Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
Trả lời bài viết
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

VÌ HẠNH PHÚC VÀ AN LẠC CHO MỌI NGƯỜI

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

---o0o---

... Người ta sinh ra đời không khác gì trái cây ở trên cành: có những trái lớn, có những trái nhỏ; có những trái xanh, có những trái già... Những trái cây ấy đã có lúc sinh ra tức có ngày rụng xuống: trái rụng trước, trái rụng sau... nhưng rồi trái nào cũng phải rụng xuống hết. Rụng xuống để biến thành cành hoa thơm hay rụng xuống để biến thành cây cỏ dại... nhưng rồi trái nào cũng phải rụng xuống hết. Con người đã có sanh đều có chết. Chết để mà sanh theo nghiệp lực thiện ác, khổ vui, xấu tốt.

Sự có mặt của loài người ở đời cũng như thế: có người sống 50 tuổi, người 70 tuổi, người 80 tuổi, hy hữu có người sống đến 100 tuổi hay hơn trăm tuổi, nhưng rồi cũng có ngày phải qua đời. Người trước kẻ sau không ai tránh khỏi! Sự sống thật là bấp bênh nhưng cái chết lại là rất chắc chắn. Bấp bênh vì lẽ không ai biết được rằng mình sống được năm nào, sống được ngày nào, sống được giờ nào, sống được phút nào, nhưng sự chết lại không một ai tránh khỏi. Người chết trước, kẻ chết sau. Có sanh thì có chết, đó là định luật tất nhiên ở trên hành tinh này và của các pháp hữu vi sanh diệt.

Vậy thì một lần sanh là một lần chết, không luận là thánh phàm, không luận là ngu trí, không luận là giàu nghèo... về cái chết thì ai cũng như ai, nhưng khác nhau ở chỗ người biết chọn cách chết, người không biết chọn cách chết cho hay, cho đẹp mà thôi. Nói chọn cách chết có nghĩa là biết chọn cách sống. Sống như thế nào sẽ chết như thế đó. Cho nên nếu ta muốn cái chết được thanh tịnh, được nhẹ nhàng, được mọi người thương mến tức phải chọn lấy cách sống hiền lành, đạo đức, ích lợi cho mình, cho gia đình và cho tất cả những người khác.

Phật dạy có bốn hạng người có mặt trên thế gian này [*]:

Hạng thứ nhất là hạng người lo làm khổ mình, chuyên làm khổ mình.
Hạng thứ hai là chuyên làm khổ người.
Hạng thứ ba là chuyên làm khổ mình và làm khổ người.
Hạng thứ tư là không làm khổ mình và không làm khổ người.

(1). Hạng thứ nhất là hạng chuyên làm khổ mình, tức là hạng người chỉ biết sống một cuộc đời buông xuôi, lêu lổng, lười biếng, cờ bạc rượu chè, say sưa đắm đuối, ỷ lại, buông thả cuộc đời mình theo con đường xấu xa, hẹp hòi tối tăm, không có lợi ích gì cả. Đó là hạng người làm khổ mình.

(2). Hạng thứ hai là hạng người chuyên làm khổ người, là những người sanh tâm điên đảo, xấu xa độc ác, để phỉnh gạt, để lấy của người khác về làm của mình, để sát hại người khác, không biết sự đau khổ của người khác chính là sự đau khổ của mình, không hiểu được lời dạy của đức Phật. Ngài dạy rằng:

"Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng sợ sự chết, vậy hãy lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết", "Ai cũng muốn xa tránh điều khổ, ai cũng muốn có hạnh phúc. Vậy hãy lấy lòng mình suy lòng người, đừng gây điều khổ cho người khác, đừng phá hại hạnh phúc của người khác", "Ai cũng có gia đình, thân nhân muốn bảo bọc, muốn duy trì hạnh phúc được tốt đẹp. Vậy thì đừng phá gia đình, đừng phá thân nhân của người khác", "Ai cũng muốn của cải mình được trọn vẹn yên ổn, vậy hãy lấy lòng mình suy lòng người, giữ gìn của cải của người khác, đừng xâm phạm, đừng gian tham, đừng bóc lột, đừng cướp giựt!..."

Đó là những lời dạy sáng suốt, rõ ràng, thiết thực trước mắt mà đức Phật đã ban cho chúng sanh cách đây hơn hai nghìn năm trăm năm rồi. Nhưng bài học đó thật hiếm người theo được. Cho nên cuộc đời của chúng ta ít đem lại niềm vui cho mình, cho người, ngược lại gieo rắc xấu xa, gieo rắc khổ đau, gieo rắc rối loạn cho mình, cho người và cho gia đình.

(3). Hạng người thứ ba là hạng người làm khổ mình, làm khổ người. Đó là hạng người sống hoàn toàn không có đạo đức, không có lý tưởng, không có nhân nghĩa. Chuyên sống với một tâm tình nhỏ hẹp, xấu xa, vị kỷ, làm những việc độc ác để bồi bổ cho béo cái thân mình; nói những lời độc ác để thu lợi về cho mình, phỉnh gạt, lừa đảo, giết chóc, không tôn trọng tài sản, sự sống của kẻ khác. Chiếm đoạt tài sản của người, giết hại người cũng chẳng có lợi ích gì cho mình hết. Đó là hạng người làm khổ mình và chuyên làm khổ người.

(4). Hạng người thứ tư là hạng người không làm khổ mình, không làm khổ người. Tức là hạng người biết sống đạo đức, biết sống theo lẽ phải, biết sống thế nào để đem lại an vui, hoan hỷ mà không gieo rắc tai họa, khiếp hãi; biết sống thế nào để đem lại hân hoan cho kẻ khác chứ không sống mà đem lại sự e dè, sợ sệt cho người. Đó là những người luôn luôn nghĩ đến hạnh phúc của mình, hạnh phúc của người để tạo dựng một cuộc đời hạnh phúc cho cả hai bên, vì biết được rằng người có hạnh phúc thì mình mới có hạnh phúc, mình có hạnh phúc người mới có hạnh phúc. Nếu mình chỉ lo hạnh phúc cho mình mà phá hại hạnh phúc của người khác thì không thể nào riêng mình có hạnh phúc trong khi xung quanh mọi người không được hạnh phúc. Nếu mình giàu có đủ ăn một ngày ba bữa trong khi xung quanh mình toàn là những người thiếu ăn thiếu mặc, thì không thể nào an vui giữa những sự thiếu thốn của những người khác được.

Vậy giữa mình với người có một sự tương quan chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau mới tồn tại, mới yên vui, nếu phá hại lẫn nhau thì cả hai đàng đều đau khổ.

Ngay một chuyện hằng ngày sống với nhau nếu biết nhẫn nhịn - trong chừng mực ấy - người ta cũng có thể tạo hạnh phúc yên lành cho nhau. Ở đời ai mà tránh được cái ngã, cái ngã chấp của mình! Khi thấy mình có một cái bản ngã hơn cái bản ngã của người khác thì cho đó là sang, là quý, là đáng trọng mà quên rằng người khác cũng có cái ngã đáng quý đáng trọng của họ. Nhưng vì cố tình không biết cho nên nếu có ai đụng đến cái ngã của mình là mình sân si tật đố. Sân si tật đố đó một ngày không nguôi, hai ngày không nguôi, rồi ba ngày không nguôi, cho đến khi làm thế nào để cho người đó phải vong gia bại sản, phải đảo điên, phải khổ sở mất mát... khi đó mới thỏa lòng mình.

Xét cho kỹ thì những việc làm đó hoàn toàn bị điều động bởi một thứ tâm trí bệnh hoạn, hẹp hòi vì vô minh điên đảo mà đức Phật từ xưa đã chỉ dạy cho chúng ta. Thử hỏi rằng mình có một cái ngã, cái ngã của mình đó là cái gì? Cái ta của mình đó, ở nơi đâu?

Thật tình khi ta nói Ta, nhưng tìm cho ra cái Ta đó chẳng biết nó nằm ở đâu hết. Khi cha mẹ mình sinh ra chỉ sinh ra một cái thân, chẳng có tên, tuổi gì, nhưng rồi cha mẹ đặt cho một cái tên: có khi đặt một cái tên rất đẹp, có khi đặt một cái tên rất xấu; nhưng từ cái tên đó, mỗi lần được kêu lên là ta liền có ý thức nhận đó là ta.

Ví dụ cha mẹ đặt cho mình cái tên là "Kèo", từ nhỏ kêu mình là Kèo, ngày thứ nhất kêu mình là Kèo, ngày thứ hai cũng kêu mình là Kèo, ngày thứ ba, thứ tư... cứ như vậy mãi. Mình sẽ yên chí mình chính là Kèo. Tự nhiên cái tên Kèo đó nó đồng hóa trở thành mình, và khi ai đụng chạm đến cái tên Kèo là mình cảm thấy khó chịu. Ai chê, ai mắng, ai phê bình cái tên Kèo làm mình cảm thấy tức giận. Nếu mình ngồi đây mà ai ở ngoài đường kia xướng cái tên Kèo mà mắng, mà chửi, nói rằng "Kèo là tên ăn trộm", chắc chắn rằng anh Kèo trong này không chịu nỗi, mà phải tìm cách để biết người nào đó dám cả gan nói ta là ăn trộm, tìm cho ra để trả thù. Ngược lại ở đàng xa kia có một người tán thán ca ngợi cái ông Kèo là một ông đạo đức, nhân nghĩa, đẹp trai, quý phái, người đời này có một không hai... Khi đó mình là Kèo chẳng có đạo đức gì cả nhưng mình cũng nhận là mình có đạo đức nên người ta mới khen như vậy, tán dương như vậy, mình sung sướng vô cùng. Mình sung sướng với cái tên Kèo bởi vì Kèo đã trở thành Ta rồi.

Đó chỉ là một cái danh từ suông, một cái tên suông nhưng khi ta đã cố chấp vào nó là ta, thì phải bị khổ lụy theo nó. Nếu không hiểu được Kèo chỉ là một danh từ giả tạm, một danh từ ước lệ của xã hội đặt ra để mà gọi. Mà cứ khư khư cho rằng Kèo là ta, ta là Kèo, nhất định sẽ đau khổ vì nó trong khi bị người ta chửi mắng và nhất định sung sướng vì nó trong khi được người ta khen ngợi tán thán. Nhưng sự thật, sự ca ngợi, sự chê bai cái tên Kèo không dính dáng gì đến ta hết, thế mà ta cứ cho ta là Kèo, không ai có quyền đụng đến ta được.

Đụng đến cái tên mà còn như thế, huống gì đụng đến da, đến thịt của ta thì sẽ như thế nào? Cho nên có người không nhẫn nhục nỗi mà phải đảo điên, phải mưu kế, phải tính toán trả thù cho bằng được. Người nào đụng đến mặt mũi, đụng đến da thịt, thân thể mình thì bị phản ứng ngay lập tức.

Những giả danh, những sắc tướng đều là những cái mong manh giả tạm mà cố chấp lấy nó nên ta phải đau khổ, phải điên đảo vì nó.

Khổ và điên đảo theo nó rồi tạo nghiệp theo nó; đã tạo nghiệp theo nó tức là sanh tử, luân hồi theo nó. Khi ta tạo nghiệp xấu nhất định sẽ mang quả xấu, nhất định sẽ không được yên vui. Đó là một điều rỏ ràng hết sức, nhưng vì vô minh che lấp, chúng ta không thấy rõ được điều mà đức Phật từ ngàn xưa đã chỉ rõ cho ta: "Tất cả chúng sanh đều vô ngã". Chính tên Kèo đâu phải là ngã mà mình cho là ta, là ngã; đó là sự vô minh, đó là sự sai lầm không che dấu được. Một khi đã lấy tên Kèo làm Ta, thì khi đi ngang qua một nơi nghe người ta mất gà, họ đang chửi rủa tên Kèo nào đó, nhưng mình thấy bực tức và đứng lại cãi:

-- Ai lấy gà của mày, ai ăn cắp gà của mày mà thấy tao đi ngang là mày chửi, là mày gọi tên Kèo ra mà chửi?

Nhất định cãi cho bằng được, cãi buổi sáng chưa xong, lại cãi buổi chiều, buổi chiều chưa xong lại cãi buổi tối... thậm chí đem bà con của mình xúm ra mà chửi bên kia, rồi bên kia cũng đem bà con ra chửi bên này.

Cãi cái gì? Cãi cái tên Kèo ăn cắp gà. Nhưng kỳ thật người ta chửi là chửi một anh chành Kèo nào khác chứ không phải là chửi mình? Thế mà mình cứ khư khư cho tên Kèo là mình, mình không chịu nỗi, phải nghĩ cách trả thù. Muốn đi mà không đi được, muốn yên ổn mà yên ổn không được, lúc bấy giờ sẽ bị trói buộc lại một chỗ để cãi lộn. Không có dây mà cũng bị trói, không có ngục mà cũng bị giam.

Ai trói? Ai giam?

Chính mình tự giam giữ mình, chính mình tự trói buộc mình. Đó, chính mình giam mình lại đó.

Đức Phật nói: Chúng sinh bị trầm luân trong bể khổ luân hồi. Bể khổ đó không phải là bể nước mặn. Nếu bể khổ là nước mặn thì chỉ cần lên núi ở tức khỏi bị khổ, khỏi bị trầm luân. Nhưng ở đây cái bể khổ trầm luân chính là tham, sân, si, tật đố, ngã mạn của chúng sinh. Bể trầm luân này nằm ở trong lòng chúng sinh chứ không phải ở đâu xa hết. Vì nằm trong lòng chúng sinh, nên mỗi khi lòng tham nổi dậy quá mạnh thì nó chôn vùi con người vào trong chính lòng tham đó. Mỗi khi lòng sân nổi dậy quá mạnh thì nó chôn vùi con người vào trong lòng sân đó. Mỗi khi si, ngã mạn... nổi dậy quá mạnh thì nó nhận chìm con người vào trong si, ngã mạn... đó, chứ không ai đâu khác.

Vậy thì ai muốn thoát luân hồi, ai muốn thoát sanh tử, ai muốn thoát trầm luân? Chắc chắn ai cũng muốn thoát khỏi chỗ ấy, tức là thoát khỏi trầm luân, thoát khỏi sinh tử. Muốn thoát khỏi trầm luân, bể khổ, không có gì khó cả: chỉ cần dứt trừ lòng tham là thoát khỏi trầm luân, dứt trừ lòng sân là thoát khỏi trầm luân, dứt trừ lòng kiêu mạn là thoát khỏi trầm luân, dứt trừ lòng tật đố ganh t là thoát khỏi trầm luân. Dứt trừ bao nhiêu tật xấu là thoát khỏi trầm luân. Cho nên tật xấu nhiều chừng nào bể trầm luân nhiều chừng đó, tánh xấu ít chừng nào biển trầm luân vơi cạn chừng đó. Vì vậy nếu ai tát cạn được bể ải, người đó thoát khỏi bể trầm luân. Ai không tát cạn được bể trầm luân, thì người đó chìm đắm trong luân hồi sanh tử. Như vậy những lời đức Phật dạy là những pháp hiện tiền trước mắt, chỉ ngay trong tâm ta chứ không đâu xa lạ hết.

Chúng ta đọc kinh, thấy pháp Phật dạy trong đó, nhưng kỳ thiệt Ngài không để gì trong kinh hết, mà Ngài chỉ rõ tâm của ta cho ta thấy đó thôi. Nếu không thấy cái tâm mình, không cải bỏ những tâm lý nhỏ mọn hung ác một tí nào, thì dù có đọc kinh suốt cả đời đi nữa thì trầm luân vẫn là trầm luân, tham lam vẫn cứ tham lam... Lúc bấy giờ dù có học muôn ngàn quyển kinh đi nữa thì cũng không làm sao vớt ta lên khỏi bể trầm luân được. Khi ta không biết chính bể trầm luân ở trong lòng ta, chính bể trầm luân ấy là tham lam, nhỏ mọn, tật đố, kiêu căng, hẹp hòi, nhỏ mọn, độc ác mà cứ cho trầm luân ở đâu xa, nhất định ta không thoát khỏi trầm luân. Vậy đức Phật ra đời cốt dạy cho chúng sanh thoát khỏi trầm luân, giải thoát sanh tử, và giải thoát sanh tử ngay trong hiện tiền, ngay trong tâm niệm, ngay trong giờ phút này vậy.

-- Thử hỏi ngay trong giờ phút này chúng ta có tham không? Không, như vậy ngay trong giờ phút này chúng ta thoát khỏi trầm luân rồi.

-- Giờ phút này chúng ta có si không? Có ngã mạn, tật đố, có ích kỷ hẹp hòi không? Không! Như vậy giờ phút này chúng ta thoát khỏi trầm luân rồi.

Nếu cái giờ phút chúng ta thoát khỏi trầm luân đó cứ tiếp tục kéo dài mãi, nhất định chúng ta sẽ thoát khỏi trầm luân. Thoát khỏi trầm luân cũng có nghĩa là thoát khỏi địa ngục. Địa ngục là nơi giam giữ, mà địa ngục đó tự mình tạo ra, tự vô minh của mình tạo ra chứ không ai tạo ra hết. Địa ngục mình tạo ra thì chỉ có mình mới giải thoát được thôi. Mà giải thoát bằng cách nào? Giải thoát bằng sự thực hành lời dạy của đức Phật, bằng sự giác ngộ lời của đức Phật dạy cho chúng ta. Muốn thoát khỏi địa ngục ta phải thực hành lời dạy của đức Phật không chờ đợi, vì chờ đợi thì vô minh sẽ che lấp trí tuệ không làm sao thấy để giải thoát được.

Nên hàng Phật tử chúng ta tụng kinh, đọc kinh, niệm kinh là để cho rõ lời Phật dạy, nhờ đó mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút luôn luôn tâm niệm, ta cố tìm cách gạt qua tất cả những tính xấu để chúng ta thoái khỏi trầm luân. Khi ta đã có một tâm bình tỉnh sáng suốt như vậy rồi, thì một mai nếu lại đi qua đó có gặp phải người nào mà họ chửi Kèo, lúc đó ta sẽ xem như không; khi đó ta không bị trói buộc, không bị trầm luân, không bị giam giữ ở lại đó nữa. Từ việc này ta được giải thoát, qua một việc khác ta được giải thoát, qua những việc khác nữa ta cũng được giải thoát. Tất nhiên ta đã được giải thoát ở hiện tại.

Nếu muốn thoát thì phải siêu, có siêu mới thoát! Siêu là gì? Siêu là vượt lên, vượt lên những cái nhỏ mọn, lặt vặt hằng ngày thì ta mới giải thoát được. Còn nếu cứ cố chấp, níu kéo các việc nhỏ mọn hàng ngày, tất nhiên phải sa lầy vào những chuyện đó mà không thể giải thoát được, bởi vì không Siêu. Nghe ai nói động một tiếng, đã nổi giận, nghe ai chê bai một tiếng đã bực tức, ai đụng đến một tí cũng đã khó chịu...

Thậm chí có những Phật tử đi chùa đã lâu nhưng khi đến chùa rủi ro người khác vô ý đụng cái áo một tí thì đã quay lại nộ liền, gây liền: "Không có mắt hay sao mà lại đụng người ta."

Như vậy, chính tự mình không giải thoát. Vì vậy, lời của Phật dạy là những điều hết sức minh bạch, hết sức thực tế như giữa ban ngày... Nhưng chẳng qua chúng ta không học nổi, không tìm học hay chịu học mà thôi. Ai chịu học những lời dạy của đức Phật, người đó được an lạc, người đó sẽ được giải thoát. Giải thoát từng giờ, giải thoát từng ngày và giải thoát cả đời.

Làm được điều đó tức chúng ta đã là hạng người thứ tư như trong kinh Phật đã dạy, là hạng người không làm khổ mình, không làm khổ người. Và ngược lại làm vui mình và làm vui người.

Phật dạy: "Thân mạng vô thường". Có đó rồi không đó tựa như nước trên dốc chảy xuống, như sương đọng ban mai. Lời dạy đó nếu như ta không nghiệm kỹ, ta thấy hơi khó hiểu, bởi vì cái thân ta đây, ta bồi dưỡng, ta sống trong nhà cao cửa đẹp... tại sao như sương mai được. Nhưng kỳ thật nhìn cho kỹ: trăm năm là mấy? Chỉ như trong khoảng nháy mắt mà thôi; 70 năm, 80 năm là mấy? Chỉ trong nháy mắt mà thôi.

Tóm lại, khi ta chiêm nghiệm được điều đó rồi, thấy cái thân ta như hạt sương trên đầu cỏ ban mai mà thôi. Đã biết như hạt sương trên đầu cỏ ban mai thế mà còn gây nhau, còn đánh nhau, còn tìm cách giết hại lẫn nhau, tìm cách bóc lột nhau, tìm cách làm khổ nhau thì đó là một điều mê lầm trọng đại. Gặp gỡ nhau trên cõi đời này là một duyên tốt, nhưng không biết tu hành không biết cải sửa, đó là một duyên xấu. Khi đã là duyên tốt thì sẽ làm thượng thiện nhơn với nhau trong cõi cực lạc, được sung sướng vĩnh viễn. Khi đã cùng nhau làm duyên xấu thì oan oan tương báo không thể tránh khỏi những điều khổ đau, cho nên hàng Phật tử chúng ta theo Phật, niệm Phật, tụng kinh, cố gắng làm lành. Làm hạng người thứ tư, hạng người không làm khổ mình, không làm khổ người và tránh không làm ba hạng người trước. Được như vậy tất nhiên chúng ta làm tròn chí nguyện giải thoát cho mình, đồng thời báo đáp công ơn sâu dày của đức Phật, của cha mẹ, sư trưởng, quốc gia xã hội vậy ./.

[*] Tăng Chi, tập II A, trang 130.[/b]
Được cảm ơn bởi: ngnhatha99
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

VÔ THƯỜNG

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu


Người đời khi đã phát nguyện quy y Tam Bảo là họ đã an trú trong ngôi nhà Như Lai, vì đó là ngôi nhà an vui vĩnh viễn nhất. Chánh pháp Như Lai là hào quang chân lý, giúp cho chúng sanh phân định được đâu là tính chất mê muội, luân hồi và đâu là giác ngộ, giải thoát. Chánh pháp Như Lai còn soi sáng cho chúng sanh phá tan màn vô minh điên đảo để dứt trừ mọi sai lầm đau khổ. Cho nên trong kinh Pháp Cú có dạy: "Vì sợ hãi bất an mà đến quy y thần núi, quy y thần cây, quy y miếu thờ thổ thần nhưng đó chẳng phải là chỗ nương dựa yên ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như thế khổ não vẫn còn nguyên. Trái lại quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, phát trí tuệ chân chính, hiểu thấu bốn lẽ mầu: biết khổ, biết khổ nhân, biết khổ diệt và biết tám chi Thánh đạo diệt trừ khổ não; đó là chỗ quy y an ổn, là chỗ quy y tối thượng. Ai quy y như vậy, giải thoát hết đau khổ".

Vì không nhận chân đúng lời Phật dạy, nên chúng sanh sống trong cảnh vọng tưởng mà khởi tà kiến: vô thường chấp là thường, vô ngã chấp là ngã, không thanh tịnh chấp là thanh tịnh, khổ đau chấp là an lạc, nên bị luân hồi và đau khổ triền miên.

Tất cả mọi sự vật trong thế gian này đều phải biến chuyển không ngừng: chúng luôn luôn sanh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Thế giới không một vật nào tồn tại vĩnh viễn và có thể đứng yên một chỗ; tất cả đều vô thường, không những vô thường trong từng năm, tháng, ngày, giờ mà còn vô thường trong từng sát-na sanh diệt.

Đối với con người cũng vậy, hôm nay tóc còn đen nhánh, ngày mai soi gương lại đã thấy bạc đầu. Hôm nay làn da còn tươi láng, ngày mai đã thấy nếp nhăn nheo.

Vũ trụ, sơn hà, đại địa, dù rất to lớn khiến chúng ta tưởng lầm nó là kiên cố, nhưng thật ra nó cũng chịu sự biến hoại vô thường không kém. Hòn núi kia khi chúng ta chưa sanh nó đã có, đến khi chúng ta nhắm mắt nó vẫn còn. Chúng ta tưởng hòn núi đó là thường; cho đến của cải vật chất, nhà cửa chúng ta cũng tưởng lầm như thế. Vì tưởng lầm nên chúng ta quay cuồng trong vòng điên đảo, đem cái tâm tham, sân, si để giành giựt lấy những gì chúng ta cho là quý, là thường, là chân thật, nên mới gây ra biết bao đau khổ xấu xa, thậm chí đôi lúc còn giành giựt nhau từng đồng bạc, từng chút địa vị, từng lời ăn tiếng nói, từng bước đi, từng cử chỉ... Đến như cái thân của chúng ta do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành, do năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) cấu tạo nên, từ khi cha mẹ sinh ra cho đến khi nhắm mắt lìa đời, không biết bao nhiêu lần biến chuyển đổi thay cho đến các tế bào trong cơ thể chúng ta cũng thay đổi trong từng giờ, từng khắc mà chúng ta không hay, không biết.

Thân thể của mọi người đều vô thường như thế - Đôi lúc chúng ta cũng biết như thế, nhưng chính chúng ta vẫn cứ mong thân của chúng ta tồn tại mãi mãi, tại vì lòng tham, chấp ngã, nên chúng ta thấy "ta" là quý hơn tất cả mọi người, chỉ có "ta" mới đáng được trọng vọng, khen ngợi, còn người khác thì không nên trọng vọng, khen ngợi. Chính là vì lòng chấp ngã, ích kỷ, ganh ttham lam của chúng ta mà ra.

Vả lại trong ta có những lúc tham, lúc giận, lúc si, nhưng cũng có những lúc từ bi, hỷ xả, tâm muốn bố thí giúp ích mọi người. Vậy nếu nói lúc tham là ta và lúc giận, lúc si, lúc bố thí, lúc từ bi, hỷ xả cũng là ta; thế thì, chính trong một bản thân ta hóa ra có không biết bao nhiêu cái ta. Thử hỏi trong những cái ta đó cái nào đích thực là ta? Khi ta tham lam thì cái tham đó thật là ta; khi ta giận, cái giận đó thật là ta, hay khi ta kiêu mạn, tật đố cái kiêu mạn, tật đố đó là ta? Nếu nói tham là ta thì ta sẽ là con người tham mãi không bao giờ thay đổi được! Nếu nói kiêu mạn, tật đố là ta, thì kiêu mạn tật đố không bao giờ thay đổi được! Nhưng không, dù có kiêu mạn, tật đố nhưng khi biết tu hành, phá trừ kiêu mạn, sống một cách khiêm tốn, thì có thể thay đổi được. Dù tham lam nhưng nếu hiểu được đạo lý thì cũng có thể chuyển đổi được lòng tham lam ra lòng bố thí.

Rõ ràng, tâm của chúng ta luôn luôn thay đổi, thân thể của chúng ta cũng thay đổi không ngừng, không có lúc nào thật là ta cả. Ngay trong giờ phút ta tự nghĩ ta đây là ta, thì lời nói ta đó cũng đã sai đi rồi. Bởi vì trong lúc ta nói ta đây, thì chính ảnh tượng mà ta tưởng là ta đó cũng đổi khác đi rồi. Tâm hồn ta giờ này không còn như giờ phút trước. Cho nên, vừa mới mở miệng nhắc đến cái ta thì cái ta đó đã bay đi mất. Thế mà vì không hiểu, cho nên cứ đinh ninh rằng: "Ta đây, ta quý hơn tất cả, muốn được tất cả mọi người tôn trọng, khen ngợi, và tuyệt đối không ai được chê ta hết. Nhưng ngược lại ta cũng không muốn tôn trọng và khen ngợi ai cả". Cái ta nó làm cho con người điên đảo, hẹp hòi như vậy đó.

Cho nên, chúng sanh đau khổ là vì vô ngã mà chấp là ngã, không ta mà chấp thật là ta. Ai biết nhìn kỹ thân thể của mình, qua pháp môn "Bất tịnh quán" như đức Phật đã dạy thì sẽ thấy toàn thân chất chứa những đồ bất tịnh, nếu bỏ lớp da ngoài thì ai cũng dơ bẩn như ai. Cái bất tịnh ấy đã có từ trong bào thai, và khi lọt lòng mẹ cũng đã bất tịnh rồi. Dù được trang điểm bao nhiêu cũng chỉ là cái thân bất tịnh, cho đến khi nhắm mắt tắt thở, nó cũng là bất tịnh. Đối với cái thân bất tịnh này rõ ràng như vậy mà chúng ta không nhận thấy; ngược lại còn chấp cái thân này là tịnh, nên nâng niu, chiều chuộng, trau chuốt nó quá đáng. Vì mù quáng đối với thân vô thường, lại cho là thường nên con người luôn luôn đau khổ vì nó.

Ngày xưa có nàng Liên Hoa Sắc, khi nghe đức Phật dạy về đạo lý vô thường, rằng thân thể bất tịnh, chúng sanh bất tịnh, hữu tình bất tịnh, thì cô ta liền phát tâm muốn đi tu. Nhưng trên bước đường đi tu ngang qua một dòng sông, cô xuống sông rửa mặt, nhìn thấy bóng mình dưới nước có gương mặt quá đẹp, cô nghĩ thầm: "Mình đẹp như thế này mà đi tu thì uổng quá!" Cô bèn quay trở lại. Bạn bè gặp cô trở về bèn hỏi: "Tại sao trước kia chị phát tâm dõng mãnh, muốn đến đức Phật để cầu xin xuất gia, tu hành, bây giờ chị lại thối chí trở lui là thế nào?" Cô ta trả lời rằng: "Ôi! Tôi đẹp quá như thế này mà đi tu làm gì cho uổng!" Họ hỏi: "Vậy chị đẹp như thế nào?" Cô ta trả lời: "Tôi soi mặt dưới nước thấy cái bóng của tôi phản chiếu dưới đó, hết sức là đẹp".

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng: Cái đẹp của cô ta chỉ là cái đẹp phản chiếu lại lòng tham đắm xác thân chứ đối với người khác chưa chắc đã đẹp, và đôi với loài cá dưới nước khi thấy bóng cô ta thì phải chạy trốn xa. Cô ta thấy cái bóng mình dưới nước cho là đẹp, vì nghĩ lầm cái thân là đẹp, không ngờ nó đang xấu, đang hủy hoại từ từ mà cô ta không biết không hay!

Cho nên trong kinh Xà Dụ, đức Phật dạy:

"Này các Tỷ-kheo, sắc là thường hay vô thường? Bạch Thế Tôn, vô thường. Cái gì vô thường là khổ hay lạc? Bạch Thế Tôn, khổ... Do vậy này các Tỷ-kheo, cái gì không phải của các ngươi, hãy từ bỏ thì sẽ đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho các ngươi. Trong bốn sự thật mà đức Phật dạy, sự thật đầu tiên là khổ (dukkha). Ngài nói cuộc đời dù có vui mấy cũng chỉ là cái vui mong manh, rốt cuộc không thoát ly sự khổ được. Ngài dạy: Chúng sanh mang không biết bao nhiêu cái khổ trong người: sanh, già, bệnh, chết là khổ. Đó là cái khổ thường tình ai cũng nhận thấy, cái khổ tự nhiên ai cũng mắc phải, hoặc ít hoặc nhiều không ai tránh khỏi. Nếu một em bé sanh ra không khổ thì nó đã không cất ba tiếng khóc oa oa oa khi mới lọt lòng. Nếu một người bịnh không khổ thì họ đã không rên xiết. Người già không khổ thì đã không than phiền mắt mờ tai điếc, và một người chết không khổ thì đã không ai khóc. Thế mới biết sanh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ là một sự thật hiển nhiên mà đức Phật đã từng tuyên bố. Ngoài cái khổ đó còn những cái khổ khác như: Những điều mình ưa, những người mình thích, những đồ vật mình ham muốn tưởng rằng đó là của mình, mình là cái đó, nó sẽ gắn liền với mình không bao giờ rời xa được. Nhưng vì hoàn cảnh, vì luật vô thường, những thứ đó nó rời khỏi tầm tay, không cách gì cầm giữ lại được. Đó chính là ái biệt ly khổ.

Đối với những người, những vật mình ghét, muốn tránh cho khuất mắt mà không thể tránh được; mình muốn lờ đi nhưng nó cứ hiện ra trước mặt. Trên một con đường, ai cũng muốn đi trên con đường sạch sẽ, có hoa thơm, cỏ lạ, không ai muốn đi trên con đường lầy lội, đầy gai góc hiểm độc ấy, muốn tránh nhưng bước đâu vướng đó, muốn né nhưng đi đâu vấp đó. Đối với sự vật bên ngoài đã vậy, còn đối với người xung quanh, có người ta ưa thích, nhưng cũng có người ta ghét, ta không ưa vì lẽ này hay lẽ khác. Nhưng ở giữa hai cái ưa và không ưa đó cũng tạo nên một cảnh ghét mà phải gặp là khổ, cho nên tục ngữ ta có câu: "Ghét của nào trời trao của ấy". Bên này oán bên kia và bên kia oán bên này. Một khi đã oán nhau như vậy thì vũ trụ bao la trở thành thu hẹp lại một góc. Gặp một người oán ghét ta muốn tránh, nhưng tránh hoài đến nỗi hết muốn gặp mà cũng không sao tránh được. Vũ trụ bao la trong giờ phút này trở nên chật hẹp đến nỗi ta tưởng nó không còn một chỗ an toàn cho ta dung thân. Đó là cảnh oán tắng hội khổ. Cảnh này nếu nằm trong gia đình, trong thân tộc, trong bản thân của mỗi người thì lại càng khổ hơn nữa.

Chúng sanh luôn luôn nuôi dưỡng lòng tham muốn và mong cầu, đối với cuộc đời này họ chưa một lần biết đủ, cảm thấy mình như một người thiếu thốn, họ tìm đủ mọi cách để ôm trọn thế gian này. Nhưng tiếc thay! Sự sống con người thật ngắn ngủi, một trăm năm không đủ bề dày thời gian để làm thỏa mãn lòng tham của họ, vì vậy họ chịu khổ đau suốt đời vì ham muốn nhiều mà nhận chẳng được bao nhiêu, gọi là cầu bất đắc khổ.

Dẫu có người cho rằng đời còn có nhiều thú vui chứ đâu phải khổ hết. Coi xi-nê, coi hát, bài bạc, rượu chè cũng vui, trúng số độc đắc hay làm quan cũng vui. Đức Phật không phủ nhận điều đó, nhưng Ngài nói: Cái vui đó là cái vui mong manh trong đau khổ, cái vui còn vướng trong vô minh nghiệp chướng đưa đến khổ đau càng sâu dày thêm. Cho nên có một nhà thơ Việt Nam viết:

"Bể khổ mênh mông nước ngập trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi,
Thuyền ai ngược gió ai xuôi gió,
Ngẫm lại cùng trong bể khổ thôi".

Ngược gió hay xuôi gió, chiếc thuyền cũng ở trong biển mà thôi, không thể vượt lên trên biển được. Cho nên cái vui của con người trong cảnh trầm luân này là cái vui trong đau khổ của thế gian, chưa phải là cái vui giải thoát. Do thế, đức Phật nói đời là đau khổ, mặc dù chúng sanh cho đời là vui, rồi say đắm theo đời, không giờ phút nào rời khỏi, cho đến một ngày nào đó phải nhắm mắt tắt thở, bấy giờ mới hoảng hốt, khổ đau!

Nếu biết đem toàn tâm lực an trú trong Chánh pháp thì sẽ nhận rõ lời đó của đức Phật: tất cả sự vật là vô thường, chúng sanh là vô ngã, thân thể là bất tịnh, mọi sự lãnh thọ đều là khổ: dù là thọ khổ hay thọ vui, cũng đều ở trong vòng tương đối. Đã ở trong vòng tương đối thì có sanh diệt, có sanh diệt tất nhiên lòng chúng ta không thỏa mãn, nên sanh ra đau khổ. Đức Phật vì đại sự nhân duyên đó mà ra đời, để chuyển mê khai ngộ cho chúng sanh. Mục đích tu hành của người tu Phật là để chuyển nghiệp. Ngài dạy rằng: "Nghiệp dắt thế gian tới, nghiệp kéo thế gian đi, thế gian chuyển theo nghiệp, như bánh xe lăn theo chân con vật kéo xe". Con vật kéo xe đi vào trong con đường tối tăm mù mịt thì bánh xe cũng phải lăn theo. Chúng sanh lăn theo nghiệp cũng tương tự như thế. Mỗi người đều có những nghiệp riêng, nghiệp tốt thì làm cho con người tốt, nghiệp xấu thì làm cho con người xấu, nghiệp cao thượng thì trở thành con người cao thượng, và nghiệp thấp hèn thì trở thành con người thấp hèn. Tất cả đều do nghiệp. Nghiệp là bào thai, nghiệp là sở hữu, cho nên khi sanh ra, khi chết đi, ta cũng chỉ một mình đi theo nghiệp chớ không có ai đi theo ta hết. Không ai thay thế ta để đi theo trong khi ta sanh, già, bịnh, chết với cái nghiệp của ta mà thôi. Cái nghiệp luôn luôn đi theo ta như bóng theo hình. Những người tạo nghiệp lành thì có những người bạn lành cùng đi theo. Những người tạo nghiệp dữ thì có những kẻ oan gia thù hận đi theo. Người tạo nghiệp lành thì như mang bình cam lồ đi đây đi đó. Người tạo nghiệp ác thì như mang một bồ rắn độc bên mình, luôn luôn nơm nớp sợ hãi, đau khổ. Theo lời Phật dạy, con người là do nghiệp định đoạt tất cả. Vì vậy: "Con thiên nga chỉ bay được giữa hư không, người có thần thông chỉ bay được khỏi mặt đất; chỉ có bậc đại trí, đại hạnh dứt sạch nghiệp luân hồi mới bay được khỏi thế gian này" (Pháp Cú 175).

Bay khỏi thế gian này tức giải thoát, tự tại. Nên con người tu hành là để chuyển nghiệp. Chuyển nghiệp xấu thành tốt, vô minh ra giác ngộ, trầm luân ra giải thoát. Tóm lại, chuyển cái nghiệp của chúng sanh ra cái nghiệp của chư Phật, Thánh, Hiền. Khi chuyển nghiệp được rồi thì chính cái nghiệp đó nó trở thành một tòa lâu đài để nâng đỡ chúng sanh, giúp cho chúng sanh được an vui, giải thoát...
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Câu đối thiền môn của HT Thích Thiện Siêu

01. Nhập môn nghi xả dung thường tánh;
Đáo tự ưng sinh hoan hỷ tâm.

入 門 宜 捨 庸 常 性
到 寺 應 生 歡 喜 心

Tạm dịch:

Vào chùa nên bỏ tánh tầm thường;
Đến chùa hãy sinh tâm hoan hỷ .

02a. Kim địa trúc Tòng lâm, cô nguyệt quang hàm không tức sắc;
Sơn đầu hưng bảo sát, quần loan thúy tỏa cổ do kim.

金 地 築 叢 林 孤 月 光 含 空 即 色
山 頭 興 寶 剎 群 巒 翠 鎖 古 猶 今

Tạm dịch:

Đất báu xây Tòng lâm, trăng rọi ánh vàng không tức sắc;
Non cao mở chùa Phật, núi phơi màu biếc, cổ như kim.
(Tặng Tòng lâm Kim Sơn ở đồi Kim Sơn, làng Lựu Bảo, Huế - 1968)

02b. Kim tướng phóng hào quang biến chiếu thập phương thành tịnh độ,
Sơn sắc hàm tuế nguyệt viên dung tam tế tức thiền tâm.


金 相 放 毫 光 遍 照 十 方 成 淨 土
山 色 含 歲 月 圓 融 三 際 即 禪 心

Tạm dịch:

Thân vàng phóng hào quang biến khắp mười phương thành cõi tịnh,
Màu núi bao hàm năm tháng tròn đầy ba cõi tức tâm thiền.

03. Hồ bạn khởi thiền quan, giáo diễn chơn thừa, nhất tánh viên minh hoàn bản Tế.
Sơn đầu khai thắng hội, thính lai thuyết pháp, thâm tâm tín nhạo ngộ tiền căn.

湖 畔 起 禪 關 教 演 真 乘 一 性 圓 明 還 本 際
山 頭 開 勝 會 聽 來 說 法 深 心 信 樂 悟 前 根

Tạm dịch:

Bên hồ dựng nếp chùa, diễn dạy chơn thừa, một tánh viên minh về gốc cội;
Đầu núi khai hội pháp, nghe truyền chánh pháp, toàn tâm hỷ tín ngộ căn xưa.
(Tặng chùa Hồ Sơn do tổ Tế Căn khai sáng tại Tuy Hòa, kiến thiết lại năm 1984)

04. Hàm long tái ngọ, đàm kinh phò luật xuất chân thuyên, ứng vật khúc trần, huề đăng thật địa;
Báo Quốc trùng quang, bát hỏa ma chuyên truyền tổ đạo, đương cơ trực chỉ, bất lạc kỳ đồ.

含 龍 再 午 談 經 扶 律 出 真 詮 應 物 曲 陳 雟 燈 實 地
報 國 重 光 撥 火 磨 磚 傳 祖 道 當 機 直 指 不 落 岐 途

Tạm dịch:

Núi Hàm Long trở lại giữa trưa, giảng kinh phò Luật, nêu rõ lý mầu, ứng theo hoàn cảnh mà trình bày quanh co nhằm dìu dắt bước lên đất thật;
Chùa Báo Quốc trở lại rạng quang, bươi lửa mài gạch để truyền Tổ đạo, ngay vào căn duyên chỉ thẳng, tránh rơi lạc đường chia.
(Câu đối bàn thờ Tổ chùa Báo Quốc sau khi kiến thiết lại năm 1969 )

05. Khiêm nhẫn hữu dư, phát ý viên thành Tam tụ giới;
Trí bi vô ngại, chung thân bất thối Tứ hoằng tâm.

謙 忍 有 餘 發 意 圓 成 三 聚 戒
智 悲 無 礙 終 身 不 退 四 弘 心

Tạm dịch:

Khiêm nhẫn có dư, một nguyện tròn thành Tam tụ giới;
Trí bi không ngại, trọn đời chẳng thối Bốn hoằng tâm.
(Câu đối ở tháp Hòa thượng Thích Thanh Trí chùa Báo Quốc-Huế)

06. Chỉ đồ kiến tánh, ngôn hạ tri quy, thùy thị can đầu tấn bộ;
Bát thảo tham huyền, thanh tiền ngộ chỉ thỉ năng tâm nội thừa đương.

指 圖 見 性 言 下 知 歸 誰 是 竿 頭 進 步
撥 草 參 玄 聲 前 悟 旨 始 能 心 內 承 當

Tạm dịch:

Chỉ đồ hình nhằm thấy tánh thật, ngay lời biết chỗ quay về, đâu là người đầu sào tiến bước?
Phát cỏ dại để tìm cơ huyền, ứng tiếng thông nơi ý chỉ, mới chính kẻ tự nội thừa đương.
(Câu đối ở tháp chùa Báo Quốc - Huế và bàn thờ Tổ ở Long Sơn - Nha Trang)

07. Quảng đại hạnh, phát thâm tâm, bát thát mê vân, bất quyện hối nhân bồi Phật chủng;
Cứu chơn không, nghiên diệu chỉ, xung khai tuệ nhật, phùng trường trác tích chấn tông phong.

廣 大 行 發 深 心 撥 拓 迷 雲 不 倦 誨 人 培 佛 種
究 真 空 研 妙 旨 沖 開 慧 日 逢 場 卓 錫 振 宗 風

Tạm dịch:

Quảng khai đại hạnh, phấn phát tâm sâu, vén bớt mây mê, mệt mỏi chẳng nề dạy người vun Phật chủng;
Thẩm cứu chân không, thâm nghiên ý diệu, mở ra vầng tuệ, ngay nơi duyên thuận, dựng gậy chấn Tông phong.
(Tặng tháp Hòa thượng Thích Trí Thủ chùa Báo quốc-Huế)

08. Ngự lãnh thanh phong, phất diện vấn thùy năng tác Phật;
Bình tiền khô mộc, đãi nhơn tri ngộ vị khai hoa.

御 嶺 清 風 拂 面 問 誰 能 作 佛
屏 前 枯 木 待 人 知 遇 為 開 花

Tạm dịch:

Đỉnh Ngự gió lành phe phất tìm ai hay làm Phật?
Non Bình cây héo mong chờ người hiểu để nở hoa.
(Tặng Khuôn hội Phật giáo Ngự Bình - Huế)

09. Tức tục nhi chơn, xứ xứ tận thành Hoa tạng giới;
Bội trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn.

即 俗 而 真 處 處 盡成 花 藏 界
背 塵 合 覺 心 心 圓 攝 大 乘 門

Tức tục mà chơn, nơi nơi đều thành Hoa tạng giới;
Trái trần hiệp giác, tâm tâm viên nhiếp Đại thừa môn
(Tặng tháp HT. Mật Nguyện, chùa Trúc Lâm - Huế)

10. Quảng khai phương tiện môn, thiện xiển tần già phổ kiến pháp tràng vu xứ xứ;
Hương biến trang nghiêm độ, tư bồi đạo thọ cao tiêu đức bổn ư trùng trùng.

廣 開 方 便 門 善 闡 頻 伽 普 建 法 場 于 處 處
香 遍 莊 嚴 土 滋 陪 道 樹 高 標 德 本 於 重 重

Tạm dịch:

Mở rộng cửa phương tiện, khéo xiển tần già, dựng xây pháp tràng khắp chốn chốn;
Huân ướp đức trang nghiêm, bồi đắp đạo cả, tỏ gốc đức hạnh ở nơi nơi.
(Tặng chùa Quảng Hương của Hòa thượng Thích Trí Thủ năm 1970)

11. Bội giác hiệp trần, mộng lý na tri thân thị huyễn;
Quy nguyên đắc chỉ, định trung thường chiếu Phật do tâm.

背 覺 合 塵 夢 裡 那 知 身 是 幻
歸 源 得 旨 定 中 常 照 佛 猶 心

Tạm dịch:

Trái giác hiệp trần, trong mộng đâu hay thân là huyễn;
Về nguồn đặng gốc, lúc định thường thấy Phật tại tâm.
(Tặng chùa Hương Sơn –Huế)

12. Bảo ấn tông phong “Chỉ vật truyền tâm” nhất cú thoại đầu chơn liễu ngộ;
Tịnh quang cao đức, tùy duyên hóa đạo “Huyền nhai tán thủ” tận quan thông.

寶 印 宗 風 只 物 傳 心 一 句 話 頭 真 了 悟
淨 光 高 德 隨 緣 化 道 懸 崖 散 手 盡 觀 通

Tạm dịch:

Tông phong bảo ấn, “Chỉ vật để truyền tâm”, một câu thoại đầu tâm tõ ngộ;
Cao đức tịnh quang, tùy duyên hóa đạo, buông tay nơi vực thẳm trí dung thông.
(Tặng chùa Bảo Tịnh - Phú Yên)

13. Tục đoạn khởi thần chung thức đắc tiêm trần bất trước nhãn;
Vinh khô thành mộng huyễn giác lai thế giới tổng duy tâm.

續 斷 起 晨 鐘 識 得 殲 塵 不 著 眼
榮 枯 成 夢 幻 覺 來 世 界 總 唯 心

Tạm dịch:

Tiếp, dứt tiếng chuông mai, rõ được bụi trần không dính mắt;
Tươi, khô giấc mộng huyễn, hay rằng thế giới chỉ là tâm.
(Tặng chùa Tây Thiên - Huế)

14. Nhơn y pháp, pháp y nhơn, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, cổ kim bất nhị hợp chơn tông.

人 依 法 法 依 人 動 靜 隨 緣 消 舊 業
佛 即 心 心 即 佛 古 今 不 二 合 真 宗

Tạm dịch:

Người nương pháp, pháp nương người, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác hợp chơn tông.
(Tặng cho một số chùa)

15. Hậu thương hải, tiền bích giang, thủy nguyệt ba quang tương ánh nguyệt,
Triêu kim kinh, mộ ngọc kệ, cổ chung thanh hưởng cộng diêu hưng.

後 滄 海 前 碧 江 水 月 波 光 相 映 月
朝 金 經 募 玉 偈 鼓 鐘 聲 響 共 遙 興

Tạm dịch:

Sau biển rộng, trước sông xanh, trăng nước chập chờn cơn sóng vỗ;
Sáng kinh vàng, chiều kệ ngọc, trống chuông vang vọng tiếng xa gần.

16. Hoa bảo phiệt phiến từ hàng, bạt tế ái hà danh lợi khách;
Diễn kim kinh, tuyên diệu kệ, hoán hồi khổ hải mộng mê nhơn.

找 寶 筏 泛 慈 航 拔 濟 愛 河 名 利 客
演 金 經 宣 妙 偈 喚 迴 苦 海 夢 迷 人

Tạm dịch:

Thả bè báu, dong thuyền từ, vớt khách lợi danh trên biển ái;
Diễn kinh vàng, tuyên kệ diệu, gọi người mơ mộng giữa sông mê.
(Tặng Khuông hội Phật giáo An Dương - Huế)

17. Phạm vũ biến trang nghiêm, nhật phóng trùng tân cảnh sắc;
Liên đài thường xán lạn, vân khai hiển hiện tường quang.

梵 宇 遍 莊 嚴 日 放 重 新 境 色
蓮 臺 常 燦 爛 雲 開 顯 現 祥 光

Tạm dịch:

Chùa Phật trang nghiêm, ảnh nhật lung linh như cảnh sắc;
Đài sen vắng lặng, vầng mây hiển hiện ánh tường quang.

18. Kiều thọ lăng không thất bảo trang nghiêm quang Phật sát;
Tòng lâm túng tú, tứ sơn loan bích ánh thiền quan.

橋 樹 陵 空 七 寶 莊 嚴 光 佛 剎
叢 林 聳 秀 四 山 巒 碧 映 禪 關

Tạm dịch:

Cây vút tầng không, bảy báu trang nghiêm cõi Phật;
Rừng tùng xinh tốt, bốn bề non biếc cửa Thiền.

19. Thiên bách ức kim thân, giáo pháp tuyên dương, nhiếp chúng sanh vu giác địa;
Tam thập nhị bảo tướng, từ quang biến chiếu, cứu vạn loại xuất mê đồ.

千 百 億 金 身 教 法 宣 揚 攝 眾 生 于 覺 地
三 十 二 寶 相 慈 光 遍 照 救 萬 類 出 迷 途

Tạm dịch:

Trăm ngàn ức kim thân, Chánh pháp tuyên dương, nhiếp hóa chúng sanh về nẻo giác ;
Ba mươi hai bảo tướng, ánh từ chiếu khắp, dìu dắt muôn loài thoát đường mê.
(Ba cặp đối trên - 17,18,19 - tặng chùa Bát Nhã - Phú Yên)

20. Cảnh trị u thâm, dã thảo nhàn hoa vong tuế nguyệt;
Sơn cư khoán hoạt thần chung mộ cổ liễu sắc không.

境 值 幽 深 野 草 閑 花 亡 歲 月
山 居 曠 闊 晨 鐘 募 鼓 了 色 空

Tạm dịch:

Gặp cảnh thâm u, cỏ nội hoa đồng quên năm tháng;
Ở non phóng khoáng chuông hôm mõ sớm tỏ sắc không.

21. Tuệ nhật cao huyền, phổ chiếu chúng sanh vu giác đạo;
Từ phong phổ phiến, tề tư vạn loại xuất mê tân.

慧 日 高 懸 普 照 眾 生 于 覺 道
慈 風 普 扇 齊 資 萬 類 出 迷 津

Tạm dịch:

Tuệ nhật treo cao, chiếu khắp quần sanh về đường giác;
Gió từ phơ phất, mát cùng vạn loại khỏi bến mê.

22. Tận xả Tham, Sân, Si, đương thử độ nhi vi Tịnh độ;
Viên tu Giới, Định, Tuệ, tức phàm tâm hóa tác Thánh tâm.

盡 捨 貪 瞋 癡 當 此 土 而 為 淨 土
圓 修 戒 定 慧 即 凡 心 化 作 聖 心

Tạm dịch:

Bỏ hết Tham, Sân, Si, chính tại đây là Tịnh độ;
Tu tròn Giới, Định, Tuệ, ngay phàm tâm chính Thánh tâm.
(Tặng cho chùa Diên Bình - Quảng Trị)

23. Khánh trị u thâm, mộ cổ thần chung vong lụy kiếp;
Sơn cư khoán hoạt, nhàn hoa dã thảo liễu tam sanh.

慶 值 幽 深 募 鼓 晨 鐘 亡 累 劫
山 居 曠 闊 閑 花 野 草 了 三 生

Tạm dịch:

Gặp cảnh thâm u mõ sớm chuông chiều sạch kiếp khổ,
Ở non phóng khoáng vui cùng hoa cỏ ngộ ba sanh.
(Tặng chùa Khánh Sơn - Huế)

24. Bái thủ chú đàn hương, tam thiên giới kiết tường vân, phụng hiến Như Lai liên tọa thượng;
Tín tâm trì Phật hiệu, bách bát thanh thành chánh niệm, kỳ sanh Tịnh độ bảo liên trung.

拜 手 炷 壇 香 三 千 界 結 祥 雲 奉 獻 如 來 蓮 坐 上
信 心 持 佛 號 百 八 聲 成 正 念 祈 生 淨 土 寶 蓮 中

Tạm dịch:

Tay sạch đốt hương đàn, thế giới ba ngàn kết mây lành, dâng hiến Như Lai trên bảo tọa;
Tâm thành trì hiệu Phật, một trăm lẻ tám thành niệm chánh, cầu sanh Tịnh độ giữa hoa sen.

25. Tiền lục thủy, hậu thanh sơn, phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
Mộ kim kinh, triêu ngọc kệ, trần tâm địch tận chánh niệm phân minh.

前 錄 水 後 青 山 梵 宇 輝 煌 佛 光 遍 照
募 金 經 朝 玉 偈 塵 心 滌 盡 正 念 分 明

Tạm dịch:

Trước nước biếc, sau non xanh, Phạm vũ huy hoàng Phật quang biến chiếu;
Chiều kinh vàng, sáng kệ ngọc, lòng trần gột sạch, chánh niệm phân minh.
(Tặng chùa Hải Ấn - Nha Trang)

26. Phật bất ly tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu cựu nghiệp;
Chí tồn đại đạo, khứ lai vô ngại ngộ thiền cơ.

佛 不 離 心 動 靜 隨 緣 消 舊 業
志 存 大 道 去 來 無 礙 悟 禪 機

Tạm dịch:

Phật chẳng lìa tâm, động tĩnh tùy duyên tiêu nghiệp cũ;
Chí nơi đạo cả, đến đi vô ngại ngộ cơ thiền.

27. Trí huệ tâm khai, lũy kiếp hôn mê tùng tiệt đoạn;
Từ bi niệm khởi, đa sanh nghiệp chướng tự tiêu vong.

智 慧 心 開 累 劫 昏 迷 從 截 斷
慈 悲 念 起 多 生 業 障 自 標 亡

Tạm dịch:

Tâm trí huệ mở bày, lũy kiếp hôn mê liền dứt sạch;
Niệm từ bi dấy khởi, nhiều đời nghiệp chướng tự tiêu vong.

28. Chấp ngã chấp nhơn, kiến sắc văn thanh, thành quá hoạn;
Tu bi tu trí, cử tâm động niệm, nhậm dung thông ?

執 我 執 人 見 色 聞 聲 成 過 患
修 悲 修 智 舉 心 動 念 任 容 通

Tạm dịch:

Chấp ngã chấp nhơn, thấy sắc nghe thanh đều tội lỗi?
Tu bi tu trí, khởi tâm động niệm thảy dung thông.
(Tặng Khuông hội Phật giáo An Bằng - Huế)

29. Ly tứ cú, tuyệt bách phi, tự thử vong ngôn, chân hữu đạo;
Tồn lục căn, tịnh tam nghiệp, chỉ ư tức niệm chứng vô sanh.

離 四 句 絕 百 非 自 此 忘 言 真 有 道
旋 六 根 淨 三 業 只 於 息 念 證 無 生

Tạm dịch:

Dứt trăm quấy, lìa bốn câu, tự chỗ vong ngôn mới thật đạo;
Xoay sáu căn, sạch ba nghiệp, chính nơi dứt niệm ấy vô sanh.

30. Tùy kỳ thiện nguyện, tiếp độ vi sư, duyệt chúng tâm ư đại đạo;
Thí vô duyên từ, tác bất thỉnh hữu, phá nghi võng ư u đồ.

隨 其 善 願 接 度 為 師 悅 眾 心 於 大 道
施 無 緣 慈 作 不 請 友 破 疑 網 於 幽 途

Tạm dịch:

Theo thiện nguyện nó, tiếp độ cho làm thầy, tâm chúng được vui trong đạo lớn;
Thí vô duyên từ, làm người bạn không thỉnh, lưới nghi phá sạch, giữa đường mê.

31. Phản vọng quy chơn, nhất niệm hồi đầu tức bỉ ngạn;
Tầm ngưu phỏng tích, tam quan tham thấu nhập không môn.

反 妄 歸 真 一 念 迴 頭 即 彼 岸
尋 牛 訪 跡 三 關 參 透 入 空 門

Tạm dịch:

Bỏ vọng về chơn, một niệm quay đầu là bến giác;
Tìm trâu hỏi dấu, ba quan (cửa ải) tham thấu tới cửa không.
(Tặng chùa Kim Quang - Huế)

32. Pháp bản như như, mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ chi giả phi không phi hữu;
Tâm nguyên tịch tịch, tức hồ thử vi thiện vi lạc ly hồ thử thị khổ thị ưu.

法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 之 者 非 空 非 有
心 原 寂 寂 即 乎 此 為 善 為 樂 離 乎 此 是 苦 是 憂

Tạm dịch:

Gốc pháp như như, người mê nó thì bảo là sắc là tiếng, người ngộ nó thì chẳng không chẳng có;
Nguồn tâm lặng lặng, tức nơi đây là lành là vui, lìa nơi đây thì khổ thì lo.
(Tặng chùa Bảo Lộc - Lâm Đồng)

33. Pháp thủy trường lưu xứ xứ nhuận tiêu khô, túng ngộ thạch bàn, bất đoạn Tào Khê cam lồ mạch;
Từ phong phổ phiến, thời thời thôi nhiệt não, thiết tao lam khí, nhưng hội liên trì giải thoát hương.

法 水 長 流 處 處 潤 消 枯 縱 遇 石 盤 不 斷 曹 溪 甘 露 脈
慈 風 普 扇 時 時 摧 熱 惱 設 遭 嵐 氣 仍 會 蓮 池 解 脫 香

Tạm dịch:

Dòng nước pháp chảy dài, chốn chốn tưới nhuần tiêu khô hạn, dẫu gặp đá bàn vẫn không dứt mạch Tào khê Cam lộ;
Ngọn gió từ thổi khắp, thời thời xua nhiệt đẩy sầu lo, dù vào khí chướng mà cứ nồng hương Giải thoát Liên trì.

34. Kỷ độ công huân trường hạo nguyệt,
Nhất sanh kỳ khí túng cao phong;

幾 度 功 勳 長 皓 月
一 生 奇 氣 縱 高 峰

Tạm dịch:

Mấy độ công huân dài trăng sáng;
Một đời kỳ khí ngút tận núi cao.

35. Thử địa hữu duyên tàng tịnh cốt,
Giá sơn đắc dự ngộ chân nhân.

此 地 有 緣 藏 淨 骨
這 山 得 譽 遇 真 人

Tạm dịch:

Đất ấy duyên may chôn tịnh cốt;
Núi này vinh dự gặp chân nhân.

36. Trúc thanh, tùng thanh, chung khánh thanh thanh thanh vô ngại;
Sơn sắc, thủy sắc, yên hà sắc, sắc sắc giai không.

竹 聲 松 聲 鐘 磬 聲 聲 聲 無 礙
山 色 水 色 煙 霞 色 色 色 皆 空

Tạm dịch:

Tiếng trúc, tiếng tùng, tiếng khánh chuông, tiếng tiếng đều chẳng ngại;
Màu non, màu nước, màu mây khói, màu màu cũng vẫn không.
(Đối ở chùa sư nữ Diệu Đức – Huế)

37. Tích nhật dĩ tằng vi hiếu tử, vi minh quân, xả mạng thí thân, cứu hộ chúng sinh xuất mê đồ khổ thú;
Kim sinh hựu phục khí quốc thành, khí trân bảo, hàng ma sát tặc, viên thành chánh quả khai giác lộ thiền môn.

昔 日 已 曾 為 孝 子 為 明 君 捨 命 施 身 救 護 眾 生 出 迷 途 苦 趣
今 生 又 復 棄 國 城 棄 珍 寶 降 魔 殺 賊 圓 成 正 果 開 覺 路 禪 門

Tạm dịch:

Xưa ngài từng làm con hiếu, làm vua hiền, xả mạng, bỏ thân, giúp chúng sanh khỏi đường mê lối khổ;
Đời này lại bỏ quốc gia, bỏ của báu, hàng ma, giết tặc, thành chánh quả khai nẻo Giác cửa thiền.
(Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

38. Thị chúng sinh như xích tử, khởi ngộ trừ mê, bi cực tam luân khuếch ngũ thừa nhi thùy phạm;
Đỗ pháp giới nhược không hoa, triền căn tuyệt tướng, trí viên thập lực đào vạn tượng dĩ nghiêm qui.

視 眾 生 如 赤 子 啟 悟 除 迷 悲 極 三 輪 廓 五 乘 而 垂 範
睹 法 界 若 空 花 旋 根 絕 相 智 圓 十 力 陶 萬 像 以 嚴 規

Tạm dịch:

Xem chúng sanh như con đỏ, khai ngộ trừ mê, lòng xót ba luân, mở năm thừa mà ban khuôn phép;
Ngắm pháp giới tợ hoa không, bỏ căn dứt tướng, trí tròn mười lực, suy vạn tượng để lập nghiêm qui.
(Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

39. Phạn thục dĩ đa thì, chỉ đồ kiến tánh ngôn hạ tri quy, bách xích can đầu trùng tấn bộ,
Tảo tri đăng thị hỏa, bát thảo tham huyền thinh tiền ngộ chỉ, nhất luân minh nguyệt dạ truyền y.

飯 熟 已 多 時 指 圖 見 性 言 下 知 歸 百 尺 竿 頭 重 進 步
早 知 燈 是 火 撥 草 參 懸 聲 前 悟 旨 一 輪 明 月 夜 傳 衣

Tạm dịch:

Cơm chín đã từ lâu, trỏ đồ hình, thấy tâm tính; lời dứt biết ngay chỗ về, đầu sào trăm thước còn cất bước;
Sớm hay đèn là lửa, trừ cỏ rối, tham diệu huyền, tiếng truyền ngộ liền ý chỉ, trăng sáng một vầng, tối truyền y.
(Đối nhà Tổ tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

40. Bát-nhã bổn vô ngôn, ly tứ cú, tuyệt bách phi, ứng hóa tùy duyên thuyết vô lượng vô biên diệu pháp;
Bồ-đề tiên hữu nguyện, chứng tam minh, cụ ngũ nhãn, câu viên phước quả thành đại hùng đại lực từ tôn.

般 若 本 無 言 離 四 句 絕 百 非 應 化 隨 緣 說 無 量 無 邊 妙 法
菩 提 先 有 願 證 三 明 具 五 眼 俱 圓 福 果 成 大 雄 大 力 慈 尊

Tạm dịch:

Bát-nhã vốn không lời, lìa tứ cú, bỏ bách phi, ứng hóa tùy duyên, giảng diệu pháp vô lượng, vô biên;
Bồ-đề cần có nguyện, chứng tam minh, đủ ngũ nhãn, tròn đầy quả phúc, thành từ tôn đại hùng, đại lực.
(Đối tại chùa Thiền Tôn và Từ Đàm – Huế)

41. Chí đạo bất ngại ngôn thuyên, tức tục tức chơn, đốn ngộ khẳng thừa đương, vận thủy bang sài giai diệu dụng;
Nghi tình nhất phiên khám phá, phi tâm phi vật, bổn lai chơn diện mục, ma chuyên thụ chỉ tổng thiền cơ.

至 道 不 在 言 詮 即 俗 即 真 頓 悟 肯 乘 當 運 水 梆 柴 皆 妙 用
疑 情 一 番 勘 破 非 心 非 物 本 來 真 面 目 磨 磚 豎 指 總 禪 機

Tạm dịch:

Đạo rốt ráo đâu ở thuyết đàm, là tục, là chơn, ngộ liền vẫn vậy, gánh nước nôi, chặt củi nè đều là diệu dụng;
Tình nghi nan một khi khám phá, chẳng tâm, chẳng vật, mặt mũi xưa nay, mài ngói gạch, giơ ngón tay cũng chỉ thiền cơ.
(Đối chùa Thiền Tôn)

42. Vĩnh khí tà tư quy hướng Phật đà tăng phước lạc;
Quang hàm vạn tượng trượng bằng tuệ nhật phá sân si.

永 棄 邪 思 歸 向 佛 陀 增 福 樂
光 含 萬 像 仗 憑 慧 日 破 瞋 癡

Tạm dịch:

Mãi bỏ ý tà, qui hướng Phật đà, thêm phước lạc;
Bao gồm vạn vật, nương theo vầng tuệ, phá sân si.

43. Nhập giải thoát môn, thiết đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
Chứng Tam Bảo địa, thường hành từ bi hỷ xả vô lượng tâm.

入 解 脫 門 設 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
證 三 寶 地 常 行 慈 悲 喜 捨 無 量 心

Tạm dịch:

Vào cửa giải thoát, nghiệp hữu lậu tham sân si mạn phải quyết dứt trừ;
Chứng miền Tam bảo, tâm vô lượng từ bi hỷ xả cần luôn thực hiện.
(Tặng chùa Vĩnh Quang)

44. Lý tuyệt lưỡng biên tức tâm tức vật;
Đạo vô đốn tiệm phi thật phi quyền.

理 絕 兩 邊 即 心 即 物
道 無 頓 漸 非 實 非 權

Tạm dịch:

Lý dứt hai bên, là tâm là vật;
Đạo không mau chậm, chẳng thật chẳng quyền.

45. Vệ già lam nhi thanh tịnh;
Hộ Phật pháp dĩ trường tồn.

衛 伽 藍 而 清 淨
護 佛 法 以 長 存

Tạm dịch:

Giúp già lam thành thanh tịnh,
Hộ Phật pháp được trường tồn”.

46. Chân tục hỗ dung duyệt đệ nhất nghĩa;
Tự tha kiêm lợi nhập bất nhị môn.

真 俗 互 融 閱 第 一 義
自 他 兼 利 入 不 二 門

Tạm dịch:

Chân tục đều thông, nêu nghĩa đệ nhất;
Ta người cùng lợi, vào cửa không hai.

47. Bảo địa trang nghiêm, sắc hương bất dị;
Phật môn quảng đại xuất nhập tùy duyên.

寶 地 莊 嚴 色 香 不 異
佛 門 廣 大 出 入 隨 緣

Tạm dịch:

Đất báu trang nghiêm, sắc hương không khác;
Cửa Phật quảng đại ra vào tùy duyên.

48. Nhập thử môn vô tham sân si mạn;
Đăng thị địa, hữu hùng lực từ bi.

入 此 門 無 貪 瞋 癡 慢
登 是 地 有 雄 力 慈 悲

Tạm dịch:

Vào cửa đây, không tham, sân, si, mạn;
Lên đất này, có hùng, lực, từ, bi.

49. Phứơc tuệ viên tu chơn Phật tử;
Trí bi song vận đại từ tôn.

福 慧 圓 修 真 佛 子
智 悲 雙 運 大 慈 尊

Tạm dịch:

Phước tuệ tròn tu chính người Phật tử;
Trí bi đầy đủ, ấy bậc đại từ.

50. Cứu khổ tầm thanh Quán Tự Tại;
Từ bi nguyện lực Diệm Nhiên Vương.

救 苦 尋 聲 觀 自 在
慈 悲 願 力 焰 然 王

Tạm dịch:

Quán Tự Tại tìm tiếng kêu cứu khổ nạn;
Diệm Nhiên Vương theo sức nguyện tỏ từ bi.
(Câu đối tặng Chùa Quảng Hương Già Lam, Tp. Hồ Chí Minh)

51. Đại từ Đại bi mẫn chúng sanh, ứng hoá tùy duyên thân kỳ thân nhi địa kỳ địa;
Đại hỷ đại xả tế hàm thức, oai đức tự tại thánh trung, thánh nhi thiên trung thiên.

大 慈 大 悲 愍 眾 生 應 化 隨 緣 身 其 身 而 地 其 地
大 喜 大 捨 濟 含 識 威 德 自 在 聖 中 聖 而 天 中 天

Tạm dịch:

Đại từ đại bi thương xót chúng sanh, theo duyên ứng hoá, thân với thân như đất với đất;
Đại hỷ đại xả cứu tế vạn loài, oai đức tự tại, thánh trong thánh như trời trong trời

52. Từ nhãn quán chúng sanh ư trí ư ngu thị đồng nhất tử;
Tôn phong thành Phạm vũ thị không thị sắc nhập bất nhị môn.

慈 眼 觀 眾 生 於 智 於 愚 是 同 一 子
宗 風 成 梵 宇 是 空 是 色 入 不 二 門

Tạm dịch:

Mắt thương nhìn chúng sanh, kẻ trí kẻ ngu đều là con cả;
Tông phong xây chùa Phật, ấy không ấy sắc vào cửa không hai.
(Tặng chùa Từ Tôn - Biên Hoà)

53. Tặng sư bà Diệu Không nhân ngày mừng, thọ 85 tuổi:

Đạo thọ hoa khai hương mãn kính;
Tùng lâm nguyệt hiện điểu qui sào

道 樹 花 開 香 滿 徑
叢 林 月 現 鳥 歸 巢

Tạm dịch:

Cây đạo nở hoa đường hương ngập;
Rừng thiền trăng sáng tổ chim về.

54. Viết cho chùa Linh Sơn Pháp Bảo ở Nha Trang - Khánh Hoà

Tham thiền tu thấu tổ sư quan, văn tự hề vi trọng tại niêm hoa vi tiếu,
Diệu ngộ yếu cùng tâm lộ tuyệt, ngữ ngôn hà dụng toàn bằng khấu chỉ tam thanh.

參 禪 修 透 祖 師 關 文 字 兮 為 重 在 拈 花 為 笑
妙 悟 要 窮 心 路 絕 語 言 何 用 全 憑 扣 指 三 聲

Tạm dịch:

Tham thiền phải lọt qua cửa Tổ, văn tự đâu cần, khi niêm hoa mỉm miệng;
Ngộ đạo cần dứt tuyệt đường tâm, ngữ ngôn nào kể, lúc tay khẩy ba lần.

55. Tặng chùa Vô Ưu – TP. Hồ Chí Minh

Hoằng thí đại nguyện, ngọc chất giáng hoàng cung, phún thủy cửu long tề mộc dục;
Vi độ quần sanh, kim thân tu tuyết lãnh, hàm hoa bách điểu cạnh triêu tham.

弘 施 大 願 玉 質 降 皇 宮 噴 水 九 龍 齊 沐 浴
為 度 群 生 金 身 修 雪 嶺 含 花 百 鳥 兢 朝 參

Tạm dịch:

Rộng thi nguyện lớn, chất ngọc giáng cung vua, chín rồng phun nước tắm;
Nhằm độ quần sanh, thân vàng tu núi tuyết, trăm chim ngậm hoa chầu.

56. Tặng chùa Vạn Đức – TP.Hồ Chí Minh

Vạn pháp nhất như tức tục tức chơn quy giác đạo;
Đức đồng pháp giới đàm không đàm hữu chuyển mê tâm

萬 法 一 如 即 俗 即 真 歸 覺 道
德 同 法 界 談 空 談 有 轉 迷 心

Tạm dịch:

Muôn pháp nhất như, là tục là chân, qui đường giác;
Đức tròn pháp giới, bàn không bàn có chuyển tâm mê.

57. Tặng khuôn Thuận Hoá ở tại Huế.

A - Thuận giác tánh dĩ huân tu vĩnh đoạn tham sân si mạn hữu lậu nghiệp;
Hoá mê đầu nhi giải thoát cụ túc từ bi hỉ xả vô lượng tâm.

順 覺 性 以 勳 修 永 斷 貪 瞋 癡 慢 有 漏 業
化 迷 投 而 解 脫 具 足 慈 悲 喜 捨 無 量 心


Tạm dịch:

Theo giác tánh để tu trì, đoạn hết nghiệp hữu lậu tham sân si mạn
Diệt coĩ mê được giải thoát, đầy đủ tâm vô lượng hỷ xả từ bi.

B - Pháp bổn như như mê chi giả vị sắc vị thanh, ngộ khứ giả phi không phi hữu;
Tâm thường tịch tịch tức hồ thử vi lạc vi thiện, li hồ thử thị khổ thị ưu.

法 本 如 如 迷 之 者 謂 色 謂 聲 悟 去 者 非 空 非 有
心 常 寂 寂 即 乎 此 為 樂 為 善 離 乎 此 是 苦 是 憂


Tạm dịch:

Pháp vốn như như, khi đang mê là sắc là tiếng, khi ngộ rồi chẳng không chẳng có;
Tâm thường vắng lặng, ở nơi đó là vui là thiện, rời đó ra thì khổ thì lo.

58. Tặng chùa Tỉnh hội Quảng Trị.

Quảng khai trí tuệ môn thính pháp văn kinh danh lợi tâm tùng lưu thuỷ khứ;
Trị bình thanh lương địa tu thân hành thiện thị phi ngôn trục lạc hoa tàn.

廣 開 智 慧 門 聽 法 聞 經 名 利 心 從 流 水 去
治 平 清 良 地 修 身 行 善 是 非 言 逐 落 花 殘

Tạm dịch:

Mở rộng cửa trí tuệ, thính pháp nghe kinh tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
Đắp bằng đất thanh tịnh, tu thân làm thiện lời phải trái chìm với hoa tàn.

59. Tức phiền não nhi ngộ bồ-đề thuý liễu hoàng hoa phi ngoại cảnh;
Liễu vọng duyên dỉ thành bát nhã bạch vân minh nguyệt khởi tha quan.

息 煩 惱 而 悟 菩 提 翠 柳 黃 花 非 外 境
了 妄 緣 以 成 般 若 白 雲 明 月 豈 他 觀

Tạm dịch:

Dứt phiền não để chứng Bồ-đề liễu biếc hoa vàng đâu cảnh khác
Hết vọng duyên thì thành Bát-nhã mây trắng trăng trong chẳng đâu xa.


* * *

HT. Thích Thiện Siêu
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

VÔ NGÃ LÀ NIẾT BÀN

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

---o0o---

Mặc dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải thoát cho nên dù chỉ học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho thấu đáo cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu là phải thực hành chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.

Đạo là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên đường cái. Đường cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao nhiêu cây số là bấy nhiêu thời gian tương ứng, có điểm khởi hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì không như thế. Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến đích giác ngộ, thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.

Thế mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta (Ngã) cứ ngăn chận làm cho trễ nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo lui ba bước. Muốn tinh tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn cái đã, để ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp đó càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to càng dễ gây đụng chạm với cái ngã của người khác. Người khác cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại va chạm với ta. Ví như có một ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không khắp, thế mà một khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm nhau đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn thấy chật. Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề ngã chấp này:

Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:

-- Ai đó?

-- Tôi, Linh hồn đáp.

Thượng Đế hỏi:

-- Tôi là ai?

-- Tôi là tôi.

Thượng Đế bảo:

-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi khác.

Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa, sau đó lên trời gõ cửa lại.

Thượng Đế hỏi: -- Ai đó?

Đáp: -- Tôi.

-- Tôi là ai?

-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.

Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.

Thí dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã chấp, thì không vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là Ngài, mới vào được, vì hết ngã chấp. Vì ta với mình tuy hai mà một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ không phải đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.

Một hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang: "Đạo ở đâu?" Sư đáp: "Đạo ở trước mắt" - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không thấy" -" còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Hễ còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy" - "Khi không còn bận nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi, thì bấy giờ ai hỏi đạo ở tại đâu?"

Giả sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài cũng đáp tương tự như thế, và câu đáp cuối cùng hẵn là: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tơi ta, ngươi thì bây giờ ai hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào được? Vì đã không còn tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm thanh tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ có phải ở đâu xa mà phải tìm kiếm?"

Vậy cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham, sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là Niết bàn. Cho nên chúng ta thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng. Cái chung là ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc. Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ dạy cho ta con đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:

"Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp (nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây là sự đoạn tận khổ đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65, 1982)

Vậy thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân biệt chữ "độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần đức tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc lạc của Ngài ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại chữ "độ", nghĩa là vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi chìm trong biển phiền não sanh tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não không còn đất đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất cứ đang ở đâu, bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần phải cất bước đi đến một nơi nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn đại, năm uẩn tạo nên thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà thành chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.

Đức Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất cả các pháp, vào tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị dính mắc vào sáu trần, không bị chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong một thời gian nào đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó, trong một thời gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc khác, thì ta lại bị ràng buộc, cho nên ta không được như Phật xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các pháp và tất cả các thời, xứ.

Muốn được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái duyên cho ta tu, hoặc trở thành bình thường không có gì bận tâm cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân thể cho rắn chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động bên ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau khổ sơ sơ và cuối cùng thì không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ nữa. Nên kinh Pháp Cú nói:

Như ngọn núi kiên cố

Không gió nào lay động

Cũng vậy giữa khen chê

Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)

Kết luận: Cái Trí ở đây chính là cái trí thấy lý vô ngã vậy.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Re: Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Những câu đối chữ Việt của cố Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
***

01. Sắc tướng vốn không, nương cảnh huyễn độ người mê muội;
Tử sanh nào có, mượn thuyền từ vớt kẻ trầm luân.
(Phụng điếu Đức Tăng Thống Thích Tịnh Khiết, chùa Tường Vân – Huế, 1972)

02. Một chút giận, hai chút tham, lận đận cả đời ri cũng khổ;
Trăm điều lành, ngàn điều nhịn, thong dong tấc dạ rứa mà vui.
(Tặng Giảng đường Từ Đàm - Huế)


03. Tánh lặng đất trời chung một cõi;
Tâm không trăng gió trải muôn phương.


04. Biển ái lấp bằng, Tịnh độ đi về đâu mấy chốc;
Sông mê tát cạn, Niết-bàn an trú vốn không xa.
(Tặng tháp Thượng tọa Thiện Lộc, chùa Thuyền Tôn-Huế)


05. Ngộ thấu nguồn chơn, tâm danh lợi trôi theo dòng nước;
Rõ cùng lý đạo, niệm thị phi bay lẫn chòm mây.


06. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mộng ảo;
Cửa thiền thanh tịnh, chuông chùa ngân vọng tiếng từ bi.
(Tặng chùa Kim Quang - Nha Trang)


07. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã chiếu tan niềm tục;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi gõ thức tình thương.
(Tặng Khuông hội Phật giáo Lăng Cô và Tây Lộc – Huế)


08. Trừ vọng tưởng, dứt mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác;
Hết vô minh, sạch nghiệp chướng, giương cao đèn tuệ vượt sông mê.


09. Rũ sạch lòng trần, giọt nước cam lồ, rưới tắt não phiền chín cõi;
Mở tròn tuệ giác, soi đèn Bát-nhã, hiển bày tướng hảo ba thân.


10. Cá biết về nguồn thăm nghĩa cội;
Chim dầu xa tổ nhớ ơn cây.


11. Tấc cỏ ngậm ngùi, hương khói tỏ lòng con cháu thảo;
Ba xuân thương nhớ, lớn khôn nhờ đức tổ tông hiền.


12. Mắt Trí rạng ngời, đèn vô tận chiếu tan niềm tục;
Tay Từ tế độ, nước dương chi gội sạch lòng trần.
(Tặng chùa Giác Hải, Nha Trang)

13. Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời giác ngộ;
Cửa Tam quan tình thương rộng mở, chuông khua đồng vọng tiếng từ bi.


14. Hiu hiu gió thổi đầu cành, không thấy, thấy không tùy mắt ngắm;
Vằng vặc trăng soi đáy nước, thật hư hư thật hỏi lòng xem.
(Tặng chùa Thanh Phước - Huế)


15. Tiếng chuông Linh Mụ vọng về đâu, sáu nẻo luân hồi chúng sanh mong tế độ;
Cội cả tòng lâm đà ngả xuống, hai hàng mê ngộ đệ tử xót bơ vơ.
(Điếu Hòa thượng Thích Đôn Hậu)


16. Sạch phiền não, hết tham sân, cửa Phật đây rồi thôi chạy kiếm;
Phá si mê, trừ nghiệp chướng, đường trần đó mặc hết rong tìm.


17. Cửa Không trống dậy mấy hồi, đọc kinh chú xua tan mộng ảo;
Cõi Phật chuông đưa vài chập, niệm Nam mô xóa sạch não phiền.


18. Lặng nhìn mây trắng núi xanh, hương giải thoát xông lừng cây cỏ;
Vẳng tiếng thông reo chim hót, gió từ bi thổi mát đất trời.


19. Mây núi chập chùng, trăng Bát-nhã lồng soi vũ trụ;
Cỏ hoa tươi tốt, gió Từ bi thổi mát sinh linh.


20. Đây chùa đây Phật, đây mõ sớm chuông chiều, nhắn nhủ khách trần về nẻo giác;
Này trăng này gió, này kinh vàng kệ ngọc, khuyên răn người tục bỏ lòng mê.


21. Phật đạo có gì đâu ! thả chiếc thuyền Từ chờ kẻ giác;
Pháp môn không kể xiết, khêu đèn Bát-nhã đón người mê.


22. Vô minh tham ái buộc ràng, đối cảnh sinh tình thêm lụy tục;
Bát-nhã từ bi giải thoát, xem kinh mở trí rạng lòng chơn.


23. Đạo Tổ sáng hoài cỏ cây đượm nhuần mưa pháp;
Chùa xưa mới mãi cháu con tiếp nối đèn thiền.


24. Dứt sạch mê tình, nhắm thẳng một đường lên bờ giác;
Trừ không nghiệp chướng, giương cao đèn Tuệ vượt sông mê.


25. Cảnh Phật trang nghiêm, mõ sớm gõ tan hồn mê muội;
Cửa chùa thanh tịnh, chuông chiều khua rã mộng ba sinh.


26. Không là sắc, sắc là không, chổi buộc lông rùa quét sạch ba ngàn thế giới;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, mõ khua sừng thỏ tỉnh hồn ức triệu sinh linh.
(Đối thiền)


27. Lặng nhìn trăng sáng nước trong, đèn Bát-nhã soi cùng vũ trụ;
Lắng nghe kinh vàng kệ ngọc, tiếng Từ bi dội khắp non sông.


28. Cõi Ta-bà mê muội trầm luân, trống chuyển âm vang lời Giác ngộ;
Cửa Tam bảo đạo tình mở rộng, chuông khua đồng vọng tiếng Từ bi.


29. Mười hiệu Phật, vài câu kinh, đánh thức ngàn năm mê muội;
Một hồi chuông, mấy nhịp mõ, gõ tan bao kiếp trầm luân.


30. Người nương pháp, pháp nương người, động tịnh theo duyên tiêu nghiệp cũ;
Phật tức tâm, tâm tức Phật, xưa nay chẳng khác rõ lời chơn.


31. Lòng mẹ tìm con xót xa, luân hồi đày đoạ, trần thế mây che, tấc dạ Kiền Liên đau đớn bấy;
Ơn Phật nhờ thầy tế độ, pháp chứng vô sanh, Lăng già trăng hé, tấm lòng Bồ-tát nhẹ nhàng thay !


32. Cảm tác
Năm tháng phù sanh dệt kiếp người,
Cuộc đời như thể áng mây trôi;
Buông tay mộng huyễn về theo Phật,
Chín phẩm đài sen ánh tỏa ngời.
(Văn điếu hương linh thân mẫu của PT. Thái Kim Lan)
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998


ĐẠI CƯƠNG KINH PHÁP HOA

Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoa là bộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản. Các vị thiền sư Việt Nam đời Lý, Trần cũng thường chú trọng trì tụng, giảng dạy kinh Pháp Hoa song song với kinh Viên Giác, Kim Cang. Hai thiền sư Bảo Tính và Minh Tâm dưới đời Lý (khoảng 1034) suốt 15 năm trì tụng kinh Pháp Hoa chưa từng trễ nãi. thiền sư Thông Biện, vị thiền sư thông thái đời Lý Thánh Tông, từng trả lời Phù Thánh Cẩm Linh Nhân Hoàng Thái Hậu về các câu hỏi liên quan lịch sử truyền bá Phật giáo tại Việt Nam. Ngài thường dùng kinh Pháp Hoa dạy người sửa mình, nên người thời bấy giờ gọi Ngài là Ngộ Pháp Hoa. Thiền sư Chân Không (tịch năm 1100) lúc 18 tuổi, tầm sư học đạo, nhân đến hội giảng của Thảo Nhất tại chùa Tĩnh Lự núi Đông Cứu nghe giảng kinh Pháp Hoa, bỗng nhiên tỏ ngộ. Sau đó, Ngài được vua Lý Nhân Tông mời vào đại hội giảng kinh Pháp Hoa. Bấy giờ Thái úy Nguyễn Thường Kiệt (tức Lý Thường Kiệt) và thứ sử Lang Châu là tướng quốc Thân châu càng thêm kính trọng. Và ngày nay, trong hiện tại việc trì tụng kinh Pháp Hoa rất lan rộng trong giới Phật tử, giúp họ rất nhiều trên bước tu tâm hành thiện theo đạo giác ngộ. Trong kinh Pháp Hoa có một câu dạy rất đặc biệt, nêu lên mục đích ra đời của mười phương chư Phật, câu đó là "Các đức Phật chỉ vì một việc trọng đại duy nhất mà ra đời, đó là vì khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật."

Như vậy kinh Pháp Hoa chính là kinh nêu rõ mục đích ra đời của chư Phật, mà dưới đây là đại cương của kinh.

Thiên kinh vạn quyển mà đức Phật nói ra cùng với những pháp môn tu hành, trong đó có những pháp môn như: Quán Sổ tức, quán Bất tịnh, Tham thiền, Trì trai giới, An cư kiết hạ... đều đưa đến mục đích làm Phật. Có kinh đức Phật nói rộng, mà cũng có kinh Ngài nói đơn giản, nhưng tựu trung chẳng có pháp môn nào dễ dàng tu thành Phật ngay được cả. Pháp môn nào cũng khó vì phải dụng công nhiều. quán Bất tịnh phải quán thật sâu xa, kỸ càng chứ không phải quán qua loa mà thành được. Quán Sổ tức cũng không phải dễ, không cứ chi thở vô thở ra vài hơi là xong. Tham thiền, Trì trai giới...các môn tu khác cũng đều khó như vậy cả. Vậy mà theo kinh Pháp Hoa, thì việc thành Phật quá dễ.

"Nhược nhơn tán loạn tâm,

Nhập ư tháp miếu trung,

Nhất xưng Nam mô Phật,

Giai dĩ thành Phật đạo."

Nghĩa là:

"Hoặc người tâm tán loạn,

Đi vào trong tháp Phật,

Niệm một lần Mô Phật,

Đều đã thành Phật đạo."

Hoặc chỉ chấp tay hay cúi đầu trước tượng Phật, cho đến trẻ con chơi lấy cát đắp thành tháp Phật mà cũng thành Phật được. Một quyển kinh Đại thừa cao nhất là Pháp Hoa, rốt cục dạy một chuyện dễ dàng như vậy, thì hà tất phải Tham thiền, giữ Giới, Kiết hạ, An cư...? Cho nên Ngài Thường Bất Khinh đã chọn một cách đó để làm Phật. Ngài không quán Sổ tức, không nhập Định, không quét nhà, làm đường, mà chỉ đi gặp ai cũng nói câu: "Tôi không dám khinh ngài, vì ngài hành Bồ Tát đạo, ngài sẽ thành Phật." ngài Thường Bất Khinh là một Bồ Tát Tỳ kheo, sống giữa chúng Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực dưới thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương trong quá khứ. Ngài chỉ làm mỗi một việc là đến nơi mọi người, chấp tay cung kính xướng câu: "Tôi không dám khinh ngài,...vì ngài sẽ thành Phật." Tuy nhiên trong việc làm đơn giản đó, cần phải có một lòng tin mãnh liệt rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật" thì mới làm nổi. Lòng tin ấy nếu không có trí tuệ của Bồ tát thì không thể có được, đó là Bát nhã Ba la mật. Và Ngài làm việc ấy không phải một hai lần mà làm thường xuyên, không phải đối với một hai người mà đối với tất cả mọi người, đó là Tinh tấn Ba la mật. Trong khi Ngài làm như vậy, có người thì hoan hỶ, vì cho đó là một lời chúc tụng giá trị nhất, chúc làm Vua cũng không bằng. Nhưng cũng có người dững dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì, rồi cũng có người nổi sân, vì cho Ngài chọc tức mình, nên xua đuổi, đánh đập. Vậy mà Ngài vẫn giữ một thái độ bình thản đối với cả ba hạng người ấy, đó là Nhẫn nhục Ba la mật. Và mỗi khi đối trước ai ngài cũng nói lên câu: "Tôi không dám khinh ngài..." là nói với một lòng kính cẩn tập trung chứ không phải loạn tâm, hời hợt, đó là Thiền định Ba la mật. Như vậy, chúng ta thấy một việc làm ngó đơn giản, song đã gồm đủ ý nghĩa của Bồ tát hạnh và sức mạnh của một lòng tin kiên cố; tin mình là Phật và tất cả chúng sanh đều là Phật. Chúng ta đã có ai dám tự tin mình là Phật chưa, huống nữa tin người khác là Phật? Thật khó mà tin nỗi một kẻ vừa nói láo vừa mắng chưởi cộc cằn kia là Phật được! Phải như một vị đại lương y, đứng trước cơn bệnh có những triệu chứng ghê gớm như thổ tả, mê sảng, sốt cao mặt đỏ gay...Nhưng khi bắt mạch thấy rõ tim mạch nhảy đều mà biết được tánh mạng chưa hề gì, và bảo con bệnh: "Ông không chết đâu." Sự quả quyết của lương y tạo cho người bệnh một lòng tin tưởng, một sức mạnh, một niềm hy vọng phấn khởi để vươn lên mà sống. Ngài Thường Bất Khinh nói với chúng sanh: "Các Ngài là Phật" cũng trong ý nghĩa đó. Chúng sanh vì tự thấy mình là chúng sanh, cam phận chúng sanh, nên cứ mặc tình trầm luân tạo nghiệp. Vì đã là chúng sanh vô phương cứu chữa, thì tội gì mà không trầm luân, tội gì mà không lăn lóc trụy lạc: "Thân lươn bao quản lấm đầu!" (Đã làm thân con lươn thì có ngại gì cái đầu bị lấm bùn lầy), đã thấy mình thấp thỏi tầm thường thì không còn việc gì không làm, vì con người như thế, không tin rằng còn chút phẩm giá nào để vươn lên toàn giác toàn thiện được. Bây giờ, khi nghe nói rằng mình là Phật, thì trừ phi những người vô tâm, ai cũng phải mừng rỡ, khi đó những thói xấu xa, cống cao, ngã mạn, nhỏ nhen, tầm thường... khó mà nỗi lên được. Có bao giờ một người, khi tự thấy mình là Phật, mà lại nhắm mắt sống theo thói ăn cắp, nói láo, kiêu mạn, tật đố, sân si...? Cho nên tự tin mình là Phật thì ngay khi đó mình là Phật. Quán Kinh dạy: "Thị tâm thị Phật, thị tâm tác Phật." (Tâm đó là Phật, tâm đó làm Phật) không có tâm nào khác hơn. Ngài Thường Bất Khinh thấu hiểu lý ấy trong kinh Pháp Hoa, nên Ngài chỉ hành Pháp Hoa mỗi một cái hạnh "Bất khinh" ấy, tức không khinh người và không tự khinh mình.

Lòng tin "Tất cả chúng sanh là Phật" đó dễ kết hợp mọi người lại với nhau như nước tìm đến nước. Trong tự nhiên nước với lửa mới chống trái nhau, còn nước với nước thì dù ở bất cứ nơi nào, sông ngòi, ao hồ...dù trong, đục, sạch, nhơ, đều tìm về bể cả. Tất cả mọi người có được lòng tin mình là Phật cũng thế, cũng tìm về với nhau trong bể cả Đại giác. Đó là điểm chính, là cốt tủy, cho nên trong kinh Pháp Hoa, Phật thọ ký cho tất cả hàng Thanh Văn đều thành Phật là vậy. Trước đó đối với hàng Thanh Văn, Phật chỉ nói pháp Thanh Văn như Tứ đế, 12 Nhân duyên. Đến hội Pháp Hoa, Phật mới thọ ký cho hàng Thanh Văn thành Phật. Đây là điềm đặc biệt của hội Pháp Hoa. Mặc dù có rất nhiều kinh điển khác cũng nói đến Phật tánh, nói đến trí tuệ và mục đích ra đời của đức Phật, nhưng chỉ nói chung chung, thọ ký chung chung: Như trong kinh Hoa Nghiêm, Bát Nhã, đức Phật chỉ thọ ký cho hàng Bồ Tát, còn đối với hàng Thanh văn thì dạy cho các pháp tu để chứng quả vị Bích Chi, La Hán, chứng nhập Niết bàn. Những người này tu theo các pháp môn đức Phật dạy, được chứng quả Thanh Văn liền cho rằng đã viên mãn, nên đến hội Pháp Hoa, khi đức Phật sắp sửa nói thì Ngài lại muốn thôi, chính vì nghĩ đến hạng tăng thượng mạn này: "Chỉ chỉ bất tu thuyết, Ngã pháp diệu nan tư, chư tăng thượng mạn giả, văn tất bất kính tin." (Thôi thôi chẳng nên nói, pháp Ta vi diệu khó lường, những kẻ tăng thượng mạn nghe sẽ không kính tin.) Tôn giả Xá Lợi Phất phải năn nỉ cầu xin đến lần thứ ba đức Phật mới dạy rằng: "ông đã ba phen cầu thỉnh chẳng lẽ Như Lai không nói". Khi ngài sắp sửa nói thì 5000 Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, nam nữ cư sĩ đảnh lễ đức Phật mà lui ra, vì cho rằng tất cả pháp đức Phật mình đã tu đã đắc cả rồi, còn gì để nói, còn gì để nghe nữa? Sau khi những người này bỏ đi, đức Phật dạy: "Lui ra cũng tốt" (Thối diệu giai hỶ). Câu nói của đức Phật nghe tuồng như phủ phàng, tuồng như đối với 5000 người này lòng từ bi của Ngài không phổ cập đến. Trong khi ở hội Hoa Nghiêm chỉ có hàng Bồ Tát lãnh hội được ý chỉ của đức Phật dạy, còn hàng Thanh Văn ngồi đó mà như đui như điếc; vậy mà đức Phật không đuổi ra, họ cũng không bỏ ra đi. Ở hội Pháp Hoa thì đức Phật nói: "Lui ra cũng tốt" có phải phủ phàng xua đuổi không? Không phải, bởi vì ở hội Hoa Nghiêm những vị Thanh Văn tuy không hiểu mà không có lòng tăng thượng mạn, không cho mình đã chứng đắc, nên cứ ngồi đó. Ngồi mà không kinh, không khiếp, không sợ. Còn ở hội Pháp Hoa, những vị Thanh Văn, này lại tăng thượng mạn, chưa chứng đắc viên mãn mà tự cho đã chứng đắc viên mãn. Có tâm tăng thượng mạn như thế, mà cứ ngồi lì như thế, đức Phật bảo "cứ ngồi đó đi" thì thật không ích gì cho chính bản thân họ, mà còn gây chướng ngại cho những người nghe Pháp. Và sở dĩ những người này tăng thượng mạn là vì họ chưa tin nổi rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật", họ chỉ tin rằng mình đã đắc quả A La Hán và chẳng những không tin chúng sanh là Phật, họ còn không tin nổi chính mình là Phật, do đó mà họ đã bỏ đi ra, và đức Phật dạy rằng: "Họ lui ra cũng tốt."

Thành thử kinh Pháp Hoa có nghĩa "Hội tam qui nhất, thọ ký thành Phật". Trước kinh Pháp Hoa, đức Phật dạy nhiều pháp môn, mỗi pháp môn chứng một quả vị khác nhau, như tu pháp Tứ đế đắc quả A La Hán, tu 12 Nhân duyên đắc quả Bích chi, tu Lục độ làm Bồ tát...Đến hội Pháp Hoa khi sắp nhập Niết bàn, đức Phật mới dạy bấy lâu chỉ là những phương tiện để bước lên quả vị Nhất thừa. Trước kia Thanh Văn đã cho đó là pháp thật, quả thật, nên chăm chỉ tu, chứng và chấp thủ các quả vị đã chứng. Bây giờ, đức Phật mới nói rằng quả Nhị thừa, Tam thừa đều không thật, đều là phương tiện, chỉ có quả Nhất thừa mới là thật, mới là cứu cánh.

Ngài Thiên Thai Trí Giả cho đó là "Khai quyền hiển thật, khai cận hiển viển", mở phương tiện ba thừa để hiển bày cái chân thật là Nhất thừa Phật đạo. "Khai quyền" là chỉ rõ tất cả các pháp môn, mà đức Phật nói trước kinh Pháp Hoa, đều chỉ là phương tiện để đi đến giáo lý Thật của Pháp Hoa rằng: "Tất cả chúng sanh đều là Phật". Điều mà mười phương chư Phật đều làm là: "Xuất hiện ra ở đời để khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến". Điều ấy, đức Thích Ca Bổn sư cũng không làm khác với chư Phật mười phương. Một mặt vì tất cả chúng sanh đều là Phật, một mặt vì bản hoài của tất cả chư Phật ra đời chỉ vì một mục đích duy nhất là khai thị ngộ nhập Phật tri kiến, một mặt vì trí tuệ chư Phật thậm thâm đủ cả hai mặt căn bản trí và quyền trí, thấu hiểu cùng tận được thật tướng các pháp, nên mới khai quyền hiển thật được. Thật tướng đó là mười Như: "Như thị tướng, như thị tánh, như thị thể, như thị lực, như thị tác, như thị nhân, như thị duyên, như thị quả, như thị báo, như thị bản mạt cứu cánh" 2. Mười Như này là tướng sai biệt của thật tướng các pháp. Ngài Thiên Thai lấy 10 Như đó phối hợp với 10 giới (gọi là thập pháp giới), với năm ấm, hữu tình thế gian và khí thế gian mà làm thành "Bách Như" "Thiên Như"... Thiên Thai tông có danh từ "Tam thiên nhất niệm, nhất niệm tam thiên" là để chỉ cái lý chân thật mà chư Phật đồng chứng như nhau, đó là ba điểm sau đây:

1. Thật trí, Quyền trí chư Phật đồng nhất.

2. Phật tánh, chúng sanh cũng đồng nhất.

3. Bản hoài chư Phật cũng đồng nhất.

Tóm lại đức Phật chỉ dạy là mỗi một đạo lý duy nhất, đó là đạo Nhất thừa.

Nhưng trước khi khai thị để đưa chúng sanh về Nhất thừa, đức Phật phải nói tuần tự từng Pháp môn phương tiện, để đến Pháp Hoa, Ngài mới nói rõ bản hoài của chư Phật. Do đó kinh Pháp Hoa là cao điểm của giáo lý Phật đà, nên mới gọi là Diệu Pháp. Ngài Thiên Thai chia hai thứ "diệu" là tương đối diệu và tuyệt đối diệu. Những pháp môn đức Phật dạy trước đấy tuy diệu nhưng chưa tuyệt đối, như khi phân thành Thanh Văn thừa, Duyên Giác thừa và Đại thừa, thì Đại thừa là diệu, nhưng chỉ diệu tương đối đối với Thanh Văn, Duyên Giác nên chưa phải diệu thật sự tuyệt đối. Đến hội Pháp Hoa thì không còn đối đãi với Thanh Văn, Duyên Giác mà gồm chung Tam thừa vào Nhất thừa, nên mới thật là Diệu Pháp. Pháp Hoa nói thật tướng các pháp, thật tướng đó là: "Tất cả pháp đều là Phật pháp, tướng tánh bất nhị, thế gian tướng thường trú". Tất cả pháp, bởi thế, đều là diệu pháp (nhứt sắc nhứt hương vô phi trung đạo). Diệu pháp đó ví như hoa sen với những điểm:

1. Sanh ra trong bùn mà không nhiễm mùi bùn.

2. Khi hoa nở thì tỏa hương thanh khiết, nhẹ nhàng.

Nghĩa là những pháp mà đức Phật nói ở trong Diệu Pháp Liên Hoa cũng phát xuất từ tam thừa pháp, ví như hoa sen vẫn sinh từ bùn. Cái hoa diệu pháp từ trước bị vùi lấp trong bùn kiến chấp của tam thừa, đến hội Pháp Hoa thì hoa sen từ bùn nở ra mà không dính bùn, lại tỏa hương vi diệu.

Đạo Phật quả là đạo Hoa sen. Đức Phật ra đời đi bảy bước cũng đi trên bảy hoa sen.

Khi Thành Đạo, Ngài quán sát căn cơ chúng sanh cũng bằng hình ảnh những hoa sen trong hồ: Có hoa đã vươn lên khỏi mặt nước, có hoa còn chìm, có hoa chưa ra khỏi bùn, nhưng tất cả đều là hoa sen và đều sẽ lên khỏi mặt nước tỏa hương khi gặp ánh sáng mặt trời. Chúng sanh cũng vậy, ở trong đống bùn phiền não mà cũng không dính bùn, vì chưa ra khỏi phiền não nên gọi là chúng sanh, đến khi gặp được mặt trời diệu pháp của đức Phật soi đến thì cũng đều nở. Ngài Huyền Trang đi thỉnh kinh, trong lúc chờ đợi cấp giấy đi đường, một đêm mộng thấy một ngọn Linh sơn giữa bể, Ngài nhảy xuống bể liền có hoa sen đỡ, đưa Ngài lên núi. Và trước khi thị tịch, Ngài cũng mộng thấy hoa sen. Nhưng đó là sen trong nước, còn thứ sen trong lửa của Thiền sư Ngộ Ấn (1020-1088, Việt Nam) thì:

"Diệu tánh hư vô bất khả phân

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận

Liên phát lô trung thấp vị càn."

Tạm dịch:

"Diệu tánh rỗng không chẳng thể bâu (bám)

Rỗng không tâm ngộ khó gì đâu

Trên non ngọc đốt màu thường đẹp

Sen nở trong lò ước chửa khô"

(TUTA, Lê Mạnh Thát dịch)

Hay của Động Sơn Lương Giới, Sơ Tổ phái Tào Động thì:

"Lưỡng kiếm giao phong bất tu tị

Hảo thủ do như hỏa lý liên."

Tam dịch:

Hai kiếm giao nhau không cần tránh,

Tay tài giống hệt sen trong lửa.

Ý nghĩa hai câu thơ trên ám chỉ rằng ở trong cái thân Ngũ uẩn uế trược đầy lửa phiền não của chúng sanh, hoa sen Phật tánh vẫn tươi như thường.

Chân Nguyên thiền sư (Việt Nam) cũng có câu:

"Trần trần sát sát Như Lai,

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen.

Hoa là bản tánh trạm viên,

Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng.

Hậu học có biết hay chăng?

Tâm hoa ứng miệng nói năng mọi lời."

Kinh Pháp Hoa lấy dụ Hoa sen làm biểu tượng là vậy.
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Khởi phát nguồn tâm
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

I. Bồ-đề tâm

“Trong các Pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác. Nếu nói hay làm với tâm ô nhiễm, thì sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo”. “Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác… Nếu nói hoặc làm với tâm thanh tịnh, sự vui vẻ sẽ theo nghiệp kéo đến như bóng theo hình”. “Vậy, chế ngự tâm vào một chỗ, không việc gì chẳng nên” (Pháp Cú 1,2).

Đức Phật dạy những lời này để khuyên chúng ta phải luôn luôn tu tâm, nhận rõ tâm, phát huy hết khả năng tốt đẹp của tâm.

Kinh Tịnh Danh có dạy: “Bồ-đề tâm là cõi Tịnh độ của Bồ-tát”. Tịnh độ của Bồ-tát xây dựng bởi Bồ-đề tâm, nếu không có Bồ-đề tâm thì không xây dựng được Tịnh độ. Lại nữa, kinh Hoa nghiêm viết: “Bỏ mất Bồ-đề tâm mà làm các thiện pháp thì đều thành ma nghiệp”. Tại sao vậy? Vì làm các thiện pháp tuy là việc tốt, nhưng nếu hành giả làm việc thiện đó xuất phát từ Bồ-đề tâm thì nó dẫn đưa hành giả tiến đến quả vị giải thoát ngoài vòng chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả, tức ngoài vòng hữu vi sanh tử. Ngược lại, hành giả làm việc thiện mà không xuất phát từ Bồ-đề tâm thì không khỏi vướng vào tâm vì ngã, vì danh lợi, vì ích kỷ, và kết cuộc chỉ đưa đến quả báo là thọ sự an lạc trong cõi trời, cõi người, chứ không đưa đến giải thoát an lạc hoàn toàn. Khi việc thiện đó hết năng lực rồi thì quả báo trong cõi trời cũng hết và quay trở lại làm các loài thấp hơn để chịu cảnh trầm luân đau khổ. Đấy gọi là ma nghiệp (chữ ma ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng là ở trong vòng lục đạo tam giới).

Vậy Bồ-đề tâm là gì? Bồ-đề tâm là phiên âm từ chữ Bodhicitta, có nghĩa là tâm giác ngộ, Chánh giác hay là Giác - tức không còn vô minh. Ngôn ngữ học Ấn Độ thường có phức âm, tiếp vĩ ngữ, ý nghĩa của nó cũng thay đổi theo. Ví dụ Bodhi gọi là Bồ-đề nhưng Buddha là đấng Giác Ngộ. Chữ Buddha, Bodhi đều có nghĩa Giác, nhưng khi biến thành Bodhisattva thì đọc là Bồ-đề-tát-đỏa. Chữ Sattva gọi là hữu tình, là một loài sinh vật; loài này được phân biệt theo cao, thấp, lớn, nhỏ, ngu, trí, trời, người, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… đều nằm trong hữu tình, nhưng khi Giác ngộ thì gọi Bodhisattva và dịch là Bồ-đề-tát-đỏa, là giác hữu tình hay hữu tình giác, tức là loài hữu tình đã có sự giác ngộ, có sự phát tâm Bồ-đề và muốn dẫn dắt kẻ khác giác ngộ nên gọi là Bồ-đề-tát-đỏa, gọi tắt là Bồ-tát.

Khi nói đến Bồ-tát, trong kinh thường chỉ cho người có hạnh tự độ và độ tha, hạnh này phát nguồn từ Bồ đề tâm, cho nên nói không có Bồ-đề tâm thì không có Bồ-tát và Bồ-tát là sự nghiệp tạo thành đưa đến quả Chánh Đẳng Giác và độ thoát chúng sanh.

Hữu tình này có phát Bồ-đề tâm thì gọi là Bồ-tát. Do đó, người muốn thọ giới Bồ-tát, điều quan trọng trước tiên là phát Bồ-đề tâm. Trong giới Bồ-tát, người nào bỏ mất Bồ-đề tâm thì mất giới, nếu không bỏ mất Bồ-đề tâm thì dù có phạm giới còn có thể theo luật phát lộ sám hối được.

Người phát Bồ-đề tâm là người thế nào? Trong kinh Phật dạy: “Người phát Bồ-đề tâm là người phát tâm tỉnh giác, nguyện trên cầu thành Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh” (Cầu thành Phật đạo là tự lợi, hóa độ chúng sanh là lợi tha).

Chư Phật ra đời cốt chỉ cho chúng sanh con đường thoát vòng luân hồi sanh tử, dứt hết nghiệp hữu lậu và tâm hữu lậu, tức là tâm chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả. Người chấp như vậy, dù có tu và làm việc thiện nhưng tâm còn vướng ngã thì việc thiện ấy chỉ là việc thiện hữu lậu, kết quả chỉ được hưởng phước báo ở cõi người, cõi trời. Vậy nên, muốn hưởng quả vô lậu giải thoát thì phải tu và hành thiện theo tâm vô lậu, tâm vô lậu tức là tâm Bồ-đề, là không chấp ngã, chấp nhơn, chấp chúng sanh, chấp thọ giả.

Người chấp ngã là chấp thân thể và tâm niệm vô thường là ta. Khi đã chấp ngã thì thấy ngã của mình là ngã của một con ngưởi, có nhân cách, chứ không phải là súc sanh hay loài địa ngục, ngạ quỷ, thế là chấp nhơn tướng. Lại tự mình thấy mình là một con người, là loài chúng sanh, chứ không phải là loài vô tri vô giác. Đó là chấp chúng sanh tướng. Khi đã chấp mình là một chúng sanh, thì thấy chúng sanh này đang sống trên cõi đời trong khoảng thời gian mấy chục năm gọi là một đời người, chấp như thế gọi là chấp thọ giả tướng, Khi tâm còn vướng vào các vọng tưởng chấp tướng thì ấy là tâm hữu lậu, cấu uế, hẹp hòi, chỉ phát sanh những phiền não và đọa lạc trong tam giới. Chỉ khi nào hành thiện, như kinh Kim cang nói: “Với cái tâm không chấp ngã, không chấp nhơn, không chấp chúng sanh, không chấp thọ giả mà làm tất cả việc thiện thì sẽ được kết quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác” mới là sự hành thiện đáo bỉ ngạn.

II. Bốn hoằng thệ nguyện

Căn cứ Bồ-đề tâm mới có Bồ-tát hạnh, không có Bồ đề tâm thì không có Bồ-tát hạnh. Bồ-đề tâm có khi còn gọi là Bồ-đề nguyện, cả hai đều cùng một nghĩa, phát Bồ-đề tâm, hay phát Bồ-đề nguyện cũng đều là tâm thượng cầu, hạ hóa. Vậy hành tướng của Bồ-đề tâm như thế nào? Đó là bốn hoằng thệ nguyện:
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.

Bốn lời nguyện trên cũng bắt nguồn nơi giáo lý cơ bản của Đức Phật mà khai triển ra. Đức Phật sau khi thành đạo, trước tiên chuyển Pháp luân tại Lộc Uyển, Ngài dạy về pháp Tứ đế cho năm Thầy Kiều-trần như… gọi là Sơ chuyển pháp luân, đó là Khổ, Tập, Diệt và Đạo đế.

Hành giả Thanh văn tu tập Tứ đế thì đạt được quả vị A-la-hán, dứt trừ ái thủ, ái thủ được dứt là Diệt đế, chứng Hữu dư y Niết-bàn, Vô dư y Niết-bàn. Các vị Bồ tát thì đi xa hơn một bước, cũng từ nơi Tứ đế, nhưng hiểu rõ mục đích siêu việt của Đức Phật trong lời dạy đó mà phát bốn thệ nguyện rộng lớn:
Duyên Khổ đế phát ra lời nguyện: Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
Duyên Tập đế phát ra lời nguyện: Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Duyên Diệt đế phát ra lời nguyện: Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Duyên Đạo đế phát ra lời nguyện: Pháp môn vô lượng thệ nguyện học.
Bốn lời thệ nguyện này rất quan trọng, cần xét đến tác dụng và kết quả của nó để hiểu rõ và áp dụng trong bước đường tu tập.

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Trong câu này có chữ “chúng sanh” cần cắt nghĩa. Trong kinh Kim cang nêu ra các loại noãn sanh, thai sanh,. thấp sanh và hóa sanh, hữu tưởng, vô tưởng, phi hữu tưởng, phi vô tưởng, hữu sắc, vô sắc. Kinh Từ bi còn nêu chúng sanh hai chân, bốn chân, nhiều chân, đã sanh, sắp sanh, hay hiện có, hoặc lớn, hoặc nhỏ. Chúng sanh giữa thế giới này vô cùng vô tận không sao kể xiết, nếu phân thành sáu nẻo thì gồm có chúng sanh cõi Trời, Người, A-tu-la, Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh. Nếu chia theo loại sanh thì gồm có bốn loại: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh. Vậy mà người tu hành phát nguyện độ tất cả là nhờ hiểu biết giáo lý và lòng từ bi của Phật, thấy chúng sanh tuy vô lượng nhưng đều là như huyễn, nên mới phát nguyện được như vậy.

“Độ chúng sanh” là danh từ đặc biệt của Phật giáo. “Chúng đa sanh tử” là loại hữu tình đang còn ở trong vòng luân hồi, nhiều lần sanh tử vì mắc nhiều nghiệp hữu lậu. Khi còn nghiệp hữu lậu thì phải thọ sanh thân hữu lậu trong tam giới và gọi là chúng sanh. Như vậy, hễ còn một chút vô minh, một niệm tham ái, một chút hữu lậu thì còn là một chúng sanh. Chúng sanh có tướng chúng sanh và tánh chúng sanh. Tướng chúng sanh là chúng sanh mang thân hình của tứ đại vô thường. Tánh chúng sanh là những tánh chấp ngã, chấp nhơn, phân biệt mình, người. Nếu còn mắc hình tướng chúng sanh, nhưng không còn tánh chúng sanh là vô minh, thì giờ phút đó không còn là chúng sanh nữa.

Tự bản tánh không là chúng sanh, nhưng nếu còn móng niệm vọng tưởng là còn chúng sanh. Móng niệm tham thì thành chúng sanh của niệm tham, cho nên móng niệm sân, si, chấp ngã, thì thành chúng sanh của các niệm ấy. Nhưng nếu ngộ nhập lý Vô ngã, tức là vô lậu, thì không còn luân hồi và bấy giờ không còn là chúng sanh nữa.

Đức Phật mặc dầu Ngài hiện diện trên thế giới chúng ta, Ngài có sanh tử như chúng ta, nhưng không thể gọi Ngài là chúng sanh được, mà gọi Ngài là một vị Phật. Vì sao? Vì Ngài đã hết vô minh, hết chấp ngã, cái tưởng chúng sanh vẫn còn nhưng tính chúng sanh nơi Ngài không còn nữa. Khi nhìn một chúng sanh, ta thấy người ấy vừa là tính vừa là tướng, cho nên khi nào ta độ cho ta và cho người giải thoát khỏi sự ràng buộc của tham, sân, si thì đó là độ sanh.

Như vậy, việc độ sanh rất đa dạng và tế nhị, nếu có Bồ-đề tâm thì lúc nào cũng có thể độ sanh.

Người Phật tử phải theo học hạnh từ bi của Phật, phát nguyện độ vô biên chúng sanh. Lời nguyện đó không phải là lời nguyện suông không thể thực hành được trong hàng ngày.

Phật dạy có nhiều cách độ sanh: Không phá hoại sự sống của muôn loài, đó là độ sanh. Bảo vệ sự sống, phóng thích sự sống cho muôn loài, đó là độ sanh. Làm cho chúng sanh được giác ngộ giải thoát khỏi vô minh ái thủ, đó là cách độ sanh cao thượng nhất. Ta có thể thực hành hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự hoặc thực hành lục độ Ba-la-mật để độ sanh.

Hiểu như vậy, mới thấy rõ lời dạy của Phật vô cùng thấm thía. Khi nào biết nghĩ tới tự độ và độ tha, khi đó là Bồ-tát, là ý nghĩa của câu chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Kinh nói phiền não có 88 thứ hoặc vô lượng vô biên phiền não, nhưng tóm lại không ngoài vô minh, ái và thủ.

Vô minh là sự chấp ngã, chấp mình có một cái ta riêng khác với mọi người, mọi vật. Nhưng ngã không phải là một cái gì độc lập riêng rẽ với cái khác mà chỉ là sự tương quan tương duyên với cái khác mà có. Tôi hiện hữu nhờ có anh, anh hiện hữu nhờ có tôi.

Tôi hiện hữu được nhờ những yếu tố khác như cha mẹ, cơm áo, ánh sáng, không khí, đất, nước, gió, lửa và nhiều sự vật xung quanh, chứ không phải tách ngoài các cái đó mà có sự hiện hữu của tôi. Người khác cũng thế, không phải tách ngoài mọi người, mọi vật mà có sự hiện hữu tồn tại ngoài cái khác để bảo đó là ta. Ai còn thấy mình khác với người khác thì người đó còn vô minh, chính vì sự thấy ấy không đúng với thực tại. Như vậy, ta chỉ nói ngã trên những cái phi ngã, ngã chính là phi ngã, nên ngã chỉ là giả danh. Thực tại, là đạo lý duyên khởi mà nếu nghĩ khác đi thì đó là vô minh, vì vô minh mới sinh ra ái thủ. Chúng ta lấy ví dụ, có hai người lúc đi ngang qua một cánh đồng, cả hai người cùng thấy hoa, một trong hai người thấy hoa, tự nhiên không để ý đến nó và cứ tiếp tục đi, còn người kia thấy hoa lại cho là đẹp mà không biết bản chất của hoa là không đẹp không xấu, bởi nó nở là nở tự nhiên. Nhưng anh ta vọng tưởng cho hoa là đẹp và ưa hoa đó, muốn hái hoa đó, muốn sở hữu hoa đó cho bằng được. Khi đã yêu thích nó thì ban ngày hái không được sẽ chờ hái ban đêm, đêm hái không được thì ăn cắp cho được. Như vậy là anh ta vô minh cho nên mới có ái, có ái cho nên có thủ, dẫn đến hành động tạo nghiệp. Chúng sanh vì ái thủ mà tạo nghiệp nên có luân hồi.

Đức Phật dạy chúng sanh muốn không bị luân hồi thì phải đoạn ái thủ. Ai ngộ được chân lý đó thì bớt đau khổ, ai không ngộ được thì đau khổ lâu dài. Song muốn đoạn tận gốc ái thủ thì phải đoạn vô minh, muốn đoạn vô minh thì phải hiểu rõ thực tướng của vạn pháp là duyên sanh vô tướng, duyên sanh vô tác… Đạo lý Thập nhị nhân duyên Đức Phật dạy rõ ràng như vậy. Muốn đoạn phiền não thì phải có một tâm tỉnh giác. Cho nên, trong phép tu Thiền luôn luôn dùng hai chữ tỉnh giác. Tỉnh giác trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, khi ăn, khi mặc, khi ngủ, khi thức… cho đến khi không tham, không sân, không si, cũng biết mình không có ba thứ ấy xâm chiếm. Cách đối trị các phiền não thì nhiều nhưng cách tỉnh giác vẫn là phương pháp hữu hiệu nhất. Ví dụ khi mình khởi tâm tham liền biết và dặn lòng đừng tham, ngay khi ấy lòng tham sẽ lắng xuống. Phép tỉnh giác trong Thiền định giúp ta tĩnh tâm trong những công việc và cử động hàng ngày. Nếu luôn luôn tỉnh giác thì vô minh, ái thủ không làm sao xâm nhập được, tợ như cây bị đốn trụi cành lá, không phát triển được tất sẽ chết.

Tóm lại, phiền não vô tận thệ nguyện đoạn, chủ yếu là đoạn vô minh, ái thủ, vì nó là một mắt xích rất kiên cố, đoạn nó thì phải dùng đến tâm tỉnh giác.

Pháp môn vô lượng thệ nguyên học

Trong suốt 45 năm giảng dạy cho chúng sanh, Đức Phật không đưa ra một pháp môn nhứt định nào hết, nhưng chúng sanh thấy lời Ngài dạy thì thật vô lượng, nó như một phương thuốc trị bệnh. Chúng sanh bệnh khổ. Nguyên nhân khổ của chúng sanh là vô minh, ái và thủ gây ra. Ba thứ giặc phiền não này biến ra muôn hình vạn trạng, nên pháp của Phật cũng có nhiều cách để đối trị. Ví dụ, người có tâm tham dục nhiều thì Phật dạy tu pháp quán bất tịnh, người có tâm sân hận nhiều thì Phật dạy tu phép quán từ bi, người có tâm trì độn nhiều thì Phật dạy tu pháp quán giới phân biệt, quán nhân duyên.

Tóm lại, pháp môn của Phật tùy theo căn bệnh của chúng sanh mà biến chế ra, chứ không có một phương thức gì nhất định. Trong kinh Phật có nêu 37 Pháp trợ đạo, Tứ nhiếp, Lục độ… cũng y như những phương thuốc trị bệnh cho chúng sanh mà thôi.

Trong thời Đức Phật tại thế, có một lần, các Tỳ-kheo trong khi đi hóa đạo, có dạy cho hai đệ tử cư sĩ thợ rèn và thợ giặt, tu hai pháp môn quán bất tịnh và quan sổ tức, cả hai đều tu mà không có kết quả. Họ đi đến hầu Phật trình bày việc trên. Phật hỏi: “Ông ở nhà sống về nghề gì?”. Ông cư sĩ thợ rèn thưa: “Con sống về nghề thợ rèn”. Phật hỏi tiếp: “Các Tỳ-kheo dạy ông tu pháp gì?”. “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán bất tịnh”. Phật cũng hỏi ông cư sĩ thợ giặt sống nghề gì; ông ta thưa: “Làm nghề thợ giặt”. Phật hỏi: “Các Tỳ-kheo dạy ông tu phép gì?”. Ông đáp: “Dạ! Các Thầy dạy con tu phép quán sổ tức”. Đức Phật dạy: Thôi được, bây giờ Ta chỉ thay đổi phương pháp tu một chút để cho hợp căn cơ hai ông”. Ngài liền dạy: “Ông thợ rèn nên tu phép quán sổ tức, vì hàng ngày thợ rèn phải thụt ống lò hợp với hơi thở vô hơi thở ra của phép quán sổ tức. Còn ông thợ giặt thì nên tu phép quán bất tịnh, vì hàng ngày thợ giặt phải giặt đồ nhơ thì quán bất tịnh dễ thành”. Phật đổi cho họ phương pháp tu như vậy, họ tu một thời gian sau đó có kết quả. Như thế, pháp môn của Phật chỉ là phương thuốc để cứu chúng sanh thoát khổ theo đúng căn cơ, Do vậy, người học đạo phải tìm minh sư, nếu không gặp minh sư thì cố gắng lựa chọn cho được pháp môn thích hợp mà tu thì mới dễ có kết quả.

Tóm lại, dù Phật có vô lượng pháp môn nhưng không ngoài ba pháp môn căn bản nhất đó là Giới, Định, Tuệ.

Giới là gì? Là điều để ngăn chặn tai hại xảy ra. Có giới để giúp ta nhận thức rõ hành động của mình như thế nào là đúng, như thế nào là sai để ngăn chặn sự sai quấy của ba nghiệp, bởi vì tâm và ba nghiệp của ta như ngựa không cương, khi buông ra sẽ chạy rong khắp chốn, tức nhiên là tai họa. Giới cũng như dây cương, ngựa như người hành giả, ngựa có cương đó là ngựa tốt, có lợi ích; người tu hành, có giới cũng vậy, sẽ có lợi ích lớn.

Định là gì? Là tập trung tư tưởng. Tư tưởng có ổn định thì việc làm mới có hiệu quả. Pháp môn Thiền định là pháp môn tu rất quý đã có từ xưa tại Ấn Độ, được Đức Phật sửa đổi bổ sung tạo thành pháp môn ưu việt, đưa thẳng đến giác ngộ cứu cánh, đồng thời cũng từng bước đem lại lợi lạc, hạnh phúc cho hành giả.

Tuệ là gì? Là trí tuệ. Tuệ có ba thứ là Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ. Văn tuệ là nhờ chú tâm nghe đọc là hiểu rõ được ý nghĩa của câu văn, lời nói. Tư tuệ là nhờ suy nghĩ hiểu rõ câu văn, lời nói. Nhờ đó mà ta hiểu rõ vấn đề trong thực tế. Tu tuệ là thực hành ngay cả cái Tư tuệ, tức những gì mình đã suy nghĩ, đúng đắn, liền thực hành ngay theo sự suy nghĩ đó. Thí dụ như có một người quá nghèo, không bố thí được nhiều nhưng với tâm từ bi, họ đem một hạt cơm để bố thí cho kiến, cũng là một cách Tu tuệ. Tóm lại, pháp môn nào của Phật, nếu cố gắng suy tư thật kỹ và sau đó áp dụng từng bước hay từng hoàn cảnh cụ thể, tự nhiên thấy khai tâm mở trí và ngay khi đó hưởng được sự an lạc.

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành

Lời nguyện này có hai chừng mực áp dụng: Thành Phật đạo một cách viên mãn như Đức Phật và thành đạo từng phần một như những người đang tu. Nếu mỗi ngày mình có độ sanh, có đoạn phiền não, có hành thiện pháp thì cũng là mỗi ngày mình có thành Phật đạo, chứ không hẳn phải chờ một ngày nào đó ngồi dưới cội Bồ-đề mới gọi là thành Phật đạo. Đây là ý nghĩa câu: “Chư Phật là Phật đã thành, chúng sanh là Phật sẽ thành”. Vậy trong việc tu tập, giờ phút nào mình không còn tham ái, không còn sân si, không còn vô minh, thì giờ đó mình cũng thành Phật đạo, tức thành tựu lời dạy của Phật, thành tựu sự giải thoát giác ngộ từng phần.

Tóm lại, bốn lời nguyện trên là hành tướng của Bồ đề tâm, ai thành tựu bốn lời nguyện đó là thành tựu Bồ-đề tâm.

Bốn lời nguyện này có thể nói là thâu tóm tất cả các nguyện lực khác. Phật tử tụng kinh hàng ngày với bao nhiêu lời nguyện cũng đều là thực hiện Bồ-đề tâm. Thí dụ như tụng:
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ
Thế thế thường hành Bồ-tát đạo.

Hoặc:
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.

Đây là những thể hiện Bồ-đề tâm qua bốn lời thệ nguyện.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hoà Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

HÌNH TƯỢNG HOA SEN TRONG KINH PHÁP HOA

Pháp Hoa là nói tắt của kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bản gốc của kinh Diệu Pháp Liên Hoa được viết bằng Phạn văn là Saddharmapundarika-sitra. Ngài La Thập (Kumàrajiva) dịch là Diệu Pháp Liên Hoa. Diệu Pháp là pháp, Liên Hoa là ví dụ. Kết hợp pháp và dụ thành Diệu Pháp Liên Hoa, vì thế khi nói kinh Pháp Hoa thì cũng phải hiểu là Diệu Pháp Liên Hoa.

Kinh Pháp Hoa lấy hoa sen làm biểu tượng. Vì sao vậy? Vì Hoa sen không những thường được nhắc đến trong kinh điển mà thế gian cũng rất được ưu thích như Ca dao đã nhắc:

"Trong đầm gì đẹp bằng sen,
Lá xanh bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng bông trắng lá xanh,
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn"

Hoa sen là một loài hoa rất đặc biệt, bản chất thanh cao của nó hơn hẳn các loài hoa khác. Cuộc đời của đức Phật từ khi Ngài đản sanh cho đến khi nhập diệt, luôn luôn gắn liền với hoa sen. Vì vậy, hoa sen là biểu tượng cho sự giải thoát trong Phật giáo (Chín phẩm sen vàng lên giải thoát). Khi đức Phật giáng sanh, Ngài đi trên hoa sen bảy bước. Khi đức Phật truyền pháp cho Tôn giả Ca Diếp, ngài cũng cầm hoa sen. Vì vậy đức Phật luôn luôn được tôn trí ngồi trên hoa sen.

Có lần ngoại đạo Dona hỏi: Vậy Ngài phải được hiểu như thế nào? Ngài điềm tĩnh trả lời: Cũng giống như hoa sen, Ta sinh ra trong đời, lớn lên trong đời mà không bị đời làm ô nhiễm. Như vậy Ta là Phật, Như Lai.

Hoa sen ấy cao quí vô cùng. Nó từ dưới bùn mọc lên, nhưng không dính mùi bùn. Hoa sen có hoa mọc trước hoa mọc sau, nhưng khi có cơ hội mọc lên gặp ánh sáng mặt trời, tất cả đều nở ra, tỏa mùi thơm ngát như nhau. Các loài hoa khác khi mọc lên, một thời gian hoa rụng mới có quả; còn hoa sen vừa búp đã có quả, quả bọc trong gương sen. Hoa sen to chừng nào thì quả và gương sen to chừng ấy. Hoa quả đồng thời. Hoa sen có cái đặc biệt là bướm không đậu, sâu không ăn, người ta không lấy để trang sức trên đầu.

Khi đức Phật mới vừa Thành Đạo dưới cội Bồ-đề, Ngài liền suy nghĩ: "Giáo lý mà Ta chứng ngộ quá siêu việt, siêu lý luận, siêu ngôn ngữ, thậm thâm vi diệu. Còn chúng sanh ở giữa đời này thường ham thích ái dục, khoái ái dục thì làm sao hiểu cho thấu". Cho nên Ngài chần chừ, ngần ngại chưa muốn thuyết pháp. Hàng chư thiên biết rõ tâm ý của Phật không muốn thuyết pháp, cho nên mới đến thỉnh cầu Ngài thuyết pháp. Đức Phật nhìn giữa hồ sen, thấy các hoa sen, có thứ đã ngoi lên khỏi bùn mà chưa khỏi nước, có thứ mọc lên giữa nước mà chưa lên khỏi mặt nước, có thứ mọc lên khỏi mặt nước mà chưa nở, có thứ sắp sửa nở đang đợi ánh sáng mặt trời mới tỏa bông ra.

Đức Phật nghĩ rằng: "Tất cả chúng sanh ở thế giới này cũng đều như thế. Có hạng căn cơ thấp, có hạng căn cơ vừa, có hạng căn cơ cao, nhưng nếu các hạng căn cơ đó được gặp ánh sáng, được gặp giáo lý của đức Phật cũng sẽ được giải thoát và giác ngộ". Do đó nên Ngài quyết định Chuyển pháp luân, thuyết pháp độ sanh.

Lại nữa, hoa sen còn có một tính cách rất đặc biệt nữa, vì tính cách đặc biệt đó mà Phật đã lấy nó để ví dụ cho Diệu Pháp của Ngài. Vậy Diệu Pháp đó là gì? Đó là cái Phật tính, tri kiến Phật. Thấy biết như thế nào gọi là thấy biết Phật? Thấy biết như thế nào là thấy biết chúng sanh? Phải mà thấy trái, là thấy biết chúng sanh. Thấy đúng sự thật là thấy biết Phật. Giả mà thấy thật là thấy biết của chúng sanh. Thấy đúng sự thật là thấy biết Phật. Vô thường mà thấy là thường, vô ngã mà thấy là ngã, là thấy biết chúng sanh. Trái lại vô thường thấy là vô thường, vô ngã thấy là vô ngã, là thấy biết Phật... Thành thử thấy biết Phật là cái thấy biết đúng chân lý, đúng tánh tướng của sự vật. Đó là cái thấy biết thoát ra ngoài có, không, thường, đoạn, nhị biên theo thiên kiến của chúng sanh. Thấy biết Phật đó nó bao hàm cả tính từ bi, hỷ xả, trí tuệ, giải thoát, nên cái thấy biết đó cao quí vô cùng, ví như hoa sen ở trong bùn mà không hôi tanh mùi bùn. Hoa sen mọc ở trong bùn là bùn gì? Phật giáo ví dụ bùn đó là phiền não của chúng sanh. Phiền não đó nó làm cho cái thấy biết Phật bị khuất lắp, không hiện và không mọc lên được, cũng như bùn khuất lắp hoa sen. Nhưng khi thứ bùn đó được vạch ra, hoa tất sẽ mọc lên. Hoa mọc lên từ trong bùn cũng như cái thấy biết Phật mọc lên từ trong tâm phiền não của chúng sanh. Vì thế Thiền sư Chân Nguyên của Việt Nam chúng ta đã diễn tả:

"Trần trần sát sát Như Lai,
Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen.
Hoa là bản tánh trạm viên,
Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng.
Hậu học có biết hay chăng?
Tâm hoa ứng miệng, nói năng mọi lời"


Trần trần sát sát Như Lai:
Trần trần sát sát... nghĩa là cõi Phật nhiều vô cùng, vô tận như bụi trần không ai mà đếm hết. Thế giới của chúng sanh, thế giới của Phật cũng nhiều như thế, hằng hà sa số thế giới. Nếu chúng ta thay thế chữ trần trần sát sát bằng hằng hà sa số thế giới thì thế giới nào hễ có chúng sanh tức nhiên thế giới đó có Phật. Cho nên trần trần sát sát thế giới đều có trần trần sát sát Phật, trần trần sát sát chúng sanh.

Chúng sanh mỗi người mỗi có hoa sen:
Mỗi người chúng ta gọi là chúng sanh dầu có trí, không trí, giàu sang, nghèo khổ, thông minh, ngu đần, chí đến hạng hung dữ cũng đều có hoa sen. Họ hung dữ ngày nay nhưng ngày mai hết hung dữ, chẳng lẽ họ cứ hung dữ đời đời kiếp kiếp mà không lúc nào có một chút từ tâm hay sao? Dầu họ u tối tới mức nào thì trong họ cũng có một chút sáng suốt. Xét cho cùng, những hạng người như vậy họ cũng có tình thương chứ không phải hung dữ hoàn toàn. Thế thì chính nơi người ấy, cũng có một đốm lửa sáng hay có một chút hoa sen tức là mỗi người có một hoa sen như Ngộ Ấn Thiền sư người Việt Nam đã nói:
"Diệu tánh rỗng không chẳng thể bâu, (vin)
Rỗng không tâm ngộ, khó gì đâu?
Trên non ngọc đốt màu thường đẹp
Sen nỡ trong lo ướt chưa khô"
(Thuyền Uyển Tập Anh Lê Mạnh Thất dịch)

Hoa là bản tánh trạm viên:
Trạm là đứng lặng. Viên là tròn đầy, viên mãn. Hoa sen nơi chúng sanh thì dù có lặn lội (luân hồi khi làm trời khi làm người, khi súc sanh, khi ngạ quỉ...), nói chung là luân hồi trong sáu nẽo. Nếu làm người cũng đủ mọi hạng. Khi thì làm người thông minh, người ngu dốt, người lành người ác... dầu làm người gì thì làm nhưng cái hoa sen, tánh tri kiến Phật vẫn không bao giờ thay đổi. Nó luôn luôn vắng lặng, tròn đầy, không méo mó, không biến mất, không thêm bớt. Thành thử tri kiến Phật ở đây nói bằng ẩn dụ hoa sen, thì nơi chúng sanh hay nơi Phật cũng y như nhau, không khác. Nhìn bề ngoài, hình tướng diện mạo mỗi người mỗi khác, nhưng Phật tính trong họ là hoa sen không khác, nó chỉ khác nhau ở chỗ biểu hiện mà thôi.

Bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng:
Hoa sen đó viên tịch bình đẳng như nhau, không hơn, không thua, không cao, không thấp, tất cả đều bình đẳng. Chỉ khi nào hoa sen đó bị vùi lấp, bởi lấp bùn phiền não, thì khi đó con người trở nên bé nhỏ. Khi nào cái ta (ngã) phiền não trong mỗi chúng sanh nhỏ đi thì khi ấy hoa sen Phật tánh mới nở ra to lớn được. Đức Phật là hoa sen đã nở trọn vẹn, cho nên đức Phật lớn lắm. Đức Phật to lớn nên Ngài diệt độ đã 2500 năm rồi mà chúng sanh vẫn niệm tưởng đến Ngài, vẫn thấy Ngài hàng ngày, khắp nơi.
Phật là bao hàm trời đất dưới trên cùng bằng. Nên Ngài tuyên bố "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" Ngài là chu biến pháp giới (biến khắp mười phương).

Hậu học có biết hay chăng?:
Ngài Chân Nguyên nói hậu học (tức chỉ vào chúng ta đây) có biết hay không? Là một lời nhắc nhở để chúng ta cảnh tĩnh, dứt bỏ mê tình tự tìm thấy lại hoa sen trong chính mình để đến bờ giác.

Tâm hoa ứng miệng, nói năng mọi lời:
Là ý nghĩ của chúng ta (tâm hoa) ứng ra nơi miệng mình để nói. Nói cho đúng với cái tâm hoa tức cái hoa sen trong tâm mình ứng ra mà nói. Khi ứng thì ứng ra hoa thơm chứ đừng ứng ra hoa thối, nói ra ai cũng ghét, không ưa nghe. Tâm hoa thì lời phải thơm, nhẹ nhàng phảng phất hơi thơm y như hoa sen. Giáo pháp của Phật cũng có cái đặc sắc, vi diệu như tâm hoa - Hoa sen trong tâm. Phật tánh là tâm hoa, tâm hoa là tri kiến Phật, đó chính là diệu pháp. Diệu pháp ở trong bùn mà không dính mùi bùn nên gọi là diệu pháp, tức là pháp mầu. Ai được cái pháp mầu xuất hiện thì an lành, nên gọi là diệu pháp.

Tất cả giáo lý Phật từ đầu đến cuối đều lấy hoa sen làm biểu tượng, cho nên đạo Phật cũng gọi là đạo Hoa sen:

- Khi đức Phật giáng sanh cũng bước đi trên hoa sen.
- Khi đức Phật sắp thuyết pháp cũng nhìn thấy hoa sen.
- Khi đức Phật truyền pháp cho Ngài Ma-ha Ca Diếp ở trên hội Linh Sơn cũng bằng cái hoa sen.

Trong lịch sử Phật có nói tâm truyền tâm. Khi Ngài truyền chánh pháp nhãn tạng cho Tôn giả Ma-ha Ca Diếp ở hội Linh Sơn, hôm đó, đức Thích Ca không thuyết gì hết. Chúng hội tập họp rồi, Ngài nhìn Hội chúng một lượt rồi từ từ cầm một cái hoa sen đưa lên trước mặt mọi người. Cả chúng hội khi đó đều im lặng không ai hiểu gì cả, duy chỉ có Tôn giả Ma-ha Ca Diếp chúm chím cười. (niêm hoa vi tiếu). Phật biết Ca Diếp đã ngộ được cái hoa sen mà Phật đưa lên. Đó chính là tâm ấn (lấy tâm ấn tâm). Tôn giả Ma-Ha Ca Diếp mặc dầu không nghe Phật nói gì hết nhưng mà được cái tâm của Phật cho, nên mỉm cười. Đức Phật cũng thấy cái chỗ Ca Diếp đã ngộ được cho nên mới nói rằng: "Ngô hữu Chánh pháp nhãn tạng, Niết-bàn Diệu tâm, thật tướng vô tướng, vi diệu pháp môn, kim phó nhữ Ma-ha Ca Diếp". (Ta có kho tàng mắt Tạng, con mắt Chánh pháp là Niết-bàn diệu tâm, thật tướng vô tướng. Nay phó chúc cho Ma-ha Ca Diếp).

Từ đó Ma-ha Ca Diếp lãnh cái giáo chỉ của Phật để sau này khi đức Phật vừa nhập Niết-bàn thì ngài có kết tập Kinh điển lần đầu tiên để truyền bá cho đến ngày nay.

Kinh Hoa Nghiêm nói về Hoa Tạng thế giới như sau: "Có những biển hương thủy nhiều như bụi trần của mười bất khả thuyết cõi Phật. Từ biển ấy nổi lên hoa sen lớn tên Nhất thiết ma ni vương trang nghiêm,... Đây là thế giới hoa sen".

Những ai đã từng đọc truyện Tây Du Ký thì chắc biết rằng: Đường Tam Tạng đi thỉnh kinh ở Tây Trúc. Trải qua bao nhiêu sự khó khăn, gian nan nguy hiểm, mà sau này người ta tiểu thuyết hóa thành động ma, động quỉ trên bước đường đi cầu pháp của Ngài.
Khi triều nhà Đường bên Tàu mới thống nhất đất nước, cấm ngặt sự ra vào Trung Hoa. Ngài Huyền Trang cùng với vài vị Hoà thượng nữa dâng biểu lên nhà vua xin phép qua Ấn Độ du học.

Đợi mãi không được phép, các vị Hòa thượng cùng dâng biểu với ngài ngả lòng bỏ đi. Ngài kiên nhẫn đêm ngày cầu nguyện các vị Bồ-tát gia hộ.

Một đêm năm 629, Ngài nằm mộng thấy một ngọn Linh Sơn ở giữa biển, bèn nhảy xuống nước để lội qua, thì vừa lúc đó, một bông sen xuất hiện, đưa tới chân núi. Thích quá, tỉnh dậy.

Từ đó Ngài càng quyết tin rằng thế nào cũng thành công, và chính nhờ đó mà Ngài đã thắng mọi gian nan sau này.

Mười sáu năm đi thỉnh kinh, mười chín năm âm thầm chuyên dịch kinh, khi tuổi sắp mãn Ngài gát bút, dặn dò đệ tử: "Đời thầy sắp hết, thầy nằm xuống thì đừng bầy vẽ gì cả ! Quấn thầy trong một chiếc chiếu rồi chôn trong một thung lũng, chỗ nào vắng vẻ, tịch mịch!" Trước khi tịch, Ngài như bừng tỉnh, nói: Ta thấy một bông sen ở trước mắt, tươi đẹp lạ lùng!
Ba mươi lăm năm trước Ngài thấy một hoa sen, đưa Ngài qua biển cả đến ngọn núi Phật, bông sen lần này lại đưa Ngài đến cõi Phật. Đó cũng là hoa sen".

Ngày nay chúng ta niệm Phật cầu vãng sanh cũng là hoa sen (chín phẩm sen vàng). Thành thử hoa sen bên trong nó ứng với bên ngoài. Bên ngoài phù hợp với bên trong. Nếu tâm của chúng ta thanh tịnh đến chừng nào thì hoa sen của chúng ta khi cầu nguyện vãng sanh cũng lớn chừng đó (Thượng phẩm thượng sanh). Ngược lại, nếu hoa sen của chúng ta nhỏ bé chỉ lu lú dưới nước thì dù có ngồi lên hoa sen để vãng sanh Tịnh độ cũng chỉ ngồi được hoa sen hạ phẩm mà thôi, chứ không làm sao lên được hoa sen trung phẩm và thượng phẩm. Thế cho biết hoa sen trong tâm như thế nào thì ứng hiện ra hoa sen bên ngoài như thế đó. Đời này nó hiện ra như thế nào, thì ngày mai ở cõi Tịnh Độ cũng hiện như thế ấy.
Vậy tụng trì, sao chép, diễn nói... Pháp Hoa cũng chỉ để làm sao cho cái hoa sen ở trong chính tự tâm chúng ta ngày càng mọc lên tươi tốt, thoát khỏi bùn, xuất hiện phô bày, tỏa hương ngát thơm cho đời. Như nàng Tiểu Thánh từng nguyện trước Phật đài:

"Khể thủ từ bi đạo sĩ tiền,
Mạc sanh Tây thổ mạc sanh thiên,
Nguyện vi nhất trích dương chỉ thủy,
Sái tác nhân gian tịnh đế liên."

Nghĩa là:
"Trước đấng từ bi nguyện mấy lời,
Chẳng sanh đất Phật chẳng lên trời,
Xin làm giọt nước cành dương nhỏ.
Sái rực đài sen sạch bụi đời."
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

BỒ TÁT THƯỜNG BẤT KHINH


Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phật bảo ngài Bồ-tát Đại Thế Chí rằng: "Các Ông nên biết, những vị Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di thọ trì kinh Pháp Hoa mà nếu ai dùng lời thô ác mắng nhiếc, sẽ bị trọng báo, trái lại người trì kinh này được công đức lớn, sáu căn thanh tịnh".

Như xưa trong thời tượng pháp của đức Phật Oai Âm Vương, giữa hàng tăng thượng mạn Tỳ-kheo, có vị Bồ-tát là Thường Bất Khinh, Vị Bồ-tát ấy phàm thấy hàng xuất gia, tại gia, nam nữ... đều cung kính lễ bái khen ngợi rằng: "Tôi rất kính trọng các ngài, không dám khinh mạn, vì các ngài đều tu hành đạo Bồ-tát, sẽ đăng thành Phật". Ngoài sự lễ bái tán thán ấy vị Tỳ-kheo kia không hề đọc tụng kinh điển gì, nhưng gặp ai cũng chỉ lễ bái, tán thán và nói: "Tôi không dám khinh các người vì các người sẽ được làm Phật". Đến nỗi có người vì tâm chưa đặng thanh tịnh, nổi giận, mắng nhiếc: Ông Vô trí Tỳ-kheo cớ sao đến đây tự nói tôi không dám khinh người và thọ ký cho ta sẽ thành Phật, đó chỉ là nói dối, ta không dùng làm chi ? Có khi còn bị người ta lấy roi gậy, ngói đá đánh đập, ông trốn chạy qua một nơi xa mà còn lớn tiếng nói lại: "Tôi không dám khinh các người, các người đều sẽ làm Phật". Như vậy trải qua nhiều năm, dù bị khổ nhục cũng không sanh sân hận, nên các tăng thượng mạn Tỳ-kheo đều gọi vị Tỳ-kheo kia là Thường Bất Khinh. Vị Tỳ-kheo ấy khi mạng chung được nghe giữa hư không, Phật Oai Âm Vương nói kinh Pháp Hoa, đủ các công đức, lục căn thanh tịnh, sau rộng nói kinh Pháp Hoa lại cho mọi người đều nghe như mình đã được nghe vậy.

"Tất cả đều có Phật tánh". "Hết thảy đều làm Phật-đà". Đó là lời dạy không tiền khoán hậu, chỉ có đạo Phật mới thừa nhận và thuyết minh cái giá trị vô thượng ấy của muôn loài. Đó là một đặc điểm làm cho đạo Phật vượt hẳn lên trên tất cả tôn giáo học thuyết thế gian. Cho nên người Phật tử chân chính là phải luôn luôn cố gắng phát huy Phật tánh cao quý cho mình và chúng sinh, không xem thường, không khinh rẻ một chúng sinh nào, dù là hạng người mà xã hội cho là thấp kém, huống chi đến sự giết hại một cách vô ý thức, vì tư kỷ, vì vô minh. Vậy nên, hết thảy hành động tự lợi, lợi tha của người Phật tử mà gọi rằng lợi, là phải hướng về mục đích "phát huy Phật tánh" ấy.

Phật tử gánh vác nhiệm vụ ấy và hành động với tất cả cố gắng vì tự nhận là bổn phận thì dầu bị khổ nhục, dầu bị tai hại gì, cũng bền chí lướt qua và coi đó là thành công chứ không phải hy sinh. Ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh là tượng trưng đầy đủ cho tinh thần Phật tử đó vậy.
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1721
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Hòa Thượng Thích Thiện Siêu

Gửi bài gửi bởi KMD »

LƯỢC GIẢNG KINH PHÁP HOA
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
Tu Viện Kim Sơn ấn hành PL. 2542-1998

NHÀ NHƯ LAI, ÁO NHƯ LAI, TÒA NHƯ LAI

Pháp Hoa là một bộ kinh rất cao quý, tóm thâu tất cả giáo lý mà Phật đã dạy cho đệ tử suốt 45 năm. Trước khi thuyết kinh này, vì căn cơ các hàng đệ tử không đồng, Ngài đã dùng nhiều phương tiện để dẫn dắt họ dần dần đến Nhất thừa đạo. Đến khi căn cơ chúng sanh đã thuần thục, Phật mới nói thẳng đạo Nhất thừa. Nhất thừa đạo không có nghĩa là phủ nhận tất cả những pháp môn phương tiện mà Phật đã nói trước đây, mà chỉ muốn nói rằng, những pháp môn trước kia là những nấc thang, những phương tiện để giáo hóa chúng sanh vào Nhất thừa. Như y sĩ sau khi đã hiểu rõ căn bệnh, hiểu rõ thuốc chữa bệnh, cách chữa bệnh, mới cho bệnh nhân dùng thuốc này thuốc khác. Đức Phật cũng thế, với trí tuệ, Ngài chữa lành mọi căn bệnh của chúng sanh, tùy căn cơ mà dùng phương tiện này khác, chứ không phải đem tất cả thuốc cho uống một lúc. Chẳng hạn khi người đau bụng, y sĩ bảo kiêng sữa và cho các thuốc trị đau bụng, sau đó khỏi bệnh, y sĩ lại bảo uống sữa để thêm sức. Nếu bệnh nhân không hiểu biết, thì sẽ bảo y sĩ trước sau bất nhất, trước bảo không uống sau lại bảo uống. Phật cũng thế, trước chỉ nói pháp Tứ đế, Nhân vô ngã... để chúng sanh giải thoát sanh tử luân hồi. Khi ngã chấp đã được phá trừ mà pháp chấp chưa trừ thì giác ngộ chưa được rốt ráo, do đó Phật lại dạy thêm, phá trừ pháp chấp để giải thoát hoàn toàn. Nhưng có hàng đệ tử lại nghĩ, trước Phật đã dạy lý Tứ đế để tu chứng Niết-bàn, bây giờ lại nói đó chỉ là phương tiện, còn có pháp Nhất thừa cao hơn nữa. Như vậy là Phật nói trước khác, sau khác, vì nghĩ thế nên trong hội Pháp Hoa, có 5000 Tỳ-kheo tăng thượng mạn bất tín đứng dậy đi ra. Nhân đấy đủ biết, kinh Pháp Hoa là một bộ kinh tối thượng thừa, Phật nói để đưa đệ tử đến Nhất thừa đạo, để ngộ nhập Phật thừa, chỉ dành cho hạng căn cơ đã thuần thục. Cho nên ai viết chép, thọ trì, giảng nói được kinh này thì người ấy công đức vô lượng. Nếu không nhờ có lòng tin lớn, do trồng căn lành từ vô lượng kiếp thì khó mà làm được việc này.

Trong khi đọc tụng giảng nói Pháp Hoa, người ấy ít nhất phải có hiểu biết, thực hành, theo lời kinh dạy thì mới được lợi ích cho người nghe, cũng như người nói, nếu không, sự thọ trì đọc tụng, giảng nói không có lợi nhiều. Như trong pháp hội của đức Lục tổ Huệ Năng, có vị thầy Pháp Đạt một hôm đến tham bái, đảnh lễ Tổ ba lạy mà đầu không sát đất, Tổ quở: Lạy là để phá trừ kiêu mạn, tỏ lòng cung kính, lạy mà đầu không chấm đất chắc trong lòng còn ôm giữ một điều gì? Pháp Đạt nói: Tụng kinh Pháp Hoa đã được 3000 bộ mà chưa thấy đạo. Tổ dạy: Dù có tụng ba vạn bộ đi nữa mà không hành thì cũng vô ích. Nếu hành được tinh thần Pháp Hoa thì sẽ cùng tôi sánh vai mà đi. Kinh Pháp Hoa đã dạy một hạnh khiêm tốn nhẫn nhục qua điển hình ngài Bồ-tát Thường Bất Khinh, một vị Bồ-tát mà ra đi gặp ai cũng cung kính cúi đầu nói: "Tôi rất kính trọng các ngài, không dám khinh mạn vì các ngài thực hành đạo Bồ-tát sau sẽ thành Phật". Có người nghe thì hoan hỷ vì cho đó là lời chúc tụng. Có người nghe cũng dửng dưng vì không hiểu Ngài muốn nói gì. Nhưng có người nghe thì nổi sân vì cho rằng Ngài chọc tức mình, nên mắng nhiếc đánh đập, nhưng Ngài vẫn giữ một tâm niệm bình thản đối với tất cả mọi người vì Ngài biết rõ mọi người đều có Phật tánh, biết người nào nghe Kinh Pháp Hoa đều sẽ thành Phật, vì kinh dạy: "Nhược hữu văn pháp giả, vô nhất bất thành Phật". Tất cả chúng sanh, hoặc trong hiện tại, hoặc ở quá khứ, hoặc vị lai, thế nào cũng có lần nghe kinh Pháp Hoa, mà đã nghe được thì sẽ có ngày thành Phật. Vì biết rõ như vậy, nên Ngài cung kính tất cả. Lý do thứ hai khiến Ngài cung kính, kính họ là kính sự hiểu biết của mình, sự hiểu biết đó là mỗi chúng sanh đều có Phật tánh. Thứ ba cung kính họ tức là cung kính lời Phật dạy, phải khiêm cung với tất cả mọi người. Nếu mình khinh người, tức là khinh lời đức Phật dạy, mà cũng khinh luôn cả sự hiểu biết của mình. Điển hình Bồ-tát Thường Bất Khinh ấy đủ làm cho chúng ta từ bỏ tâm kiêu mạn, và thay vì nói bậy, hí luận vô ích, thả tâm ý tán loạn quàng xiên, thì tụng Kinh, chừng ấy cũng được lợi lạc. Nhưng nếu không phá trừ kiêu mạn, thực hành hạnh khiêm cung thì mất rất nhiều công đức của việc tụng đọc. Tụng kinh mà còn cần chú ý học hỏi để thực hành tinh thần Kinh, huống chi giảng nói cho người. Tự tụng đã khó, đem nói cho người lại càng khó hơn. Cho nên đức Phật dạy, ai giảng nói Kinh này, người ấy đã trồng căn lành từ nhiều kiếp. Nhưng muốn cho sự giảng nói kinh này viên mãn lợi ích cả mình lẫn người, thì người giảng nói cần hội đủ ba đức tính như phẩm Pháp sư trong kinh đã dạy. Đó là ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai.

Chúng sanh ở trong tam giới là một cái nhà do nghiệp mình tạo ra, đó là những nghiệp hữu lậu, tham sân si phiền não. Bây giờ người muốn nói kinh Pháp Hoa thì đừng ở trong nhà đó, mà phải lấy tâm từ bi làm nhà. Từ là cho niềm vui, bi là cứu nạn khổ. Cho vui khi thấy chúng sanh yên lành, cứu khổ khi thấy chúng sanh đau khổ. Như ba mẹ thấy con vui khỏe mạnh thì cho thêm áo, giầy... làm cho nó vui hơn, hay hoan hỷ với nó, đó là lòng từ. Nhưng khi nó đau ốm thì săn sóc, cho thuốc men, cơm cháo là bi. Đức Phật cũng vậy, đối với chúng sanh đã có nghiệp quả tốt, Ngài dùng Từ để giáo hóa, vì cái tốt trong tam giới chưa phải giải thoát, nên Ngài đem những thiện pháp xuất thế khiến cho họ tiến tu, đó là lòng Từ. Nhưng đối với những chúng sanh bị nghiệp chướng đau khổ trói buộc, thì Phật dùng những pháp môn dạy chúng ta tu để trừ nghiệp chướng, để hết đau khổ, đó là Bi. Nhưng thực hiện lòng từ bi đó không phải một ngày, hai ngày mà thành được. Kinh đã chia ra ba cấp bực từ bi là:

1. Chúng sanh duyên từ.

2. Pháp giới duyên từ, hay đồng thể đại bi.

3. Vô duyên từ hay Vô duyên đại từ.


Chúng sanh duyên từ: Là lòng từ bi còn tướng đối đãi, có duyên mới phát khởi, ví dụ có thấy chúng sanh đau khổ mới phát lòng thương, khi cảnh khổ qua rồi thì tâm từ bi cũng lặn mất. Lòng từ bi có sinh diệt đối đãi ấy, gọi là chúng sanh duyên từ.

Pháp giới duyên từ: Là Phật, Bồ-tát thấy rằng tất cả chúng sanh sinh tồn đều có tương quan mật thiết với nhau. Ví dụ: Một người đi buôn, một người làm ruộng, một thầy giáo, một học sinh, một người nội trợ... Những người này nếu nhìn một cách phiến diện, chúng ta thấy họ không tương quan gì với nhau, vì mỗi người làm một công việc. Nhưng sự thật thì tất cả những người ấy đều có tương quan sinh tồn, giúp đỡ lẫn nhau. Hiểu được như vậy, thì không còn cái tánh bất chấp quyền lợi chung mà bảo vệ quyền lợi riêng rẽ. Cái biết của chúng ta hiện tại, chẳng hạn như biết làm toán, là nhờ những người trong quá khứ hoặc đã qua đời, hoặc đã đi chỗ khác. Đức Phật tuy đã diệt độ mà giáo lý của Ngài vẫn còn tác dụng giúp chúng sanh giác ngộ, vẫn là một duyên lành, một làn gió mát cho những ai thực hành theo. Như vậy, giữa Phật và chúng sanh, giữa những người trong một quốc gia hay rộng hơn, nhân loại trên thế giới, suy cho cùng đều có tương quan với nhau, gọi là trùng trùng duyên khởi, hay pháp giới, tức là cái nguyên lý nương nhau mà thành tựu. Căn cứ trên lý "Pháp giới trùng trùng duyên khởi" đó mà phát lòng từ bi thì gọi là pháp giới duyên từ, hay đồng thể đại bi. Lý trùng trùng duyên khởi này luôn luôn hiện hữu nơi sự vật, chúng không bao giờ gián đoạn, hay có hạn lượng, nên từ bi căn cứ trên đó cũng không có sinh diệt, hạn lượng, không phân biệt mình người, thân, sơ, loài người hay loài vật. Hoặc mình có Phật tánh, các người khác, chúng sanh khác cũng đều có Phật tánh. Mình và người khác, chúng sanh khác tuy cách biệt sang hèn nhưng Phật tánh thì vốn đồng nhất thể. Cũng như cánh tay mặt, cánh tay trái, tuy khác nhau nhưng đồng một thân thể. Vậy khi cánh tay trái bị thương, tay phải xức thuốc là dựa trên tính đồng nhất thân thể đó mà làm, chứ không phải phân biệt bỉ thử. Đồng thể đại bi cũng vậy.

Cao hơn tất cả là Vô duyên từ: Là lòng từ bi hoàn toàn không dựa vào một lý lẽ nào để phát khởi, không chờ đợi đối tượng, vô điều kiện. Như mặt trời chiếu sáng, không tính toán lựa chọn chỗ này thì chiếu xuống, chỗ kia không chiếu xuống. Hai đức từ bi sau này bao la như vũ trụ của chư Bồ-tát và Phật, còn Phật tử chúng ta thì chỉ thực hành chúng sanh duyên từ, nhưng đấy cũng là những mục tiêu mà chúng ta mong mỏi hướng đến, để sau này cũng sẽ có được pháp giới duyên từ và vô duyên từ như chư Phật và Bồ-tát.

Tâm từ bi là cái "Nhà Như Lai", trong đó người nói kinh Pháp Hoa phải ở mới nói kinh được viên mãn. Đó là điều kiện thứ nhất.

Điều kiện thứ hai, là "Mặc áo nhu hòa nhẫn nhục". Đã được tâm từ bi nhưng cần phải phô diễn cách nào? Cần phải có đức tánh mềm mỏng, ái ngữ, chứ không phải chỉ cần có tâm từ bi là được, rồi cứ việc nói lời khó chịu, thái độ gay gắt. Có những bà mẹ thương con, nhưng cũng chính vì lòng thương đó, mà thường đánh mắng nó, không nói lời ôn tồn dạy dỗ, hay thầy giáo vì thương học trò mà đánh đập khi nó làm bài sai... Lòng từ bi thiếu mềm mỏng đó thường dễ gây đau khổ. Vậy ngoài đức từ bi cần phải có ái ngữ làm cho mọi người ưa mến thích nghe. Kinh Pháp Hoa là kinh tối thượng thừa, nan tín nan giải, nếu nói bằng lời thô bạo, cứng cỏi, thì chúng sanh làm sao nghe lọt lỗ tai được. Như viên thuốc chữa bệnh rất hay mà quá đắng, thì phải bọc một lớp đường, mới cho trẻ uống được. Chúng sanh đối với Phật Pháp cũng như trẻ con vậy. Thuốc Pháp Hoa là thuốc đắng tối thượng thừa, nếu không bọc một lớp đường nhu hòa nhẫn nhục thì khó mà đem cho chúng sanh uống được.

Suốt đời đức Phật luôn luôn nhu hòa nhẫn nhục. Như có lần đi khất thực, Ngài gặp một người ác cản chận lại mắng rủa. Ngài vẫn im lặng đứng lại để nghe ông ta nói xong, rồi ôn tồn hỏi: Ở nhà ngươi chắc cũng có khi bà con đến thăm chứ? Người ấy đáp: Có chứ sao không. Ngài hỏi tiếp: Mỗi lần họ đến thăm chắc cũng có khi ngươi dọn quà bánh mời ăn? Có. Và nếu họ không ăn thì phần quà ấy về ai? Người kia đáp: Thì về tôi chứ ai. Khi ấy đức Phật bảo: Cũng thế, nãy giờ ngươi dùng lời thô bỉ mắng Ta, mà Ta không nhận thì những lời ấy hẳn trở về ngươi. Vậy Ta khuyên ngươi đối với ai cũng không nên dùng lời thô bỉ mà nên dùng lời hòa nhã. Nhờ nhu hòa nhẫn nhục mà Phật đã khai hóa cho người ấy. Vì người mắng mình bao giờ cũng mang một thành kiến, hoặc vì thấy bộ tịch mình mà họ không ưa, hoặc vì việc làm của mình động chạm đến quyền lợi của họ, hoặc vì họ nghe lầm, nghe xuyên tạc về mình. Muốn thoát khỏi cảnh sân si, tật đố, cần phải nhu hòa nhẫn nhục mới bình tĩnh để đối phó, chứ mình nóng nảy đáp lại thì không khác gì đổ dầu thêm vào lửa. Nhưng nhẫn nhục của đức Phật là nhẫn nhục trong trí tuệ sáng suốt, nhẫn để giáo hóa, như khi Ngài hỏi lại kẻ đã mắng nhiếc mình. Đức nhẫn này rất cần để vượt mọi khó khăn.

Nhẫn có ba thứ:

1. Nại oán hại nhẫn: Nhẫn trước lời sỉ nhục thù hằn, chuyên gây khó khổ của loài người khác đối với mình.

2. Kham thọ khổ nhẫn: Nhẫn đối với những vật vô tình đem lại thọ khổ cho chúng ta như nóng, lạnh, đói, khát. Nếu người hành đạo nửa chừng bỏ tu vì không chịu nổi những chướng duyên này, ấy là vì không kham nhẫn.

3. Vô sanh pháp nhẫn: Cái nhẫn cao nhất. Vì biết các pháp vốn vô sanh. Đã vô sanh thì lời mắng nhiếc sỉ nhục của người ta nói với mình cũng vô sanh. Ví dụ câu nói: "Anh là đồ ngu", mỗi đơn từ không phải lời mắng, chỉ vì chúng ta đem tâm phân biệt so đo ráp nó lại, chấp cái vô sanh làm sanh, nên mới khó chịu. Nếu biết rõ thực tính của nó là vô sanh, thì nó không thành một lời mắng, lấy đâu mà giận mà khổ. Mọi sự khác cũng vậy, đều vô sanh. Tin được điều đó thì không thấy có điều nhục đế mà nhẫn gọi là vô sanh pháp nhẫn.

Cuối cùng điều kiện thứ ba của người giảng kinh là phải ngồi Toà Như Lai: Ngồi là an trú, tòa Như Lai là nhất thiết pháp không, "không" đây có nghĩa là vô tự tánh của các pháp. Tất cả các pháp đều vô tự tánh, vì vô tự tánh nên bất khả đắc chứ không phải hoàn toàn là trống không. Đức Phật an trú trong chân không đó nên gọi là ngồi tòa Như Lai. Kinh Kim Cương nói: "có bao nhiêu chúng sanh Ta đều độ cho nhập vô dư Niết-bàn, diệt độ vô số vô biên chúng như vậy mà thật không thấy có chúng sanh nào được độ". Trọn đời Ngài độ sinh mà không thấy có chúng sinh nào được độ, nên sự thuyết pháp độ sinh mới viên mãn. Vì nếu cứ trên mặt giả tướng mà nhìn, thì thấy chúng sanh nhiều vô cùng vô tận, biết đời nào độ cho hết? Nhưng đức Phật ở trong vô tự tánh, trong vô sanh của các pháp mà nhìn, nên không còn thấy tướng chúng sanh, lấy đâu có nhiều có ít? Cho nên Ngài nói pháp cho một người nghe thì cũng như nói cho nhiều người, vì Ngài đem tâm giác ngộ tâm bình đẳng mà nói pháp. Đứng trên tâm niệm bình đẳng đó, thì dù chỉ có một người nghe, Ngài cũng không phiền muộn. Có nhiều người theo, Ngài cũng không hớn hở. Chúng sanh nghe mà hoan hỷ phấn khởi, Ngài cũng không lấy đó làm mừng. Nghe mà uể oải nhác nhớm Ngài cũng không bực bội. Nghe mà dửng dưng Ngài cũng không chấp trước. Thái độ bình đẳng giải thoát đó của đức Phật đối với ba hạng người nghe pháp như thế, gọi là ba niệm đại bi. Nhờ Ngài đã ngộ nhất thiết pháp không, an trú trong đại bi tâm niệm đó, nên Ngài mới có thể nói pháp độ sanh suốt 45 năm, nếu không, việc giáo hóa độ sanh sẽ bị những người biếng nhác giải đãi, người không ưa, làm cho Ngài chán nản.

Tóm lại, ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai và ngồi tòa Như Lai là ba đức tính, ba điều kiện để việc đọc tụng, giảng nói kinh Pháp Hoa được rốt ráo viên mãn.

Hòa thượng Thích Trí Thủ trì tụng kinh Pháp Hoa đã có lời nguyện như sau:

"Một lòng kính lạy Phật đà,

Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai,

Con nguyền mặc áo Như Lai,

Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời".

Phật tử chúng ta trì tụng kinh Pháp Hoa cũng nên noi gương Hòa thượng phát nguyện ở nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi tòa Như Lai, để cho việc đọc tụng biên chép thọ trì kinh Pháp Hoa được viên mãn lợi ích vậy.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”