UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Các bài viết học thuật về môn tứ trụ (tử bình, bát tự)
Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Quyển bốn (1)

Kim Ngọc phú

Chữ số Hồng Phạm.
Ghi chú: "Hồng phạm" là chỗ Cơ Tử triển khai, tức là số 15 Hà Lạc đại diễn 】,
Phương pháp của thầy Tử Bình. Mệnh áo diệu của trời đất, nghe theo âm thanh trên không trung. Nhất khí lưu hành, thì Đông hàn mà Hạ thử; phát sinh tam dương, sinh trưởng từ mùa Xuân mà thành ở mùa Thu. Trộm nghe vừa có sinh vừa có diệt, nếu thiếu thì đầy. Tạo hóa quy nguyên, về hết ở Dần Thân Tị Hợi; ngũ hành tàng trữ, tất cả đều ở đồi mộ tứ quý.
【Ghi chú: "Tứ quý", là Thìn Tuất Sửu Mùi thổ phương có mộ khố, cho nên viết là tàng trữ. 】.
Có lúc sinh trưởng, đều từ Xuân Hạ Thu Đông; vượng suy có số, xem cơ bản về bần tiện phú quý. Sưu tầm bát tự, chuyên luận Tài Quan; thứ xem ngũ hành, phải rõ khí hậu. Luận Tài Quan khinh trọng, xem khí hậu nông sâu. Suy Tài Quan thuận nghịch mà được hay mất, nên luận phát sinh cách cục cao thấp. Nó đến khắc ta gọi là Quan Quỷ, thân vượng nằm quyền; ta khử khắc nó gọi là thê tài, quan cường thì phú. Năm gây tổn thương thân chủ, chính là cha và con mà không thân nhau; giờ khắc nhật thần, nói con không tuân theo mệnh cha. Năm khắc ngày là trên có thể lăng nhục ở dưới, ngày khắc năm là nói ở dưới đi phạm thượng.
Chú giải: Giờ là Tử tức, ngày là bản thân, năm là tổ tiên, tháng là cha, khắc chính là phạm thượng. 】
Nếu được có vật chế nhật chủ, thì có thể hóa ác thành cát.
Chú giải: Nói Thất Sát có chế phục, hóa làm Thiên Quan, nên có đảm nhận binh quyền. 】.
Lại nếu bản chủ gặp hỷ thần, thì lấy hung mà biến thành cát. Hỷ thần khánh hội, nêu biết tài sản hưng thịnh; Tứ trụ vô tình, định thấy mối họa cùng theo. Hoặc thấy bản chủ tương xung, tam hình trùng điệp, tuế vận ức hiếp, tất gây ra nhiều chuyện. Ngũ hành nhập cách thuần túy, đài các thanh danh; thân cường Thất Sát hàng phục, trấn thủ biên cương .
Ghi chú: Nói Tài Quan Ấn nên là nho quan, nhưng nếu nói Sát có chế phục nên quan có binh quyền. 】.
Không có Tài Quan mà có cách cục, là thanh vân đắc lộ; không có cách cục mà có Tài Quan, Hoàng môn thành danh.
Ghi chú: Hoàng Môn, là nơi quan Thị Ngự】.
Tài Quan, Cách cục đều tổn thất, nói là không bần hàn thì công danh gian khó; nhật can nguyệt lệnh đều mạnh mẽ, không cùng khốn tất kẻ sĩ ẩn danh lâu dài như cây cỏ mây. Bính Đinh tọa Nam cung Ly mà không có chế, là đường hung bạo bất tuân lễ pháp; Nhâm Quý gặp Mậu Kỷ, là kẻ sĩ hoài bão tài đức thông tuệ. Tân gặp Ất mộc ở Nam mộ, tuy phú mà bất nhân; Bính gặp Tân kim ở đất Bắc, túng bần mà có đức. Năm giờ và nguyệt lệnh có Thiên Ấn, hung cát không thấy; đại vận tuế quân gặp Thọ tinh, tai ương lập tức đến. Thuở nhỏ thiếu sữa nuôi dưỡng, do Thực thần gặp cung hình khắc; thanh niên tài hoa, là Tài Quan ở đất thuần túy.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Ngày dương 【 Ghi chú: Giáp Bính Mậu Canh Nhâm 】 Thực thần đắc địa không có xung tổn, thì ám hợp Quan tinh;
Ngày âm 【 Ghi chú: Ất Đinh Kỷ Tân Quý 】 Thực thần không có phá đổ, tuy có khắc hợp thì cũng thân. Ấn thụ Thiên Tài, có thể ích thọ lâu năm; Dương Nhận Thất Sát, thiện đoạt Tài hóa Quỷ. Tài tinh có phá, bỏ tổ đi nơi khác lập nghiệp; Ấn thụ bị thương, mất tông nghiệp từ bỏ quê hương. Sinh mệnh lấy quý thần là phúc, gặp khắc hãm thì hung họa bất tường; ngũ hành hội tụ sao hung là tai họa, hỷ hợp Sát cùng Thực thần là quý .
Ghi chú: Thực thần có thể chế Sát, cho nên Giáp thấy Ất là em, Ất thấy Giáp là anh, ngũ hành giống nhau chỗ này. 】.
Mệnh suy Sát vượng, cần cầu thấy Thiên Xá Nhị Đức; thân nhược Tài mạnh, hỷ Dương Nhận anh em trợ giúp. Nguyệt lệnh gặp Thực thần kiện vượng, thích ẩm thực mà tư chất béo phì; tứ trụ có sao cát phù trợ, đôi kim tích ngọc. Ngũ hành không có hung sát xâm phạm, danh hiển thanh dương. Dần Thân Tị Hợi mạo phạm, có tâm phát sinh thông minh.
Ghi chú: Dần Thân Tị Hợi là cục tứ sinh, cho nên viết có tâm phát sinh 】;
Tý Ngọ Mão Dậu trùng gặp, tới hại tửu sắc hoang dâm. Nữ nhân không có Sát, một quý có sao đâu. Hỷ gặp thần Thiên Nguyệt nhị Đức, kị thấy Quan Sát hỗn tạp. Quý nhiều thì múa váy hát ca, hợp nhiều thì ám mời vụng trộm. Ngũ hành kiện vượng, bất tuân lễ pháp mà hành; Quan Sát cùng thấy lẫn nhau, định là tin đồn kết duyên. Về người Đảo sáp, là thủy phiếm Đào hoa; Mộc Dục khỏa hình, sẽ là con nuôi .
Lời phê: Sinh Thân Tý Thìn lấy Dậu là Đào Hoa, sinh Tị Dậu Sửu lấy Thìn là Đảo Sáp Đào hoa 】. Đa số là nô tì làm thiếp ca kỹ, ít có tam trinh cửu liệt.
Song Ngư, Song Nữ hiệu Dâm tinh, không nên phạm nhiều;
Quan tinh Thất sát viết là phu chủ (chồng), kị thấy gặp nhiều. Dần Thân cùng thấy lẫn nhau là tính hoang dâm, Tị Hợi gặp nhau tâm không dứt. Hoặc có vị trí Thương quan, không lấy chồng định chủ khắc phu; Thần Ấn đến xung mềm yếu, không là cô ly cũng là tử biệt.
Tứ trụ Quan Quỷ .
Ghi chú: Quan Quỷ tức là chồng của nữ nhân, vượng là Quan, suy là Quỷ. 】
Nhập mộ, khiến cho phu tinh sớm nhập hoàng tuyền; tuế vận đến cung yểu tuyệt, khiến cho hôn phối phân chia khác đường. nếu muốn biết nữ mệnh khó khăn hôn nhân, vận nhập vị trí nghịch phu; muốn biết nam nhi cưới sớm, định là vận hợp đất Tài. Trùng trùng khắc Tử tức, Sát không Quan suy Thương Thực trọng; Thương quan trùng điệp, Tài khinh thân vượng anh em nhiều, nếu không như vậy, định là hình xung vị trí thê thiếp. Ám hợp Tài tinh nhiều thê thiếp, hướng hư vị trí Tài là chủ nhiều vợ. Tài tinh nhập mộ .
Ghi chú: Thìn Tuất Sửu Mùi là ngũ hành mộ khố 】, tất định hình thê; chi ở dưới phục thần, thiên phòng yêu thiếp. Thê tinh rõ ràng, cây to làm cầu. Đại vận lưu niên tam hợp đất Tài, tất chủ Hồng Loan cát triệu; hoặc đến cung Tài bại, xâm phạm thay thế gia đình mà nắm quyền, thương thê tổn thiếp, hôn phối khó thành. Thê tinh mất vị trí ở cung nào, yêu cầu đích thực; Quan lộc Thiên Trù ở vị trí gì, cần xem căn nguyên. Có cách cục thuần túy, bỗng gặp ác vật tương xung, cũng chủ tử vong; không có tài lộc hoặc hành tài lộc vượng tướng, cũng nhận hậu phát. Nhật cầu thăng hợp, thực thần vượng xứ Kiếp tài nhiều; hoặc gặp Thiên Ấn khắc Thực thần, không bần cũng yểu thọ.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

【Ghi chú: Thực thần chủ thích ẩm thực, thụ khắc chủ làm hành khất 】. Nên biết cầu hóa, phải xét vinh khô được mất, nhiên cứu khinh trọng nông sâu. Quan lộc Sát cường, không chế thì yểu; nhật suy Tài trọng, đảng Sát thì nghèo. Lại xem Tuế Vận, đâu là hung đâu là cát. Thân cung xung phá không có chỗ dựa, không xa tổ tất phải tha hương; Càn Khôn Cấn Tốn hướng trao đổi nhau, thích phi nhanh thì tâm vô chủ định. Trong trụ nếu gặp Hoa Cái 【 Ghi chú: Hoa Cái tinh, mô tả như báu vật, chủ hàn uyển, nếu gặp Không Vong chủ tăng đạo. 】 người phạm Nhị Đức thanh quý; Quan tinh Thất Sát lạc Không Vong, nhận chức quan thấp hèn. Ngũ hành khắc chiến, không tổn thương nhật chủ thì không là họa; Tuế Vận cùng lâm, nếu tổn dụng thần đều có họa 【Ghi chú: Phàm dụng thần là chỗ tàng ở chi tháng lệnh hành quân 】. Mộc gặp Kim khắc, định chủ họa ở lưng sườn. Hỏa bị thủy phá, tất là bệnh về mắt. Tam hợp hỏa thần vượng thịnh khắc Canh Tân, tổn thương đầu mặt cùng bệnh lở loét. Như tổn thương nhật can cùng Tài quan thái thịnh, thân thể có tai họa gãy thương. Tâm phế thở gấp, cũng vì kim hỏa tương hình; tỳ vị tổn thương, là do thổ mộc khắc chiến. Chi thủy can đầu có hỏa gặp thủy khắc, tất chủ bụng chữa tâm mờ. Chi hỏa can đầu có thủy gặp hỏa vượng, thì bị chứng đục thủy tinh mà mù lòa. Hỏa thổ làm phiền cháy bốc hơi ánh sáng mặt trời, thì phát hói mắt mờ; Nhuận Hạ thuần nhuận ( thấp ) sung ( nguyên ) khí, thì trái lại thần thanh cốt tú. Huỳnh Hoặc (Hỏa tinh) thừa vượng lâm Ly Tốn, gặp gió mất tiếng; Thái Bạch sắc cứng hợp Đoài Khôn, mũi tên làm rơi hồn phách 【Ghi chú: Huỳnh Hoặc là Hỏa tinh, Thái Bạch là Kim tinh 】. Tài tinh nhập mộ, ít hình xung tất phát. Thương quan thương tận, hoặc kiến Quan tinh thì hung. 10 có 8 cách, nên suy cầu theo thiện ác; Hệ thống ngũ hành, đều lấy suy vượng tiêu tức. Thân vượng sao nhọc Ấn thụ 【 Ấn thụ, là mẫu sinh thân vậy, thân vượng thì bất tất cần Ấn đến sinh thân 】 thân suy không thích Tài Quan. Trung hòa là phúc, thiên đảng là họa. Nhưng nếu thấy Quý thần, Triều Củng, Lộc Mã, Phi Thiên, Diêu Hợp, Hư Yêu 【 Hư Yêu là nói Lộc Mã không có ở trong nguyệt lệnh, ở trong tứ trụ thành cách Hư Yêu】cách không được xung, gặp hợp cũng kị. Thất Sát, Quan tinh, đều sợ hợp trói, điền thực thì hung. Đột nhiên vận đến đất Quan, nên lấy thoái thân mất chức. Mã suy Quan phá, khốn thủ đường cùng; Lộc vượng Tài phong, đường quan tài cao. Như đến xứ hỷ để gặp họa, là tam hợp mà ẩn hung tinh; hoặc gặp xứ hung mà trái lại cát tường, chính là Cửu cung (Ghi chú: Là cung thứ 9 tức cung Thiên Di trong vòng 12 cung mệnh vậy 】mà lộ sao cát. Phải biết chức phẩm cao thấp, nên cầu vận thần thuận nghịch. Thanh thì sớm thành danh, khuyết điểm thì về sau đắc địa. Vận hành thì một cung 10 năm, lưu niên chính là từng năm chuyển dời. Tân lộ 【Ghi chú: là Vận hạn vậy 】hanh thông, quyền cao tước trọng; lộ trình trắc trở, vì lộc bạc Quan suy. Suy tầm vị trí Tử tức, trước tiên xem Thê cung. Thứ xem tử tuyệt là khó bảo tồn, thái vượng là tìm cầu khác cửa. Thê tinh hiển lộ, Tử tức tất nhiều; hình hại cung Tử tức, nam nữ hiếm được. Nếu hỏi anh em nhiều ít, xét kĩ can chi tứ trụ. Nguyệt lệnh dù có cường, lại xem vận thần thuận nghịch. Tử tuyệt hình thương, anh em mất thứ tự; tương sinh là hỷ khánh, Lệ ngạc (anh em) kết vinh 【Ghi chú: Lệ Ngạc là nói anh em vinh quý 】. Anh em thân vượng mệnh cha có nguy 【Ghi chú: Nói ngũ hành có Tỉ Kiếp nhiều là hại cha 】; Tài bạch nhiều vượng, mẹ sớm bị khắc. Nếu thấy Quan Quỷ xuất hiện, mẹ trái lại sống thọ; như gặp vận bài thoát khí, cha vẫn có thọ. Nhâm đến ngôi Ngọ, Quý tọa Tị cung, khí bẩm trung hòa, Lộc Mã 【 Ghi chú: Lộc Mã là Tài Quan vậy 】 đồng hương, gặp hưu tù vậy, Thai Nguyên tuyệt địa. Bính đến ngôi Thân, Canh tọa chỗ Dần, Tị nhập Càn Tốn, Ất lâm Song Nữ, kim thừa hỏa vị, Giáp tọa Khôn cung, danh viết là Hưu Tù, sợ nhất là khắc chế. Thất Sát nói kị gặp Tang Phách, thích gặp Thọ tinh viết là Hoàn Hồn. Thiên mệnh có thể thi hành trí lực, khó xuất khỏi La Võng, tạo hóa u vi, chính là loại bỏ công tốt. Bần hàn làm cho hết, có thể làm cho bạch ốc xuất ra công khanh; xa xỉ thái quá, lại khiến lầu son sinh đói khát. Của nhà đem vứt, định sinh con trai không ra gì; kết hôn gặp nhiều hình, tất cưới vợ không lâu bền. Tứ cung 【 Ghi chú: Tứ cung là cung Điền Trạch vậy, câu này lấy cung phân ra lập luận 】 bối lộc, không thể vọng cầu, không thành quan tướng, Tài nên thấy bỏ. Bát tự không có Tài, nên cầu yên phận; vượt ngoài nếu tham, tất gây hung sự. Ôi, cam bần nuôi vụng, vốn không phải Nguyên Hiến bất tài; vổ bụng khoe khoang, khiến Ngũ Viên tỏa chí 【 Ghi chú: Nguyên Hiến, người thời Xuân Thu, khốn mà còn bần. Ngũ Viên, là Ngũ Tử Tư vậy, không gặp thời thổi tiêu đi xin ăn là vậy 】. Thuận thì đi, nghịch thì bỏ. Hiểu mệnh mà sống yên vui, nghèo khốn hợp nghĩa, cuối số Hồng Phạm, cốt tủy nguồn gốc.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Bích Uyên phú (tức là Tiệp Trì Thiên Lý Mã)

Thường nói phân Nhị khí để định Tam Tài, lấy bốn mùa mà thành vạn vật, đều là do mệnh lệnh vậy 【 Ghi chú: Năm là Tuế quân, Lệnh là nguyệt lệnh, lệnh hành quân cho nên viết là Mệnh lệnh. 】. Nắm lệnh là gửi ở bốn mùa mà lập tứ trụ, chuyên lấy nhật chủ, để định tam nguyên. Mệnh chính là không có lệnh mà không có thi hành, lệnh chính là không có mệnh mà không thành lập, tin nhau mà biết tham khảo mệnh lệnh, giống như biết hết trời đất vậy.
Ghi chú: Lý mệnh tinh vi, cho nên Phu Tử cũng ít nói vậy. 】 hoặc nói, Tử Bình nói mệnh, đều là thiên mệnh mà không phải nhân mệnh vậy? Thiên mệnh xem ở khí số, nhân mệnh xem ở ngũ hành. Khí số và ngũ hành tại sao khác biệt? Thiên mệnh và nhân mệnh tại sao khác nhau vậy? Đúng chăng là lý, cho nên mà bản bạc vậy. Nhưng mà nhân mệnh vinh khô được mất, đều ở trong ngũ hành sinh khắc, phú quý bần tiện, không xuất ra ngoài bát tự trung hòa. Trước tiên xem tiết khí nông sâu, sau xem Tài Quan hướng bối 【Ghi chú: Thuận là Hướng, Nghịch là Bối 】con người hướng bên trong mệnh, đều không ra khỏi chỗ Tài Quan. Trong nhiều cách cục, chỉ cần Hư Yêu Lộc Mã, tiên hiền đã lấy thành công thức, hậu học cần phải biết biến thông. Thái quá không có khắc chế là bần tiện, bất cập không có sinh phù là chết yểu. Cần hướng mà vận bối, quyết là bần tiện; cần bối mà vận hướng, đoán là khốn cùng. Hỷ sinh mà gặp sinh 【 Ghi chú: Hỷ sinh, là đất ngũ hành trường sinh, là Dần Thân Tị Hợi 】có thể đoán là nhận quý; thích khắc mà gặp khắc, cát cũng có biết. Gặp Quan mà xem Tài, thấy Tài là phú quý 【Ghi chú: Tài chính là lộc của Quan, phương có Quan tất dụng Lộc để dưỡng lấy quý, không có lộc dưỡng thì là Giả Quan】; Gặp Sát mà xem Ấn, gặp Ấn lấy vinh hoa. Gặp Ấn xem Quan mà gặp Quan, 10 có 8 là quý; Gặp Tài kị Sát mà có Sát, 10 có 9 là bần. Do mộc thịnh gặp kim, tạo lấy khí thành đống lương ( tài năng); thủy nhiều gặp thổ, nên đề phòng công đấp đê ngạn; hỏa nung thu kim, khí đúc kiếm bén nhọn; mộc thông quý thổ, và bồi thành Giá Sắc; hỏa viêm có thủy, danh viết là Ký Tế; thủy ít kim nhiều, hiệu là Tượng Thể Toàn. Giáp Ất vận nhập Tây phương, thân vượng công danh có chắc; Nhâm Quý lộ qua Nam vực, chủ đường kiện Tài kham quý. Kiếp Sát không nên gặp đất vượng, Thực thần thích nhất đất Kiếp Tài. Hợi Mão Mùi gặp ở Giáp Ất, phú quý không nghi ngờ; Dần Ngọ Tuất gặp ở Bính Đinh, vinh hoa có chuẩn; Canh Tân cục đầy đủ Tị Dậu Sửu, vị trọng quyền cao 【 Ghi chú: Canh Thân, Tân Dậu là thân vượng, lại kiêm Tị Dậu Sửu 】 Nhâm Quý cách được Thân Tý Thìn, học giỏi đủ tài; Mậu Kỷ cục đầy đủ tứ quý, vinh quan Chư Tào. Lại gặp Đức Tú Tam Kỳ 【Ghi chú: Tam Kỳ là Ất Bính Đinh vậy, Ất là Nhật, Bính là Nguyệt, Đinh là Tinh, phải ở Tuất Hợi là Thiên Môn là quý, nếu phạm Sửu Dần Mão là tiện 】 danh dương Tứ Nhạc. Mộc phương đủ Dần Mão Thìn, công danh tự có; kim bị đất Thân Dậu Tuất, phú quý không suy; thủy quay về gốc Hợi Tý Sửu, là khách vinh hoa; hỏa đến khu vực Tị Ngọ Mùi, là người hiển đạt. Mộc vượng cần hỏa chiếu cao, có thử ở trời mùa Thu; kim cứng thích thủy bao cho nhau, văn học nhận khen ngợi. Dụng hỏa sợ thủy, dụng mộc sợ kim. Xuân mộc trùng trùng, dừng là thái vượng không chỗ dựa; Hạ hỏa quá viêm nóng, chớ lấy quá cương có lo ngại. Thu kim quá sắc bén là đứng đầu, đông thủy cuồn cuồn chân khả mỹ, gọt cướp là thành, sinh ta phù ta là kị. 【 Ghi chú: Tị Dậu là gió thanh gặp mây mưa, hỗn loạn là tiện 】 Bính Đinh sinh ở mùa Đông, quý ở Mậu Kỷ đương đầu 【Ghi chú: Hỏa nhược không nên thấy thủy nhiều 】; Canh Tân sinh ở mùa Hạ, tốt ở Nhâm Quý đắc cục. Giáp Ất sinh ở mùa Thu, quý nên gặp Huyền Vũ; Canh Tân sinh mùa Hạ, dụng tốt ở Câu Trần 【Ghi chú: Câu Trần là Mậu Kỷ, Huyền Vũ là Nhâm Quý vậy】. Bính Đinh thủy nhiều sợ Bắc địa, gặp Mậu Kỷ trái lại làm quý suy; Canh Tân hỏa vượng sợ Nam phương, gặp Mậu Kỷ trái lại đoán thành vinh. Giáp Ất sinh mùa Thu thấu ra Bính Đinh, chớ lấy Thương xem; Mậu Kỷ inh mùa Hạ lộ ra Canh Tân, nên luận là quý. Hỏa mang nhiều thủy, quý hành vận mộc; thổ gặp mộc vượng, vinh nhập đất hỏa. Canh gặp nhiều thủy, là thủy lạnh kim hàn thích viêm nhiệt; Mậu gặp nhiều Dậu, thân suy khí sắc bén thích Huỳnh Hoàng ( hỏa tinh). Bất cập hỷ sinh phù 【 Ghi chú: sinh ta là phụ mẫu, phù ta là Tỉ kiên 】 thái quá nên bỏ bớt. Quan Sát hỗn tạp, thân nhược thì bần. Quan Sát tương đình, hợp Sát là quý. Năm tháng có Quan tinh, thiếu niên làm quan; ngày giờ chính quý, về già thành danh. Bào Thai gặp Ấn thụ, lộc hưởng nghìn chung 【Ghi chú: Thịnh Mễ là công cụ chứa đựng gạo 】 tài khí gặp trường sinh, ruộng đầy vạn mẫu. Thu Đông Quan tinh gặp Nhận Thương, Tồn kim khử hỏa quý không nghi ngờ; Tháng chạp Thương quan hỷ kiến Quan, phá Ấn trọng thương họa mà chết. Tài vượng sinh Quan chính là quý ít mà nhiều phú; Thương quan kiến Quý lại là quan cao mà tài đủ. Không thương không quý, có bệnh là kỳ, lý rõ ở sau, hà tất cầu nó. Tuy thủy dụng là kỳ, cuối cùng nên khử mới tốt, xét kỳ khinh trọng, không lấy một đường. Như thủy thiếu hỏa viêm gặp Canh Tân, ngưng lấy thân vượng Quan khinh mà thủ; hoặc mộc tuyệt mà tọa kim, gặp nhiều Sát Ấn, khí vượng khó đoán là thân nhược. Tài khinh vật qua Kiếp địa, vợ gặp nhiều họa; Kiếp tài Dương Nhận có Quan Sát, là thần ở đài các 【Ghi chú: là quan Tể tướng 】. Quy lộc đảo xung hành Nhận Thương, là quan miếu lang; thân vượng có Sát hành Ấn thụ, là đoán quan quyền. Thân cường chủ nhược không có Ấn thụ gặp Tài tinh, là thế hệ tầm thường. Dương Nhận Thiên Quan có chế, ứng chức nắm ở binh quyền. Chính Quan Chính Ấn không có Thương, làm quan ở cấp huyện 【Ghi chú: Chức quan phủ 】. Nhuận Hạ, Giá Sắc, cấp quan thưởng 【Ghi chú: Quan lương vận 】. Tý Ngọ địa vị cao, là khách Hoàng môn. Quý nhật quý thời kiêm Hợi Sửu, khôi danh cùng cấp nhập Hàn Lâm. Ngày Nhâm giờ Nhâm nhiều Nhâm Thìn, tước cao thừa ân đăng ngự khuyết. Nhật Đức gặp Khôi Cương, gặp hình xung là quan bần hàn; Khôi Cương 【 Ghi chú: Thìn là Khôi, Tuất là Cương 】thấy Tài Tinh, là người gặp đất Thực Lộc. Thương quan kiến Quan, tốt là nhập đất Ấn Tài; Tài tinh phá Ấn, nên gặp đất Tỉ Kiếp. Mệnh gặp Tài vận phùng Sát, cát cũng kham trần; mệnh gặp Sát vận phùng Tài, hung có thể quyết. Nữ gặp Thương quan, Quy lộc là cực quý; nam phùng Dương Nhận, thân nhược gặp là hiếm thấy. Kim Thần Phi lộc Thương quan, nữ mệnh gặp là tối kị; Dương Nhận Thương quan Thất Sát, nam mệnh gặp là được quyền. Kim thần nhập hỏa gặp Nhận Sát quý không nghi ngờ; Quy lộc không có Quan, gặp Thực Thương, vinh mà có quyền. Chính Ấn không có Quan, làm quan không hiển; Dương Nhận Thất Sát, làm quan nổi danh. Thân vượng không chỗ dựa, là mệnh tăng đạo; Đào Hoa Cổn Lãng 【Ghi chú: Là Đào Hoa Sát, nữ nhân đại kị, nếu Quan tinh mang Đào Hoa là chủ quý, duy chỉ có mang Tỉ Kiếp là chủ dâm tiện, trụ giờ thấy gọi là Tường Ngoại Đào hoa, đoán là ca kỹ. 】 nữ ca kỹ bôn lưu. Kim nhược hỏa tuyệt, tượng thổ mộc tiêu ma; thân cường Tài suy, kim hỏa đào lưu vậy. Thương quan gặp Tài mà có con, Thất Sát có chế cũng nhiều con. Ấn thụ bị thương, sớm có tang mẹ; Tài nguyên bị Kiếp, mệnh cha mất trước. Nam mệnh Thương quan e hại con, nữ mệnh Thương quan phòng khắc chồng. Năm tháng có Tài Quan thân vượng, công hiển cha vinh; ngày giờ có Lộc Mã trường sinh, vợ hiền con quý. Trong tháng có Quy Lộc mà không có Tài Quan, tang cha đất người; năm gặp Lộc Mã bị xung phá, ông mất ngoài quận. Ngày gặp Tài giờ gặp Kiếp, thê thiếp sinh chết; Thái tuế gặp Sát tháng gặp Thương, anh em bất hòa 【Ghi chú: Can chi tháng là cung anh em 】 chuyên lộc nếu gặp Âm thác, lưu lạc ngoài nhà; Trục Mã như gặp Dương Sai, ông bà thật giả 【Ghi chú: Ngày dương là Dương sai, ngày âm là âm thác, là các ngày Tân Mão, Nhâm Thìn, Quý Tị, Bính Ngọ, Đinh Mùi, Mậu Thân, Tân Dậu, Nhâm Tuất, Quý Sửu, Bính Tý, Đinh Sửu, Mậu Dần vậy 】 năm tháng gặp Sát có hình hại, ông cha đều tổn thương; Nhật thần bối lộc không có Tài trợ, vợ con ly tán. Chính Tài Thiên Tài thấy hòa hợp, thê thiếp gian dâm; Thương quan Chính Quan có khắc phá, vợ chồng cùng hình. Vượng Thê thương Tử, tất vì Thực ở lúc gặp tổn thương; vượng Tử tang Phu, chính là Quan chủ mất vị. Nữ gặp Tài vượng sinh Quan, tất đoạt quyền chồng; nam gặp Tài đa thân nhược, vợ nói phải nghe. Sai Thác ở ngày, nhà ông bà ngoại lạnh nhạt; Thấy Nhận ẩn phục ở năm, tổ nghiệp là suy sụp. Sinh giờ Tài Quan, gặp Tài vượng sinh Quan, con trợ quốc hưng gia. Chính Quan thấy nhiều, sinh nhiều con gái mà sinh con trai ít; xuất hiện Thiên Tài, ít yêu vợ chính mà ưu ái thiếp nhiều hơn. Tài tinh đắc vị, nhờ vợ làm giàu thành gia thất; Quan Lộc quy viên, hiển lộ tài năng mà tăng vinh tổ nghiệp. Năm có Chính Quan tháng có Thương quan, ông mạnh cha yếu; ngày gặp Tài giờ có Kiếp tài, cha hưng con bại 【Ghi chú: Năm là ông bà, tháng là cha, chi ngày là vợ, giờ là con cái】; Thanh Long mà hoàn toàn tòng kim cách, vừa bần vừa tiện; Bạch Hổ bị thủy nhuận hạ, nói phú nói quý 【Ghi chú: Giáp Ất mộc gọi là Thanh Long, Canh Tân kim gọi là Bạch Hổ 】. Xuân mộc vinh mà thủy ít, bổ nạp làm tăng; Hạ hỏa viêm mà kim suy, là tăng đạo. Câu Trần hoàn toàn bị nhuận hạ, thế hệ bôn lưu; Chu Tước tam hợp Huyền Vũ, đường cùng quẫn. Kim cương mộc nhược, làm người bán dạo; thổ ngưng thủy kiệt, khách phá tổ ly hương. Kim sinh mùa Thu thổ dày trọng, bần không có một tấc sắt; Hỏa sinh mùa Hạ kim xâm lấn, lộc có nghìn chung. Xuân mộc nhiều thủy, thế hệ bần tiện; đông thủy kim thịnh, người điên nhược. Thìn Tuất Sửu Mùi gặp hình xung, không có người nào là không phát 【Ghi chú: Thìn Tuất Sửu Mùi gọi là Tứ Mộ, như Tài Quan nhập mộ hỷ xung khai 】; Tý Ngọ Mão Dậu mang hình hợp, đa số chủ dâm ngoa. Hạ kim nhiều hỏa, thu mộc nhiều kim, không bần thì tiện; quý mộc thịnh kim, xuân kim nhiều hỏa, không yểu thì bần. Quý mộc không có căn tòng thê là phúc, lộc vị cao ngất; Hạ hỏa ( kim ) mất sắc phối phu vinh, công danh hiển đạt. Hỏa hướng xuân đến gặp thủy vượng, thích đi cầu danh; thổ lâm đất quý 【Ghi chú: Là tháng Thìn Tuất Sửu Mùi vậy, ở trên thuộc Ngoại cách 】 thấy kim nhiều, tương lai làm quan. Giáp Ất hạ vinh thổ khí dày, công danh một nửa hứa đầy điền trang; Bính Đinh đông vượng thủy nguyên thanh, tước vị đủ vinh gấm lụa. Chuyên Lộc mang Thực Thương, quyền nắm ngoài cửa; Dương Nhận nhập Quan Sát, uy trấn biên cương. Củng Lộc, Giáp Lộc, Củng Quý, tước lộc phong vinh; Đảo xung Diêu tị Lan xoa, công danh hiển đạt. Nhâm xu Càn, Giáp xu Cấn, làm quan thanh miếu; Lục Tân triều dương, Lục Ất Thử quý, thần văn học. Cục đủ Hổ mãnh, tướng tài trụ cột; trụ bị Vân Long, đức đại nhân. Tứ khố đầy đủ Long biến hóa, gặp Đại Hải là đấn chí tôn đứng đầu hàng cửu ngũ (ngôi vua); Tam Kỳ cục tú phượng nhảy qua tường, gặp Thiên Môn là chủ tam lục 【Ghi chú: Hai đoạn này là nói mệnh đế vương 】. Vượng Tài Quan mà giàu sang, ám Lộc Mã lấy vinh hoa. Nhập cách lấy quý mà suy, phá cục lấy bần mà đoán. Nghiên cứu một lý mà xem vạn điều, rõ ràng nói mà thông vạn vật. Hậu học quân tử, vật đãi ở tâm.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Tạo Vi luận

Phép tắc bắt đầu từ Lưỡng Nghi, chỗ sinh Lục Giáp 【 Ghi chú: Lưỡng Nghi, lúc ban đầu phân chia Nhật Nguyệt 】. Lấy Tam Nguyên mà làm Tam Tài, thấy bốn mùa mà thành tứ trụ. Can là gốc lộc, định chức vị cao thấp một đời; Chi là gốc mệnh, ban bố thủy chung ba hạn định thọ nguyên. Năm sinh là gốc, nguyệt kiến là mầm. Ngày quản lý, đoán giai đoạn trung niên tốt xấu; giờ là kết quả, định tuổi già vinh khô. Trước tiên suy từ Thai Tức, sau là hóa nhập biến thông 【Ghi chú: Quyển một có nói Khởi Thai pháp, Khởi Tức pháp, Khởi Biến pháp, Khởi Thông pháp 】. Là quan là quý, nguyên nhân cao thấp đều lấy hợp lại; gặp nhiều trắc trở hay nhiều nguy tai, căn bản đầu tiên mà tương khắc. Cho nên là cách thanh cục chính, phải là thần đài các ; Ấn vượng Quan sinh, tất là đảm nhận quân hành 【 Ghi chú: Quân là đòn cân của trời ban, Hành là cán cân, dụng vật để xưng danh thiên hạ, giống như quốc gia đại thần làm chủ chỗ này, đảm nhận quân hành ý tứ giống như tên gọi một vật】đầu ngựa mang kiếm, trấn áp biên cương; Ấn thụ phồn thịnh, địa vị nơi Hàn Uyển (vườn Ngự Yển nơi vua ngự). Lộc dù nhiều mà có hại, phúc không phải tốt; Sát dù nhiều mà không ngại, mang hình không họa. Tam Kỳ bỗng gặp, tài cao lập giải thành danh; chính gặp lục hợp, nhà giàu mà còn thêm sản nghiệp. Không Vong thân ở Quả Tú, cô độc theo sau; trường sinh hãm ở Không vong bần hàn trục trặc. Đào hoa lâm Đế Tọa, vì sắc vong thân; Hàm Trì lại hội tụ cung ngày, nhờ vợ mà giàu. Căn nguyên suy nhược, gặp sinh vượng mà không vinh; bản chủ hưng thịnh, gặp hưu tù mà lại cát. Dương Nhận lâm ở ngũ quỷ, định phải nhiều lần kết hôn; Câu Giảo nhiều ở tam hình, ứng là nhiều lần gặp hôn phối. Là lấy bước đường làm quan chớ gặp Thôn Đạm (Sát), tước lộc dừng lại【Ghi chú: Thôn Đạm Sát tên là Thiên Trung Dương Nhận Sát 】; nắm binh quyền là vật gặp Thiên Trung, thân quyền thoái mất. Lòng dạ trong suốt, bởi vì thủy ở bốn phương; học vấn uyên bác, vốn là thủy ở Nhâm Quý. Hiền lành vui vẻ, mộc cưỡi đất Giáp Ất; cháy khô viêm nóng, hỏa thịnh ở đất Bính Đinh. Danh cao lộc trọng, Càn kim 【Ghi chú: là cung Hợi quẻ Tị, lấy Càn là kim 】 sớm tụ Canh Tân; Quán Hủ túc Trần, thủ thổ thân trùng Mậu Kỷ. Mộc mạnh mà không có kim đẽo gọt, dù có vinh thì cuối đời cũng cô đơn nghèo hèn; hỏa viêm mà không có thủy hòa tan, dẫu có phát mà thiếu niên cũng yểu chiết. Việt yếu do thủy phù phiếm, duy chỉ dựa vào thổ để làm đê phòng thủ; thổ dày mà không có mộc khai thông, liền thành ngu đục. Kim cứng mà không có hỏa nung luyện, cuối cùng chỉ là hung bạo. Đến như kim nhược sợ hỏa viêm, nhiều thì tổn hại; mộc nhu kim nhiều, lợi thì hại thân. Thủy thanh mà không nên thổ nhiều, thổ nhược mà không cần mộc thịnh. Hỏa cường táo mà thành mù, thủy xâm lược cứu để khoan hòa. Nên cần quân bình là tốt, cũng đều lấy điều hòa là trên hết. Hiển lộ lớn là quý lấy ẩn sâu, khuất nhiều là quý thì lấy thân hèn. Thọ cực tuổi cao, đều là lộc lâm đế vượng; chức cao vị hiển, là vì Mã hội Quan tinh. Hoa Cái 【Ghi chú: Dần Ngọ Tuất thấy Tuất, Tị Dậu Sửu thấy Sửu, Thân Tý Thìn thấy Thìn, Hợi Mão Mùi thấy Mùi 】gặp Không, thiên về tăng đạo; Học Đường gặp quý, duy lợi thầy nho. Ngũ hành như cũng tiêu điều, vì ngũ mệnh suy nhược; ngày gặp Không Quả, vợ nhiều sinh ly. Giờ gặp Cô Hư, con cái phần nhiều là không ra gì. Tuyệt cung gọi là Cổ bồn Sát【Ghi chú: Cổ bồn là chủ khắc vợ】, Thai cung 【Ghi chú: là cung Bào Thai vậy 】 là thần Bạch Hổ. Thiên Không lâm cung Tử tức, về già hại con thành gia. Vận gặp cát chủ ở không có mộc ( gốc ), thì không ở vui vẻ; hạn thủ hung thần có mầm căn, thì không nên sợ hãi. Tuế quân nếu đến sao ác, một năm truân chiên; sinh thời nếu gặp hưu tù, cả đời oán sầu. Nguyên thanh mà Lưu tất xa 【Ghi chú: Nguyên là mệnh, Lưu là vận 】; Bản trọc là chỗ lấy không thành. Bát tự siêu quần, không quý cũng là đại phú; ngũ hành hỗn tạp, chỗ yên ổn cũng không lo sầu. Hưu tù thì bản thân hèn mọn, vượng tướng là danh vị đầy đủ. Trước cường sau nhược, tất trước tốt sau xấu; đầu nhược cuối cường, cũng là đầu hung mà sau cát. Nếu là vận hạn chỗ đất lâm đến, dựa vào lưu niên 【 Ghi chú: Năm nhận Thái Tuế, tham khảo thêm mới có thể đoán một năm cát hung 】 tinh thần hung cát để định họa phúc.

***********************
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Quyển bốn (2)

Nhân Giám luận
( Luận xem mệnh người)

Hồng mông Triệu phán, chỗ sinh Giáp Tý, âm u hiển lộ mà biến thông khó lường, tiềm ẩn ở nhị lý thâm sâu. Tinh thần 24 chữ ( nhị thập tứ tự ) rất diệu dụng, trăm triệu con người biết rõ cát hung 【Ghi chú: Chữ Nhị thập Tứ chính là thập can, thập nhị chi và vận hạn tính gộp lại là 24 chữ, phú quý bần tiện, cát hung họa phúc đều nằm hết ở trong đó 】; ngày sinh làm chủ, năm sinh là Tuế quân. Trước tiên luận gốc rễ, nhìn dễ thấy quý tiện. Giả sử đại khái thể thức thâm tàng, mấy ai biết được. Cho nên quý dù là cát, tiện là do không dễ dàng. Tam Tài xếp ra dày đặc【Ghi chú: Tam Tài tức là Thiên nguyên, Địa nguyên, Nhân nguyên vậy 】 xu thế có quyền hành khinh trọng; Bát Quái bao la, tự tồn tại quy củ mới thành. Trên thiên đạo có tròn có khuyết, việc con người sao không có phản phục. Hoặc là trước bần mà sau giàu, hoặc là trước bại mà sau thịnh, nên bỏ ngắn mà theo dài, chớ lấy cái kia mà bỏ cái này. Tứ trụ đều không chỉ có một chữ, đại thuần cũng cầu tiểu khuyết. Xem kĩ mà nói, chớ coi thường mà đoán lấy. Quan ở đất lộc, Y Doãn phụ nhận làm quan; giờ ở đất quý, là thần đãm nhận giúp vua hưng thịnh 【Ghi chú: Trong truyền thuyết Y Dõan là kẻ hiền tài ở ẩn, không muốn làm quan 】; sinh gặp quý cách, làm quan tôn kính ở lầu son (đài các); sinh gặp nhiều Quỷ, vui đường có núi rừng rậm rạp. Biết là chỗ quan chỗ quý, ngũ hành thuần mà không khuyết điểm; nhiều khó nhiều lo, bát tự tạp mà có khắc chiến 【Ghi chú: Ngũ hành sinh khắc gọi là Chiến 】gốc ngọt mà đời sau khổ, dẫn bạn mà oan uổng nơi sa trường, Nguyên Trọc Lưu thanh (Nguyên là mệnh, Lưu là vận; Trọc là đục, Thanh là trong), Thái Công phát ở bờ sông Vị Thủy. Lộc Mã đồng hương mà hội đăng đài các, Sát Ấn nhiều vượng mà sớm nhập khoa danh. Huynh nhiều gặp đệ, nên Phạm Tử than bần 【Ghi chú: Phạm Tử: tức là Phạm Đan, sau nước Yên mất, là Thái Tử nước Yên tự nguyện chịu bần mà không làm thần cho triều đình khác 】 phụ trùng sinh thân, thọ có thể sáng với Lão Bành. Giáp Quan giáp Quý, ngày giờ gặp mà khí chất to lớn; Kiếp tài đoạt Mã, năm giờ gặp mà cỏ Bồng ngập cửa. Tử tức cung bị khắc tuyệt, tổ chim Khách mà chim Gáy chiếm; Thê cung bị phạm thương, chim Loan cô đơn mà Phượng hoàng không sánh đôi. Vận hành bối lộc, ngày xưa giàu mà ngày nay nghèo; mệnh gặp thân vượng, hôm qua buồn mà hôm nay cười. Tứ trụ tọa ở trên Học Đường 【Ghi chú: Ngũ hành lấy trường sinh là Học Đường, như người sinh mộc lấy Hợi là Học Đường, thấy Kỷ Hợi là đúng, còn lại giống như vậy mà suy 】, trở lại cũng không ngu; trong Tam Nguyên trợ giúp mộ khố, là gò đất hiếu học. Năm gặp Quan quý, tài cao lập giải thành danh; giờ gặp Thiên Tài, nhà giàu lại thêm nghiệp tốt. Canh hành đất Bính, cung kính cầu chỗ này; Nhâm nhập đất Tuất, sao không qua chỗ chết 【Ghi chú: Người sinh Nhâm hành vận Tuất, gặp Tuất thổ khắc, cho nên có thuyết này】Bá Ngưu có bệnh, do lấy khắc chiến giao sai; Tư Mã sao sầu, do Tỉ hòa mà vô vị. Trong thân suy nhược, gặp cát vận để thành hung; mệnh tọa kiên cố, gặp năm họa mà trái lại thành phúc. Sát cần nhiều mà nhiều hợp, sao tổn thương Nhật Nguyệt; lộc dù nhiều mà có phá, khó giúp hội tụ phong vân. Ngộ nhi bất ngộ, là Canh Tân ở đất Nhâm Quý; Ưu nhi bất ưu, Giáp Ất hành đất Bính Đinh. Hoặc nếu sinh gặp đất bại tuyệt, Trịnh Cốc quay về cày ruộng; Lộc Mã bệnh suy, Phùng Đường đầu bạc. Cửu cung vượng tướng, khó tránh mời gặp cây Dâu ta; tứ trụ hòa hợp, khó tránh đề thơ ở trên lá. Tây Thi xin đẹp, bản thân mang nhiều trường sinh; Lục Châu ngả lầu, hung ác lại gặp Thất Sát. Cô Loan nhập mệnh, vợ khóc chồng và chồng khóc vợ; trăng hoa bán thân, nữ cầu nam và nam cầu nữ. Đầu mắt khuyết mà thân thể khuyết nhau, Tài có hao mà điền trạch có hại. Sinh thời nếu gặp tương xung, cả đời thiếu khuyết; năm tháng nếu đến cướp đoạt, trăm năm cô hàn. Tài nhập Tổ Tài, không quý thì cũng đại phú; Sát ở trụ năm, chỗ yên cũng có thể nói nguy. Nếu đúng Quan tinh thấu lộ, chưa thể liền lấy quý suy; Sát tinh ở dưới tấn công, chớ liền lấy tiện làm hung triệu. Đại để Quy Lộc hỷ gặp ở Ấn thụ, hình sát nên gặp ở trung hòa. Nên lấy là ưu không ưu, văn hỷ không hỷ. Khảo sát căn mà đủ thấy rõ, luận thủy mà cứu chung 【Ghi chú: Căn là năm, Thực là giờ; Thủy là sinh, Chung là tử 】cho nên biết mất bản mà vong mạt 【 Ghi chú: Bản là Nhật can, Mạt là thời vận 】 không thực cứu mà nghĩa có dư. Là lấy Thê cung có khắc, là do thiếu niên không có cưới vợ sớm; ngôi Quỷ gặp Thương, về già tổn con mà thành gia. Cả đời không dừng và thọ tính toán như cây Tùng xuân; Tài lộc mang nhiều mà phúc dáng như Bồ Liễu 【Ghi chú: Tùng xuân là trường thọ, Bồ Liễu là đoản thọ】 Nguyên thanh thì Lưu tất xa, gốc mạnh thì cành lá tất vinh. Tam mệnh đội mũ, không quý cũng là đại phú; Cửu cung nếu khuyết, sợ hung vận đại kị năm hung. Nghìn điều vạn mối, nên cầu không thấy hình; trăm phái một gốc, quý gặp đất bù thân. Nói kĩ gốc ngọn, lại xem tròn khuyết, ngưng thần suy định, kế sâu cơ trầm, có thể mà hiểu, không nói cũng biết. Hậu sinh quân tử, gương tài trước kia, kĩ thuật nói 10 thường có 8,9, làm bài cả 100 không có 1,2. Chữ đơn giản mà ý tinh vi, nói gần mà chỉ xa, là ở tài đức, không chú ý không xem mệnh.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Ái Tăng phú
(Phú yêu và ghét)

Giàu hay không giàu là ở thuần túy, nghèo hay không nghèo là ở chiến tranh 【Ghi chú: Ngũ hành tương khắc gọi là Chiến tranh 】; Quý hay không quý là ở thanh tú hay không, tiện hay không tiện là ở phản thương. Văn chương xưng rõ, là do quý Mã hội tụ ở Học Đường 【Ghi chú: Ngũ hành lấy trường sinh gọi là Học Đường, như người sinh mộc lấy Hợi là Học Đường, thấy Kỷ Hợi là đúng. Còn lại suy giống chỗ này 】 Cẩm tú văn chương, hỏa mộc hợp ở tính tình 【Ghi chú: Mộc hỏa thông minh là có tượng văn chương】 kế sâu lo xa, đức tính ở cung trầm tĩnh. Nghệ thuật tinh vi, Đế Tọa thủ Từ Quán văn chương. Cát phúc sinh vượng Lộc Mã, hoàn toàn cần tinh thần. Khôi Cương có cơ thần biến, Ly Khảm chính là nhà thông minh. Quý nhân nên gặp Lộc Mã, Kiếp Nhận Không Vong có thể rời xa. Trường sinh có thể thích gây ra quân tử, suy bại càng sợ gặp tiểu nhân. Tứ trụ bay tán loạn, là bất nhân bất nghĩa. Ngũ hành tương sinh, là hiếu là trung. Ấn thụ ở bên trong hình xung, tâm loạn thân vong. Ngày giờ cư ở trong mộ khố, vui ít mà lo nhiều. Nhật can vượng mà tai họa ít, tài mệnh suy mà gặp nhiều trở ngại. Bôn ba kiếm ăn, xứ vượng gặp hình. Lợi danh thành bại, đất quý gặp tổn thương. Họa phúc cả đời, dựa vào ở một thời. Một đời cát hung, dựa vào ở khí vận. Phúc tinh có khí mà biến thông thăng thiên. Tuế khắc Vận là hung, vô khí mà người xa tài tán. Đại vận hung mà phát sinh trăm họa, lưu niên cát mà giải trừ tai ương. Không có tuyệt mà dẫn tới tuyệt, tài mệnh nguy sụp. Bản chủ được sinh, lợi danh xứng toại. Tam hợp lục hợp, gặp cát nhiều họa ít. Thất Sát tứ hung, gặp họa nhiều phúc ít 【Ghi chú: Giáp tới Canh là 7 số cho nên viết là Thất Sát, Giáp tới Đinh là 4 số cho nên viết là Tứ Hung. Ngũ hành đều giống như vậy 】 tăng quan tiến chức, định do lộc hội ở năm. Đặt nhiều căn cơ, tất là đất hợp tài. Tuế quân áp xung chủ hung tai, đại vận bị thương nhận ít cát. Tuế nên sinh Vận, vận hỷ sinh thân, ba vị tương sinh, một năm toại ý. Tài Quan đều vượng, ứng hiển đạt ở đường quan. Tài Thực quân vinh, sao lưu lại lâu ở nhà trắng. Lộc nhập đất tụ sinh, phú quý cũng biết. Mã đến đất lộc vượng, vinh hoa có thể đoán. Muốn lấy lợi tức giao dịch, phải tìm lục hợp giúp đỡ. Tài Quan mang lộc triều nguyên, định chủ an nhiên nhận phúc 【Ghi chú: Như Dần sinh hỏa, trụ tháng ngày giờ có chữ Giáp, Giáp lộc ở Dần, gọi là Triều Nguyên thần, ngũ hành đều giống chỗ này】; tháng suy giờ vượng, thiếu niên đầy đủ. Mộc nhiều thổ ít, cuối cùng phiêu đãng. Thủ quán lợi nhà ( Vật bán cửa hiệu ) , tất do xứ vượng gặp Tài. Bỗng nhiên hiển đạt thành gia, định là hình xung thấy quý. Chủ bản nắm thời, được con gái để giúp đỡ. Quý lộc có tình, bởi vì con trai mà thăng chức. Nam mua bán Bắc lữ hành, định là do thông Mã đạo【Ghi chú: Mã nếu phá chuồng, chủ chạy khắp Đông Tây Nam Bắc, như Dần Ngọ Tuất Mã ở Thân, dụng chữ Dậu làm chuồng mới tốt, giải thích ở đây là không có chuồng ngựa, còn lại giống như vậy 】 Đông thì mua bán Tây thì chạy, tất là lợi ở vận tải. Can ngày khốn nhược, Bá Ngưu oán than trời cao. Lộc Mã suy vi, Nhan Tử khó thoát đoản mệnh. Hung hay không hung là ở Kiếp Nhận, cát hay không cát là ở cương cường. Quan yếu Mã suy, nam đào nữ tẩu. Thiên La Địa Võng, tai họa hoành hành. Thoát mệnh yểu vong, chắc chắn gặp Thực không được mà chết. Cùng đường gặp Kiếp, nguy chắc chắn là phạm ở Tự Hình. Xứ tuyệt gặp Tài, ứng khó sống với vợ đến già. Đại Hao Tiểu Hao, bởi vì ham vui mà mất nhà 【Ghi chú: Đại Hao là chỗ kị ở trên đầu Dương (Mùi), Mã (Ngọ) giận Ngưu (Sửu) không chịu cày, Hổ (Dần) sợ Kê (Dậu) miệng ngắn, Thỏ (Mão) oán Hầu (Thân) không công bằng, Long (Thìn) sợ Trư (Hợi) mặt đen, Xà (Tị) sợ Khuyển (Tuất) sủa to 】. Quan Phù Tử Phù, tất chủ lúc có ngục tụng. Hoặc hành tứ trụ gặp tuyệt, tam mệnh hình thương, không tránh khỏi đường hình treo cổ, khó tránh khổ nạn xăm mặt. Nếu gặp ngũ quỷ, sét đánh cọp vồ là không nghi ngờ. Lại gặp bầy hung, đoán định tai ương hành chết. Nữ nhiều dâm tiện, nam tất xương cuồng. Hoặc hỏi tình tính con người hiền ngu thiện ác, trước tiên suy quý tiện từ vượng tướng, phương suy bại nghiên cứu linh hoạt. Tâm cao, Khôi Cương là họa. Tính thuận, lục hợp là cát tường.Xem người an nhàn tự tại, gặp vị trí Hoa Cái, Cô Hư 【Ghi chú: Không Vong đối cung là Cô Hư】; tốt là hạng người sống ỷ lại, phạm quyền Thiên Quan Kiếp Nhận. Kiếp Nhận sinh keo kiệt bủn xỉn, lại sinh ra cửa ải hung hiểm. Đại nhân mưu lược ở Nhâm Quý, uy phong khí mãnh ở Bính Đinh. Gặp cô tù không có tinh thần, gặp phá bại đa số thư thản. Giáp Ất thuận mà nhân từ đại lượng, Canh Tân suy mà quả đoán khí cương. Phải thích hợp ở táo khô bại hỏa thịnh, ẩn nhẫn định luận kim nhiều. Hình chiến là ngu ngoan, an tĩnh là hiền tuấn. Kim thủy nắm lệnh mà tương sinh, giờ gặp hỏa thổ mà tương trợ, không lao tâm mà áo cơm đầy đủ, không phí lực mà cuộc sống tự thành, lại nếu được thần phù trì, định là quê hương quyền cao. Lộc quý củng vị, dương danh ở tỉnh. Chỗ ưu là phúc mà không phúc, chỗ lo là thành mà không thành. Phúc mà không phúc là chỗ xứ cát gặp hung, thành mà không thành là chỗ cách cục bị phá. Thương cách là tổn thương phúc, phá cách thì là họa. Thí dụ như mầm cây gặp mùa Thu hạn hán, mà mùa Đông thì kho lương trống không. Hoa bị sương giá mùa xuân, còn mùa Hạ quả không có thành. Mưu trí suy nghĩ, sử dụng không thành. Dẫu có cơ mưu xoay chuyển trời đất, mà không toại nguyện kiến công lập nghiệp. Bởi vậy, nảy mầm mà chẳng nhú ra, nở hoa mà không có quả. Lại gặp thương bại thái quá, một chút phúc không qua cắt rơm gánh củi. Dẫu có đa năng bách nghệ, khó tránh khổ tật cơ hàn. Khốn ở khe suối, mệnh khiến cho như vậy. Trì trệ không thành, sao lại oán thán. Muốn hỏi phú quý, Tài Quan toàn cục, báo sao cho được? Rất lớn ở tâm cơ, chớ nở hoa khác. Đạt thánh đạt hiền, không có thời là không có. Đến phú đến quý, từ xưa đều như vậy. Hoặc sinh trong tháng Thân, văn cao vũ hiển. Hoặc dưới cư Quan đới, sự nghiệp đại tài. Huyền diệu như thế, suy đoán thế nào? Trước luận bên trong Học Đường, Tam Kỳ Tứ Phúc, thứ xem bên ngoài cách cục nhất cát nhị nghi. Nếu Kỷ Mùi thấy Giáp Ngọ là cát, Nhâm Thân thấy Đinh Tị là may mắn. Nhâm Tý Bính Ngọ, chủ người quang phong nho nhã. Tân Dậu Bính Thân, chính là kẻ sĩ tuấn tú vinh hoa. Âm dương hoàn toàn dựa vào thuần mỹ, tạo hóa tối hỷ tương sinh. Khó luận Nhật chiếu Nguyệt sáng, khó lường Kim đường Ngọc quỹ. Được là vinh, gặp là quý. Nếu gặp hiền ngu sáng tối, chẳng qua là tạo hóa an bài. Vật đã vinh khô, làm người sao không có thành bại. Nếu như Phượng sinh ra Trĩ, Xà hóa thành Long. Hoa thơm không như cỏ dại, khô mộc là do sinh ở sơn dã. Nhỏ quý già tiện, đầu khó sau thông, bởi do đại vận suy vượng, đến nỗi thay đổi phú quý. Cách cục thuần mà lại tạp, thất vọng đau buồn thiếu sức sống. Vận hành về già mà được thời, ưu du tự tại. vận khó đề phòng bất trắc, là bởi thời có Xuân Thu, tháng có tròn khuyết. Thường xem con cái được phúc ấm che chở, một lúc thân tang định bạc bẽo u buồn. Lại thấy người đi câu hoặc cày cấy, một vận hanh thông mà hiển đạt. Tước lộc nhiều năm, chốc lát đều ngừng. Thời vận tới, gặp nhau phút chốc. Gặp sinh vượng, vị tất là hung. Có tình là hanh thông, vô tình là trì trệ. Có hợp là cát, có xung là hung. tuế đến Quan Ấn, đường quan định biết tiến lên. Vận gặp Thực Tài, thứ dân cũng hứa là vinh xương. Hoặc có lúc nhỏ dựa vào tổ phụ mà vinh, lớn lên dựa vào mà tôn quý. Lại có lúc nhỏ gian khổ, về già không chỗ nương tựa. Bởi do tứ trụ vượng suy, do chỗ đại vận hanh thông hay không. Chẳng phải thấy mộc khô héo, dẫu có gặp xuân mà không vinh. Ngọn cây tười tốt, dù có sương giá mà không bại. Luận ngày chớ quên năm tháng, định không có qua loa. Sinh thời vượng khí triều nguyên (hướng về gốc)【 Ghi chú: Triều Nguyên như ngày Giáp mà tứ trụ lại có chữ Dần, ví như trong Dần có Giáp lộc ở Dần 】 chắc chắn là về sau có phúc. Xưa có ngọc mài dũa, giá trị liên thành. Thế gian có người chính trực, tự lập gia đình. Như rèn luyện nhiều mà không diệt, như về sau tuổi già mà không tàn. Tiêu tức kì diệu ở biến thông, họa phúc nên xem xét suy vượng. Ngõ hầu thành quân tử, làm gương soi mà hạnh phúc.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Vạn Kim phú

Muốn biết Ngũ hành Sinh Tử quyết,
Sao dễ dàng với thuyết phàm nhân,
Ngũ tinh chỉ bằng ở giới hạn,
Tử Bình chuyên lấy vận thành quyết,
Sinh biết phú quý hỏi tiền trình,
Thời tử chưa xét làm sao kết,
Cách cục chỉ lấy dụng thần suy,
Dụng không thụ thương người không diệt,
Vận hành trước bày thập nhị cung,
Nhìn xem cách nào thời tiết giáng,
Tài Quan Ấn thụ cùng Thực thần,
Nên biết khinh trọng tra phân rõ,
Quan tinh sợ hành vận Thất Sát,
Thiên Quan càng sợ Chính Quan lâm,
Quan Sát hỗn hành nên yểu thọ,
Khử Sát lưu Quan tử tế bình,
Lưu Quan khử Sát chớ gặp Sát,
Lưu Sát khử Quan Quan chớ gặp,
Quan Sát thụ thương người tất yểu,
Lại phải Tài cách định tiền trình.
Ghi chú: Quan chính là người thuần thiện, hành vận Thất Sát hội Ác tinh, tất hại Quan. Thất Sát thấy Quan, Quan vượng thì Sát suy, Quan nhược thì bị Sát khinh. 】
Nhật thời Thiên Chính hỏi Tài đâu,
Can đầu sợ sinh mang Sát đến,
Kiếp nếu gặp nhiều người yểu thọ,
Nào ngờ Thiên Chính họa là nặng,
Tự chuyên Thiên Chính đều là phúc,
Huynh đệ cùng phân là mối họa,
Vận đến Chính Tài tất cạnh tranh,
Đều lấy Thiên Chính chia hai suy,
Có Tài Quan vận nên vinh phát,
Đất Tài đất Quan là Thai phúc,
Chỉ sợ can ngày gốc tự nhược,
Tài đa sinh Quỷ cản suy thân,
Tài đa thân nhược hành Tài vận,
Xứ này mới biết nhập tuyền đài.
Ghi chú: Tài đa thân nhược chủ không nhận nỗi Tài, lại hành Tài vận thì chết. 】
Quan không gặp Thương, Tài không cướp,
Thọ cao như núi sao thể sụp,
Thứ nhất hạn gặp đất Ấn thụ,
Vận sinh thân vượng tất vinh xương,
Đất Quan hội hợp thăng quan chức,
Tử tuyệt đương đầu là họa tai,
Nếu như gặp Tài đến hại Ấn,
Rơi núi rớt thủy gặp ác vong,
Quan cư ở chỗ chết đất người,
Làm khách gặp tang ở bên đường,
Ấn không gặp Tài người không chết,
Từng thừ như trước rõ suy tìm.
Ghi chú: "Nếu là gặp Tài đến hại Ấn", như Giáp dụng Quý là Ấn, dụng Kỷ là Tài, Kỷ thổ có thể khắc Quý thủy, cho nên nói chết, ngũ hành dựa vào chỗ này. 】
Tài Quan Ấn thụ nói phân rõ,
Lại có Thực thần không dễ quyết,
Thực thần có khí thắng Tài Quan,
Chỉ sợ tàn thương trước sau tiệt,
Gặp vận Đảo Thực lại năm thương,
Phải biết sớm nhập vào tuyền đài,
Cách trước đều dạy nói đoản thọ,
Cách sau cũng đến trước tiệt lộ,
Lại phân khinh trọng mà suy rõ,
Rất sợ Quan Tài đến tử tuyệt,
Thương quan mệnh vận lại gặp Quan,
Đoán là đường đi gặp trăm họa,
Nguyệt Đức Nhật Quý gặp xung chiến,
Mệnh này nguy vong xem có lập,
Phi Thiên Củng Lộc sợ Điền thực,
Sợ nhất trói thần đến phạm can,
Nếu dựa trong thiên hỷ kị đoán,
Cách cục gặp thương xem lấy yểu,
Cách sau sinh tử xem không khác,
Thứ nhất Tài Quan là khẩn yếu,
Vận hành nếu không gặp Tài Quan,
Đã gặp Tài Quan không thiếu sinh,
Hỏi thọ nên biết hướng dụng thần,
Dụng thần thụ chế định khắc thân,
Thụ thương vật liền lấy là họa,
Khinh trọng phải dạy biết thủ chân,
Dụng thần kiện vượng định không lo,
Vận nếu gặp thương đất trục trặc,
Thoái chức mượn quan đoán y vậy,
Vong gia bại nghiệp tổn con cháu,
Lục thân quyến thuộc vẫn liên lụy,
Lễ phục thân tang trăm sự đến,
Tại sao có biết chắc chắn thọ,
Thế nhưng trên vận cẩn thận tìm,
Nhật can cùng vận như gặp Sát,
Gặp Sát gặp hình họa tìm đến,
Quan tinh cùng vận nếu gặp Lộc,
Gặp Lộc hình họa đến tương xâm.
Địch ngoài vẫn xa hơn trong gặp,
Ngoài ra Quan nên chia phương tìm,
Trong ngoài đều gặp là họa nặng,
Gặp trong địch ngoài là họa xâm,
Mậu Kỷ thổ cần phân tứ quý,
Tạp khí trung gian khó lại dễ,
Từng năm phân định đếm số suy,
Thụ chế thụ thương tùy vận khí,
Chỉ định cát hung trong vận này,
Năm nào tháng nào tai ương nặng.
Đây là Thạch kim Ngọc hạp quyết,
Đây chỉ tiết lộ cùng vua nghe.
Ghi chú: Đoạn này trở xuống là nói hành vận phạm cát hung 】
Tý vận hành niên đến Giáp Tý,
Nhâm Dần đất Thân thấy Bính Thân.
Tị Bính cùng nhau suy họa phúc,
Mão vận Ất mộc sợ tương phùng,
Tị cung Mậu Canh Bính Tân hội,
Ngọ Đinh trên năm Ngọ Tuất hung,
Trong năm Sửu Mùi phải là họa,
Thân cung Canh Hợi chớ nên gặp,
Dậu gặp Tân Sửu đều là kị,
Hợi vận Nhâm Giáp sợ Thân cung,
Chỉ vì bát cung bao tứ quý,
Tứ quý theo đầu hỗn bát cung,
Đại để tuần hoàn chỉ như vậy,
Không biết chỗ đi là vô tận,
Phối hợp can chi đồng một vị,
Lại phân khinh trọng định tai hung,
Vận trọng Tuế khinh cùng hợp luận,
Cát hung cùng nhau Tuế theo Vận,
Dù là nghìn vàng cũng không truyền.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Kèm theo yếu quyết Tiệp trì huyền diệu

Lấy ngày làm chủ, chuyên luận Tài Quan. Bởi vì Quan chính là gốc phù thân, Tài là gốc dưỡng mệnh. 【Ghi chú: Tài là gốc vậy, sinh mệnh dựa vào để sinh sống】; cho nên suy đoán thiên thời, xem xét địa lợi, kị thái quá và bất cập, lấy rung hòa mà làm dụng. Khử Lưu Thư Phối mà đúng lý, khinh trọng cường nhược mà biểu chính 【Ghi chú: Khử là lấy đi mà không sử dụng; Lưu là lưu lại mà sử dụng; Thư là làm cho khuất phục mà đè xuống; Phối là hợp lại mà thành đôi 】trước tiên xem tiết khí nông sâu, sau mới luận Tài Quan thuận hay nghịch. Bên trong mệnh con người, đều không thoát ra khỏi hai chữ Tài Quan; Trong nhiều cách cục, tổng quát chỉ là Hư Yêu Lộc Mã. Tiên hiền lấy thành công thức, hậu học phải tự biến thông 【Ghi chú: Biến thông hoặc là trong mệnh có hay không có Lộc, Mã, Tài, Quan mà quý, chỉ có một cách là không có phá vậy 】. Nên thuận mà vận nghịch, quyết là bần tiện; nên nghịch mà vận thuận, đoán là khốn nhược. Thích sinh mà gặp sinh, quý mà có thể lấy; thích khắc mà gặp khắc, cát cũng có thể biết. Gặp Quan mà xem Tài, thấy Tài là phú quý; gặp Sát mà xem Ấn, gặp Ấn mà vinh hoa. Gặp Ấn xem Quan mà gặp Quan, 8 thì có 7 là quý; gặp Tài xem Sát mà gốc có Sát, 10 có 9 là bần.
Vận Giáp Ất nhập Tây phương, thân vượng công danh có thể hứa; lộ ra Nhâm Quý trải qua Nam vực, chủ cường là quý. Ấn Tài không cần đất thân vượng【Ghi chú: Như Ấn thụ Kiếp tài, lại không nên hành vận Ấn thụ Kiếp tài 】 Thực thần tối hỷ đất Kiếp tài. Quan Sát hỗn tạp, thân nhược thì bần; Quan Sát lưỡng đình, hợp Sát là quý. Năm tháng có Quan tinh, thiếu niên ra làm quan; ngày giờ có quý, về già được danh. Bào Thai gặp Ấn thụ, lộc hưởng nghìn chung; Tài khí gặp trường sinh, đất đai vạn mẫu【 Ghi chú: Tài gặp trường sinh giống như Canh thấy Thân mộc thấy Hợi, còn lại theo chỗ này mà suy 】; Thu Đông Quan tinh gặp Nhận Thương, tồn kim khử hỏa quý không nghi ngờ; tháng chạp Thương quan hỷ kiến Quan, phá Ấn trọng thương mà họa chết 【Ghi chú: Tháng chạp là tháng 12 vậy, Kỷ thổ dụng sự, Kỷ sinh Canh kim Thương quan 】Tài vượng sinh quan là sao? Quý ít mà phú nhiều. Thương quan kiến Quan là sao? Quan cao mà phú đủ. Không thương không quý, có bệnh là thành. Cần nắm khí, lý diệu ở tâm, hà tất lấy ở bên ngoài. Như hỏa viêm thủy ít gặp Canh Tân, ngưng lại đừng lấy thân vượng Quan khinh; hoặc thổ trọng mộc tuyệt gặp Nhâm Quý, khó lấy thân vượng Quan khinh mà quyết. Tài khinh chớ gặp đất Kiếp, Ấn nhiều tốt nhất là gặp đất Tài. Tài vượng sinh Quan, dụng tiền hối lộ mà thủ quý; Sát tinh chế Nhận, lấy Kiếp cầu danh 【Ghi chú: Có Dương Nhận gặp Kiếp chế, nên cướp bóc để mưu sinh, cho nên danh là Kiếp bảo đồ danh 】; thân vượng sao thủ Thiên Tài, chắc chắn là lấy tài của bất nghĩa; chủ cường thiên cướp Chính Tài, nhiều lần thấy vợ gặp họa.
Kiếp tài Dương Nhận nhập Quan Sát, là người ở đài các; Quy lộc đảo xung gặp Nhận Thương, địa vị ở miếu lang. Thân vượng có Sát gặp Ấn thụ, là đoán quan quyền; chủ nhược gặp Ấn thấy Tài tinh, là người tầm thường. Dương Nhận Thương quan có chế, ứng với chấp chưởng nắm binh hình. Chính Quan Chính Ấn không có tổn thương, làm qua cấp huyện. Tài vượng Giá Sắc làm quan cấp lương tiền【 Ghi chú: Giá Sắc là nói thổ nhiều, cấp hướng là chức quan 】; phi lộc triều dương, là tướng triều đình.
Càn Khôn vốn là thanh khí, là vinh mấy nước; Tý Ngọ là cực tôn, quý ở hoàng môn. Ngày Quý giờ Quý kiêm cả Hợi Sửu, khôi danh nhập vào Hàn lâm; ngày Nhâm giờ Nhâm có nhiều Dần Thìn, tước cao thừa ân đăng ngự các. Nhật Đức thấy Khôi Cương, dẫu có vận cát cũng là kẻ sĩ bần hàn; Khôi Cương thấy Tài Quan, người đảm nhận được đất y lộc. Thương quan kiến Quan, diệu nhập đất Tài Ấn; Tài tinh phá Ấn, quý hành gặp đất Tỉ Kiếp. Mệnh gặp Tài, vận gặp Sát, cát có thể nói; mệnh gặp Sát, vận gặp Tài, hung có thể quyết. Nữ nhiều Thương quan, được Quy Lộc rất rốt; Nam gặp Dương Nhận, thân nhược gặp là thành【Ghi chú: Dương Nhận là không thể liền nói hung, thân nhược hỷ gặp là tốt 】; Kim Thần Quy Lộc Lan Xoa, nữ mệnh gặp là tối kị; Dương Nhận Thương quan Thất Sát, nam gặp là được quyền. Kim thần nhập hỏa gặp Sát Nhận, quý không nghi ngờ; Sát trọng có Ấn gặp Thực Thương, vinh mà tự có. Chính Quan Chính Ấn, chỗ Quan không hiển 【Ghi chú: Chính Quan Chính Ấn không Sát gọi là dụng, thì quan không có uy, cho nên nói không hiển】 ; Dương Nhận Thất Sát, làm quan nổi tiếng. Thân vượng vô y, làm tăng đạo; Đào Hoa cổn lãng, là đường ca kỹ. Kim nhược hỏa cường, tượng thổ mộc tiêu dong; thổ nhiều thủy ít, là hành nhân mua bán dạo kim chỉ. Ngũ hồ vân nhiễu, đầu vinh cuối nhục bản thân bần 【Ghi chú: Nhâm là vân, Quý Tý là hồ. Ngũ hồ vân nhiễu, là nói trong mệnh cục có khí thủy cường thịnh 】; Biến dã đào hoa, nhất thế phong lưu đa tửu sắc 【 Ghi chú: Mệnh nhiều Tý Ngọ Mão Dậu gọi là Biến dã Đào hoa 】; Vong Thần củng Sát, là đường đạo tặc; tú khí thất thời, làm quan thanh danh. Ấn vượng thân cường đa số thích tửu, Đinh Nhâm đố hợp phạm dâm ngoa. Thân Ấn đều cường, cả đời ít bệnh; Thiên Nguyệt Đức trợ, xử thế không có hại. Thực thần sinh vượng, thắng chữ Tài Quan. Quý đủ Quan Sát, mệnh tựu Tài có khí, tựu Sát, tựu Quan là phú quý có thừa; mệnh vô y, chuyên vượng, tuyệt Thực, tuyệt Tài, tuyệt Quan là bần cùng vô hạn. Thân nhược bỏ mệnh phải vô căn, làm quan tể phụ 【Ghi chú: Bỏ mệnh phải bỏ hết, không hết thì bần yểu 】 ; chủ thân suy hóa đắc thời, địa vị gần thiên đình. Nam mệnh có Thuộc Loại Tòng Hóa, Chiếu Phản Quỷ Phục; Nữ mệnh có Thuần Hòa Thanh Quý, Trọc Lạm Dâm Xướng 【Ghi chú: Thần Thú bát pháp, có các loại như: Loại Thuộc Tòng Hóa Chiếu Phản Quỷ Phục, để phân quý tiện. Nữ có tứ thuần thì thanh quý, có tứ trọc thì dâm tiện 】Nên cẩn thận suy rõ.
Đầu trang

Hùng804
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 342
Tham gia: 10:34, 25/06/16

Re: UYÊN HẢI TỬ BÌNH TOÀN TẬP

Gửi bài gửi bởi Hùng804 »

Uyên Nguyên tập thuyết

Quý nhất là mệnh có Quan tinh, thời được Thiên Chính Tài là phúc; Hung nhất là mệnh lâm Thất Sát, gặp Thiên Nguyệt nhị Đức là cát tường. Quan tinh nêú gặp Kiếp tài, tuy là quan cũng không quý; Thất Sát nếu gặp sinh trợ, thì Sát càng nặng.
Tam hợp Lục hợp 【Ghi chú: Tam hợp như loại Thân Tý Thìn, Lục Hợp như loại Tý và Sửu】 ; vận tới gặp là chắc chắn vinh; Mất quan bãi quan, tháng gặp Quan là tốt.
Tứ hợp tứ hình, hợp hình nên thành Thiên Chính;
thất xung thất kích, xung kích hỷ được hội tàng.
Giáp quý giáp khâu gọi là ám hội, Tài khố Quan khố cần phải xung.
Quan tinh ở phương sinh vượng, gặp thì cần gì phải thấy nữa;
Ấn thụ đến dươi 1thàng đầu và giữa mùa, thấy mà không thấy lộ hình.
Ấn thụ được Kiếp tài là quý, gốc Tài hỷ thương là quý.
Thương Quan cần thấy Ấn thụ, quý không thể nói;
Quy lộc nếu thây ở cung con cháu, lộc không có giới hạn.
Năm tháng có lập âm dương Dương Nhận, hình phạt phạm nặng.
Quan Sát hỗn gặp Thiên Nguyệt nhị Đức, thọ bằng trời cao.
Phi NhậnGhi chú: Đối cung Dương Nhận gọi là Phi Nhận
Phục Nhận, Hội Nhận nhiều hung;
Thương quan kiến Quan, thấy họa bãi quan.
Dương Nhận nếu gặp Ấn thụ, dẫu có quý cũng có bệnh tật ở thân;
Hợp chế Thất Sát, gặp Quan là họa, mà Thọ nguyên không dài.
Tam thiên tam chính, địa vị tôn quý ở nhất phẩm;
tứ trụ tứ hợp, phúc tọa trên nhiều người.
Sát hóa thành Ấn, sớm đăng khoa;
Tài vượng sinh Quan, thiếu niên nhận nghiệp. Quan Sát cùng đến, phải biết phù Quan hay phù Sát;
Thiên Chính hội hợp, phải biết hợp Chính hay hợp Thiên.
Phúc lộc nếu gặp Dương Nhận, không việc đời
【 Ghi chú: Hai sao Phúc lộc Quan lộc là tên gọi 】;
Kim Thần vận nhập đất thủy, thân suy là chết yểu.
Ám gặp tàng Sát, phải dựa ở dưới tháng có thần hình phạt;
thấy xứ không Tài, tất nhận họa hoạn không trung.
Dương Nhận kiêm hội Thất Sát, chảy đi nghìn dặm;
dụng Tài nếu gặp Kiếp đoạt, cả đời bần khốn.
Sinh mệnh định trước, giàu nghèo đã rõ, như nếu biết tăng giảm, trước sau cũng cứu nhiều. Hoặc có trước nghèo sau giàu, hoặc có đột nhiên phát rồi bất ngờ ngã; hoặc có công khanh nhà trắng, hoặc có lầu son mà chết đói; hoặc cả đời trường vinh, hoặc cả đời đều mất; nêm là nguyên lưu vận, phải xét kĩ vị trí hành niên. Thân nhược bỗng nhiên nhập cách, dẫu có phát mà sớm mất; phúc chuyển nếu gặp hưu tù, vừa phát bỗng nhiên sụp đổ hoặc là chết yểu. Là lấy dụng thần không thể ước muốn xằng bậy, hình tung tự nhiên thấy phát. Có phúc tất nên dụng nó, vô thời tất là dụng thân. Họa hoạn ở tại ngũ hành, phúc cao ở tại vận khí. Phúc nguyên chỗ người vốn có, như hoặc tổn thương đến khốn. Được thông tin chỗ này, âm dương ở ta; thông minh lý trí, vinh nhục hai đầu, xấu nghiên vừa đứt, tương truyền từ xưa, không hiền chớ dạy.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức tứ trụ”