,có sắc đỏ.Phá Quận,đất không hình thể,rối rắm.
Mộ ông nội : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.
Thiên cơ,đất tốt,cây cỏ rậm rạp,tươi xanh.Thái Dương : Đất bằng phẳng.Thái Âm,thế đất hơi cao,chạy dài và uốn cong như hình bán nguyệt.Liêm trinh,đất khô cằn,gồ ghề,nổi cao như hình người ngồi,lại có sắc đỏ hay vàng.Cự Môn,đất vuông vắn,thường ở gần dinh sở hay lâu đài,đào sâu,dưới có lớp đất mầu vàng.
2.DƯƠNG THẾ

Hung hay Cát của âm phần,bản Mệnh không có cơ may chỉnh sửa,buộc phải chấp nhận,tuy nhiên không chấp nhận một cách tiêu cực,tuy cho phần số an bài,mà chấp nhận một cách tích cực bằng việc tu thân cho cát tường phần đức (dương thể) để tích phúc,sinh dưỡng và làm thay đổi số phận,thụ hưởng cát tường.Tu thân là đạo sống cho dù Phúc cung cát hay hung.Trước hết,hãy bình tâm,vô tư,nhìn vào các diệu tinh cư Phúc cung mà chiêm nghiệm hung cát,sau đó tự mình rèn luyện tu thân hữu hình được hỗ trợ bới các sức mạnh vô hình.

A.Ảnh hưởng của các sao tọa thủ Phúc cung

14 chính tinh
Đây là nhóm sao quan trọng bậc nhất trong việc định giá phúc cung.Trong số 14 chính tinh này,thì nhóm chính tinh thuộc nhóm mộ Tổ,xa với đời sống hiện tại của bản mệnh,bao gồm : Tử Vi,Thiên Đồng,Vũ Khúc,Thiên Phủ,Tham Lang, Thiên Tướng,Thiên Lương,Thất Sát,Phá Quân.Và nhóm mộ Ông Bà,Cha mẹ, Chú Bác,gần với đời sống bản mệnh,bao gồm : Thiên Cơ.Mộ cha : Thái Dương.Mộ mẹ : Thái Âm.Mộ chú bác : Liêm Trinh,Cự Môn.Phân biệt vậy để biết rõ nguồn cội của phúc và ảnh hưởng gần,xa của mộ huyệt với bản mệnh. Từ đó luận hung cát.Hung cát chi phối mạnh nhất trên ba lịnh vực : Thọ yểu, không gian lập nghiệp và thành tựu lập nghiệp.
Các trung tinh ảnh hưởng Phúc cung

Các trung tinh : Tả Hữu,Long Phượng,Xường Khúc,Khoa Quyền Lộc,Lộc Tồn, Khôi Việt...được coi là các trung tinh thiện chí,nếu miếu vượng,đắc địa tất phò cho phúc cung cát lợi,trường hợp hãm,bại địa cũng không gieo rắc họa hại cho phúc cung.

Các trung tinh không thiện chí,đặc biệt hai nhóm sao Lục sát (Kình,Đà, Không,Kiếp,Hỏa Linh) và Lục bại ( Riêu Kỵ,Song hao,Tang Hổ),dù miếu vượng hay hãm bại cũng đều khiến phúc cung suy nhược.Trường hợp miếu vượng,thì hại phúc bản mệnh thời gian Mệnh (30 năm tiền) sau đó cát phúc cho bản mệnh thời gian Thân (30 năm hậu).Trường hợp Lục sát,Lục bại xấu hãm,kể như là phúc bạc,cả đời gian nan vất vả,không đựơc vừa ý hài lòng.

Các trung tinh,bàng tinh khác,khi hội hợp với nhau thành cách cát hoặc cách hung,có năng lực dịch biến Phúc cung,nhưng đó chỉ là những biệt cách,phải căn cứ vào cách cụ thể để xem xét.Ví dụ : Thiên Phủ độc thủ Phúc cung hội với Tam Không là cách vô cùng xấu hãm.Hoặc,Tham Vũ cư Phúc cung tại Sửu Mùi,gặp sao Hỏa hoặc sao Linh,là cách phúc cát,tăng thêm tuổi thọ,công danh hiển đạt,quyền quí.
B.Tu thân dưỡng Phúc

Tu thân nguồn cội : Đạo lý sống uống nước nhớ nguồn.Chăm sóc mộ huyệt dòng tộc,tổ tiên.Hiếu nghĩa với ông bà,cha mẹ.
Tu thân đức tin,sống thuận lý với hoàn cảnh,môi trường,thường nhật tích thiện đức để dưỡng phúc.
Được cảm ơn bởi: công chúa mùa thu
Đầu trang

công chúa mùa thu
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 198
Tham gia: 05:16, 27/10/19

Re: Phúc đức cung

Gửi bài gửi bởi công chúa mùa thu »

bạn ơi , cho mình hỏi cung phúc của mình Cự môn , mà hỏi ba thì trước khi mình sinh ra , ko có chú bác nào mất hết , vậy thì là mộ của ai ? Cung phúc của mình có Cự môn vượng với nhiều sao đẹp , mà lại bị Tuần , nên ko biết thành ra tốt hay xấu ? Mình thấy có 3 , 4 , 5 sao có ý nghĩa an nhàn hưởng phúc luôn . Bản thân mình thấy mình rất sung sướng , trong khi bạn bè vất vả làm việc , chuyện chồng con cơm áo gạo tiền thì cuộc đời mình rất bình yên . Chỉ có bị thất nghiệp , ko quen ai thôi , ba mẹ nuôi mình gần như đầy đủ , cũng kiếm dc ít tiền nhờ bán hàng trên mạng .Tuy có ít tiền nhưng lúc nào cũng lạc quan , yêu đời . Với 1 điều đặc biệt nữa là mỗi khi gặp khó khăn gì , chỉ cần cầu xin ông bà thần phật phù hộ là vượt qua hết , giống như luôn dc dõi theo vậy . Thiên hư , tuế phá nên tự nhiên bị gẫy nửa cái răng cả năm nay rồi . CHẮC TUẦN KO LÀM XẤU ĐI HAY ẢNH HƯỞNG GÌ CUNG PHÚC CỦA MÌNH PHẢI KO BẠN ?
Hình ảnh
Đầu trang

Nhung Hua
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 222
Tham gia: 22:45, 17/11/19

Re: Phúc đức cung

Gửi bài gửi bởi Nhung Hua »

Cảm ơn bác. Em rất quan tâm đến phần Phúc đức của lá số cũng như âm phần của bên gia đình họ nội. Mong bác giải đáp giúp em là E ăn lộc bên Nhà Nội hay Nhà Ngoại ạ. Và Cung phúc của em cần lưu ý những gì?.
Xin đa tạ và mong phản hồi từ bác.
Hình ảnh
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tử vi”