"Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Các bài viết học thuật về môn tứ trụ (tử bình, bát tự)
VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 22. Mẫu Tượng

Biết Mẫu từ là đạo cứu tế,
Mới có mừng ngọn Dưa vô tận.


Nguyên chú: Nhật chủ là Mẫu, chỗ ngày sinh ra là Tử. Như nhật chủ Giáp Ất, toàn cục đều là mộc, ở trong có 1,2 hỏa khí, là Mẫu vượng Tử cô, xu thế phải nhiều mới lấy sinh con cháu, mới trở thành ngọn Dưa kéo dài, rồi sau đó lưu truyền đi ở nghìn đời.

Nhâm thị viết : Mẫu nhiều Tử cô, không những Tử phục theo thế Mẫu, mà tình Mẫu cũng dựa vào Tử, cho nên Mẫu Tử hai người, đều không nên tổn ức. Đành phải trợ giúp thế cho Tử, thì Mẫu từ mà Tử ích hưng vượng vậy. Như nhật chủ Giáp Ất mộc là Mẫu, bên trong chỉ có một hai khí hỏa, còn lại đều là mộc, Mẫu nhiều là bệnh. Một là, không thể thấy thủy, thấy thủy thì Tử ắt bị tổn thương; Hai là, không thể thấy kim, thấy kim thì ắt phải động đến tính Mẫu. Mẫu Tử bất hòa, thế của Tử càng cô, duy chỉ có hành vận mang hỏa thổ, thì tính Mẫu trở nên hiền từ, tất hướng về Tử. Tử mới có thể thuận theo ý của Mẫu mà sinh cháu, ghép thành ngọn dưa kéo dài, mừng phát huy ở dưới nghìn đời, nếu hành vận thổ mang thủy, thì tình cảm Mẫu có thay đổi, trái lại mà không tha thứ cho Tử vậy.

398 - Mậu Ngọ - Giáp Dần - Ất Mão - Kỷ Mão

Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân

Nhật nguyên Ất Mão, sinh vào tháng Dần giờ Mão, toàn cục đều là mộc, chỉ có chi năm Ngọ hỏa, là Mẫu vượng Tử cô. Hỉ kỳ hội Tử, Dần Ngọ bán hội hỏa cục, tính Mẫu từ mà hướng về Tử, Tử cũng thuận theo ý Mẫu, mà sinh cháu là Mậu thổ. Lại hỉ trong vận hỏa thổ, cho nên thiếu niên sớm đăng bảng Hổ, thân nhập Phượng trì, làm quan Thị Lang. Giao vận Canh Thân, chạm đến tính Mẫu, hết lộc.

399 - Quý Mão - Bính Thìn - Giáp Dần - Ất Hợi

Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào cuối mùa xuân, chi toàn phương đông, một điểm Bính hỏa hư nhược, là Mẫu nhiều Tử cô. Thìn là thấp thổ, hối hỏa dưỡng mộc, kiêm thấu can Quý thủy, gặp giờ Hợi vượng, Mẫu không có tâm từ ái cứu giúp, lại có ý tiêu diệt. Vận đầu Ất Mão Giáp Dần, trên có tình sinh phù ái Tử, tự nhiên vui vẽ. Giao vận Quý Sửu thổ mang thủy, tâm Mẫu tất thay đổi, Tử không thể an ổn, phá bại dị thường. Đến vận Nhâm Tý, khắc tuyệt Tử, tan nhà nát cửa, tự vẫn mà chết.


Chương 23. Tử Tượng

Con biết hiếu mới dưỡng người thân,
Mới hòa hợp xuôi thành đại thuận.


Nguyên chú: Nhật chủ là Tử, sinh ra ngày là Mẫu. Như Giáp Ất toàn cục đều là mộc, bên trong có 1,2 khí thủy, nhiều là Mẫu suy. Xu thế phải nhiều mới để an Mẫu. Dụng kim để sinh thủy, dụng thổ để sinh kim, thì thành tình Mẫu Tử, là đại thuận vậy, giả sử không có kim, thì thần thủy phải dựa vào mộc, mà hành đất mộc hỏa kim thịnh cũng được.

Nhâm thị viết: Tử đa Mẫu suy, Mẫu dựa vào Tử, tâm cần phải yên lòng Mẫu, cũng không thể nghịch tính của Tử. Như ngày Giáp Ất là chủ, toàn cục đều là mộc, ở trong có 1,2 khí thủy, gọi là Tử nhiều Mẫu cô, tình của Mẫu dựa vào ở Tử, nhất định tâm phải an Mẫu. Một là, không thể thấy thổ, thấy thổ thì Tử lưu luyến phụ nữ mà quên chiếu cố đến Mẫu, thì Mẫu bất an vậy. Hai là, không thể thấy kim, thấy kim thế Mẫu cường mà không dung thứ cho Tử, Tử tất phản nghịch vậy. Duy chỉ có hành vận kim mang thủy, khiến cho kim không khắc mộc mà sinh thủy, thì tình Mẫu tất dựa vào Tử, tình của Tử cũng thuận theo Mẫu vậy, để thành đại thuận. Nếu hành vận kim mang thổ, tính Mẫu nhất định hung hãn, Mẫu Tử đều không thể an, việc đời ai cũng như vậy cả, bốn chương này tuy lấy mộc luận, hỏa thổ kim thủy cũng đều suy ra như vậy.

400 - Quý Hợi - Ất Mão - Giáp Dần - Ất Hợi

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào giữa mùa xuân, Mão Hợi Dần Hợi củng hợp, toàn cục đều là mộc, thì can năm Quý thủy không có thế, là Tử vượng Mẫu cô, tình dựa vào ở mộc, tính mộc cũng dựa vào ở thủy. Vận đầu Giáp Dần Quý Sửu, nhận được bề trên che chỡ, sớm nhập học. Vận Nhâm Tý được bảng Hương, vận Tân Hợi kim thủy tương sinh, từ huyện lệnh mà thăng cấp tỉnh. Đến vận Canh Tuất, thổ kim cùng vượng, là Mẫu Tử bất an, do mắc tội mất chức mà chết.

401 - Ất Hợi - Kỷ Mão - Giáp Dần - Giáp Tý

Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào giữa xuân, toàn cục là mộc, Hợi củng Mão, chi giờ Tý thủy cực suy, tình càng dựa vào ở mộc. Nhật chủ lưu luyến tư tình Kỷ thổ, mà không nhớ đến Mẫu. Vận Đinh Sửu, hỏa thổ cùng đến, lại không dung tha Mẫu. Ngạn ngữ có câu “Phụ nữ không hiền thì gia đình bất hòa”, hình thương hao phá. Vận Bính Tý, hỏa không thông căn, bình an không hung. Vận Giáp Tuất lại gặp thổ vượng, phá hao dị thường. Vận Ất Hợi, Quý Dậu sinh hóa không nghịch, liên tiếp cưới vợ sinh con, chấn hưng gia đình. Vận Nhâm Thân, cảnh về già càng tốt, là do kim thủy tương sinh vậy.
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 01:28, 19/04/15 với 1 lần sửa.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 24. Tính Tình

Ngũ khí không hung,
Tính tình trung hòa;
Trọc loạn thiên khô,
Tính tình lại nghịch.


Ngyên chú: Ngũ khí ở trên trời, chính là Nguyên Hanh Lợi Trinh; trao ở người, là tính Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, đau buồn, căm giận, khiêm tốn, tình ý thành thực thị phi, 5 chỗ này không ác, thì tồn tại mà thành tính, phát mà thành tình, ai cũng trung hòa, chỗ này lại thành trái tính trái nết.

Nhâm thị viết: Ngũ khí, là khí Tiên thiên “Lạc Thư” vậy. Dương ở Tứ chính, âm cư Tứ ngung, thổ vừa cư ở Cấn Khôn, chỗ này ứng với định vị Hậu thiên. Phương Đông thuộc mộc, ở mùa vào mùa Xuân, ở người là Nhân; Nam phương thuộc hỏa, ở mùa là vào mùa Hạ, ở người là Lễ; Phương Tây thuộc kim, ở mùa là vào mùa Thu, ở người là Nghĩa; Phương Bắc thuộc thủy, ở mùa là vào mùa Đông, ở người là Trí.
Khôn Cấn là chủ, Khôn ở Tây Nam, lấy hỏa sinh thổ, lấy thổ dưỡng kim vậy; Cấn cư Đông Bắc, vạn vật đều là ở thổ, Đông qua Xuân đến, không có thổ không thể ngăn thủy, không có thổ không thể trồng cây; tính giống như Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, không có Tín thì không thể thành. Cho nên Thánh nhân dịch Cấn ở Đông Bắc, tức là ý chỉ Tín đã thành. Trao ở con người, ngũ hành cần phải không ác, trung hòa thuần túy, thì có tình trắc ẩn, khiêm tốn, thành thật; nếu thiên khô hỗn trọc, thái quá hay bất cập, thì có tính thị phi, trái nghịch, kiêu ngạo vậy.

402 - Kỷ Sửu - Bính Dần - Giáp Tý - Mậu Thìn

Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân

Nhật nguyên Giáp Tý, sinh vào đầu xuân, mộc nắm lệnh mà không thái quá, hỏa cư vị trí tướng không gắt, thổ tuy nhiều mà không khô, thủy tuy thiếu mà không cạn, kim vốn không có mà âm thầm tích trữ, thì không bị hỏa khắc, mà được thổ sinh, không có bệnh tranh chiến, có tương sinh là đẹp. Là người không tùy tiện, hành động không kiêu căng xiểm nịnh hà khắc, có phong cách trong sạch, cung kính nhân hậu.

403 - Kỷ Dậu - Đinh Mão - Kỷ Mão - Ất Sửu

Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu

Nhật nguyên Kỷ Mão, sinh vào giữa xuân, thổ hư ít tín, mộc đa kim khuyết, âm hỏa không thể sinh thấp thổ, Tín Nghĩa đều hư. Mà bát tự thuần âm, một mực nịnh hót, tâm tồn tại việc hại người ích ta, ý manh nha cười trên nỗi đau người khác.

404 – Bính Tuất - Ất Mùi - Bính Tý - Giáp Ngọ

Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu

Bính sinh cuối mùa hạ, là hỏa viêm thổ táo, thiên can Giáp Ất, khô mộc trợ hỏa thêm gay gắt, lại sợ Tý thủy xung kích mạnh, tượng thiên khô hỗn loạn. Tính tình quái đãn, xử thế nhiều kiêu ngạo, lại thêm tranh giành nóng nảy như gió lửa, tính thuận theo ngàn vàng không tiếc, tính nghịch một hạt cải cũng phải chia, bởi vậy gia nghiệp phá bại không còn tồn tại.

Hỏa liệt mà tính táo, gặp kim thủy là kích động.

Nguyên chú: Hỏa mãnh liệt mà có thể thuận tính, tất phải rõ thuận, duy chỉ có kim thủy kích động, táo tranh chấp không thể chống lại vậy.

Nhâm thị viết: Hỏa táo mà liệt, biểu thị tính Viêm thượng, chỉ có thể dụng thấp thổ để nhuận, thì biết Lễ mà thành đức nhân từ; nếu gặp kim thủy kích động, thì tính hỏa càng mạnh mẽ mà không biết giữ Lễ, tất sinh tai họa vậy. Thấp thổ, là Sửu Thìn vậy, biểu thị làm mờ ánh sáng, hạn chế sự mãnh liệt, thì sáng vậy.

405 - Bính Tuất - Giáp Ngọ - Bính Ngọ - Kỷ Sửu

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Ất Hợi/ Canh Tý

Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh ở tháng Ngọ, năm tháng lại gặp Giáp Bính, là rất mãnh liệt vậy. Hỉ nhất giờ Sửu, can chi đều là thấp thổ, có thể khống chế Bính hỏa mãnh liệt, có thể làm mờ ánh sáng của Ngọ hỏa, là tính thuận, là đẹp tình, không xâm phạm dưới vậy. Là người có uy mà không mạnh mẽ, nghiêm mà không ác, danh lợi song toàn.

406 - Tân Tị - Giáp Ngọ - Bính Tý - Giáp Ngọ

Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý

Bính hỏa sinh ở tháng Ngọ giờ Ngọ, mộc tòng thế hỏa rất mãnh liệt vậy, không có thổ để thuận tính, kim vô căn, thủy không gốc, kích tính mãnh liệt, cho nên lúc nhỏ mất cha mẹ, dựa vào chỗ ở anh chị. Khoẻ mạnh dũng cảm không yên phận, năm 16 , 17 tuổi, vóc dáng khỏe mạnh to lớn, sức khỏe hơn người, thích luyện võ thuật, giao du kẻ vô lại vui cùng bè đảng ở địa phương, phóng đãng không đố kỵ, anh chị không thể ngăn cấm, sau vì đanh nhau với cọp, mà bị cọp cắn.

Thủy bôn mà tính nhu, nhận thần hỏa thổ.

Nguyên chú: Thủy thịnh mà bôn, tính rất cương rất gấp, chỉ có kim để đi, mộc để tiết, thì nhu hòa vậy.

Nhâm thị viết: Tính thủy vốn nhu, thế xung chạy, nhất là cương gấp, nếu gặp hỏa xung, thổ kích, nghịch tính mà càng cương vậy. Bôn, là thế cực vượng vậy, dụng kim để thuận thế, dụng mộc để khơi thông ứ tắc, chỗ gọi là Tòng theo thế vượng, tiếp nạp cuồng thần, tính lại nhu hòa. Đức ở trong cương, ý là dễ tiến khó thoái, tuy là trí xảo đa năng, mà không mất tình nhân nghĩa vậy.

408 - Quý Hợi - Giáp Tý - Nhâm Thân - Canh Tý

Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ

Nhật nguyên Nhâm Thân, sinh ở tháng Tý, năm giờ là Hợi Tý, can thấu Quý Canh, xu thế xung vượng, không thể cản trở vậy. Can tháng Giáp mộc héo khô, lại bị kim đốn, không thể nạp thủy, trái lại dụng Canh kim thuận theo khí thế. Là người cương nhu thành công, gồm đủ nhân đức, một lòng ăn học, không cầu danh dự. Vận đầu Quý Hợi, tòng theo vượng thần, cơm no áo ấm. Vận Nhâm Tuất thủy không thông căn, Tuất thổ kích động, hình tang phá hao. Vận Tân Dậu, Canh Thân, vào trường bỗ túc, lại sinh bốn con, gia nghiệp ngày càng tăng. Giao vận Kỷ Mùi, kích thế xung vượng, liên tiếp khắc ba con, phá hao dị thường, đến vận Mậu qua đời.

409 - Nhâm Dần - Nhâm Tý - Nhâm Thìn - Nhâm Dần

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ

Thiên can 4 Nhâm, sinh vào tháng tý, xu thế xung vượng. Hỉ nhất giờ Dần, khơi thông chỗ Thìn thổ ứ tắc, nạp vượng thần Nhâm thủy, cho nên không kiêu không ngạo, trời phú thông minh hơn người, đọc sách xem qua một lần là nhớ. Vận Giáp Dần nhập học, Ất Mão đăng khoa, làm sao nói số không thể thành tựu chỗ học? Đến vận Bính Thìn, xung kích vượng thủy, bầy Kiếp tranh Tài, hết lộc.

410 - Quý Mùi - Quý Hợi - Nhâm Tý - Mậu Thân

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Ất Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Nhật nguyên Nhâm Tý, sinh vào tháng Hợi giờ Thân, năm tháng thấu 2 Quý thủy, chỉ có thể thuận theo khí thế, không thể chảy nghịch. Ngại là hai chữ Mùi Mậu, kích động tính thủy, là đối địch giới không phải đảo nghịch, gây nên chuyện không hợp, không có kiêng nể. Vận đầu Nhâm Tuất, chi gặp thổ vượng, cha mẹ đều mất. Vận Tân Dậu Canh Thân, tiết thổ sinh thủy, tuy đường đi không chính đáng vô lại, may mắn tránh khỏi hung tai. Giao vận Kỷ Mùi, trợ thổ kích thủy, một nhà năm mạng, bị thiêu chết cháy.

Mộc chạy phương Nam mà sợ hãi yếu đuối.

Nguyên chú: Tính Mộc thấy hỏa là hiền lành, chạy phương Nam thì tính nhân ái mà hành lễ, tính sợ hải yếu đuối. Được trong đó, mà cảm thông khiêm tốn, vẫn là nhân nhượng, là rắc rối vậy.

Nhâm thị viết: Mộc chạy phương Nam, tiết khí thái quá, trong trụ có kim, tất được thủy để thông, thì hỏa không mãnh liệt; như không có kim, cần phải lấy Thìn thổ thu hỏa khí, được ở trong đó vậy, là người cung kính mà có lễ, hòa thuận mà trung tiết. Nếu như không có thủy để cứu thổ, lấy thổ làm mờ hỏa, phát tiết thái quá, thì thông minh tự phụ, lại thay đổi bất thường, mà thành lòng dạ đàn bà vậy.

411 - Canh Thìn - Nhâm Ngọ - Giáp Ngọ - Bính Dần

Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý

Nhật nguyên Giáp Ngọ, sinh vào tháng Ngọ, là mộc chạy phương năm, tuy giờ gặp lộc vượng, Bính hỏa phùng sinh, Dần Ngọ củng hỏa. Hỉ nhất là can tháng thấu ra Nhâm Thủy để cứu hỏa, nhưng mà Canh kim sinh Nhâm thủy, không thể khắc Bính là dụng, Canh kim không có Thìn thổ, cũng không thể sinh thủy. Trụ này chỗ đẹp là Thìn thổ, hối hỏa, dưỡng mộc, chứa thủy, sinh kim, khiến cho hỏa không mãnh liệt, mộc không khô, kim không chảy, thủy không cạn, hoàn toàn nhờ vào một chữ Thìn, tượng được trung hòa. Thân vận Nhâm thủy phùng sinh, dụng Ất Dậu kim vượng sinh thủy, bổ túc nhập học mà trúng thi Hương. Vận Bính Tuất hỏa thổ cùng vượng, tang chế chồng chất. Vận Đinh Hợi Nhâm thủy đắc địa, làm quan tỉnh Phúc Kiến, đức giáo song hành, thay đổi dân hóa. Gọi là Cương Nhu tương tế, kiêm cả nhân đức vậy.

412 - Bính Tuất - Giáp Ngọ - Giáp Thân - Bính Dần

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý

Nhật nguyên Giáp Thân, sinh vào tháng Ngọ, thấu 2 Bính hỏa, chi hội hỏa cục, mộc chạy nam phương, táo thổ không thể hối hỏa sinh kim, không có thủy thì Thân kim khắc hết, rất yếu mềm vậy. Bởi vì tư thông thân thiết, chẳng biết đạo lý, việc làm hồ nghi, thiếu quyết đoán, gây ra tâm tính đa nghi, tham lợi nhỏ, bỏ đại nghĩa, một chuyện không thành.

Kim thấy thủy để lưu thông.

Nguyên chú: Tính kim, rất chính trực, có tính quyết đoán, thấy thủy là tính Nghĩa mà thành được Trí, Trí thì nguyên thần không trì trệ, cho nên lưu thông. Gặp chính khí, là không cẩu thả lôi thôi, có biến hóa; gặp thiên khí, tất phiếm lưu.

Nhâm thị viết: Kim, vốn là cương kiện chính trực, có thể đảm đương đại sự, có thể quyết định mưu lớn, gặp thủy thì lưu thông chỉ có phía trước, có thể dụng trí vậy. Gặp chính khí, là kim vượng gặp thủy vậy, bên trong chính trực bên ngoài chu đáo, tài năng trí tuệ quyền biến, xử thế không làm tổn thương tính liêm khiết nhân ái, hình thái tự nhiên bình thường; thiên khí, là kim suy thủy vượng, việc làm hoang đường, ăn ở hai lòng, ý là có cậy thế ép buộc người ngoài.

413 - Giáp Thân - Quý Dậu - Canh Tý - Ất Dậu

Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý/ Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão

Canh sinh tháng Dậu, thêm năm giờ là Thân Dậu, mùa thu kim bén nhọn, hỉ tọa dưới Tý thủy, thấu lộ nguyên thần Quý thủy, tính kim lưu thông, tiết kỳ tinh hoa. Làm người đảm đương đại sự mà bốt trí việc làm có phương pháp, chỗ phức tạp mà chủ trương không hoang phí, mà khảng khái thi hành tốt, tự kiềm chế làm lợi cho người vậy.

414 - Nhâm Thân - Nhâm Tý - Canh Thìn - Bính Tý

Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ

Canh sinh giũa mùa đông, thiên can thấu 2 Nhâm thủy, chi hội thủy cục, là kim suy thủy vượng, vốn là thuộc tượng thiên lệch, càng lo giờ thấu Bính hỏa hỗn cục. Kim chủ Nghĩa mà ngay thẳng, thủy chủ Trí mà chu toàn, kim nhiều thủy ít, tài trí chu toàn mà hành động ngay thẳng, thủy phiếm kim suy, phương chính khí hết, tâm trí đủ thịnh. Trung niên gặp vận hỏa thổ, xung kích tính Nhâm thủy, hình thương hao phá, tài tán người ly biệt, nửa đời gian trá, dụ dỗ lừa tiền hại người, vẫn cứ trôi theo dòng nước. Phàm người nghèo hiểu rõ phú quý, số đã định trước, quân tử vui vẻ vẫn là quân tử, tiểu nhân phí công vẫn là tiểu nhân.

Khó nhất là Tây thủy trở về Nam.

Nguyên chú: Thủy ở Tây phương, phát nguyên rất dài, xu thế là tối vượng, không có thổ để chế, mộc để nạp, giống như thế cuồn cuộn mênh mông. Không thuận hành, lại hành Nam phương, thì tính nghịch, không suông sẻ khó mà chế chứ?

Nhâm thị viết: Thủy ở Tây phương, bắt nguồn từ núi Côn Lôn, thế chảy cuồn cuộn mạnh mẽ, là không thể cản trở vậy. Cũng có thể thuận tính, dụng mộc nạp thủy, thì tính trí tuệ được ở lòng nhân ái. Như dụng thổ chế, nếu không được tình, lại có họa xung bôn, tính vẫn nghịch mà cường bạo.

415 - Quý Hợi - Canh Thân - Nhâm Thân - Giáp Thìn

Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần

Nhật nguyên Nhâm Thân, sinh vào năm Hợi tháng Thân, Hợi là Thiên Môn, Thân là Thiên quan, tức là cửa Thiên Hà, thủy ở chính tây, khởi nguồn rất dài. Chỗ hỉ là can giờ Giáp mộc được Thìn thổ, thông căn dưỡng mộc, đủ để nạp thủy, thì tính trí mà được thành nhân ái, lễ cũng đầy đủ vậy. Là người có phẩm chất tụ hội kỳ lạ, không có xảo trá làm lợi mà tài hoa. Trung niên nam phương hỏa vận, được giáp mộc sinh hóa, danh lợi song toàn.

416 - Quý Hợi - Canh Thân - Nhâm Tý - Bính Ngọ

Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần

Nhật nguyên Nhâm thủy, sinh vào tháng Thân năm Hợi, thủy ở phương tây, thế chảy cuồn cuộn mãnh liệt, không có chỗ quy nạp, giờ phùng Bính Ngọ, xung kích mà nghịch tính. Là người hung bạo vô lễ, kiêm vận đến nam phương hỏa thổ, gia nghiệp phá bại không còn. Đến vận Ngọ, cưỡng bức vợ ngưòi, bị người đánh chết. Tục lấy Bính hỏa làm dụng, gặp vận hỏa thổ là tốt, không biết là kim thủy đồng tâm, chỉ có thể thuận mà không thể nghịch. Cần gặp vận mộc, có tình sinh hóa, có thể tránh được hung tai, mà là người cũng biết lễ vậy.

Chí cương là đông hỏa chuyển bắc.

Nguyên chú: Hỏa ở phương đông, lửa khí muốn viêm thượng, trong cục không có thổ để thu, thủy để chế, xu thế sao yên mà có thể đốt cháy mạnh mẽ? Nếu không thuận hành mà lại hành phương bắc, thì tính nghịch vậy, không thể cường bạo chăng?

Nhâm thị viết: Hỏa phương Đông, hỏa đồng lõa với thế mộc, thành thế Viêm thượng, không thể chống lại vậy, chỉ có thể thuận theo tính manh liệt, dụng thấp thổ để thu, thì tính mãnh liệt hoá thành đức nhân từ vậy. Một khi chuyển phương Bắc, thì chế thế đốt mãnh liệt? Tất là hung bạo vô lễ. Nếu không có thổ để thu, vẫn hành vận mộc hỏa, thuận theo khí thế, khiến cho lòng trắc ẩn mà không mất tính nhân từ.

417 - Bính Dần - Giáp Ngọ - Bính Ngọ - Kỷ Sửu

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý

Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh vào tháng Ngọ năm Dần, năm tháng lại thấu Giáp Bính, hỏa mãnh liệt thành thế viêm thượng, không thể cản trở. Hay nhất là ở giờ Sửu, là thấp thổ thu hỏa mãnh liệt, là người có dung có dưỡng, không kiêu ngạo nịnh bợ. Vận gặp thổ kim, vẫn được Sửu thổ hóa, liền đăng khoa Giáp, cai quản một quận.

418 - Đinh Mão - Bính Ngọ - Bính Ngọ - Canh Dần

Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý

Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh vào tháng Ngọ, năm giờ Dần Mão, Canh kim vô căn, bỏ qua không cần, cách thành Viêm thượng. Trong cục không có thổ để thổ tú, thi hương bất lợi, xuất thân binh nghiệp. Đến vận Mão làm quan, vận Nhâm mất chức; vận Dần được quân công, bỗng nhiên thăng chức quản lý một Đô (cơ quan hành chính giữa xã và huyện ở một số vùng trước đây). Vận Tân Sửu cơ sinh hóa vô khí, giao vận Canh Tý, xung kích Ngọ Dương Nhận, lại gặp năm Giáp Tý, lưỡng xung Dương Nhận, chết ở trong quân đội.

Cơ thuận sinh, gặp kích thần mà kháng.

Nguyên chú: Như mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, một đường thuận theo thứ tự tính tình, hiển nhiên hòa bình: Giữa gặp kích thần, mà không được toại nguyện tính thuận sinh, mà dũng mãnh kháng lại.

Nhâm thị viết: Thuận thì nên thuận, nghịch thì nên nghịch, thì hòa bình mà tính thuận vậy. Như mộc vượng được hỏa để thông, là thuận vậy; thổ để đi, là sinh vậy, không nên gặp kim thủy kích động vậy. Mộc suy, được thủy để sinh, lại thuận vậy; lấy kim trợ thủy, sinh ở trong nghịch vậy, không nên gặp hỏa thổ kích động vậy. Ta sinh là thuận, sinh ta là nghịch. Vượng thì nên thuận, suy thì nên nghịch, thì tính chính mà tình hòa vậy. Như gặp kích thần, vượng thì hùng dũng nóng tính, suy thì nhu nhược hèn nhát. Như cách cục được thuận nghịch theo thứ tự, tính tình vốn hòa bình, gặp tuế vận kích thần, cũng có thể biến thành mạnh mẽ. Nên nghiên cứu kỹ càng.

419 - Kỷ Hợi - Bính Dần - Giáp Dần - Nhâm Thân

Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào tháng Dần, mộc vượng được Bính hỏa thấu ra, là cơ thuận sinh, tượng thông minh sáng suốt, đọc sách xem qua là thuộc. Chỉ sợ giờ gặp kim thủy kích động, can năm Kỷ thổ hư thoát, không chế thủy được. Thêm vận đầu phương bắc thủy địa, chẳng những công danh khó thành, lại còn hình thương hao phá. Giao vận Tân Dậu, trợ thủy kích hỏa, hợp mất Bính hỏa mà mất mạng.

420 - Canh Dần - Mậu Dần - Giáp Ngọ - Nhâm Thân

Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân

Nhật nguyên Giáp Ngọ, sinh vào tháng Dần, thấu ra Mậu thổ, Dần Ngọ củng hỏa, là cơ thuận sinh, đức tính khẳng khái, tính tình lỗi lạc. Cũng ngại gặp giờ kim thủy kích động, đọc sách không được, phá hao đủ điều; thêm trung vận không trợ giúp, có chí mà không thành. Mừng xuân kim không vượng, hỏa thổ thông căn, thể dụng không tổn thương, về sau con cháu tiếp tục phát.

Thứ tự Nghịch sinh, thấy Nhàn thần mà cuồng.

Nguyên chú: Như mộc sinh ở Hợi, thấy Tuất Dậu Thân thì khí nghịch, không phải là chỗ tính ổn định, một khi gặp Nhàn thần như Tị Dậu Sửu là nghịch, thì tất phát mà thành điên cuồng.

Nhâm thị viết: Nghịch thì nên nghịch, thuận thì nên thuận, thì tính chính mà tình hòa, như mộc cực vượng lại được thủy để sinh, là nghịch vậy; kim để thành, trợ sinh nghịch vậy, không nên gặp nhàn thần Tị Sửu vậy. Như mộc cực suy, được hỏa để đi, là phản nghịch vậy; thổ để hóa, là thuận ở trong nghịch vậy, không nên thấy nhàn thần Thìn Mùi vậy. Chỗ này là cực vượng cực suy, lý chính là tòng vượng tòng nhược, ý là không phải nói vượng suy trước đó. Như cực vượng mà thấy nhàn thần, tất là điên cuồng; cực suy mà thấy nhàn thần, tất là thế cô nhu nhược. Gặp tuế vận cũng giống vậy, hỏa thổ kim thủy cũng như thế.

421 - Nhâm Tý - Tân Hợi - Giáp Dần - Giáp Tý

Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào tháng Hợi, thủy vượng mộc cứng, là cực vượng vậy. Một chút Tân kim, tòng theo thế thủy, tính không nghịch, chẳng những an ổn mà còn hài hòa, thứ tự nghịch sinh, càng đẹp là không có thổ, không nghịch tính thủy. Vận đầu phương bắc, nhập học đăng khoa. Vận Giáp Dần, Ất Mão, tòng theo vượng thần, làm quan quản một khu. Vận Bính Thìn, trên có tình củng hợp, tuy mất chức mà tránh được hung họa. Vận Đinh Tị gặp nhàn thần xung kích, nghịch tính mà mất.

422 - Nhâm Dần - Tân Hợi - Giáp Dần - Kỷ Tị

Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão/ Bính Thìn/ Đinh Tị

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh năm Dần tháng Hợi, Tân kim thuận theo thế thủy, không nghịch mộc, thứ tự nghịch sinh. Chỗ ngại là giờ Tị nhàn thần, hỏa thổ nghịch tính xung khắc, lại không thể chế thủy. Vận đầu Nhâm Tý, sản nghiệp hưng thịnh; vận Quý Sửu địa chi nhàn thần kết đảng, hình háo đủ điều. Vận Giáp Dần, Ất Mão, người của cùng gia tăng. Giao vận Bính Thìn, trợ khởi hỏa thổ, thê tử đều tổn thương, lại gặp hồi lộc, bản thân mắc chứng điên cuồng, nhảy sông tự tử.

423 - Mậu Tuất - Đinh Tị - Giáp Dần - Kỷ Tị

Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi

Nhật nguyên Giáp Dần, sinh vào tháng Tị, Bính hỏa nắm lệnh, tuy tọa lộc, mà tinh hoa bị tiết quá mức, hỏa vượng mộc phần, hỉ có thổ để đi, lý này là cực suy tòng nhược. Vận đầu Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, thuận tính hỏa thổ, tổ nghiệp hưng thịnh, lại được vạt áo học trò; vận Canh Thân nghịch tính hỏa, tiết khí thổ; đến năm Quý Hợi xung kích hỏa thế mà mất mạng.

Dương minh gặp kim, uất ức mà nhiều phiền phức

Nguyên chú: Dần Ngọ Tuất là Dương Minh, có khí kim phục ở bên trong, thì thành uất ức mà gặp nhiều phiền muộn.

Nhâm thị viết: Khí Dương minh, vốn là nhiều thông suốt như ý, nếu như gặp thấp thổ tàng kim, tất hỏa không thể khắc kim, kim lại không thể sinh thủy, mà thành uất ức. Cả đời ít được đắc ý, mà gặp nhiều thất ý, thì tâm uất ức mà chí thành tro bụi, mà nhiều phiền muộn vậy. Tất cần hành thuần vận âm trọc, dẫn thông kim thủy, mới toại nguyện vậy.

424 - Ất Sửu - Bính Tuất - Bính Ngọ - Canh Dần

Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ/ Tân Tị/ Canh Thìn

Nhật chủ Bính hỏa, chi đủ Dần Ngọ Tuất, Thực thần sinh vượng, là Chân Thần đắc dụng, cách cục tốt nhất. Vận đầu Ất Dậu, Giáp Thân, dẫn thông Sửu trong có tàng kim, gia nghiệp khá phong phú, lại được một vạt áo học trò. Chỉ ngại là chi hội hỏa cục, can giờ Canh kim lâm tuyệt, lại có Tỉ kiên tranh đoạt, không có tác dụng. Sửu có Tân kim phục bên trong uất ức, lại thi Hương không đạt; mà thiếu niên vận đến phương nam, gặp ba lần hồi lộc, hại 4 vợ, khắc 5 con, đến già một thân cô độc nghèo túng.

425 - Nhâm Tuất - Bính Ngọ - Bính Dần - Kỷ Sửu

Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý

Nhật nguyên Bính Dần, sinh tháng Ngọ, chi toàn hỏa cục, khí dương minh, chỗ này là do Kiếp Nhận nắm quyền, Nhâm thủy vô căn, không thể dùng, không bằng tạo trước nhiều vậy. Sửu có Tân kim phục ẩn ức, chỗ hỉ là, vận đến tây bắc đất âm trọc. Xuất thân quan lại, phát tài hơn mười vạn, bất ngờ làm quan, thăng chức một Châu, danh lợi lưỡng toàn, mà nhiều thông suốt vậy.

Dương trọc tàng hỏa, bao mà không thông.

Nguyên chú: Dậu, Sửu, Hợi là âm trọc, có hoả khí tàng ở bên trong, thì không phát sáng mà không thông vậy.

Nhâm thị viết: Khí âm hối, vốn khó phấn phát, như gặp thấp mộc tàng hỏa, âm khí quá thịnh, hãm mà không thể sinh hỏa, mà thành họa ứ đọng ẩm ướt. Do tâm dục tốc mà không đuổi chí, lâm việc mà không quyết đoán, cho nên tâm tính đa nghi. Tất cần phải thuần hành vận dương minh, dẫn thông khí mộc hỏa, thì mở rộng mà thông đạt vậy.

426 - Quý Hợi - Tân Dậu - Quý Sửu - Nhâm Tuất

Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão

Tạo của Trần Bảng nhãn, Quý thủy sinh ở giữa mùa thu, chi đủ Dậu, Hợi, Sửu là âm trọc, thiên can có 3 thủy 1 Tân, gặp giờ Tuất, là âm trọc tàng hỏa, trong Hợi tàng thấp mộc, không thể sinh hỏa không có ánh sáng. Hỉ vận đến đông nam là đất Dương minh, dẫn thông khí bao tàng, thân cư đỉnh Giáp, phát huy chí nguyện vậy.

427 - Đinh Sửu - Tân Hợi - Quý Hợi - Quý Hợi

Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị

Địa chi 3 Hợi 1 Sửu, thiên can 2 Quý 1 Đinh, rất âm trọc, can năm Đinh hỏa, không thể bao tàng (chứa đựng), hư mà không sáng, Hợi tàng Giáp mộc, không thể dẫn trợ, hỉ vận đến nam phương đất Dương minh, lại gặp năm Bính Ngọ, Đinh Mùi, liền đăng khoa Giáp, làm quan đến chức Quan Sát.

428 - Tân Sửu - Kỷ Hợi - Tân Dậu - Quý Tị

Mậu Tuất/ Đinh Dậu/ Bính Thân/ Ất Mùi/ Giáp Ngọ/ Quý Tị

Chi toàn Sửu, Hợi, Dậu, can tháng thấp thổ gặp can Tân Quý khí âm trọc, chi giờ Tị hỏa, vốn có thể sưởi ấm cục, đại tượng so ra đẹp hơn tạo trước, chẳng biết Tị Dậu Sửu đủ kim cục, thì Giáp mộc ở trong Hợi bị thương khắc; Tị hỏa Sửu thổ là Tài Quan, lại hóa Kiêu mà sinh Kiếp vậy. Dù cho vận hỏa thổ, không thể dẫn ra, xuất gia thành tăng.

Cục Dương Nhận, chiến thì ra oai, nhược thì gây sự; Thương quan cách, thanh thì khiêm hòa, trọc thì cương mãnh. Dụng thần nhiều, tình tính bất thường; chi giờ là Chá, là đầu voi đuôi chuột.

Nguyên chú: Cục Dương Nhận, phàm lục dương, như là Ngọ hỏa, can đầu thấu Bính, chi lại hội Tuất hội Dần, hoặc là được Mão để sinh, đều là vượng. Thấu Đinh là lộ Nhận, Tý xung là chiến, Mùi hợp là tàng, lại gặp Hợi thủy khắc, Nhâm Quý thủy chế, Sửu Thìn thổ tiết, là nhược vậy. Thương quan cách, như chi hội Thương cục, can hóa sao Thương, không xuất hiện trùng lắp, không có Thực hỗn, thân vượng có Tài, thân nhược có Ấn, gọi là Thanh, trái lại là Trọc, mùa hạ mộc thấy thủy, mùa đông kim gặp hỏa, thanh mà còn tú, là hết sức phú quý.

Nhâm thị viết: Cục Dương Nhận, vượng thì tâm cao chí ngạo; chiến thì dựa thế ra oai; nhược thì đa nghi nhút nhát; hợp thì già mồm lập dị. Như nhật chủ Bính hỏa, lấy Ngọ là Dương Nhận, can thấu Đinh hỏa là lộ Nhận. Chi hội Dần Tuất, hoặc gặp Mão sinh, can thấu Giáp Ất, hoặc gặp Bính trợ giúp, đều gọi là vượng. Chi gặp Tý là xung, gặp Thân Hợi là chế, được Sửu Thìn là tiết, can thấu Nhâm Quý là khắc, gặp Kỷ thổ là tiết, đều gọi là nhược. Chi được Mùi là hợp, gặp Tị là giúp, thì là trung hòa vậy. Thương quan cần phải phân ra Chân, Giả. Chân, thân nhược có Ấn, không thấy Tài là thanh; Giả, thân vượng có tài, không thấy Ấn là quý. Chân, nguyệt lệnh là Thương quan, hoặc chi hội Thương cục, lại thấu ra ở thiên can; Giả, là toàn cục Tỉ Kiếp, không có Quan tinh để chế, tuy có Quan tinh, khí lực không thể đối địch. Trong trụ bất luận Thực Thương, đều có tác dụng, dẫu không có cũng tốt đẹp, chỉ không nên thấy Ấn, thấy Ấn phá Thương là hung. Phàm Thương quan cách, thanh mà đắc dụng, là người cung kính mà có lễ, hòa nhã trung tiết, nhân tài trác việt, học vấn uyên thâm, trái lại chỗ này thì là người kiêu ngạo, cương mà vô lễ, lấy mạnh hiếp yếu, nịnh bợ xu lợi. Dụng thần nhiều, là thiếu ý chí, tâm dễ thay đổi; chi giờ là Chá, hồ nghi mà không quyết đoán, lúc đầu siêng năng cuối cùng lại biếng nhác; mùa Hạ mộc kiến thủy, trước tiên cần phải có kim, thì thủy có nguồn; mùa Đông, kim gặp hỏa, cần thân vượng có mộc, thì hỏa có thể cháy, phú quý không nghi ngờ. Nếu mùa Hạ thủy không có kim, mùa Đông hỏa không có mộc, danh lợi đều hư vậy.

429 - Bính Dần - Giáp Ngọ - Bính Thân - Nhâm Thìn

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý

Bính hỏa sinh tháng Ngọ, cục Dương Nhận gặp Dần Thân, sinh củng lại gặp Tỉ trợ giúp, có thể biết là vượng vậy. Hỉ nhất giờ Thìn, Nhâm thủy thấu lộ càng đẹp, Thân Thìn tiết hỏa sinh kim mà củng thủy, đúng là Ký tế, cho nên sớm đăng Khoa giáp, liên tục thăng quan, chấp chưởng binh hình, nắm đại quyền sinh sát.

430 - Bính Thân - Giáp Ngọ - Bính Dần - Nhâm Thìn

Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý

Tạo này cùng trạo trước giống nhau, tạo trước Bính tọa Thân kim, có tình sinh củng Nhâm thủy, tạo này Thân kim cách xa tở trụ năm, lại bị Tỉ Kiếp đoạt, đến Thân vận sinh Sát, lại gặp năm Giáp Tý, hội thành Sát cục, xung khử Dương Nhận, được Hương bảng, về sau vận trình trở ngại, cùng tạo trước cách xa một trời một vực, là do Thân kim không tiếp nhận khí Nhâm thủy vậy.

431 - Mậu Tý - Mậu Ngọ - Bính Thìn - Mậu Tuất

Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý

Ngày Bính sinh tháng Ngọ, cường Nhận nắm lệnh, Tý xung Ngọ, Thìn tiết Ngọ, cũng biết là nhược vậy. Thiên can thấu 3 Mậu, cướp mất tinh hoa nhật chủ; thêm vận đến tây bắc đất kim thủy, thì Dương Nhận càng bị đối địch, công danh lận đận không thuận lợi, mà còn thiếu thốn tài sản. Đến năm Giáp Dần, hội hỏa cục, khơi thông thổ, ân khoa phát bảng.

432 - Canh Ngọ - Ất Dậu - Canh Ngọ - Nhâm Ngọ

Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão

Mệnh của Hòa Trung Đường, Canh sinh vào giữa mùa thu, chi thấy 3 Ngọ Quan tinh, thì Dậu kim là Dương Nhận bị chế, ngũ hành không có thổ, cũng biết là nhược vậy. Hỉ có can giờ Nhâm thủy trợ giúp, nảy ra tú khí, cho nên thông minh, là đứng đầu quyền thế. Nhưng can tháng thấu ra Ất mộc, luyến Tài mà tranh hợp, cả đời tham tài của không biết dừng. Nhưng Tài lâm đất Nhận, nhật chủ tọa Quan, Quan có thể chế Nhận, thì Tài sinh Quan, Quan là quân tượng, cho nên đến vận Canh Dần, kim phùng tuyệt địa, Quan được sinh củng, Tài vẫn thuộc về Quan vậy. Bởi vậy xem, Tài là vật hại người, chỗ nói không muốn, giống như con thiêu thân bay vào đèn, tự đốt thân, giống như con Tinh Tinh rơi vãi, rơi máu mới ngưng, hối không kịp vậy.

433 - Kỷ Sửu - Bính Tý - Nhâm Thìn - Mậu Thân

Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ

Mệnh của Ấn Đề Đài, Nhâm không sinh ở tháng Tý, Quan Sát cùng thấu thông căn, chi toàn hội thủy cục, trợ khởi Dương Nhận, gọi là Sát Nhận lưỡng vượng. Tiếc là trụ không có mộc, không phát tú khí , xuất thân hàn vi. Hỉ có Bính hỏa địch hàn giải băng, làm người khoan hậu hòa nhã, xuất thân binh nghiệp. Vận Quý Dậu trợ Nhận sinh thân, ra làm quan; vận Nhâm Thân, đúng gọi là Nhất Tuế cửu thiên, làm quan đến hàng cực phẩm. Giao vận Mùi chế Nhận, đến năm Đinh Sửu hỏa thổ cùng vượng, lại khắc hợp Tý thủy, hết lộc.

434 - Tân Mão - Ất Mùi - Giáp Tý - Canh Ngọ

Giáp Ngọ/ Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu

Mệnh của Kê Trung đường, nhật nguyên Giáp Tý, sinh vào tháng Mùi giờ Ngọ, gọi là Hạ Mộc phùng thủy, là Thương quan bội Ấn. Hỉ Mão mộc khắc Mùi thổ, thì Tý thủy không bị thương, đủ sức xung Ngọ, là có bệnh có dược, khử trọc lưu thanh. Thiên can Giáp Ất Canh Tân, đều lập môn hộ, tất nhiên không luận hỗn tạp, chính là hỉ thần sinh Ấn. Càng đẹp vận đến đông bắc đất thủy mộc, cả đời làm quan an bình thuận lợi.

435 - Canh Ngọ - Nhâm Ngọ - Giáp Tuất - Canh Ngọ

Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý

Giáp mộc sinh tháng ngọ, chi tàng 3 Ngọ 1 Tuất, hỏa viêm thổ táo, Thương quan tung hoành, can tháng Nhâm thủy vô căn, hoàn toàn dựa vào Canh kim sinh thủy, cho nên tụ hội khoa Giáp. Làm quan gian khó, chỉ vì địa chi toàn hỏa, không có liên quan kim thủy, mộc không có đất sinh rễ, là do thần có dư mà đủ vậy.

436 - Giáp Tý - Bính Tý - Canh Thìn - Canh Thìn

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Mệnh cuả Chu Thị lang, Canh kim sinh vào giữa mùa đông, là kim hàn thủy lạnh rất rét, can tháng Bính hỏa, được can năm Giáp mộc sinh phù, giải trừ hàn khí, gọi là Đông kim đắc hỏa. Nhưng Tý Thìn song củng, nhật nguyên tất là hư, dụng thần không ở Bính hỏa mà ở Thìn thổ, Tỉ kiên phó tá, cho nên đến vận Canh Thìn, Tân Tị, liên tục thăng quan.

437 - Đinh Tị - Nhâm Tý - Tân Tị - Đinh Dậu

Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ

Mệnh học sĩ Hùng Trung thừa, Tân kim sinh vào giữa mùa đông, kim hàn nhưng không lạnh, gặp ở tiết hết, hoàn toàn dựa vào giờ Dậu phù thân, Tị Dậu củng mà phò tá. Thiên can Đinh hỏa, chẳng qua thủ để địch hàn giải rét, không dụng Đinh hỏa vậy. Dụng thần tất ở Dậu kim, cho nên đến đất vận thổ kim, thân lộ hiển hách, giao vận Đinh Mùi bại sự vậy. Phàm đông kim hỉ hỏa ý là sưởi ấm cục, mà không làm dụng thần vậy.
Sửa lần cuối bởi VULONG vào lúc 01:27, 19/04/15 với 1 lần sửa.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 25. Bệnh Tật

Ngũ hành hòa thuận, cả đời không họa.

Nguyên chú: Ngũ hành hòa thuận, không chỉ đầy đủ mà không khuyết, sinh mà không khắc. Nhưng mà đủ thì nên đủ, khuyết thì nên khuyết, sinh mà nên sinh, khắc mà nên khắc, thì thuận hòa vậy. Chủ cả đời không có họa.

Nhâm thị viết: Ngũ hành trên trời là ngũ khí gồm khí xanh, đỏ, vàng, trắng, đen. Ở dưới đất ngũ hành là mộc, hỏa, thổ, kim, thủy. Ở con người là ngũ tạng tim, bụng, tỳ, phổi, thận. Con người là linh hồn của vạn vật, có đầy đủ ngũ hành, biểu thị ở đầu mặt, tượng thiên là ngũ cảm, bao lấy ở tạng phủ, tượng địa là ngũ hành, cho nên là một tiểu thiên địa vậy. Chỗ này là lấy thuộc từng tạng phủ mà phục dương ở ngũ địa, phàm một tạng phối với một phủ, phủ đều thuộc dương, cho nên là Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm. Tạng đều thuộc âm, cho nên là Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý. Hoặc là bất hòa, hoặc thái quá hay bất cập, thì có bệnh phong, nhiệt, thấp, táo, hàn vậy. Ngũ vị cần phải điều hòa, cũng có thể giải được. Ngũ vị gồm chua, đắng, ngọt, cay, mặn vậy. Chua thuộc mộc, ăn nhiều là hại gân; Đắng thuộc hỏa, ăn nhiều thì hại xương; Ngọt thuộc thổ, ăn nhiều hại thịt; Cay thuộc kim, ăn nhiều hại khí; Mặn thuộc thủy, ăn nhiều hại máu, tương khắc là so với ngũ vị vậy.
Cho nên viết “Ngũ hành thuận hòa, một đời không họa”. Không chỉ ngũ hành bát tự cần phải hòa, mà tạng phủ ngũ hành cũng nên hòa vậy. Bát tự ngũ hành hòa, để hòa với tuế vận; tạng phủ ngũ hành hòa, để ngũ vị hòa. Hòa, ý là giải trừ. Nếu ngũ địa hòa, ngũ vị điều, thì không có bệnh tật vậy. Cho nên ngũ hành hòa, là không sinh không khắc, đầy đủ mà không khuyết gọi là hòa vậy. Cần quý ở tiết vượng thần, có dư nguồn chảy, vượng thần chảy có dư, nhược thần không đủ mà nhận ích vậy, chỗ này gọi là hài hòa. Nếu cưỡng ép vượng thần, yếu không địc lại mạnh, thì làm tức giận, vượng thần không thể tổn, lại làm tổn thương nhược thần vậy. Là lấy vượng thần thái quá mà tiết, không thái quá thì nên khắc; nhược thần có căn thì nên phù trợ, vô căn thì nên tổn đi. Phàm bát tự chỉ cần một thần có lực, chế hóa phù hợp, thì một đời không tai họa. Không phải đầy đủ mà không khuyết là tốt, sinh mà không khắc là hòa vậy.

438 - Quý Mùi - Giáp Dần - Mậu Tuất - Canh Thân

Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ.

Mậu sinh tháng Dần, mộc vượng thổ hư, hỉ Mậu tọa Tuất thổ thông căn, đủ sức dụng kim chế Sát. So với Canh kim tọa lộc, có đủ lực khắc mộc, chỗ gọi là không thái quá thì nên khắc vậy. Tuy can năm Quý thủy sinh Sát, được Mùi thổ chế, khiến cho không thể sinh mộc, hỉ mà có phù, ghét mà có khử, thì ngũ hành hòa vậy. Mà một đường vận trình cùng thể dụng không nghịch, thọ đến 90, thông minh hiểu biết, đi đứng tự nhiên. Con thịnh cháu nhiều, danh lợi phúc thọ đều đủ, một đời không tai họa không bệnh tật.

439 - Giáp Dần - Canh Ngọ - Mậu Dần - Giáp Dần

Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất/ Ất Hợi/ Bính Tý

Trong cục Thất Sát có 5, 1 Canh kim tọa Ngọ vô căn, gọi là nhược thần vô căn, nên khử đi, vượng thần thái quá, nên tiết khí vượng thần vậy. Mà Ngọ hỏa là hòa vậy. Hỉ Ngọ hỏa nắm lệnh, không có thủy, tuy vận gặp kim thủy, không thể phá cục là không cần thiết. Vận đến mộc hỏa, danh lợi đều có. Người này thần dồi dào, tinh khí tự sinh, mà phú quý phúc thọ đầy đủ, một đời không có họa, con cháu đông đúc, con cháu đều phát triển.

450 - Giáp Tý - Bính Tý - Quý Hợi - Ất Mão

Đinh Sửu/ Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ

Nhật nguyên Quý Hợi, năm tháng tọa Tý, có thể biết vượng vậy. Hỉ nhất giờ Mão tiết kỳ tinh anh, mộc khí có thừa, hỏa hư đắc dụng, gọi là tinh đủ thần vượng. Hỉ không có thổ kim hỗn tạp, có thổ thì hỏa tiết, không thể ngăn thủy, lại cùng mộc bất hòa, có kim thì mộc bị tổn thương, càng giúp nhau chảy cuồn cuộn mệnh mông. Cả đời không tai họa, nguyên do là không có thổ kim hỗn tạp. Tuổi già đến tám mươi, mà ăn uống càng khỏe, thông minh hiểu biết, đi đứng vững vàng, người gặp nghi ngờ chỉ là 50 tuổi, danh lợi song toàn, con cháu đông đúc.

Huyết khí loạn, cả đời nhiều bệnh tật.

Nguyên chú: Khí huyết loạn, không chỉ có hỏa thắng thủy, thủy khắc hỏa; ngũ khí phản nghịch, trên dưới không thông, qua lại không thuận, gọi là Loạn, chủ người nhiều bệnh tật.

Nhâm thị viết: Khí huyết loạn, là nói ngũ hành bội nghịch mà không thuận vậy. Luận về ngũ hành, thủy là máu huyết, luận về thân thể mạch tức là máu huyết vậy. Màng tim chủ về máu huyết, cho nên thông tay chân kinh quyết âm, Tim thuộc Đinh hỏa, màng tim chủ máu huyết, bàng quang thuộc Nhâm thủy. Đinh Nhâm tương hợp, cho nên tim có thể xuống dưới giao tiếp qua lại với thận, Đinh Nhâm thì hóa mộc, mà thần khí tự đủ, tương sinh thích hợp Ký tế, máu chạy lưu thông mà không có bệnh tật vậy. Cho nên bát tự quý ở Xứ khắc phùng sinh, trong nghịch được thuận mà thành đẹp vậy. Nếu hai bên tương chiến, trên dưới tương khắc, hỉ nghịch gặp thuận, thì hỏa vượng thủy khô, hỏa có thể đốt mộc; thủy vượng thổ rửa sạch, thủy có thể làm chìm kim; thổ vượng mộc gãy, thổ có thể làm mờ hỏa; kim vượng hỏa hư, kim có thể phá thổ; mộc vượng kim khuyết, mộc có thể ngấm thủy. Lý này là ngũ hành đảo điên tương khắc, phạm chỗ này, tất nhiều tai họa bệnh tật.

451 - Bính Thân - Ất Mùi - Đinh Mùi - Canh Tuất

Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu

Đinh sinh cuối hạ, Mùi Tuất táo thổ, không thể hối hỏa sinh kim, Bính hỏa đủ để đốt mộc khắc kim, thì thổ càng táo khô mà không tiết. Trong Thân có Nhâm thủy khô cạn mà tinh nhất định khô, cho nên ban đầu mắc bệnh đàm hỏa. Hợi vận, thủy không địch lại hỏa, lại có thể sinh mộc trợ hỏa, đúng như đem muối bỏ biển, thế hỏa càng mãnh liệt, thổ huyết mà chết.

452 - Nhâm Dần - Đinh Mùi - Bính Thân - Giáp Ngọ

Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu

Bính hỏa sinh tháng Mùi giờ Ngọ, can năm Nhâm thủy vô căn, cách xa Thân kim, vốn không thể sinh thủy, lại bị Dần xung, thì khí phổi càng kém. Thêm Đinh Nhâm tương hợp hóa mộc, tòng hỏa thì tim hỏa càng vượng, thận thủy tất khô cạn, cho nên mắc bệnh về bài tiết, lại có đàm ở miệng. Đến vận Tuất đủ hội hỏa cục, phổi càng tuyệt, thận thủy quá khô, thổ huyết mà chết.

453 - Giáp Thìn - Bính Dần - Bính Dần - Nhâm Thìn

Đinh Mão/ Mậu Thìn/ Kỷ Tị/ Canh Ngọ/ Tân Mùi/ Nhâm Thân

Mộc nắm lệnh, hỏa phùng sinh, Thìn vốn là thấp thổ, có thể chứa thủy, bị chỗ Bính Dần khắc, tỳ vị bị thương, phổi kim bị tuyệt, mộc nhiều ngấm thủy, mà thận thủy cũng khô. Đến vận Canh, mộc vượng kim khuyết, kim thủy cùng thấy, mộc hỏa kim tung hoành vậy, thổ huyết mà chết. Tạo này mộc hỏa đồng tâm, chỉ có thể thuận mà không thể nghịch, trái lại lấy Nhâm thủy là kỵ, cho nên vận đầu gặp Đinh Mão, Mậu Thìn, Kỷ Tị, trái lại không có ngại.

Kỵ thần nhập ngũ tạng mà bệnh hung.

Nguyên chú: Trong trụ chỗ kỵ thần, không chế không hóa, không xung không tán, ẩn phục thâm sâu, tương khắc ngũ tạng, thì là bệnh hung. Kỵ mộc mà nhập thổ thì tỳ bệnh, kỵ hỏa mà nhập kim thì phế bệnh, kỵ thổ mà nhập thủy thì thận bệnh, kỵ kim mà nhập mộc thì gan bệnh, kỵ thủy mà nhập hỏa thì tim bệnh. Lại xem hư thực, như mộc nhập thổ, thổ vượng, thì bệnh tỳ tự có dư, phát ở tháng tứ quý; thổ suy, thì bệnh tỳ có không đủ, lấy ở tháng đông xuân. Còn lại cứ loại suy.

Nhâm thị viết: Kỵ thần nhập ngũ tạng, là khí âm trọc, mai tàng ở địa chi vậy. Âm trọc phục sâu, khó chế khó hóa, là bệnh rất hung. Như là hỉ, một đời không họa; như là kỵ, cả đời nhiều bệnh. Thổ là tỳ vị, tỳ thích chậm, vị thì thích hòa, kỵ mộc mà nhập thổ, thì không hòa hoãn mà bệnh vậy. Kim là phổi và đại tràng, phổi cần thu, đại tràng cần thông, kỵ hỏa mà nhập kim, thì khí phổi nghịch lên trên, đại tràng không thông mà bệnh vậy. Thủy là bàng quang và thận, bàng quang cần nhuận, thận cần chắc, kỵ thổ mà nhập thủy thì quá khô, bàng quang táo mà bệnh vậy. Mộc là gan mật, gan cần thông mật cần ổn định, kỵ kim mà nhập mộc, thì gan nóng mà sinh hỏa, mật hàn mà bệnh vậy. Hỏa là khoang tim ruột, tim cần mở rộng, tiểu tràng cần thu vào, kỵ thủy mà nhập hỏa, thì tim không mở rộng, tiểu tràng kéo dài mà bệnh vậy. Lại cần xem có dư hay không đủ, như thổ thái vượng, mộc không thể nhập thổ, là bệnh tỳ vị tự có dư. Tỳ vốn kỵ thấp, Vị vốn kỵ hàn, nếu thổ thấp mà có dư, bệnh phát ở mùa đông xuân, lại kỵ hỏa để táo; thổ táo mà có dư, bệnh phát ở mùa hạ thu, lại kỵ thủy để nhuận. Như thổ hư, nếu mộc đủ để khai thông thổ, nếu thổ thấp mà không đủ, bệnh phát ở mùa hạ thu; thổ táo mà không đủ, bệnh phát ở mùa đông xuân. Bởi vì thổ hư thấp, gặp mùa hạ thu táo, thổ hư thấp, gặp mùa đông xuân ẩm thấp, làm cho mộc bén căn mà càng xanh tốt, thổ bị khắc mà càng hư. Nếu thổ hư thấp, lại gặp mùa hư thấp, thổ hư táo, lại gặp mùa hư táo, mộc tất hư phù, không thể bén căn, thổ lại không sợ khắc vậy. Còn lại loại suy.

454 - Canh Dần - Kỷ Sửu - Bính Tý - Ất Mùi

Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi

Bính hỏa sinh ở cuối đông, tọa dưới Tý thủy, là hỏa hư không cháy, dụng thần ở mộc. Mộc vốn héo vàng, tuy chỗ hai dương, manh nha chưa động, Canh thấu lâm tuyệt, là bệnh rất kém, chỗ lo là chi tháng Sửu thổ, khiến cho Canh kim thông căn, trong Sửu tàng Tân, đúng kỵ thần thâm nhập ngũ tạng, Kỷ thổ lại là mẹ của Canh kim, hối hỏa sinh kim, đủ để phá Dần. Tý thủy là thận, Sửu hợp không thể sinh mộc, hóa thổ lại có thể trợ kim, Sửu thổ là bệnh, không chỉ sinh kim, ức mà còn di dời chồng lên thủy, là lấy bệnh dạ dày cùng thận đều suy. Đến vận Mão, có thể phá Sửu thổ, danh liệt tường cung; vận Ất hợp Canh, Tị Sửu củng kim, chứng hư tổn, không giữ mà chết.

455 - Đinh Hợi - Tân Hợi - Tân Mùi – Mậu Thìn

Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ/ Ất Tị

Tân kim sinh ở đầu mùa đông, Đinh hỏa khắc khử Tỉ kiên, nhật chủ cô lập không có trợ giúp, Thương quan thấu mà nắm lệnh, thiết khử nguyên thần mệnh chủ, dụng thần ở thổ không ở hỏa vậy. Mùi là căn khố của mộc, Thìn là dư khí của mộc, đều tàng kỵ Ất mộc; năm tháng có 2 Hợi, là là đất mộc sinh, Hợi Mùi củng mộc, kỵ thần này nhập ngũ tạng quy về lục phủ. Như vậy luận, nói tỳ hư thận tiết, bệnh hoạn đầu hoa di tiết, lại thêm nặng ở dạ dày cổ tay đau nhức, không có ngày nào yên. Đến vận Kỷ Dậu, nhật chủ phùng lộc, vào tràng nhập học có con, vận Mậu khắc khử Nhâm thủy được ăn lương thực; vận Thân Nhâm không phùng sinh, thế bệnh càng nặng, vận Đinh nhật chủ thụ thương mà chết.

Xem hai tạo ở trên, chứng bệnh và trong ngũ hành bát tự, hiển nhiên ứng nghiệm, kết quả có thể nghiên cứu tỉ mĩ, thọ yểu cùng thông, sao không thể tham dự chứ?

Khách thần du lục kinh mà họa ít

Nguyên chú: Khách thần so với kỵ thần nhẹ hơn, lý không thể không có, du hành lục đạo, thì tất có họa. Như mộc du hành ở đất thổ mà dạy dày không may. Hỏa du hành ở đất kim mà đại tràng không may, thổ du hành đất thủy mà bàng quang có họa, kim du hành đất mộc mà mật không may. Thủy du hành đất hỏa mà đường ruột gặp họa.

Nhâm thị viết: Khách thần du hành lục kinh, là chỗ dương hư, là di động ở thiên can vậy. Dương mà hư lộ, dễ chế dễ hóa, là họa tất nhỏ, do bệnh ở bên ngoài, bên ngoài dễ phát tán, không đến nỗi là đại họa, cho nên là nhỏ vậy. Nghiên cứu gốc bệnh, vẫn từ âm dương ngũ hành, lấy phân ra tạng phủ, mà phép luận ngũ tạng, chớ cũng lấy thiên can làm khách thần luận hư, địa chi là kỵ thần luận thực. Nhất định phải nghiên cứu có liên quan đến hư trung, lý là xứ Thực lại Hư, họa hay cát rõ ràng có ứng nghiệm vậy.

456 - Nhâm Thìn - Giáp Thìn - Canh Ngọ - Bính Tuất

Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi

Nhật nguyên Canh Ngọ, sinh ở tháng Thìn giờ Tuất, xuân kim Sát vượng, dụng thần ở thổ. Can tháng Giáp mộc, vốn là Khách thần, được 2 thổ, cho nên tỳ vị không có bệnh, vận thủy khô luyện kim, mà bệnh chứng nhược. Đến vận Mậu Thân, thổ kim cùng vượng, cục lấy mộc là bệnh, mộc chủ phong, kim có thể khắc mộc; liên tiếp cùng 30 năm vận Kỷ Dậu Canh, phát tài hơn 10 vạn, vận Tân Hợi kim không thông căn, mộc được trường sinh, chợt mắc bệnh phong mà chết.

457 - Quý Sửu - Mậu Ngọ - Nhâm Dần - Canh Tuất

Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý

Nhật nguyên Nhâm Dần, sinh ở tháng 5 giờ Tuất, Sát vượng lại gặp Tài cục, Sát càng tung hoành, cho nên Khách thần không ở Ngọ hỏa, lại ở Dần mộc, trợ cho thế hỏa; Khách thần lại hóa kỵ thần, Mậu Quý hóa hỏa, thì kim thủy đều tổn thương. Đến vận Ất Mão, kim thủy lâm tuyệt, mắc chứng phế thận đều suy, mà ho mất tiếng, ở tháng giêng năm Giáp Tuất mộc hỏa cùng vượng mà chết.

458 - Ất Hợi - Canh Thìn - Bính Tý - Canh Dần

Kỷ Mão/ Mậu Dần/ Đinh Sửu/ Bính Tý/ Ất Hợi/ Giáp Tuất

Nhật nguyên Bính Tý, sinh ở cuối mùa xuân, thấp thổ nắm lệnh, tích thủy dưỡng mộc, dụng thần ở mộc, được Hợi sinh, Thìn là dư khí, Dần trợ giúp. Ất mộc tuy cùng Canh kim hợp mà không hóa, Canh kim di động thiên can là Khách thần, không thể thâm nhập tạng phủ, mà du hành lục kinh vậy. Thủy là tinh, thấy 2 Hợi Tý, Thìn lại củng mà tích trữ, mộc là dư khí, xuân lệnh có dư, Dần Hợi sinh hợp hỏa là vượng thần, mùa ở ngũ dương tiến khí, thông căn năm tháng, khí nối giờ sinh, tinh khí thần cả ba đều đầy đủ, thì tà khí không theo mà vào. Hành vận lại không nghịch, cả đời không tật bệnh, danh lợi đầy đủ. Duy chỉ có thổ hư thấp, kim lại lấy tiết, cho nên tỳ vị hư hàn, khó mà miễn bệnh tiêu chảy mà thôi.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 26. Xuất Thân

Lồng lộng khoa thi từng bước tiến,
Một chút huyền cơ ám lý tồn.


Ngyên chú: Phàm xem mệnh xem xuất thân con người là rất khó, như xuất thân Trạng nguyên, cách cục thanh là khác hẳn, lúc ẩn lúc lộ, khó mà quyết, tất có nguyên cơ, phải sưu tầm.

Nhâm thị viết: Chúng ta luận mệnh xuất thân là rất khó. Cho nên có huyền cơ tồn tại ở chỗ này.
Huyền cơ, chẳng những cách cục thanh là khác hẳn, phân biệt dụng thần chân giả, trong đó phải nghiên cứu thần tàng nắm mệnh, gồm dụng thần hỉ thần, khiến cho nhàn thần kỵ thần không thể tranh chiến, lại có tình sinh củng. Lại có cách cục vốn không có chỗ xuất sắc, mà thanh danh vang dội, tất trước tiên cần nghiên cứu thế hệ đức hạnh tốt hay xấu, kế đến luận phong thủy thanh tú. Đến từ thế hệ phúc đức, mà không luận mệnh vậy. Cho nên tâm đức là số một, phong thủy là số hai, mệnh cách là thứ ba.
Nhưng xem mệnh quan trọng ở chỗ nhất định Sát Ấn Tài Quan, Quan Ấn song thanh thì đẹp vậy. Nếu như Sát Ấn Tài Quan rõ ràng, cảm động lòng người, tất là mệnh tốt. Nếu dụng thần quá nhược, hỉ thần ám phục, tú cũng thâm tàng, mới nhìn cũng không có chỗ tốt, càng xem càng có sức sống, trong đó tất có huyền cơ, nên sưu tầm cẩn thận.

459 - Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Kỷ Mùi - Mậu Thìn

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Kỷ thổ sinh vào đầu xuân, Quan tinh nắm lệnh, thiên can bao phủ lấy Tài tinh, có tình sinh Quan. Nhưng đầu xuân Kỷ thổ ẩm thấp mà còn hàn lạnh, năm tháng Nhâm thủy, thông căn thuỷ khố, hỉ có Bính hỏa tàng trong Dần nắm lệnh làm dụng thần, phục mà phùng sinh, gọi là “Huyền cơ ám lý tồn” vậy. Đến Bính vận, nguyên thần phát lộ, năm Mậu Thìn trợ giúp can giờ, khắc khử Nhâm thủy, thì Bính hỏa không bị khắc, làm Trạng nguyên thiên hạ. Nếu theo tục luận, Quan tinh không hiện, Tài khinh Kiếp sinh, nói là mệnh bình thường vậy.

460 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Giáp Tuất - Bính Dần

Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất

Giáp mộc sinh vào cuối xuân, khí mộc có thừa, lại được Tỉ Kiếp lộc trợ giúp, can giờ Bính hỏa độc thấu, thông sáng thuần túy. Can năm Nhâm thủy, tọa táo thổ chế thủy, lại phùng Tỉ Kiếp Giáp mộc hóa tiết, gián tiếp tương sinh, thì Bính hỏa càng đắc thế. Đến Mậu vận, nguyên thần Mậu thấu ra chế Nhâm thủy, anh hùng hội ngộ, đỗ đạt tam nguyên. Là do đường nhân quan không hiển đạt, đến vận phương tây kim địa, tiết thổ sinh thủy vậy.

461 - Giáp Dần - Đinh Sửu - Đinh Mão - Canh Tuất

Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi

Đinh hỏa sinh vào cuối đông, trong cục trùng điệp mộc hỏa, nhược biến thành vượng, đủ để dụng Tài. Canh kim thấu lộ hư nhược, vốn không xuất sắc, hỉ có Sửu tàng Tân kim làm dụng, cũng là huyền cơ ám lý tồn vậy. Sửu chính là tú khí của nhật nguyên, có thể dẫn Tỉ kiên đến sinh, lại gặp Mão Tuất hợp, mà Sửu thổ không tổn thương, cho nên thân ở vương vị, đỗ đạt Thám hoa.

462 - Đinh Hợi - Nhâm Tý - Canh Tý - Tân Tị

Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ

Canh kim sinh vào giữa đông, Thương quan thái vượng, tiết khí quá mức, dụng thần ở thổ, không ở hỏa vậy. Hỏa ở trong trụ, bất quá thủ làm ấm cục vậy. Tứ trụ không có thổ, lấy Mậu thổ tàng ở trong Tị, không vượng khắc hỏa, hỏa có thể sinh thổ, cũng là huyền cơ ám lý tồn. Đến Mậu vận, năm Bính Thìn, hỏa thổ tương sinh, nguyên thần trong Tị cùng phát, cũng cư vương vị.

Lúc được Thanh làm khách bảng vàng,
Cho dù tồn trọc khí cũng đỗ.

Nguyên chú: Mệnh thiên hạ, không có không thanh mà phát khoa Giáp, được dùng thanh, tất từng cái đều thành tượng, dù ra hết ngũ hành, mà có chỗ sắp đặt, sinh hóa hữu tình, thân thần không hỗn kỵ và khách, quyết phát khoa Giáp. Tức là có 1,2 trọc khí, mà thanh khí có thể thành một đoàn thể, cũng có thể phát đạt.

Nhâm thị viết: Chỉ được thanh, không thành một nhóm, lưỡng khí như nhau. Dù cho ngũ hành thấu xuất hoàn toàn, mà khí thanh độc phùng sinh vượng, hoặc là chân thần đắc dụng, nhất định đề tên bảng vàng. Nếu thanh khí nắm quyền, nhàn thần kỵ thần khách thần không nắm lệnh, không thâm tàng, cùng tuế vận chế hóa, cũng phát khoa Giáp vậy. Thanh khí nắm quyền, tuy có trọc khí, mà được xếp theo thứ tự, tuy không thể phát Giáp, cũng phát khoa vậy. Thanh tiến tuy không lo, thân gặp thần kỵ khách không kết bè đảng khí trọc, phụ tá thanh khí, hoặc tuế vận yên ổn, cũng có thể thi đậu vậy.

463 - Mậu Thìn - Ất Mão - Kỷ Mão - Bính Thìn

Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu

Tạo Bình Truyền Lư. Kỷ thổ sinh tháng Mão, đề cương Sát vượng, nguyên Ất mộc thấu lộ, chi thuộc phương đông, trong can giờ hỏa sinh vượng, trong cục không tạp kim thủy, được dùng thanh vậy. Nếu một khi thấy kim, chẳng những không thể khắc mộc, mà kim tự bị thương, là động đến vượng thần, cùng đường bất hòa, là không đầy đủ vậy.

464 - Quý Mùi - Kỷ Mùi - Canh Tý - Giáp Thân

Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu

Canh kim sinh vào tháng Mùi, táo thổ vốn khó sinh kim, hỉ tọa dưới Tý thủy, năm thấu nguyên thần, gọi là Tam phục sinh hàn, nhuận thổ dưỡng kim. Mặc dù thổ vượng thuỷ suy, may có giờ Thân củng Tý, tiết thổ sinh thủy trợ thân là đẹp, càng đẹp hỏa không thấu lộ, được dùng thanh vậy. Đầu vận Mậu Ngọ, Đinh Tị, Bính, sinh thổ bức thủy, công danh lận đận, gia nghiệp hao phá. Thìn vận đủ thành thủy cục, đậu thi Hương. Giao vận Ất Mão, chế khử Kỷ Mùi thổ, đăng bảng vàng, nhập cung vua, lại nắm giữ văn tự, đường quan hiển hách.

465 - Quý Mùi - Quý Hợi - Giáp Ngọ - Đinh Mão

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Giáp mộc sinh vào tháng Hợi, cùng thấu 2 Quý thủy, khí thế tràn lan. Đông mộc hỉ gặp hỏa, hỉ nhất là giờ Mão, không những Đinh hỏa thông căn, mà nhật chủ cũng lâm vượng, lại hội mộc cục, tiết mộc sinh hỏa phù thân. Hay là không có kim, được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Mùi, chế Quý thủy, năm Bính Thìn, vào cung vua, giữ quan vị trọng yếu.

466 - Nhâm Thìn - Kỷ Dậu - Quý Mão - Kỷ Mão

Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão

Nhật nguyên Quý Mão, Thực thần quá trọng, chẳng những tiết khí nhật nguyên, mà còn chế sát quá mức. Hỉ thu thủy thông nguyên, độc Ấn đắc dụng, càng đẹp có Thìn Hợp mà hóa kim, khí kim càng vững chắc, trong cục hoàn toàn không có hỏa, là được dùng thanh vậy. Cho nên bước lên quan vị, danh cao hàn uyển. Tiếc là trung vận phùng mộc, e rằng đường quan khó mà hiển đạt.

467 - Kỷ Hợi - Giáp Tuất - Canh Tý - Bính Tý

Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Canh kim sinh vào tháng Tuất, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can thấu Bính hỏa, là khắc tiết giao gia. Hỉ có đề cương Ấn vượng, tuy sợ Giáp mộc sinh hỏa khắc thổ, gặp Giáp Kỷ hợp mà hóa, là được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Tị, Ấn tinh được trợ, xung khử Hợi thủy, Giáp mộc trường sinh, ghi tên bảng vàng vậy.

468 - Kỷ Hợi - Bính Tý - Canh Tý - Tân Tị

Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ

Canh kim sinh vào giữa mùa đông, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can thấu Bính hỏa, cũng là khắc tiết giao gia. Hỉ có Kỷ thổ thấu lộ, tiết hỏa sinh kim, ngũ hành không có mộc, là được thanh khí vậy. Đến năm Kỷ Tị, Ấn tinh được trợ, danh cao hàn uyển, chỗ không đủ, là Ấn tinh không nắm lệnh, kỷ thổ lại xa đàn mà hư nhược, cho nên giáng xuống làm Tri huyện.

469 - Bính Thân - Nhâm Thìn - Bính Tý - Nhâm Thìn

Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất

Bính hỏa sinh vào cuối xuân, hai Sát cùng thấu, chi hội Sát cục, hỉ Thìn thổ nắm lệnh chế Sát, có dư khí mộc ở trong Thìn mà sinh nhật chủ, bệnh ở Thân kim, chỗ này không hết đẹp. Cho nên tư chất hơn người. Năm Đinh Mão hợp Sát, mà Ấn tinh đắc địa, được đăng Hương bảng. Năm Tân Mùi khử Tý thủy, mộc hỏa đều được dư khí, mùa xuân thi đậu. Kết quả là ngại Thân kim, không được điều động trọng dụng. Càng kỵ vận đến phương tây, lấy rượu bầu bạn vậy.

470 - Mậu Ngọ - Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Ất Tị

Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn

Nhâm thủy sinh vào tháng Tuất, thủy tiến khí, mà được tọa dưới Dương Nhận trợ thân, can năm là Sát, Tỉ Kiếp ngăn cản, gọi là Thân Sát lưỡng đình, bệnh ở Ngọ, Tý Ngọ xung nhau, lại sợ Tị hỏa, Tý thủy ngăn cách, khiến cho không thể sinh Sát, mà Tân kim ám tàng ở trong Tuất làm dụng, anh em sinh đôi, đều được Tiến sĩ.

471 - Canh Tuất - Tân Tị - Ất Mão - Mậu Dần

Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi

Ất mộc sinh vào tháng Tị, Thương quan nắm lệnh, đủ để chế Quan phục Sát, tọa dưới chi lộc phù thân, giờ Dần lại là Đằng la hệ Giáp, đến năm Canh Thìn, chi thuộc phương đông, trúng Hương bảng, không phát Giáp, chỉ vì tứ trụ không có Ấn, là do Tuất thổ tiết hỏa sinh kim vậy. Anh em sinh đôi, em sinh vào giờ Mão, tuy cũng đắc lộc, không bằng Dần tàng Giáp mộc có lực, mà tàng là tốt, cho nên chậm ở năm Kỷ Hợi, Ấn tinh sinh phù, mới được bảng tên vậy.

472 - Quý Hợi - Ất Mão - Mậu Ngọ - Giáp Dần

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Mậu thổ sinh vào giữa xuân, Quan Sát cùng vượng lâm lộc, lại được Hợi thủy sinh phù, tuy tọa dưới Ngọ hỏa Ấn thụ, hư thổ không thể nạp hỏa, trở thành Tòng Sát, luận thủy làm hỗn, Tý vận xung khử Ngọ hỏa, năm Canh Tý kim sinh thủy, xung khắc tuyệt hỏa khí, trúng Hương bảng.

473 - Mậu Tý - Nhâm Tuất - Canh Dần - Quý Mùi

Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn

Canh kim sinh vào tháng Tuất, Ấn tinh nắm lệnh, kim cũng hữu khí, dụng thần ở thủy, không ở hỏa vậy. Đến năm Canh Thân, Nhâm thủy phùng sinh, lại tiết khí thổ, thi đỗ. Chỗ phát, là nguyên thần Mậu thổ thấu lộ, mùa xuân không lợi thi cử, thêm trong vận mộc hỏa, tất hao phá nhiều.

474 - Mậu Tý - Kỷ Mùi - Tân Hợi - Mậu Tý

Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu

Tân kim sinh vào cuối hạ, trong cục tuy nhiều táo thổ, hay là ở địa chi có Hợi Tý hội thủy cục, năm giờ phùng Tý dưỡng kim, có thể mời Kỷ Mùi củng mộc làm dụng. Đến năm Đinh mão, hội đủ mộc cục, có bệnh được dược, thắng lợi trường thi.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 26. Xuất Thân

Lồng lộng khoa thi từng bước tiến,
Một chút huyền cơ ám lý tồn.

Ngyên chú: Phàm xem mệnh xem xuất thân con người là rất khó, như xuất thân Trạng nguyên, cách cục thanh là khác hẳn, lúc ẩn lúc lộ, khó mà quyết, tất có nguyên cơ, phải sưu tầm.

Nhâm thị viết: Chúng ta luận mệnh xuất thân là rất khó. Cho nên có huyền cơ tồn tại ở chỗ này.
Huyền cơ, chẳng những cách cục thanh là khác hẳn, phân biệt dụng thần chân giả, trong đó phải nghiên cứu thần tàng nắm mệnh, gồm dụng thần hỉ thần, khiến cho nhàn thần kỵ thần không thể tranh chiến, lại có tình sinh củng. Lại có cách cục vốn không có chỗ xuất sắc, mà thanh danh vang dội, tất trước tiên cần nghiên cứu thế hệ đức hạnh tốt hay xấu, kế đến luận phong thủy thanh tú. Đến từ thế hệ phúc đức, mà không luận mệnh vậy. Cho nên tâm đức là số một, phong thủy là số hai, mệnh cách là thứ ba.
Nhưng xem mệnh quan trọng ở chỗ nhất định Sát Ấn Tài Quan, Quan Ấn song thanh thì đẹp vậy. Nếu như Sát Ấn Tài Quan rõ ràng, cảm động lòng người, tất là mệnh tốt. Nếu dụng thần quá nhược, hỉ thần ám phục, tú cũng thâm tàng, mới nhìn cũng không có chỗ tốt, càng xem càng có sức sống, trong đó tất có huyền cơ, nên sưu tầm cẩn thận.

459 - Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Kỷ Mùi - Mậu Thìn

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Kỷ thổ sinh vào đầu xuân, Quan tinh nắm lệnh, thiên can bao phủ lấy Tài tinh, có tình sinh Quan. Nhưng đầu xuân Kỷ thổ ẩm thấp mà còn hàn lạnh, năm tháng Nhâm thủy, thông căn thuỷ khố, hỉ có Bính hỏa tàng trong Dần nắm lệnh làm dụng thần, phục mà phùng sinh, gọi là “Huyền cơ ám lý tồn” vậy. Đến Bính vận, nguyên thần phát lộ, năm Mậu Thìn trợ giúp can giờ, khắc khử Nhâm thủy, thì Bính hỏa không bị khắc, làm Trạng nguyên thiên hạ. Nếu theo tục luận, Quan tinh không hiện, Tài khinh Kiếp sinh, nói là mệnh bình thường vậy.

460 - Nhâm Tuất - Giáp Thìn - Giáp Tuất - Bính Dần

Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất

Giáp mộc sinh vào cuối xuân, khí mộc có thừa, lại được Tỉ Kiếp lộc trợ giúp, can giờ Bính hỏa độc thấu, thông sáng thuần túy. Can năm Nhâm thủy, tọa táo thổ chế thủy, lại phùng Tỉ Kiếp Giáp mộc hóa tiết, gián tiếp tương sinh, thì Bính hỏa càng đắc thế. Đến Mậu vận, nguyên thần Mậu thấu ra chế Nhâm thủy, anh hùng hội ngộ, đỗ đạt tam nguyên. Là do đường nhân quan không hiển đạt, đến vận phương tây kim địa, tiết thổ sinh thủy vậy.

461 - Giáp Dần - Đinh Sửu - Đinh Mão - Canh Tuất

Mậu Dần/ Kỷ Mão/ Canh Thìn/ Tân Tị/ Nhâm Ngọ/ Quý Mùi

Đinh hỏa sinh vào cuối đông, trong cục trùng điệp mộc hỏa, nhược biến thành vượng, đủ để dụng Tài. Canh kim thấu lộ hư nhược, vốn không xuất sắc, hỉ có Sửu tàng Tân kim làm dụng, cũng là huyền cơ ám lý tồn vậy. Sửu chính là tú khí của nhật nguyên, có thể dẫn Tỉ kiên đến sinh, lại gặp Mão Tuất hợp, mà Sửu thổ không tổn thương, cho nên thân ở vương vị, đỗ đạt Thám hoa.

462 - Đinh Hợi - Nhâm Tý - Canh Tý - Tân Tị

Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu/ Mậu Thân/ Đinh Mùi/ Bính Ngọ

Canh kim sinh vào giữa đông, Thương quan thái vượng, tiết khí quá mức, dụng thần ở thổ, không ở hỏa vậy. Hỏa ở trong trụ, bất quá thủ làm ấm cục vậy. Tứ trụ không có thổ, lấy Mậu thổ tàng ở trong Tị, không vượng khắc hỏa, hỏa có thể sinh thổ, cũng là huyền cơ ám lý tồn. Đến Mậu vận, năm Bính Thìn, hỏa thổ tương sinh, nguyên thần trong Tị cùng phát, cũng cư vương vị.

Lúc được Thanh làm khách bảng vàng,
Cho dù tồn trọc khí cũng đỗ.


Nguyên chú: Mệnh thiên hạ, không có không thanh mà phát khoa Giáp, được dùng thanh, tất từng cái đều thành tượng, dù ra hết ngũ hành, mà có chỗ sắp đặt, sinh hóa hữu tình, thân thần không hỗn kỵ và khách, quyết phát khoa Giáp. Tức là có 1,2 trọc khí, mà thanh khí có thể thành một đoàn thể, cũng có thể phát đạt.

Nhâm thị viết: Chỉ được thanh, không thành một nhóm, lưỡng khí như nhau. Dù cho ngũ hành thấu xuất hoàn toàn, mà khí thanh độc phùng sinh vượng, hoặc là chân thần đắc dụng, nhất định đề tên bảng vàng. Nếu thanh khí nắm quyền, nhàn thần kỵ thần khách thần không nắm lệnh, không thâm tàng, cùng tuế vận chế hóa, cũng phát khoa Giáp vậy. Thanh khí nắm quyền, tuy có trọc khí, mà được xếp theo thứ tự, tuy không thể phát Giáp, cũng phát khoa vậy. Thanh tiến tuy không lo, thân gặp thần kỵ khách không kết bè đảng khí trọc, phụ tá thanh khí, hoặc tuế vận yên ổn, cũng có thể thi đậu vậy.

463 - Mậu Thìn - Ất Mão - Kỷ Mão - Bính Thìn

Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân Dậu

Tạo Bình Truyền Lư. Kỷ thổ sinh tháng Mão, đề cương Sát vượng, nguyên Ất mộc thấu lộ, chi thuộc phương đông, trong can giờ hỏa sinh vượng, trong cục không tạp kim thủy, được dùng thanh vậy. Nếu một khi thấy kim, chẳng những không thể khắc mộc, mà kim tự bị thương, là động đến vượng thần, cùng đường bất hòa, là không đầy đủ vậy.

464 - Quý Mùi - Kỷ Mùi - Canh Tý - Giáp Thân

Mậu Ngọ/ Đinh Tị/ Bính Thìn/ Ất Mão/ Giáp Dần/ Quý Sửu

Canh kim sinh vào tháng Mùi, táo thổ vốn khó sinh kim, hỉ tọa dưới Tý thủy, năm thấu nguyên thần, gọi là Tam phục sinh hàn, nhuận thổ dưỡng kim. Mặc dù thổ vượng thuỷ suy, may có giờ Thân củng Tý, tiết thổ sinh thủy trợ thân là đẹp, càng đẹp hỏa không thấu lộ, được dùng thanh vậy. Đầu vận Mậu Ngọ, Đinh Tị, Bính, sinh thổ bức thủy, công danh lận đận, gia nghiệp hao phá. Thìn vận đủ thành thủy cục, đậu thi Hương. Giao vận Ất Mão, chế khử Kỷ Mùi thổ, đăng bảng vàng, nhập cung vua, lại nắm giữ văn tự, đường quan hiển hách.

465 - Quý Mùi - Quý Hợi - Giáp Ngọ - Đinh Mão

Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ/ Đinh Tị

Giáp mộc sinh vào tháng Hợi, cùng thấu 2 Quý thủy, khí thế tràn lan. Đông mộc hỉ gặp hỏa, hỉ nhất là giờ Mão, không những Đinh hỏa thông căn, mà nhật chủ cũng lâm vượng, lại hội mộc cục, tiết mộc sinh hỏa phù thân. Hay là không có kim, được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Mùi, chế Quý thủy, năm Bính Thìn, vào cung vua, giữ quan vị trọng yếu.

466 - Nhâm Thìn - Kỷ Dậu - Quý Mão - Kỷ Mão

Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão

Nhật nguyên Quý Mão, Thực thần quá trọng, chẳng những tiết khí nhật nguyên, mà còn chế sát quá mức. Hỉ thu thủy thông nguyên, độc Ấn đắc dụng, càng đẹp có Thìn Hợp mà hóa kim, khí kim càng vững chắc, trong cục hoàn toàn không có hỏa, là được dùng thanh vậy. Cho nên bước lên quan vị, danh cao hàn uyển. Tiếc là trung vận phùng mộc, e rằng đường quan khó mà hiển đạt.

467 - Kỷ Hợi - Giáp Tuất - Canh Tý - Bính Tý

Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ/ Kỷ Tị/ Mậu Thìn

Canh kim sinh vào tháng Tuất, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can thấu Bính hỏa, là khắc tiết giao gia. Hỉ có đề cương Ấn vượng, tuy sợ Giáp mộc sinh hỏa khắc thổ, gặp Giáp Kỷ hợp mà hóa, là được dùng thanh vậy. Đến vận Kỷ Tị, Ấn tinh được trợ, xung khử Hợi thủy, Giáp mộc trường sinh, ghi tên bảng vàng vậy.

468 - Kỷ Hợi - Bính Tý - Canh Tý - Tân Tị

Ất Hợi/ Giáp Tuất/ Quý Dậu/ Nhâm Thân/ Tân Mùi/ Canh Ngọ

Canh kim sinh vào giữa mùa đông, địa chi có 2 Tý 1 Hợi, can thấu Bính hỏa, cũng là khắc tiết giao gia. Hỉ có Kỷ thổ thấu lộ, tiết hỏa sinh kim, ngũ hành không có mộc, là được thanh khí vậy. Đến năm Kỷ Tị, Ấn tinh được trợ, danh cao hàn uyển, chỗ không đủ, là Ấn tinh không nắm lệnh, kỷ thổ lại xa đàn mà hư nhược, cho nên giáng xuống làm Tri huyện.

469 - Bính Thân - Nhâm Thìn - Bính Tý - Nhâm Thìn

Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất

Bính hỏa sinh vào cuối xuân, hai Sát cùng thấu, chi hội Sát cục, hỉ Thìn thổ nắm lệnh chế Sát, có dư khí mộc ở trong Thìn mà sinh nhật chủ, bệnh ở Thân kim, chỗ này không hết đẹp. Cho nên tư chất hơn người. Năm Đinh Mão hợp Sát, mà Ấn tinh đắc địa, được đăng Hương bảng. Năm Tân Mùi khử Tý thủy, mộc hỏa đều được dư khí, mùa xuân thi đậu. Kết quả là ngại Thân kim, không được điều động trọng dụng. Càng kỵ vận đến phương tây, lấy rượu bầu bạn vậy.

470 - Mậu Ngọ - Nhâm Tuất - Nhâm Tý - Ất Tị

Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn

Nhâm thủy sinh vào tháng Tuất, thủy tiến khí, mà được tọa dưới Dương Nhận trợ thân, can năm là Sát, Tỉ Kiếp ngăn cản, gọi là Thân Sát lưỡng đình, bệnh ở Ngọ, Tý Ngọ xung nhau, lại sợ Tị hỏa, Tý thủy ngăn cách, khiến cho không thể sinh Sát, mà Tân kim ám tàng ở trong Tuất làm dụng, anh em sinh đôi, đều được Tiến sĩ.

471 - Canh Tuất - Tân Tị - Ất Mão - Mậu Dần

Nhâm Ngọ/ Quý Mùi/ Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi

Ất mộc sinh vào tháng Tị, Thương quan nắm lệnh, đủ để chế Quan phục Sát, tọa dưới chi lộc phù thân, giờ Dần lại là Đằng la hệ Giáp, đến năm Canh Thìn, chi thuộc phương đông, trúng Hương bảng, không phát Giáp, chỉ vì tứ trụ không có Ấn, là do Tuất thổ tiết hỏa sinh kim vậy. Anh em sinh đôi, em sinh vào giờ Mão, tuy cũng đắc lộc, không bằng Dần tàng Giáp mộc có lực, mà tàng là tốt, cho nên chậm ở năm Kỷ Hợi, Ấn tinh sinh phù, mới được bảng tên vậy.

472 - Quý Hợi - Ất Mão - Mậu Ngọ - Giáp Dần

Giáp Dần/ Quý Sửu/ Nhâm Tý/ Tân Hợi/ Canh Tuất/ Kỷ Dậu

Mậu thổ sinh vào giữa xuân, Quan Sát cùng vượng lâm lộc, lại được Hợi thủy sinh phù, tuy tọa dưới Ngọ hỏa Ấn thụ, hư thổ không thể nạp hỏa, trở thành Tòng Sát, luận thủy làm hỗn, Tý vận xung khử Ngọ hỏa, năm Canh Tý kim sinh thủy, xung khắc tuyệt hỏa khí, trúng Hương bảng.

473 - Mậu Tý - Nhâm Tuất - Canh Dần - Quý Mùi

Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu/ Bính Dần/ Đinh Mão/ Mậu Thìn

Canh kim sinh vào tháng Tuất, Ấn tinh nắm lệnh, kim cũng hữu khí, dụng thần ở thủy, không ở hỏa vậy. Đến năm Canh Thân, Nhâm thủy phùng sinh, lại tiết khí thổ, thi đỗ. Chỗ phát, là nguyên thần Mậu thổ thấu lộ, mùa xuân không lợi thi cử, thêm trong vận mộc hỏa, tất hao phá nhiều.

474 - Mậu Tý - Kỷ Mùi - Tân Hợi - Mậu Tý

Canh Thân/ Tân Dậu/ Nhâm Tuất/ Quý Hợi/ Giáp Tý/ Ất Sửu

Tân kim sinh vào cuối hạ, trong cục tuy nhiều táo thổ, hay là ở địa chi có Hợi Tý hội thủy cục, năm giờ phùng Tý dưỡng kim, có thể mời Kỷ Mùi củng mộc làm dụng. Đến năm Đinh mão, hội đủ mộc cục, có bệnh được dược, thắng lợi trường thi.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Xóa vì nhầm.........
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

- Bắt đầu từ ví dụ số 408 đến ví dụ số 439 tôi đã đánh nhầm, xin mọi người sửa lùi lại 1 đơn vị.
- Còn từ ví dụ số 450 tới ví dụ 474 xin mọi người sửa lùi lại 11 đơn vị.

Thành thật xin lỗi mọi người.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 27 - Địa Vị

Công lao Đài các truyền trăm đời,
Thiên nhiên thanh khí phát cơ quyền.


Ngyên chú: Như người có xuất thân, về phần địa vị có ít, cũng không dễ suy đoán. Nếu nói chỉ có làm khanh, trong thanh lại có một loại quyền thế xuất nhập vậy, không nên cố chấp một mối mà luận.

Nhâm thị viết: Đảm nhận chủ trì đài các cùng chức vị tể tướng, thanh khí phát ra tự nhiên, Tú khí tiết ra thuần thanh, bên trong tứ trụ, lại cùng hỉ thần có tình, trong cách cục cũng không có vật gây trở ngại. Chỗ dụng là chân thần, chỗ hỉ là chân khí, chỗ này đều gọi là “Thanh khí phát cơ quyền” vậy. Độ lượng khoan dung, có chứa vật, hành động thuần chính không tham lam, có đức nhuận trạch bao sinh, dù tài nặng mà đạt đến nhiệm vụ vậy.

464 - Canh Thân - Canh Thìn - Mậu Thìn - Mậu Ngọ

Tạo này của Đổng Trung đường, thanh khí tự nhiên ở Canh kim.

465 - Giáp Tý - Bính Dần - Kỷ Sửu - Giáp Tý

Tạo này của Lưu Trung đường, thanh khí tự nhiên ở Bính hỏa.

466 - Nhâm Thân - Nhâm Dần - Bính Tý - Ất Mùi

Tạo này của Tiền Thượng thư, thanh khí tự nhiên ở Ất mộc.

467 - Kỷ Hợi - Đinh Mão - Canh Thân - Canh Thìn

Tạo này của Tần Thị lang, thanh khí tự nhiên ở Đinh hỏa.

Binh quyền phải trái biện quan khách,
Nhận Sát thần thanh khí thế đặc.


Nguyên chú: Nắm quyền sinh sát, ngoài tác phong khí thế, tất nhiên rất đặc biệt, thanh được tinh thần từ chỗ đặc biệt hoặc là cả hai Nhận Sát đều hiển lộ ra vậy.

Nhâm thị viết: Nắm quyền sinh sát, đảm nhận binh hình, tinh thần thanh khí, tự nhiên siêu việt, tất lấy Nhận vượng địch sát, khí thế xuất nhân vậy. Trong cục Sát vượng không có tài, Ấn thụ dụng Nhận, hoặc không có Ấn mà có Dương Nhận, chỗ này gọi là Sát Nhận thần thanh vậy. Đặc biệt khí thế, là Nhận vượng nắm quyền vậy, tất là quan văn mà đảm nhận quyền nắm sinh sát. Nhận vượng, là như Giáp ở mùa xuân dụng Mão Nhận, Ất dụng Dần Nhận; mùa hạ Bính dụng Ngọ Nhận Đinh dụng Tị Nhận, mùa thu Canh dụng Dậu Nhận, Tân dụng Thân Nhận, mùa đông Nhâm dụng Tý Nhận, Quý dụng Hợi Nhận vậy. Nếu Nhận vượng địch Sát, trong cục không có Thực thần Ấn thụ, mà có Tài Quan, khí thế tuy mạnh, mà thần khí không thanh, chính mà mệnh võ tướng vậy. Như Nhận không nắm quyền, tuy có thể địch Sát, không những không thể nắm binh quyền, cũng không thể quý hiển vậy. Người ác tật quá nghiêm, giống như Nhận vượng Sát nhược cũng vậy, tất kiêu ngạo mà kiêu căng vậy.

468 - Nhâm Dần - Kỷ Dậu - Canh Ngọ - Bính Tuất

Canh Tuất/ Tân Hợi/ Nhâm Tý/ Quý Sửu/ Giáp Dần/ Ất Mão

Ngày Canh giờ Bính, chi phùng sinh vượng, Dần nạp Nhâm thủy, không thể chế Sát, hoàn toàn dựa vào Dậu kim Dương Nhận nắm quyền làm dụng, Dần mộc ngăn cách, khiến cho không thể hội cục, chỗ này đúng là " Đặc biệt khí thế là Nhận Sát thần thanh" vậy. Sớm đăng khoa giáp, thuộc loại đảm nhận nắm binh hình sinh sát, làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hình .

469 - Canh Tuất - Nhâm Ngọ - Bính Tý - Nhâm Thìn

Quý Mùi / Giáp Thân/ Ất Dậu/ Bính Tuất/ Đinh Hợi/ Mậu Tý

Nhật nguyên Bính Tý, tháng giờ cùng thấu Nhâm thủy, nhật chủ thụ địch ba mặt, trong trụ không có mộc tiết thủy sinh hỏa, lại có Canh kim sinh thủy tiết thổ, kim dựa vào Ngọ hỏa vượng Nhận nắm quyền là dụng, lại hỉ Tuất là táo thổ, chế thủy hội hỏa. Xuất thân Hương bảng, vận Bính Tuất Đinh Hợi làm quan đến chức Án sát.

470 - Ất Mão - Mậu Tý - Nhâm Thìn - Mậu Thân

Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ

Nhật nguyên Nhâm Thìn, thiên can có 2 Sát, thông căn chi Thìn, can năm Ất mộc héo khô, có thể tiết thủy mà không thể chế thổ, đúng là Khắc Tiết giao gia, hỉ nhất có Tý thủy nắm quyền hội cục, là Sát Nhận thần tình. Đến vận Dậu sinh thủy khắc mộc, lại vừa co thể hóa Sát, liền đăng khoa Giáp; Giáp Thân đăng vận, làm quan hanh thông, đến chức Án sát; vận Dương Nhận thụ chế, hết lộc.

471 - Bính Thìn - Tân Mão - Giáp Thân - Canh Ngọ

Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi / Bính Thân/ Đinh Dậu

Nhật nguyên Giáp Thân, sinh ở giữa xuân, Quan Sát cùng thấu thông căn, lâm ở ngày giờ đất tử tuyệt, tất dụng Mão Dương Nhận. Hỉ có Bính hỏa hợp Tân, không chỉ không sợ hỗn Sát, mà Mão mộc không bị chế, là Nhận Sát thần thanh, còn vận đến Nam phương hỏa địa. Xuất thân khoa Giáp, làm quan lập hiến.

Quan Ti Mục nắm Tài và Quan,
Cách cục thanh thuần nhiều thần khí.


Ngyên chú: Phương diện làm quan, Tài Quan là trọng, tất thanh mà còn thuần túy, cách chính cục toàn, tinh thần lại có một đoạn.

Nhâm thị viết: Phương diện đảm nhận cùng quan Châu Huyện, tuy lấy Tài Quan làm trọng, tất phải cần cách cục thanh thuần, lại phải cần nhật nguyên sinh vượng, thần quán khí túc, sau đó Tài Quan hợp tình, thì tinh khí thần cả ba đều đủ vậy. Lại thêm Quan vượng có Ấn, Quan suy có Tài, Ấn vượng có Tài, hai bên tương thông, trên dưới không nghịch, căn thông năm tháng, khí quán ngày giờ, Thân Sát lưỡng đình, Sát trọng phùng Ấn, Sát khinh gặp Tài, đều là đúng vậy, tất có tâm làm lợi dân cứu vật; trái lại chỗ này đều là không thích hợp vậy.

472 - Đinh Sửu - Ất Tị - Quý Dậu - Nhâm Tý

Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý/ Kỷ Hợi

Quý thủy sinh ở tháng Tị, hỏa thổ tuy vượng, hay là ở chi hội kim cục, Tài Quan Ấn cả ba đều được sinh trợ; càng hay là có giờ Tý Tỉ Kiếp bang thân, tinh thần đủ vượng; càng hỉ vận trung niên đến bắc phương. Xuất thân dị lộ, làm quan thủ Quận, danh lợi lưỡng toàn, sinh ra 7 con đều làm quan.

473 - Bính Dần - Mậu Tuất - Đinh Dậu - Ất Tị

Kỷ Hợi/ Canh Tý/ Tân Sửu/ Nhâm Dần/ Quý Mão/ Giáp Thìn

Đinh hỏa sinh ở tháng Tuất, trong cục trùng điệp mộc hỏa, Thương quan dụng Tài, cách cục vốn tốt, xuất thân bộ thư, làm quan Huyện lệnh. Tiếc là trong trụ không có thủy, Tuất là táo thổ, không thể sinh kim hối hỏa, mộc sinh hỏa vượng, Tị Dậu không có tình củng hợp, cho nên thê thiếp sinh 10 con đều khắc.

474 - Bính Tý - Canh Dần - Tân Tị - Mậu Tý

Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị/ Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân

Tân kim sinh ở tháng Dần, Tài vượng phùng Thực, Quan thấu gặp Tài, lại gặp Kiếp Ấn tương phù, trung hòa thuần túy, tinh thần đều đủ. Ban đầu tựa như xem nhược, nghiên cứu tỉ mĩ, là mộc nộn hỏa hư, Ấn thấu thông căn, nhật nguyên đủ để dụng Quan. Trung niên nam phương hỏa vận, xuất thân dị lộ, làm quan Hoàng triều.

475 - Đinh Hợi - Bính Ngọ - Mậu Dần - Giáp Dần

Ất Tị/ Giáp Thìn/ Quý Mão/ Nhâm Dần/ Tân Sửu/ Canh Tý

Mậu thổ sinh ở tháng Ngọ, trong cục Thiên Quan tuy vượng, Ấn tinh thái trọng, mộc tòng theo thế hỏa, hỏa tất đốt mộc, một điểm Hợi thủy, không thể sinh mộc khắc hỏa. Giao Quý vận, khắc Đinh sinh Giáp, bắc cực liền đăng khoa Giáp, ra trấn giữ một khu; Tân vận hợp Bính, làm quan thuận toại; giao Sửu vận, khắc thủy cáo bệnh, về hưu.

476 - Kỷ Tị - Mậu Thìn - Giáp Tý - Tân Mùi

Đinh Mão/ Bính Dần/ Ất Sửu/ Giáp Tý/ Quý Hợi/ Nhâm Tuất

Nhật nguyên Giáp Tý, sinh ở cuối xuân, mộc có dư khí. Tọa dưới Ấn thụ, Quan tinh thanh thấu, mà Tý Thìn có tình củng Ấn; càng đẹp là vận đến đông bắc đất thủy mộc, danh đăng Giáp bảng. Chỉ sợ Tý Mùi phá Ấn, đường quan khó miễn có cản trở, về già làm thầy giáo.

Chính là cùng nắm nhiều thủ lĩnh,
Cũng từ thanh trọc phân chia hình.

Nguyên chú: Đến quý chi bằng trời vậy, được một mà lấy thanh, mà vị trí ở trên, cho nên được một mệnh vinh, không có gì bằng thanh khí. Cho nên quan chức tạp hoặc là phò tá hai thủ lĩnh, sao không có một đoạn thanh khí? Mà cùng trọc khí là có phân biệt. Nhưng mà hình ảnh thanh trọc là khó giải thích, không chỉ là ở trong Tài Quan Ấn thụ có thanh trọc; phàm cách cục, khí tượng, dụng thần, hợp thần, nhật chủ hóa khí, tòng khí, thần khí, tinh khí, đều từ thu tàng mà phát sinh ý hướng, tiết độ tính tình, lý thế nguyên lưu, giữa chính và phụ đều có. Đối với hình ảnh sống ở bề ngoài, được hình mà toại ý có thể tìm ra tinh túy, là luận trên dưới cao thấp.

Nhâm thị viết: Mệnh, chỗ cuối cùng là ở bên ngoài trời đất vậy. Thanh là quý, trọc là tiện vậy. Cho nên chức quan tạp là hai loại phò tá, cũng được một mệnh vinh, tuy không phải cách chính cục thanh, chân thần đắc dụng, mà bên trong khí tượng cách cục, bên trong lý khí xung hợp, tất có một điểm thanh khí, tuy hình ảnh khí thanh trọc khó giải thích, nói chung không ngoài chỗ lý thiên thanh địa trọc. Thiên can tượng là trời, địa chi tượng là đất. Địa chi thăng lên ở thiên can, là khí nhẹ mà thanh vậy; thiên can giáng xuống ở địa chi, khí nặng trọc vậy. Khí thiên can vốn thanh, không kỵ trọc vậy; khí địa chi vốn trọc, tất phải thanh vậy, chỗ này mệnh lý quý ở biến thông vậy. Thiên can trọc, địa chi thanh là quý; địa chi trọc, thiên can thanh là tiện vậy. Khí địa chi thăng lên là ảnh, khí thiên can giáng xuống là hình vậy, ở hình ảnh thăng giáng, trong xung hợp chế hóa, phân ra thanh trọc, nghiên cứu khinh trọng, nhưng cũng luận trên dưới vậy.

477 - Nhâm Thìn - Nhâm Dần - Mậu Tuất - Bính Thìn

Quý Mão/ Giáp Thìn/ Ất Tị/ Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân

Mậu thổ sinh ở tháng Dần, mộc vượng thổ hư, thiên can 2 Nhâm khắc Bính sinh Dần, khí thiên can ở đây là trọc, Tài tinh phá Ấn, cho nên thi hương không thành. Hỉ Dần có thể nạp thủy sinh hỏa, nhật chủ tọa Tuất là táo thổ, khiến cho Nhâm thủy không dẫn đến xung chạy, xứ thanh ở Dần vậy. Xuất thân dị lộ, vận Bính thăng Huyện lệnh.

478 - Nhâm Ngọ - Quý Sửu - Giáp Dần - Đinh Mão

Giáp Dần/ Ất Mão/Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi.

Giáp mộc sinh ở tháng Sửu, thủy sinh băng hàn, vốn hỉ hỏa để địch hàn, càng hay là ngày giờ có khí Dần Mão vượng, Đinh hỏa vượng tú, thanh là ở hỏa vậy. Chỗ ngại là thấu can Nhâm, Đinh hỏa phát ra nước, thi Hương khó thành. Nhưng địa chi không có thủy, can tuy trọc, chi tòng Ngọ hỏa mà lưu thanh. Xuất thân khác thường, đến vận Mậu Ngọ, hợp Quý chế Nhâm, thăng tri huyện.

479 - Nhâm Thìn - Ất Tị - Bính Tý - Kỷ Sửu

Bính Ngọ/ Đinh Mùi/ Mậu Thân/ Kỷ Dậu/ Canh Tuất/ Tân Hợi

Bính hỏa sinh ở tháng Tị, thiên địa Sát Ấn lưu thanh, chỗ ngại là giờ Sửu hợp khử Tý thủy, thì Nhâm thủy thất thế, hóa trợ Thương quan thì tiết khí nhật nguyên, một điểm Ất mộc, không thể khai thông thổ. Xuất thân dị lộ, tuy là có công, mà không hợp ý trên, nên không thể thăng quan.

480 - Ất Dậu - Bính Tuất - Quý Dậu - Đinh Tị

Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ/ Tân Tị/ Canh Thìn

Nhật nguyên Quý Dậu, sinh ở tháng Tuất, địa chi Quan Ấn tương sinh, có thể giống nhau. Chỗ ngại là, bên trong có Tài Quan đắc địa, kiêm Ất mộc trợ hỏa khắc kim, cho nên thi hương khó thành. Hỉ thu kim có khí, xuất thân dị lộ, đến Tị vận phùng Tài phá Ấn, có tang chế mà về nhà.

481 - Giáp Thân - Mậu Thìn - Mậu Tý - Mậu Ngọ

Kỷ Tị/ Canh Ngọ /Tân Mùi/ Nhâm Thân/ Quý Dậu/ Giáp Tuất

Nhật nguyên Mậu Tý, sinh ở tháng Thìn giờ Ngọ, thiên can có 3 Mậu, có thể biết là vượng vậy. Giáp mộc thoái khí lâm tuyệt, không những vô dụng, trái lại thành hỗn luận, tinh khí ở địa vận Thân, tiết kỳ tinh anh, tiếc là xuân kim không vượng, may mắn Tý thủy xung Ngọ, nhuận thổ dưỡng kim, tuy quyên nạp làm phò tá, đường quan thuận toại.

482 - Quý Tị - Giáp Tý - Nhâm Tý - Canh Tuất

Quý Hợi/ Nhâm Tuất/ Tân Dậu/ Canh Thân/ Kỷ Mùi/ Mậu Ngọ

Nhật nguyên Nhâm Tý, sinh ở giữa đông, thiên can lại thấu Canh Quý, khí thế phiếm lạm. Giáp mộc vô căn, không thể nạp thủy; Tị hỏa bị chỗ bầy thủy khắc, cũng khó tác dụng, cho nên nhiều lần quyên góp, hao tài mà không được làm quan. Tuy là giờ Tuất, định ngăn nước chảy mênh mông, lại bị Canh kim tiết, kiêm trung vận là Tân Dậu Canh Thân, tiết thổ sinh thủy, Kiếp Nhận tung hoành, dẫn đến có chí khó thành.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

Chương 28 - Tuế Vận

Hưu tù trói ở vận, nhất là trói ở tuế, xung chiến là ai hàng, hòa thuận là ai hợp.

Nguyên chú: Nhật chủ ví như thân ta, thần ở trong cục, ví như con người dẫn theo thuyền ngựa, đại vận ví như chỗ đất đến, cho nên coi trọng địa chi, chưa chắc là không có thiên can. Thái tuế ví như chỗ người gặp, cho nên coi trọng thiên can, chưa chắc không có địa chi. Tất trước tiên phải rõ một nhật chủ, phối hợp với 7 chữ, quyền lực khinh hay trọng, xem hành hỉ là hành vận nào, hành kỵ là hành vận nào. Như ngày Giáp lấy khí thế xem ở mùa xuân, lấy tâm người xem người, lấy vật lý xem mộc, đại để mà xem khí thế còn lại ở trong đó. Gặp mặt chữ Canh Tân Thân Dậu, như xuân mà hành ở mùa thu, thì mới chặt đi cái sinh cơ này, lại xem hỉ và không hỉ, mà đất hành vận sinh Giáp phạt Giáp, đoạn nào là tốt xấu vậy. Một khi đến Thái tuế, tốt xấu liền hiện ra, vì vậy tường luận xu thế xung chiến và hòa thuận, mà được cơ thích ứng thắng bại, thì tốt xấu rõ ràng ở ngay trước mắt.

Nhâm thị viết: Phú quý tuy định ở cách cục, cũng phải gắn liền với vận đồ thuận lợi nữa, chỗ gọi là Mệnh tốt không bằng vận tốt vậy. Nhật chủ là bản thân của ta, trong cục có hỉ dụng thần là chỗ người sử dụng, vận đồ chính là chỗ đất ta đến. Cho nên lấy địa chi làm trọng. Yêu cầu thiên can không nghịch, tương sinh tương phù là tốt, cho nên xem một vận gồm 10 năm không được ngăn ra trên dưới, không thể khiến cho cái đầu tiệt cước. Bất luận cái đầu tiệt cước, thì cát hung không nghiệm vậy.

Như hỉ hành mộc vận, tất cần Giáp Dần Ất Mão, kế đến là Giáp Thìn Ất Hợi, Nhâm Dần Quý Mão; Hỉ hành hỏa vận tất cần Bính Ngọ Đinh Mùi, kế đến là Bính Dần Đinh Mão, Bính Tuất Đinh Tị; Hỉ hành thổ vận, tất cần Mậu Ngọ Kỷ Mùi, Mậu Tuất Kỷ Tị, kế đến là Mậu Thìn Kỷ Sửu; Hỉ hành kim vận, tất cần Canh Thân Tân Dậu, kế đến là Mậu Thân Kỷ Dậu, Canh Thìn Tân Tị; Hỉ hành thuỷ vận, tất cần Nhâm Tý Quý Hợi, kế đến là Nhâm Thân Quý Dậu, Tân Hợi Canh Tý.
Thà rằng khiến cho thiên can sinh địa chi, không nên địa chi sinh thiên can; thiên can sinh địa chi mà phúc dày, địa chi sinh thiên can mà khí tiết.

Sao gọi là Cái Đầu ? Như hỉ mộc vận mà gặp Canh Dần Tân Mão; hỉ hỏa vận mà gặp Nhâm Ngọ Quý Tị; hỉ thổ vận mà gặp Giáp Tuất Giáp Thìn, Ất Sửu Ất Mùi; hỉ kim vận mà gặp Bính Thân Đinh Dậu; hỉ thủy vận mà gặp Mậu Tý Kỷ Hợi.

Sao gọi là Tiệt Cước ? Như hỉ mộc vận mà gặp Giáp Thân Ất Dậu, Ất Sửu Ất Tị; hỉ hỏa vận mà gặp Bính Tý Đinh Sửu, Bính Thân Đinh Dậu, Đinh Hợi; hỉ thổ vận mà gặp Mậu Dần Kỷ Mão, Mậu Tý Kỷ Dậu, Mậu Thân; hỉ kim vận mà gặp Canh Ngọ Tân Hợi Canh Dần, Tân Mão Canh Tý; hỉ thủy vận mà gặp Nhâm Dần Quý Mão, Nhâm Ngọ Quý Mùi, Nhâm Thìn Quý Tị vậy.

Bởi do can đầu hỉ chi, mà vận quan trọng ở Chi, tiền tài cát hung giảm nửa; Tiệt cước thì hỉ Can, chi không tải can, tất 10 năm đều xấu. Nếu như hỉ hành mộc vận, mà gặp Canh Dần Tân Mão, Canh Tân vận là hung vận, mà kim tuyệt ở Dần Mão, gọi là kim vô căn, tuy có hung hiểm mười phần, thì cũng giảm còn một nửa. Như nguyên cục thiên can có Bính Đinh thấu lộ, ngược lại vừa có thể chế kim, vừa có thể giảm được một nửa, hoặc lại gặp Thái Tuế phùng Bính Đinh, chế khắc Canh Tân, tất không có hung vậy. Dần Mão vốn là cát vận, bởi vì cái đầu có Canh Tân khắc địa chi, tuy cát lợi có 10 phần, cũng giảm còn một nửa. Như nguyên cục địa chi có một chút Dậu kim xung, chẳng những không cát lợi, mà lại hung họa vậy.

Lại như hỉ mộc vận, gặp Giáp Thân Ất Dậu, mộc tuyệt ở Thân Dậu, gọi là chi không tải can, cho nên vận Giáp Ất không cát lợi. Như nguyên cục thiên can lại thấu Canh Tân, hoặc thiên can Thái Tuế gặp Canh Tân, nhất định là hung hiểm cho nên gặp 10 năm xấu. Như nguyên cục thiên can thấu Nhâm Quý, hoặc thiên can Thái Tuế phùng Nhâm Quý, có thể tiết kim sinh mộc, tất an hòa không xấu vậy. Cho nên vận phùng cát không thấy cát, vận phùng hung không thấy hung, nguyên cớ đều do Cái Đầu, Tiệt Cước vậy.

Thái tuế quản tốt xấu trong một năm, như chỗ con người gặp gỡ, cho nên lấy thiên can làm trọng, tuy nhiên cũng không thể không xét địa chi, tuy có sinh khắc, không thể xung phá cùng nhật chủ vận đồ. Xấu nhất là thiên khắc địa xung, thái tuế xung khắc, nhật chủ vượng tướng tuy hung nhưng không đáng ngại, nhật chủ suy nhược tất gặp phải đại hung. Ngày phạm Tuế quân, nhật chủ vượng tướng không hung, nhật chủ hưu tù tất hung; Tuế quân phạm ngày, cũng giống như vậy. Cho nên lúc giao nhau nên hài hòa, không thể luận một mặt cùng đại vận vậy. Như vận phùng mộc là cát, ngược lại phùng mộc gặp hung nguyên do đều là xung phá bất hòa vậy. Theo lý này mà suy ra, tất cát hung không thể không nghiệm vậy.

483 - Canh Thìn - Đinh Hợi - Canh Thìn - Đinh Sửu

Mậu Tý/ Kỷ Sửu/ Canh Dần/ Tân Mão/ Nhâm Thìn/ Quý Tị

Nhật chủ Canh Thìn, sinh vào tháng Hợi, thiên can Đinh hỏa cùng thấu lộ, Thìn Hợi tàng Giáp Ất, đủ để dụng hỏa. Vận đầu Mậu Tý, Kỷ Sửu, hối hỏa sinh kim, không được toại nguyện như ý. Canh vận, năm Bính Ngọ, Canh tọa Dần tiệt cước, thiên can 2 Đinh hỏa, đủ để đối địch 1 Canh, lại gặp năm Bính Ngọ, chiến thắng. Đánh hạ Tri huyện, Dần vận bạc tiền tương đối; Tân Mão tiệt cước, trong cục Đinh hỏa hồi khắc Tân kim, làm quan cấp Quận; vận Nhâm Thìn, thuỷ sinh căn khố, năm Nhâm Thân gặp nguy, 2 Đinh đều bị thương khắc, hết lộc.

484 - Ất Mùi - Mậu Tý - Canh Thìn - Đinh Sửu

Đinh Hợi/ Bính Tuất/ Ất Dậu/ Giáp Thân/ Quý Mùi/ Nhâm Ngọ

Nhật nguyên Canh Thìn, sinh vào tháng Tý, Mùi thổ phá Tý thủy, thiên can mộc hỏa, đều được Thìn Mùi dư khí, đủ để dụng mộc sinh hỏa. Bính vận nhập học. Vận Ất Dậu, năm Quý Dậu, Quý hợp Mậu hóa hỏa, theo thuyết xưa Dậu là nơi Đinh hỏa trường sinh, không biết rằng Ất Dậu mộc bị tiệt cước, không còn là mộc, mà thực ra là kim vậy. Năm Quý Dậu, thủy phùng kim sinh, lại sinh mùa đông, làm sao mà có thể hợp Mậu hóa hỏa? Tất là khắc Đinh hỏa không còn nghi ngờ Dậu là thuần kim, chính là nơi tử địa của hỏa, nói đến thuyết âm hỏa trường sinh ở Dậu, thật là sai lầm vậy; kim tháng 8 lại gặp Tân Dậu, mộc hỏa trong cục đều bị thương, đề phòng sinh họa bất trắc. Cuối cùng chết ở trung nguyên.

485 - Mậu Tý - Ất Mão - Bính Dần - Đinh Dậu

Bính Thìn/ Đinh Tị/ Mậu Ngọ/ Kỷ Mùi/ Canh Thân/ Tân dậu

Nhật nguyên Bính Dần, sinh vào tháng Mão, mộc hỏa đều vượng, thổ kim đều tổn thương, thủy cũng hưu tù. Vận Bính Thìn, Đinh Tị, sản nghiệp tiêu tan không còn; vận Mậu Ngọ, Kỷ Mùi, không thể sinh kim tiết hỏa, kinh doanh mắc nợ vạn kim, xuất ngoại chạy trốn; giao vận Canh Thân, Tân Dậu 20 năm, lại đầu cơ tích trữ được lợi, phát tài hơn 10 vạn.

486 - Bính Thân - Quý Tị - Bính Ngọ - Giáp Ngọ

Giáp Ngọ/ Ất Mùi/ Bính Thân/ Đinh Dậu/ Mậu Tuất/ Kỷ Hợi

Nhật nguyên Bính Ngọ, sinh vào tháng Tị giờ Ngọ, bầy Kiếp tranh Tài, uy hiếp can Quý thủy. Vận đầu Giáp Ngọ, Nhận Kiếp điên cuồng hung tàn, cha mẹ chết sớm; Ất Mùi trợ Kiếp, gia nghiệp thất bại hoang tàn; giao Bính Thân, Đinh Dậu, nghèo khổ không chịu nổi; giao vận Mậu Tuất, hơi có chỗ đứng chút ít.

Sao gọi là chiến?

Nguyên chú: Như vận Bính năm Canh, gọi là vận phạt tuế. Nếu nhật chủ hỉ Canh, cần Bính hàng, được Mậu được Bính là cát; nhật chủ hỉ Bính, thì tuế không hàng vận, được Mậu Kỷ để hòa là tốt. Như Canh tọa Dần Ngọ, lực lượng Bính lớn, thì tuế cũng không thể không hàng, hàng cũng bảo vệ mà không có họa. Vận Canh năm Bính, gọi là tuế phạt vận, nhật chủ hỉ Canh, được Mậu Kỷ lấy Bính hòa là cát; nhật chủ hỉ Bính, thì vận không hàng tuế, lại không thể sử dụng Mậu Kỷ tiết Bính trợ Canh. Nếu Canh tọa Dần Ngọ, lực lượng Bính lớn, thì vận tự hàng tuế, cũng bảo vệ không có họa.

Nhâm thị viết: Chiến là khắc vậy. Như vận Bính năm Canh, là vận khắc Tuế, nhật chủ hỉ Canh, đòi hỏi Bính tọa Tý thủy, Canh tọa Thân kim, trong cục lại được Mậu Kỷ tiết Bính, được Nhâm Quý khắc Bính thì cát; nếu như Bính Ngọ, Bính Dần, trong cục lại không có thủy chế hỏa, tất hung; như vận Canh năm Bính, là Tuế khắc Vận, nhật chủ hỉ Canh tất hung; hỉ Bính tất cát; hỉ Canh đòi hỏi Canh tọa Thân kim, Bính tọa Tý Thìn, trong cục lại gặp thủy thổ chế hóa là cát, ngược lại tất hung; nhật chủ hỉ Bính cũng theo chỗ này mà suy.

487 - Tân Mão - Giáp Ngọ - Bính Thìn - Canh Dần

Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý

Bính hỏa sinh tháng Ngọ, Dương Nhận nắm quyền, chi đủ Dần Mão Thìn, thổ tòng theo thế mộc; Canh Tân lưỡng kim không thông căn. Vận đầu Quý Tị, Nhâm Thìn, kim phùng sinh trợ, gia nghiệp giàu có, vui vẻ thoải mái. Vận Tân Mão kim tiệt cước, hình tang phá hao, gia nghiệp mười bại hết chín. Vận Canh năm Bính Dần khắc vợ, Canh tọa Dần tiệt cước; năm Bính Dần là tuế khắc vận, Canh lại tuyệt mà Bính sinh, trong cục không có thần chế hóa, ở tháng Giáp Ngọ mộc tòng theo thế hỏa, hung họa liên miên, mắc bệnh mà chết.

488 - Tân Mão - Giáp Ngọ - Ất Mão - Ất Dậu

Quý Tị/ Nhâm Thìn/ Tân Mão/ Canh Dần/ Kỷ Sửu/ Mậu Tý

Ất mộc sinh tháng Ngọ, Mão Dậu kề cận xung, can tháng Giáp mộc lâm tuyệt, ngũ hành không có thủy, mùa hạ hỏa nắm quyền tiết khí mộc, Thương quan dụng Kiếp, kỵ kim vậy. Vận đầu Nhâm Thìn, Quý Tị, Ấn thấu sinh phù, đắc thời thuận lợi. Vận Tân Mão, duy chỉ có năm Tân Dậu, xung phá Mão mộc, hình tang khắc phá. Đến vận Canh Dần, năm Bính Dần, kỵ kim mà Bính hỏa khắc khử kim, trong cục không có thủy tiết chế Bính hỏa, hỏa lại phùng sinh, kim tọa tuyệt địa, nhập học, thong thả thoải mái vậy.

Sao gọi là Xung?

Nguyên chú: Như vận Tý năm Ngọ, chỗ này gọi là vận xung tuế, nhật chủ hỉ Tý, thì phải trợ giúp Tý, lại được can năm, gặp thần chế Ngọ, hoặc Ngọ nhiều phe đảng, can đầu gặp chữ Mậu Giáp tất hung. Như vận Ngọ năm Tý, chỗ này gọi là tuế xung vận, nhật chủ hỉ Ngọ, mà đảng Tý nhiều, can đầu trợ Tý tất hung; nhật chủ hỉ Tý, mà đảng Ngọ ít, can đầu trợ Tý tất cát, nếu Ngọ trọng Tý khinh, thì không hàng, cũng không có xấu.

Nhâm thị viết: Xung là phá vậy. Như vận Tý năm Ngọ, gọi là vận xung tuế. Nhật chủ hỉ Tý cần can đầu gặp Canh Nhâm, can đầu Ngọ gặp Giáp Bính, cũng không có xấu; như can đầu Tý gặp Bính Mậu, can đầu Ngọ gặp Canh Nhâm, cũng có xấu. Nhật chủ hỉ Ngọ, can đầu Tý gặp Giáp Mậu, can đầu Ngọ gặp Giáp Bính, thì cát; như can đầu Tý gặp Canh Nhâm, can đầu Ngọ gặp Bính Mậu, can đầu Tý gặp Giáp Bính, thì cát; như can đầu Ngọ gặp Bính Mậu, can đầu Tý gặp Canh Nhâm, tất hung. Còn lại dựa theo chỗ này mà suy.

Sao gọi là Hòa?

Nguyên chú: Như vận Ất năm Canh, vận Canh năm Ất là hòa, nhật chủ hỉ kim thì cát, nhật chủ hỉ mộc thì không cát, vận Tý năm Sửu, vận Sửu năm Tý, nhật chủ hỉ thổ thì cát, hỉ thủy thì không cát.

Nhâm thị viết: Hòa là Hợp vậy. Như vận Ất năm Canh, vận Canh năm Ất, hợp mà có thể hóa, hỉ kim thì cát, hợp mà không hội, lại là hợp trói, không thích quan tâm đến nhật chủ của ta, thì không cát vậy. Hỉ Canh cũng vậy, cho nên hỉ Canh tất cần mộc kim đắc địa, Ất mộc vô căn, thì hợp hóa là tốt vậy, nếu Tý hợp Sửu, không hóa cũng là khắc thủy, hỉ thủy thì không cát vậy.

Sao gọi là Tốt?

Nguyên chú: Như vận Canh năm Tân, vận Tân năm Canh, vận Thân năm Dậu, vận Dậu năm Thân, thì tốt. Nhật chủ hỉ dương, thì Canh và Thân là tốt, hỉ âm, thì Tân và Dậu là tốt, phàm chỗ này đều nên suy ra.

Nhâm thị viết: Tốt, là loại tương đồng vậy. Như vận Canh năm Thân, vận Tân năm Dậu, nói là thật tốt, là chi lộc vượng, tự quay trở về bản khí của ta, như người thân ở trong một nhà, như vận Canh năm Tân, vận Tân năm Canh, là trợ giúp thiên can, như bằng hữu giúp nhau, cuối cùng không thân thiện lắm, tất trước tiên cần phải thông căn vận vượng, dựa vào tự nhiên là tốt. Như vận không có căn khí, thấy thế suy mà không có tình dựa vào, thì không phải tốt vậy.
Đầu trang

VULONG
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 955
Tham gia: 22:55, 23/12/09

TL: "Trích Thiên Tủy - Phần II : Lục Thân Luận"

Gửi bài gửi bởi VULONG »

29 - Trinh Nguyên

Tạo hóa khởi ở Nguyên, cũng dừng ở Trinh. Lại sẽ khởi ở Trinh Nguyên, là mấu chốt hình thành thế hệ con cháu.

Ngyên chú: Tam nguyên đều có Trinh Nguyên. Như lấy Bát tự mà xem, lấy năm là Nguyên, tháng là Hanh, ngày là Lợi, giờ là Trinh. Năm tháng tốt, ½ cuộc đời ở trước là tốt, còn ngày giờ tốt thì ½ cuộc đời còn lại là tốt. Lấy đại vận xem, lấy 15 năm đầu là Nguyên, 15 năm tiếp theo là Hanh, 15 năm giữa là Lợi, 15 năm sau là Trinh. Vận Nguyên Hanh là cát thì ½ đời người phía trước là tốt; vận Lợi Trinh tốt thì ½ đời người còn lại là tốt, đều là đạo Trinh Nguyên. Nhưng mà hay là có Trinh Nguyên tồn tại ở chỗ này, không chỉ là Tuyệt xứ phùng sinh, ý là hết Bắc đến Đông vậy.
Về phần sống thọ con người, mà sau khi đã hết, chỗ hành vận, kết quả chỗ hỉ là sao? Thì gia đình tất hưng thịnh; còn kết quả chỗ kị thì sao? thì gia đình tất suy tàn. Bởi vì lấy cha là Trinh lấy con là Nguyên vậy. Hay là chỗ Trinh hạ khởi Nguyên, là then chốt sinh sôi không ngừng. Còn luận theo chỗ này, không muốn người biết xem năm, mà thiên hạ muôn đời, cho nên thực tế là dấu hiệu thời đại nghiệm Dịch, mà biết số không thể nào trốn được vậy. Học giả hãy cố gắng!


Nhâm Thị viết: Lý lẽ Trinh Nguyên, ý chỉ Hà Đồ Lạc Thư vậy. Ý nghĩa của Hà Đồ Lạc Thư là ghi vị trí quẻ dịch của Tiên Hậu Thiên vậy. Quẻ Tiên Thiên, thì Càn Nam Khôn Bắc, cho nên Tây Bắc nhiều núi, nên Côn Lôn là núi; Đông Nam nhiều nước, biển cả là chỗ nước quay về. Là lấy nước từ núi ra, nước gặp núi là dừng vậy. Nói đến chín sông mà chảy cuồn cuộn, xu thế đỉnh điểm của đại dương mênh mông, là ngọn nguồn, đều là tinh tú vậy; Nói đến Ngũ Nhạc chọc trời, hình dáng cao ngút hùng vĩ, nơi tận cùng chính là núi Côn Lôn vậy.
Riêng con người có tổ phụ là hiển nhiên, mặc dù là gánh chịu một phần phát huy, ai cũng xuất phát từ một chỗ mà ra cả. Cho nên ban đầu nhất âm sinh tại quẻ Khôn, nhất dương sinh tại quẻ Càn là thủy, cho nên quẻ Ly là tượng trưng mặt trời, quẻ Khảm là mặt trăng vậy. Mà theo lý Trinh Nguyên, Nguyên là ở nạp Giáp, tượng nạp Giáp, xuất phát từ Bát Quái. Cho nên Càn là cha, Khôn là mẹ, Chấn là trưởng nam, kế tiếp thần mau đen mà thàng tượng Khôn. Khôn, ý giống như là Trinh vậy. Mùng ba ánh sáng có ba phần, nhất dương mới sinh, là tượng Chấn vậy. Chấn, là dấu hiệu của Nguyên vậy. Mùng 8 là trăng lưỡi liềm, là 6 phần ánh sáng, tượng là Đoài vậy. Đoài, lý giống như Hanh vậy. Ngày 18, trăng đủ mà giảm bớt ba phần, tượng là Tốn vậy, nghĩa giống như Lợi vậy. Là lấy đạo của Trinh Nguyên, lý là không tuân theo, cực thịnh đến suy, phủ cực đến Thái, cũng là ý này vậy. Xem ý nghĩa của chương này, không chỉ con người sinh ra trên đời, vận tốt thì thịnh, vận hung thì bại. Còn như sống thọ về sau, mà dựa vào hành vận, xem vận đến cát hung, mà cũng biết con cháu thịnh suy. Cho nên con người sau khi về cuối đời, mà gia nghiệp hưng thịnh, hậu vận tất nhiên là cát vậy; còn gia nghiệp suy bại, thì hậu vận tất nhiên là xấu vậy. Nói đến đây mặc dù có định đoạt của tạo hóa, kể ra là không thể trốn thoát được, làm người tất phải cần biết suy xét năm, mà dễ dàng kế thừa. Nếu xem có hậu vận tốt, là thân ta nhờ có tiền nhân để phúc lại; nếu thấy hậu vận không tốt thì cũng bằng lòng an phận, xoay chuyển tạo hóa. Nếu tổ tông phú quý, đương nhiên thi cử thuận lợi, con cháu hưởng phú quý, tức là bỏ quên thi thư vậy; nếu tổ tông gia nghiệp, tự thân cần kiệm được, con cháu hưởng gia nghiệp, tức là bỏ quên cần kiệm vậy, là liên quan đến chia cắt đất Phù tang mà nhận chữ khắc trên gỗ, chưa có bản thảo, quyết là thủy ở Sông Vị, mà vào tại vùng thấp Tứ Xuyên, đầu tiên không hề bị đục. Tại sao vậy? Vốn là không dựa vào tự nhiên, học giả cần suy nghĩ sâu xa vậy.

Mục lục

Phần II: Lục Thân Luận



Chương 1: Phu Thê………………….....122
Chương 2:Tử Nữ……………………......125
Chương 3: Phụ Mẫu…………………....129
Chương 4: Huynh Đệ……………….....131
Chương 5: Hà Tri Chương…………...134
Chương 6: Nữ Mệnh………………......150
Chương 7: Tiểu Nhi………………….....164
Chương 8: Tài Đức………………….....168
Chương 9: Phấn Úc………………….....170
Chương 10: Ân Oán…………………....172
Chương 11: Nhàn Thần……………....175
Chương 12: Tòng Tượng……………..179
Chương 13: Hóa Tượng……………....184
Chương 14: Giả Tòng……………….....187
Chương 15: Giả Hóa…………………....190
Chương 16: Thuận Cục………………..193
Chương 17: Phản Cục………………....197
Chương 18: Chiến Cục………………...205
Chương 19: Hợp Cục…………………...208
Chương 20: Quân Tượng……………..211
Chương 21: Thần Tượng……………..213
Chương 22: Mẫu Tượng……………...215
Chương 23: Tử Tượng………………...216
Chương 24: Tính Tình………………....217
Chương 26: Tật Bệnh…………………..234
Chương 27: Xuất Thân………………..247
Chương 28: Địa Vị……………………....234
Chương 29: Tuế Vận..................261
Chương 30: Trinh Nguyên…………….265


(Số trang ở đây lấy theo "Times New Roman - 14")

(Hết)
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức tứ trụ”