Lý luận và sự thật của vận mạng

Kiến thức tổng hợp về âm dương, ngũ hành, can chi, ...
attack
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 223
Tham gia: 22:32, 25/10/13

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi attack »

Thì lúc nào hết tiền, đói khổ đem ra tụng! hoặc rủ nhau đi tu luôn. Vì số đã nghèo thì làm gì đây? hoặc chết luôn cho xong, hóa kiếp, biết đâu kiếp sau...giàu.
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

Hòa thượng Tịnh Không khai thị về cầu tài lộc phú quý:

Người thế gian cầu tài, tài có thể cầu được không vậy? Chắc chắn có thể cầu được. Nhà Phật thường nói: “Ở trong cửa Phật, có cầu ắt ứng”, nhưng bạn phải biết đạo lý, nó có nhân quả, gieo dưa thì được dưa, gieo đậu thì được đậu, bạn tạo là nhân gì thì bạn sẽ được quả báo như thế ấy. Phật nói cho chúng ta biết, nhân của giàu có là bố thí. Người ưa thích bố thí thì được tiền của nhiều, người tham lam keo kiệt thì quả báo bần cùng.

Chúng ta thấy, xã hội ngày nay có rất nhiều người, đặc biệt là ngành thương mại, tập đoàn thương mại lớn của giới công thương, họ sở hữu tiền của ức vạn. Tiền của ức vạn này, nguyên nhân gì mà có vậy? Là trong đời quá khứ họ tu bố thí nhiều. Chúng ta nói, trong số mạng của họ có tài, cái tài này không phải do trời sinh, vì trời sinh thì phải mỗi người đều giống nhau. Tại sao mỗi người đều không giống nhau vậy? Do nhân mỗi người tạo không giống nhau, họ bố thí nhiều thì trong số mạng họ tài nhiều. Trong số mạng có tài thì bất kể làm ngành nghề nào họ cũng đều phát tài. Họ làm ngành nghề kinh doanh, đó là duyên, trong số mạng của họ có nhân, nhân cộng thêm duyên thì quả báo liền hiện tiền, sự việc là như vậy. Nếu như trong số mạng không có nhân giàu có, dù họ đi học, đi làm ngành nghề kinh doanh giống người khác, nhưng người ta kinh doanh phát tài, còn họ kinh doanh lỗ vốn, đó là do trong số mạng không có tài.

Quí vị đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn sẽ biết ngay, “một giọt nước, một hạt cơm đều do tiền định”. Ai định cho bạn vậy? Tự mình định, không phải người khác định, đây mới thật sự là công bằng. Sau khi hiểu rõ đạo lý này, trong số mạng của đời này thiếu tài, chúng ta cũng không nên căng thẳng. Hiện tại chúng ta tu, tu tích cực cũng vẫn còn kịp. Tiên sinh Liễu Phàm sau khi hiểu rõ đạo lý này, ông tự mình biết được tu nhân, ba loại nhân bố thí tài, bố thí pháp, bố thí vô úy, ông đều tu. Bố thí tài được giàu có; bố thí pháp được thông minh, trí tuệ; bố thí vô úy được khỏe mạnh, trường thọ. Không những bản thân ông làm, mà vợ ông cũng giúp ông làm, cả nhà làm, cho nên vận mệnh của ông mới thay đổi nhanh như vậy. Khi phát tài, bản thân ông hoàn toàn không hưởng thụ. Ông sống đời sống vô cùng vui sướng, tiết kiệm, đem tiền của mà mình tiết kiệm dư được tiếp tục giúp đỡ những người có nhu cầu. Phú quý của ông vĩnh viễn không hưởng hết, đời đời kiếp kiếp không bị quả báo bần cùng. Ông hiểu được đạo lý này, biết được phương pháp, như lý như pháp mà cầu, có cầu ắt ứng.

Có một số người trong đời quá khứ được tiếp xúc lời giáo huấn của cổ thánh tiên hiền, được tiếp xúc Phật pháp, họ chịu tu, nên đời này có được quả báo. Sau khi quả báo có được rồi, nhưng chưa chắc gặp được thánh nhân, chưa chắc có thể gặp được lời giáo huấn của thánh hiền, Bồ Tát. Không gặp được thì đời này chỉ biết hưởng phước, chứ họ không biết tiếp tục không ngừng tu thêm. Điều này rất đáng tiếc. Sau khi phước báo đời này hưởng hết rồi, đời sau sẽ không bằng đời nay, mỗi lúc một tệ thêm, đời sau không bằng đời trước. Từ đó cho thấy, giáo huấn của thánh hiền là quan trọng hàng đầu, không có gì quan trọng hơn điều này.

Trong tất cả bố thí thì bố thí pháp là đệ nhất, trong kinh Hoa Nghiêm, phẩm hạnh nguyện Phổ Hiền nói rất rõ ràng. Chúng ta biết được đạo lý, cũng biết được phương pháp, vậy mới cố gắng nỗ lực tu học, quả báo ngày càng thù thắng. Quả báo hiện tiền, trong Phật pháp gọi là hoa báo, quả báo ở đời sau. Hoa báo tự mình đã cảm thấy thù thắng như vậy, thì quả báo có thể nghĩ mà biết được. Giống như thực vật vậy, ra hoa trước, kết quả sau. Chúng ta nhìn thấy thực vật ra hoa, hoa ra tốt là có thể dự đoán tương lai kết quả nhất định vô cùng mỹ mãn. Cho nên, nhà Phật dạy chúng ta lìa khổ được vui, lời nói này là chân thật, không phải giả. Những lời này đều là nói về thế gian, quả báo của thế gian không phải cứu cánh, nhưng đại đa số người thế gian ham muốn quả báo thế gian. Phật Bồ Tát là người hiểu biết, những Thánh triết xưa nay trong ngoài cũng đều là người hiểu biết, họ có thể quan sát căn cơ của chúng sanh. Bạn ham muốn phú quý thế gian thì giúp đỡ bạn thỏa mãn nguyện vọng của bạn, khiến bạn sinh tâm hoan hỷ. Bạn có thể sinh tâm hoan hỷ đối với thánh hiền thì bạn mới thích gần gũi họ, bạn mới sẵn lòng tiếp nhận lời giáo huấn của họ. Tất nhiên họ ở trên nền tảng hiện có của bạn mà giúp đỡ bạn thăng hoa lên thêm. Phú quý nhân gian rất tốt, nhưng phú quý trên trời còn thù thắng hơn.

PHẬT THUYẾT THẬP THIỆN NGHIỆP ĐẠO KINH (tập 52)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không
Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore
Thời gian: năm 2001
Cẩn dịch: Viên Đạt cư sĩ, Vọng Tây cư sĩ
Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

Hòa thượng Tuyên Hóa giảng tại Vạn Phật Thánh Thành,Talmage, California, Hoa Kỳ

Hôm nay tôi xin truyền cho quý vị một yếu quyết. Ðó là yếu quyết để áp dụng trong giờ phút thật khẩn cấp. Gặp những trường hợp đó chúng ta phải giữ bình tĩnh, đừng hốt hoảng, chuyện sống chết hãy tạm gác một bên, một lòng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát thì chắc chắn sự hiểm nguy sẽ hóa thành tốt lành, thoát khỏi ách nạn.
Trong giây phút khẩn trương, chúng ta hãy nghĩ rằng: "Ðàng nào cũng chết, vậy trước khi chết ta hãy dốc lòng niệm Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát, biết đâu đó là niềm hy vọng." Hành động như thế, tức là từ hiểm nguy mà gặp may mắn.
Khi đi máy bay, gặp lúc trên không máy bay gặp nạn, sắp bị rớt. Ngay lúc đó chúng ta hãy niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì rằng Ngài Quán Thế Âm là một vị Bồ-tát chuyên cứu khổ cứu nạn, một vị Bồ-tát có cầu có ứng, nếu chẳng niệm danh hiệu Ngài, thì sanh mạng của chúng ta vô cùng nguy hiểm, không còn hy vọng gì nữa. Lúc đó chúng ta đem hết lòng thành niệm, cảm ứng tới đức từ bi của Ngài, thì toàn thể sanh mạng trên máy bay được cứu vớt. Vào thất Quán Âm chúng ta cũng phải khởi lên những ý tưởng như vậy để hạ công phu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát.
Chúng ta lại tưởng tượng khi đi xe lửa, và giả thử ngay khi biết xe lửa trật đường rầy, tức là trong khoảng thời gian đường tơ kẽ tóc đó, nếu chúng ta không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, toàn thể hành khách trên chuyến xe đó đều gặp nạn tử vong. Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát có nghĩa là phát ra lời kêu cứu, Bồ-tát nghe được tiếng kêu thì dầu có cách xa cả vạn ngàn sông núi, Ngài cũng tới ngay, tiếp cứu chúng ta ra khỏi khổ nạn, linh nghiệm vô cùng.
Lại tưởng tượng chúng ta đi tàu trên biển, chẳng may gặp cảnh tàu sắp đắm, cái nguy cơ gửi thân trong bụng cá. Trong phút nguy cấp ta niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tới phút chót cũng niệm, tới giây chót cũng niệm. Nếu được như vậy, nhất định là hung hóa cát.
Lại giả thử ta ngồi trên xe hơi đang chạy nhanh trên đường, hốt nhiên xe không thể làm chủ được nữa, bay qua lề đường bên bờ vực sâu, vách dựng thẳng đứng. Xe hơi mà rớt xuống đáy vực thì là hết đời, xương tan thịt nát. Ngay lúc đó nếu niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, với tất cả lòng thành khẩn, xe hơi sẽ đáp xuống an toàn, kinh hoàng nhưng không nguy hiểm. Ðây chính là sự cảm ứng của pháp niệm Quán Âm.
Trong giờ phút khẩn cấp hiểm nghèo, niệm được một câu Quán Thế Âm Bồ Tát thì bằng cả trăm vạn câu niệm trong lúc bình thường. Tại sao vậy? Bởi trong lúc không có gì nguy hiểm, lời mình niệm chưa đủ tha thiết, lòng mình chưa đủ thành khẩn. Cho nên, niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, ta phải hết lòng kiền thành, hết lòng chân thực, thì cảm ứng đó mới thật là không thể nghĩ bàn.
Vừa rồi tôi có nói với Quả Khiêm rằng: "Ngày nay ở tại Vạn Phật Thành này con có niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì hãy tưởng tượng như khi ở trên thuyền mà thành tâm khẩn niệm, tất sẽ có cảm ứng. Hồi đó, trong lúc sóng to gió lớn, nguy hiểm vạn phần như vậy, nếu không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, thì đâu còn hy vọng có ngày nay. Có niệm Quán Âm mới có phần hy vọng, hoặc giả được cứu vớt, cho nên đã hết lòng khẩn niệm thì cuối cùng tai nạn sẽ vượt qua, gió im sóng lặng, đến được bến bờ. Bây giờ con niệm Quán Âm còn để thì giờ để nghỉ ngơi, ấy là vì nay không còn ở trong cảnh ngộ nguy hiểm như trước." Sự thực thì:
Một ngày qua đi, mạng cũng giảm dần,
Như cá thiếu nước, có gì mà vui!
Ðại chúng!
Phải lo tinh tấn, cứu lấy cho mình.
Nghĩ tới vô thường, chớ đừng phóng dật!"
Niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, tùy nơi tùy lúc mà niệm, nói một cách khác, đi, đứng, nằm, ngồi, đều niệm được cả. Miệng niệm hay tâm niệm, công đức cũng ngang nhau, đừng khởi tâm phân biệt, lúc nào cũng tùy duyên. Phải nhớ rằng chờ tới lúc mạng chung mới niệm thì đã quá muộn, không còn cơ hội nữa. Vì vậy mới có câu: "Nghĩ tới vô thường, chớ đừng phóng dật."
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

Người học Phật có thể tiêu trừ tai họa kéo dài tuổi thọ được không?

Nguyên lý tiêu trừ tai họa, sống thọ là nơi sám hối, phát nguyện. Quả báo đến thì phải chịu, thế nhưng khi phát tâm sám hối và phát nguyện, thì quả báo chưa sinh khởi có thể biến chuyển. Cũng giống như kẻ phạm tội, khi đem ra phán xử, mà biết nhận tội và ăn năn hối lỗi, chịu hợp tác với quan tòa, thì khi luận tội cũng sẽ được khoan giảm.

Lý luận nhân quả của Phật giáo nói lên sự quân bình của lực lượng tự nhiên. Tai họa xảy ra hay là thành đạt hạnh phúc đều là nhân quả báo ứng. Gieo nhân lành thì được quả lành, được phú quý và sống lâu. Gieo nhân ác thì chịu quả ác, gặp tai nạn và bệnh tật. Do vậy theo quan điểm của Phật pháp, làm thiện tránh ác chính là biện pháp tốt nhất để trừ tai họa và sống trường thọ.

Nguyên lý tiêu trừ tai họa, sống thọ là nơi sám hối, phát nguyện. Quả báo đến thì phải chịu, thế nhưng khi phát tâm sám hối và phát nguyện, thì quả báo chưa sinh khởi có thể biến chuyển. Cũng giống như kẻ phạm tội, khi đem ra phán xử, mà biết nhận tội và ăn năn hối lỗi, chịu hợp tác với quan tòa, thì khi luận tội cũng sẽ được khoan giảm. Ngày xưa có chuyện Đới tội lập công, đem công chuộc tội, ngày nay có lệ giảm tội mà không bắt giam, không khởi tố hoặc tiến hành hòa giải ngoài phạm vi của tòa án. Đó là những thí dụ tuy có nhân phạm tội, nhưng quả chịu tội được chuyển biến.


Người cầu xin được tiêu trừ tai họa, sống thọ, không được một mặt cầu xin, một mặt cứ tiếp tục làm ác, mà phải sám hối, làm các Phật sự như tụng kinh lễ bái, bố thí cúng dường. Tức là dùng Phật pháp mở đường cho các oan gia trước đây của mình, được lìa thoát cõi khổ, không còn hạch sách đòi nợ cũ nữa. Lại nhờ sức mạnh của phát nguyện mà nhân tố ác đã gieo được cải biến. Trái lại nếu cứ tiếp tục làm ác thì sẽ phù hợp với nhân ác đã gieo, tội ác càng chồng chất, nên bỏ ác làm lành thì có thể hạn chế những nhân tố ác đã làm và nhờ đó tránh khỏi tai họa.

Vì vậy, phát nguyện, học Phật làm điều thiện có thể làm thay đổi vận mệnh tương lai. Đương nhiên, ở đây, còn có sức mạnh bất khả tư nghị của Phật pháp nữa. Trong kinh có nói, người quy y Tam Bảo sẽ được sự gia hộ của 25 vị đại thiện thần. Người làm lễ cầu tiêu tai họa và sống thọ, nếu đã quy y Tam Bảo thì cũng được sự gia hộ như vậy. Từ vô thỉ đến nay, nhân quả thiện ác xoay vòng mãi không thôi, cực kỳ phức tạp, ân oán chằng chịt giao xen, người nào mắc nợ người nào, chúng sinh nói chung và cả đến bậc A La Hán nữa, cũng đều rất khó làm sáng tỏ vấn đề này. Do sức mạnh Phật pháp và sự gia hộ của các vị thần hộ pháp, có thể tránh được những quả báo đáng lẽ phải chịu. Cũng như người giàu có không đòi những món nợ nhỏ đối với kẻ nghèo khổ, nỗi oan gia ngày trước, nếu được siêu sinh thoát khổ rồi, thì nỗi oan ức và lòng giận cũng sẽ được giải trừ, không còn lấy oán báo oán nữa. Đó chính là đạo lý của việc tiêu trừ tai họa và cầu trường thọ.

HT.Thích Thánh Nghiêm
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

PHONG THỦY, SỐ MẠNG
(Hòa thượng Tịnh Không giảng)

Phong thủy chính xác là có hay không? Thật sự là có. Tướng mạng là số, phong thủy là hoàn cảnh cư trú. Người nào mà tâm hồn luôn bất định, trí tuệ, tâm can sẽ theo cảnh mà chuyển theo, cho nên hoàn cảnh cư ngụ có ảnh hưởng đến tinh thần và tâm thái của người đó. Vì vậy, hoàn cảnh sống không thể không xem trọng và lựa chọn, đó gọi là phong thủy. Song phong thủy lại biến đổi nhanh chóng không nhất định, do đó có thể thấy, hoàn cảnh nhân duyên thay đổi không gì là trường tồn bất diệt. Tục ngữ có câu: “Người có phước ở trên đất phước, chỗ nào có phước là nơi người có phước ở”, đây là câu nói rất có đạo lý. Nếu chúng ta chân thật có phước báo, chúng ta dù có ở nơi nào mà phong thủy không tốt, tự nhiên nơi đó sẽ biến thành tốt. Cảnh luôn tùy tâm người mà biến chuyển, đây là lời Phật dạy. Cảnh là gì? Là phong thủy, là hoàn cảnh cư ngụ, tùy theo tâm mà chuyển xoay. Dựa trên nguyên lý ấy để xét đến hoàn cảnh địa cầu của chúng ta ngày nay. Chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh lớn. Hiện tại, tâm lý của con người đều chứa đầy tham, sân, si, mạn nghi… tốc độ đó lại ngày một tăng trưởng. Các tệ nạn xã hội, hiện tượng nhân mãn, khủng bố ngày càng gia tăng, hoàn cảnh môi trường sinh thái thiên nhiên lại bị ô nhiễm trầm trọng, tất cả những điều đó đã làm trái đất chúng ta càng ngày càng nóng. Vậy có phải cảnh tùy theo tâm mà chuyển đổi không? Trong thời quá khứ, có ngài Kim Sơn Hoạt Phật. Kim Sơn Hoạt Phật là tên tục, Ngài sống tại chùa Kim Sơn, Trấn Giang, năm Dân Quốc thứ nhất, là pháp sư Diệu Thiện. Người đương thời nhìn Ngài có nét tương tự như trưởng lão Tế Công, cũng có biểu hiện như ngây như dại. Trên thực tế, những lời nói và việc làm của Ngài thì chân chính là của Phật. Có một giai đoạn Ngài có nói đến toán mệnh rất rõ. Ngài nói rằng số mạng của những người coi toán mệnh, tự họ không biết được họ, làm sao lại có thể biết số mạng của người khác. Chỉ vì bọn họ muốn kiếm tiền nên mới hành nghề vậy thôi. Thật ra, nếu những ông thầy bói mà biết được số mạng của họ, biết được phong thủy tốt thì đâu dễ gì họ coi cho chúng ta giàu có, nếu thực sự họ biết thì họ đã giàu có lâu rồi. Vì vậy, ca dao có câu: “Tiền của thì giữ bo bo, đem cho thầy bói mang lo vào mình” là vậy. Đức Phật Thích Ca có thể xem là một nhà toán số vĩ đại, vậy mà cuối cùng Ngài lại kết luận và khuyên mọi người không nên tin tưởng vào những điều đó, phải tin vào nghiệp, vì số mạng con người ta đều do nghiệp tạo ra. Hơn nữa, Ngài lại khuyên mọi người không nên làm ác, làm nhiều việc thiện thì số mạng sẽ tốt. Ngược lại, chúng ta không đoạn ác mà lại còn tạo ác, làm tổn giảm đến lợi ích của người, lại hy vọng số mạng của mình được tốt, đạo lý này nhất định không có. Nếu chúng ta chỉ nói sẽ làm tổn hại người, dù không làm, song nhất định chúng ta sẽ không có lợi. Chỉ cần chúng ta quán sát kỹ trong quá khứ cũng như trong xã hội hiện tại sẽ thấy. Phàm những người muốn lợi mình mà làm việc tổn hại đến người, kết quả sau cùng đều là tan nhà nát cửa. Điều này trong Phật pháp gọi là hiện báo, đời sau nhất định đoạ sẽ vào ba đường ác là địa ngục, ngạ quỷ và súc sinh, bị hành hạ đau khổ vô cùng. Cho nên, việc chân chính lợi ích là phải lợi mình lợi người. Chúng ta càng làm lợi ích cho mọi người bao nhiêu thì chúng ta lại được lợi ích lớn bấy nhiêu. Người có thông minh trí tuệ sẽ luôn làm lợi ích cho mọi người. Phương pháp tự lợi là toàn tâm toàn lực làm lợi ích cho tất cả chúng sinh, lợi ích cho xã hội. Đó là chân lý mà thánh hiền thế gian hay xuất thế gian thường dạy cho chúng ta, chúng ta cần phải tư duy cho kỹ, sau mới tiếp thọ và y theo đó mà thực hành. Thế nên, pháp sư Diệu Thiện giảng, chúng ta cần phải tin vào nghiệp, không nên tin vào vấn đề vận mạng. Nói cách khác, chúng ta không nên tin vào thầy bói, xem phong thủy. Hoàn cảnh sinh sống mà thấy tốt là phong thủy đã tốt. Chỗ ở của chúng ta mà sắp xếp giường, tủ sao cho chúng ta cảm thấy thoải mái, thích hợp tự tại, đó là phong thủy đã tốt. Nếu chúng ta đi xem thầy bói, ông ta dạy chúng ta sắp xếp chỗ này chỗ nọ v.v… mà vận mạng của chúng ta lại cảm thấy khác, thấy như bị khống chế, thì thật đáng thương cho chúng ta, vì quá ngu si. Tuy chúng ta là người giàu sang, có địa vị nhưng lại khờ dại để vận mạng của mình cho người khác sắp xếp thì thật đáng thương, đáng tiếc. Phật giáo dạy con người là địa vị tối tôn, là chủ tể của chính hành động của mình, không nên nghe theo sự bày đặt của người khác, vì đó chỉ là hiện tượng cổ hủ, mê tín. Chúng ta phải hiểu chân lý, phải liễu giải chân tướng của vũ trụ, đọc nhiều sách thánh hiền, sẽ có lợi ích rất lớn cho chúng ta.
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

Bí Quyết Để Được Phú Quý Và Trường Thọ

Phật pháp nói “Quả báo thông tam thế” (nghĩa là quả báo thông ba đời). Thứ nhất là hiện báo, đây là tạo thiện ác rất nặng, đời này thay đổi vận mạng, liền được báo ứng. Thứ hai là sinh báo, chỉ đời sau thọ báo ứng, quả báo không ở đời này. Thứ ba là hậu báo. Hậu báo thì không nhất định ở đời nào, có thể ngàn vạn kiếp sau. Vì quả báo nhất định phải “hội đủ nhân duyên” mới có thể báo ứng. “Tạo” của bây giờ là nhân, nếu duyên không hội đủ, quả báo không thể hiện tiền. Nhưng nhân của nghiệp tồn tại, sớm muộn khi gặp duyên, quả báo sẽ hiện tiền. Vì vậy, trong cửa Phật thường nói “không phải không báo, chỉ vì thời khắc chưa đến”… Tuy có ác nhân, không có ác duyên, đời này không chịu quả báo. Có nhân của ác, đời này vẫn không ngừng tạo ác, thì duyên ắt đã có rồi. Nhân duyên hội đủ, ác báo sẽ rất nhanh chóng hiện tiền trong đời này. Chúng ta có thiện căn, đời này đoạn ác tu thiện, duyên ác đoạn rồi, thiện duyên tăng trưởng hàng ngày, tích tụ việc tu mỗi ngày, thiện báo ắt có thể đến sớm hơn. Thiện báo lớn nhất là được vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới.

Hiểu rõ nhân quả ba đời, mới biết được trên thế gian này không thể có việc chiếm lợi ích của người khác, cũng không có việc phải chịu thiệt thòi. Oan oan tương báo, đời đời kiếp kiếp vay trả lẫn nhau, báo đi báo lại, chân tướng của lục đạo là thế đó. Đây là việc thê thảm, đau khổ làm sao! Hiểu rõ tướng ảo của quả báo liên tục, đời này dù có bị thiệt thòi, bị lừa, phải nghĩ đó là trả nợ, thì nợ sẽ trả xong; còn người khác nợ ta, mình đem bố thí, không cần nữa. Tâm của chúng ta thanh tịnh, tâm thanh tịnh sẽ khai mở trí tuệ, tu hành như vậy, nhất định được chứng quả.

Tổ Ấn Quang cực lạc đề xướng “Liễu Phàm tứ huấn”, mục đích là giúp chúng ta thật sự tin vào nhân quả báo ứng. Trong xã hội hiện thời, đây là việc lớn khẩn thiết nhất. Vì sao vậy? Phật pháp suy thoái, nhà Nho cũng bị bỏ rơi, lòng người không nơi nương tựa để về. Tư tưởng, kiến giải của chúng ta không có tiêu chuẩn, thì thế giới sẽ đại loạn. Trong đời loạn lạc, nếu ai ai đều tin vào sự thật của “Nhân quả báo ứng” thì khi khởi tâm động niệm sẽ biết ý tứ một tí, sẽ giúp nhiều cho sự ổn định, trật tự của xã hội. Do đó, Ngài cực lực đề xướng “Liễu Phàm tứ huấn”, tin sâu nhân quả, đoạn ác tu thiện, tự cầu nhiều phước. Tiêu chuẩn của thiện ác là gì? Ngài dùng “Cảm ứng thiên” làm tiêu chuẩn của thiện ác, đoạn ác tu thiện; dùng “Di Đà Kinh Yếu Giải” để làm sạch thân tâm của chúng ta, cầu sanh Tịnh độ.

Phước đức, trí tuệ, mạnh khỏe, trường thọ đều là do “Nhân” của bố thí mà được. Tài bố thí thì được giàu tài lộc, pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ, vô úy bố thí thì được khỏe mạnh sống lâu. Tiền tài, giàu sang ai ai cũng muốn có, trí tuệ mọi người đều muốn, mạnh khỏe trường thọ càng mong muốn. Ba thứ này đều muốn được mà không chịu tu nhân thì đi đâu mà cầu? Cầu không được đâu. Duy có tu nhân thì mới được quả báo.
“Phú quý vinh hoa”, chuyện vui không thể tranh giành mà được. Trong số mạng có thì không giành cũng có, trong mạng không có thì dù tranh giành cũng không có được… Do đó người xưa nói “Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định” (Cái ăn cái uống đều được định sẵn), không trồng “nhân” làm sao có “quả”? Đã hiểu rõ chân tướng sự thật của thế gian, chúng ta muốn được thiện quả thì cố gắng mà đi tạo thiện nhân.

Phải hiểu rằng, cưỡng đoạt của kẻ khác, mà số của mình đã định sẵn là có, thì thật là oan uổng, vì nếu không lấy của người khác thì mình cũng sẽ có bấy nhiêu đó. Người bị kẻ khác cướp đoạt làm tổn hại là vì trong số mạng của họ vốn không có. Nếu không bị kẻ khác lấy đi thì cũng tiêu hao mất thôi. Vậy mới phù hợp với định luật nhân quả.

Tiền tài là có trong số mạng, trong số mạng không có thì không thể phát tài. Nếu trong số mạng không có tiền mà bạn có cách phát tài thì Phật Thích Ca Mâu Ni cũng bái quý vị làm thầy. Vì Ngài không có cách gì để làm được, quý vị đã vượt qua khỏi nhân quả, làm đảo lộn, phá vỡ luật nhân quả, pháp xuất thế gian đều không siêu vượt định luật nhân quả, điều này chúng ta nhất định phải biết. Thật ra “Miếng ăn miếng uống, đã được định trước rồi”. Vậy ai quyết định? Tự mình định. Đời này nhiều tiền là do quá khứ đã tu “tài” bố thí nhiều. Đời này thông minh trí tuệ là do trong quá khứ tu nhiều “pháp” bố thí. Đây là quả báo đời này được. Phật nói: “Dục tri tiền thế nhân, kim sanh thọ giả thị; dục tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị”. Muốn biết đời trước đã làm những gì, hãy xem đời này nhận quả báo ra sao; muốn biết quả báo đời sau thế nào, những gì làm trong đời này chính là nhân của quả báo đời sau.

Đã biết rằng tiền bạc, phú quý là có trong số mạng thì cầu nó để làm gì?… Hiểu được nhân quả, báo ứng thì mới có thể an phận thủ thường. Ngược lại, tiền tài có được bằng những thủ đoạn bất chính, Phật pháp gọi là “Bất tịnh chi tài”, thật ra trong số mạng vẫn có, song tất cả cách làm đã dụng tâm sai, xem có oan uổng không! Dùng tâm thanh tịnh, tự nhiên nó cũng sẽ đến, cần chi khởi lên những ác niệm mà tạo nên những ác nghiệp đó.
Nghĩ đủ cách để giữ gìn của cải, tiền bạc, lo sợ nó sẽ mất đi. Nhưng không biết rằng dù lao tâm khổ thân đến tột cùng cũng không chắc giữ lại được. “Như thị chí cánh, vô nhất tùy giả”. “Chí cánh” tức là lao tâm, thân khổ đến khi già chết cũng không mang theo được một thứ gì. Đúng là “Vạn thứ không mang đi, chỉ có nghiệp theo mình”. Một đời làm nhiều nghiệp ác, đều mang theo rồi. Ngoài nghiệp ác ra, một thứ cũng không mang đi được. “Thiện ác họa phước, truy mệnh sở sanh”. Kết quả đạt được là như thế đấy.

Tu thiện, mang đi thiện nghiệp, tạo ác, mang theo ác nghiệp. Ác, tương lai cảm ứng nhận được quả tai họa. Thiện, kết quả tương lai là phước đức. Từ đó có thể biết “Họa phước vô môn, duy nhân tự chiêu” (Họa phước không cửa, do người tự chọn).

Nhân của khỏe mạnh trường thọ là “Vô úy bố thí”, phóng sanh cùng với không sát sanh đều thuộc vô úy bố thí. Giúp cho chúng sanh mãi mãi rời xa sợ hãi, buồn lo, khổ nạn, đó gọi là vô úy bố thí. Chúng ta giúp đỡ người khác thoát khỏi khổ nạn, được sự bình an, loại bố thí này sẽ được quả báo khỏe mạnh trường thọ.

Có tiền không chịu bố thí, sẽ gặp được quả báo của nghèo khó. Lận pháp (bủn xỉn về pháp), thế gian pháp hay Phật pháp mà mình biết được, không chịu truyền thụ cho kẻ khác, không chịu tu pháp bố thí, sẽ bị quả báo ngu si. Ngược lại với vô úy thí, tức là uy hiếp người khác, làm cho kẻ khác thân tâm bất an, quả báo sẽ là nhiều bệnh tật, tuổi thọ ngắn ngủi.
Thường giúp đỡ người bệnh thì mình không sinh bệnh, thường giúp đỡ người già tự mình sẽ không già yếu. Tuổi tác tuy lớn nhưng thể lực giống như người trẻ tuổi. Quá khứ có không ít người gặp qua lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam ở Đai Trung. Lão cư sĩ 95 tuổi mà không cần người khác hầu hạ, đi bộ cũng không cần chống gậy. Ông khỏe mạnh trường thọ là quả báo của vô úy thí. Ông dùng Phật pháp, y thuật giúp đỡ nhiều người bệnh tật già yếu, do đó bản thân ông được quả báo thù thắng như vậy. Tuyệt đối không thể chê bai, bỏ rơi người bệnh già, người già cả, bệnh nhân, vì tương lai mình bị bệnh, tuổi đã già, người trẻ tuổi sẽ chê bai bỏ rơi quý vị. Quả báolà như thế. Trồng nhân gì thì được quả báo đó. Nhân duyên quả báo, một tí cũng không sai.

Vui vẻ, trường thọ, sức khỏe từ đâu đến? Từ lòng thanh tịnh mà đến. Tâm lý khỏe mạnh, thân thể tự nhiên được khỏe mạnh. Do đó, tâm địa thanh tịnh, trăm bệnh không sanh. Không những không bị bệnh, tôi thường nói: Không chết (bất tử) là thật đấy. Quý vị hỏi tôi: “Tôi có chết không?” Tôi sẽ nói với quý vị: “Tôi quyết định không chết”. Đây là chuyện thật. Không sanh bệnh, không phải chết, là sống mà vãng sanh tịnh độ theo A Di Đà Phật… Dùng phương pháp gì tu tâm thanh tịnh? Dùng phương pháp niệm kinh Vô Lượng Thọ, dùng phương pháp niệm A Di Đà Phật. Đây không phải là mê tín.

Phật thường răn dạy chúng ta không nên có lòng làm tổn hại đối với bất kỳ một chúng sịnh nào… Đây chính là nhà Phật thường nói: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Khi chúng sanh thấy quả báo hiện tiền thì lúc ấy mới sợ. Lúc này sợ hãi cũng không sao tránh khỏi ác báo. Đã tạo nhân, ắt thọ quả báo. Bồ Tát biết rằng tạo nhân ắt có hậu quả, do đó rất cẩn thận chú ý khi khởi động niệm, không tổn hại người, càng không tổn hại đến đoàn thể. Quả báo gặt được là thanh tịnh, viên mãn.

Trong kinh thường nói: “Bồ Tát sợ nhân”. Bồ Tát hiểu rõ sự thật chân tướng , dù phải chịu khốn khổ rất lớn cũng không oán trách, trách người. Các Ngài biết tự chịu quả báo. Ác báo đã thọ xong, thiện nhân chín muồi thì thiện quả hiện ra. Đây mới là người thật sự có trí tuệ, hiểu rõ chân tướng của sự thật.

“Chuyển tương khắc tặc” là nói sự xoay vòng của quả báo, tuần hoàn của sự giết hại. Đời này bạn giết hại chúng, đời sau chúng giết hại bạn. Quả báo là tuần hoàn, không chiếm được lợi cũng không bị thiệt thòi. Oan oan tương báo mới là bộ mặt thật của lục đạo luân hồi.

“Tương tòng cộng sanh, canh tương báo thưởng”. Nếu chúng ta nghĩ thấu được hai câu này rồi thì cho dù ngày nay trên thế gian này có người khác phỉ báng, sỉ nhục, lăng nhục, tâm của chúng ta sẽ bình thản. Vì sao họ không phỉ báng, không hà hiếp người khác mà chỉ hiếp đáp mình? Trong quá khứ ta đã hà hiếp họ, phỉ báng họ. Ngày nay họ một trả một với ta, nợ này mà trả xong, về sau thiên hạ sẽ thái bình, không còn gì nữa rồi. Do đó, cần biết triệt tiêu tất cả nợ đối với oan gia kẻ thù, trong lòng sẽ thanh thản tự tại.
Tất cả chúng sanh ở thế gian này không thể không có oan gia, không thể không có trái chủ. Vì từ vô thỉ kiếp của quá khứ chúng ta ở trong lục đạo luân hồi, không biết đã kết oán thù với bao nhiêu chúng sanh, cũng không biết đã nợ bao nhiêu của chúng sanh. Mình nợ người ta nhiều, người khác nợ ta ít. Khi những oan gia trái chủ gặp nhân duyên hội tụ, tuy không quen biết cũng phải đòi nợ, trả nợ. Việc này Phật pháp nói thẳng ra thì chúng ta rất dễ nhận biết. Trong đời này của chúng ta, rất nhiều chuyện không như ý muốn, đặc biệt là sự không như ý của hoàn cảnh người và việc. Phật dạy chúng ta lúc nào cũng phải nhường nhịn. Nhường nhịn là trả nợ, là giải oán. Đừng để trong lòng, đừng so đo.
Tuy đời này bị mắc lừa, chịu thiệt thòi, mình phải biết chắc là trong kiếp quá khứ ta đã hà hiếp họ, chướng ngại cản trở họ nên hôm nay họ lại chướng ngại ta. Báo ứng một thì trả một, sổ kết toán đến đây, tất cả triệt tiêu, tâm khai, ý mở. Sổ tính xong, nợ đã không còn. Nếu không dứt điểm, còn ôm hận trong lòng thì tương lai lại đi trả đũa. Đời đời kiếp kiếp báo qua báo lại, mãi mãi không xong, không hết. Hơn nữa mỗi một lần trả đũa đều nghiêm trọng hơn lần trước, rất là khủng khiếp, đáng sợ.
Nhân quả báo ứng, tơ hào không sai. Đồ đạc và tiền bạc của chúng ta bị người khác ăn cắp, sao họ không trộm của người khác mà chỉ lấy cắp của ta? Có lẽ kiếp trước mình trộm của họ, bây giờ họ lấy cắp về. Sổ này xem như đã tính xong, không còn việc gì nữa… Do đó, dù người khác hãm hại chúng ta, bất kể thủ đoạn tàn nhẫn cỡ nào, thậm chí lấy đi mạng sống của chúng ta thì cũng đừng so đo. Vì sao? Sổ sách (nợ) đến đây đã hết, cùng nhau kết nối cái thiện duyên, kiếp sau thành Phật còn có thể độ họ. Kết thiện duyên, không so đo, không ép chúng sanh phải phiền não, đó là tu hành.

Phải biết tướng của chúng sanh trong sáu đường, chẳng qua là oan oan tương báo. Thiếu tiền trả tiền, nợ mạng đền mạng, tuyệt đối không có lý để trốn thoát. Phật Thích Ca Mâu Ni thành Phật, còn phải thị hiện “Mã mạch chi báo”. Trong truyện ký của Phật Thích Ca Mâu Ni có ghi lại: Cầm bình bát xin không được đồ ăn, người ta dùng thức ăn cho ngựa đến cúng dường Ngài. “Tại Trần tuyệt lương” của Khổng Tử, còn có lúc đoạn việc nấu nướng, không có cơm để ăn. Đại thánh nhân cũng không thể vì một đời tu thiện tích đức mà không có quả báo ác; quả báo là nhân của kiếp trước đã gieo trồng.

Phật trong kinh nói rất rõ ràng: Duyên cha con đến như thế nào? “Báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ”, giữa người với người, người với tất cả chúng sanh, nói thật không ngoài bốn thứ nhân duyên đó. Duyên kết nối nhiều đời nhiều kiếp, chỉ là nặng nhẹ, nhiều ít mà thôi. Do đó, khi Bồ Tát khởi tâm động niệm đều rất cẩn thận, rất chú ý. Vì các Ngài hiểu được sự thật của chân tướng, quyết không khởi một ác niệm, quyết không tạo một việc ác. Vì các Ngài biết rằng, một ác niệm, một việc lầm lỗi, tương lai nhất định sẽ mang lại điều không như ý trong đời sống. Các Ngài muốn đời sống của mình tự tại, không chướng ngại, chỉ có không tạo ác nghiệp thì mới có thể đạt được.

Quan hệ giữa người với người là quan hệ của sự báo ơn, báo oán, đòi nợ, trả nợ… Bốn thứ quan hệ này là biến tướng của những nghiệp quả do kiếp trước tự mình đã làm. Hiểu rõ sự thật chân tướng, mới biết thì ra người sống trên đời không có chịu thiệt thòi, cũng không ai chiếm được lợi. Tôi bị người ta lừa dối, vẫn vui vẻ cho xong một món nợ, có lẽ trong đời quá khứ tôi đã lừa gạt họ, bây giờ bị họ lừa trở lại, vậy cũng tốt vì nợ này đã trả xong. Bị ăn trộm cũng là kiếp quá khứ mình đã trộm của họ, bây giờ việc này xem như sòng phẳng. Nhân quả vốn tuần hoàn không ngừng, hiểu được thật tướng thì tâm khai, ý mở.

Phải nuôi dạy con cháu bằng cách giáo dục chúng cho tốt, nhưng đừng để lại tiền bạc vật chất. Phải vì chúng mà tu phước, tích đức thì chúng mới thực sự được thọ dụng. Để tiền bạc vật chất cho chúng, chúng cho rằng tiền tài có được quá dễ dàng, nên dễ sa đọa và tạo nghiệp.

Thường bố thí, ban phát ân huệ cho người khác, con cháu đến trả ơn sẽ rất nhiều. Đối với người khác không một tí ân huệ, mỗi một niệm đều tự tư tự lợi thì sự báo ơn đâu có đến. Đều là đến để báo oán, đòi nợ. Uổng phí bao nhiêu tâm huyết để giáo dưỡng chúng, đến sau cùng chỉ làm quý vị thất vọng, cũng tức là “phụ ơn bội nghĩa, không có báo đền”.

Phật nói ba đời không có vọng ngữ, thì lưỡi có thể đưa ra liếm đến chóp mũi. Phật tại nhân địa, đời đời kiếp kiếp không có vọng ngữ, do đó khi Phật đưa lưỡi ra thì có thể che hết khuôn mặt. Nếu không chịu tu nhân thì sao lại có quả báo?


Trích từ sách Niệm Phật Thành Phật - Pháp sư Tịnh Không giảng
Đầu trang

TPSM
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 156
Tham gia: 20:31, 23/04/09

TL: Lý luận và sự thật của vận mạng

Gửi bài gửi bởi TPSM »

Tại sao niệm Phật lại có uy lực ghê gớm như vậy?

Niệm Phật phát xuất từ pháp môn Tịnh Độ mà pháp môn Tịnh Độ phát xuất từ bộ Kinh A Di Đà. Phật nói kinh này tại Thành Xá Vệ do tấm lòng thành của tỉ phú Cấp Cô Độc, dám trải vàng để mua vườn ngự uyển của Thái Tử Kỳ Đà làm đạo tràng cho Phật thuyết pháp. Trong pháp hội này Phật nói rằng Kinh A Di Đà còn có tên Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm. Chúng ta hãy nghe lời Phật dạy ngài Xá Lợi Phất:

“Này Xá Lợi Phất, ý ông thế nào? Sao gọi kinh này là Nhất Thiết Chư Phật Hộ Niệm? Xá Lợi Phất, nếu có thiện nam hay thiện nữ, nghe kinh này rồi mà chịu nhớ lấy, cả những danh hiệu, chư Phật sáu phương nghe rồi nhớ lấy, thì thiện nam ấy, thiện nữ ấy đều được hết thảy chư Phật hộ niệm và được tới cõi A Nậu Da La Tam Miệu Tam Bồ Đề chẳng hề thối chuyển.” Lại nữa, “Xá Lợi Phất ơi, Phật kia sáng láng vô cùng, vô lượng, soi khắp các nước suốt cả mười phương, không đâu chướng ngại, vì thế nên gọi A Di Đà.” (1)

Chính vì thế mà khi chúng ta cất tiếng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật” hoặc “A Di Đà Phật” thì chư Phật sáu phương cùng hoan hỉ và hết lòng trợ lực. Hơn thế nữa, vì hào quang của A Di Đà Phật chiếu xuyên suốt không chướng ngại cho nên, dù ở đâu, khi chúng ta niệm danh hiệu ngài thì Phật A Di Đà cũng sẽ hộ trì cho chúng ta đạt mục đích và không thoái chuyển.

Còn trong pháp hội ở Núi Kỳ Xà Quật, ông trưởng giả Diệu Nguyệt cũng là Phật tử tại gia (Ưu Bà Di) của Phật, từ trong đại chúng đứng lên khẩn thiết thưa thỉnh Phật như sau:

“Như Đức Thế Tôn từng chỉ dạy, đời mạt pháp các chúng sanh trong cõi Diêm Phù Đề cang cường, ngỗ nghịch, tâm tạp, nghiệp nặng, mê đắm ngũ dục, không biết hiếu thuận cha mẹ, không biết cung kính sư trưởng, không thực lòng qui y Tam Bảo, thiếu năng lực thọ trì năm giới cấm, làm đủ mọi chuyện tệ ác, phỉ báng thánh nhân v.v… Cho nên con suy gẫm như thế này, phải có một môn tu thật đơn giản, thật tiện lợi nhất, dễ dàng nhất để tất cả những chúng sanh kia khỏi đọa vào các đường ác, chấm dứt luân chuyển sanh tử trong ba cõi, được thọ dụng pháp lạc (pháp vui), sớm bước lên địa vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.” Sau lời thưa thỉnh tiếp theo của Quốc Mẫu – Hoàng Thái Hậu Vi Đề Hi, Đức Phật đã dạy như sau:

“Muốn hàng phục và chuyển biến cái sát-na tâm sanh diệt ấy, thì không có pháp nào hơn là pháp niệm Phật. Này Diệu Nguyệt cư sĩ, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào, đủ lòng tin, thì chỉ cần chuyên nhất xưng niệm danh hiệu Nam Mô A Di Đà Phật, suốt cả sáu thời trong ngày và giữ trọn đời không thay đổi, thì hiện tiền chiêu cảm được y báo và chánh báo của Phật A-Di-Đà ở cõi Cưc Lạc.” Và Đức Phật nhấn mạnh thêm “Đây là môn tu Đại Oai Lực, Đại Phứơc Đức.” (2) Ngay các bậc thượng thủ như Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Phổ Hiền cũng đều niệm Phật. Còn thiền sư Bách Trượng (720-814) cũng phải nhận định rằng “Tu hành, dùng pháp môn niệm Phật là vững vàng nhất.” (3)

Những oai lực và phước đức của phép niệm Phật nói ở trên thuộc về mặt kinh điển và tín niệm. Còn về phương diện lý giải khoa học. Khi chúng ta chí tâm, chí thành, chí thánh niệm Phật thì chúng ta sẽ phát huy hết năng lực của trí tuệ, tâm đại bi, sự dũng mãnh của chính chúng ta (Bi-Trí-Dũng). Đạt tới trạng thái này rồi thì ung dung tự tại, không còn lo sợ gì nữa (Vô hữu khủng bố) giống như sự “hành thâm” thực chứng Bát Nhã Ba-la-mật Đa Tâm Kinh của Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát. Đó cũng là trạng thái Vô Ngại và Tự Tại của Chư Phật ẩn dụ chư Phật ngồi tòa sư tử.

Do những kết quả tốt lành nói trên mà chúng ta:

- Buổi tối nên niệm Phật.

- Trước khi đi ngủ nên niệm Phật cho đến khi nào đầu óc thanh thản để từ từ đi vào giấc ngủ.

- Sáng thức dậy nên niệm Phật, dù vài câu, bởi vì sau giấc ngủ dài đầu óc con người thường hôn trầm. Niệm Phật vào đầu sớm mai cũng là dấu hiệu bắt đầu một ngày mới tốt lành.

- Khi nào thấy buồn chán nên niệm Phật.

- Thấy mất tự tin nên niệm Phật.

- Thấy long xao xuyến nên niệm Phật.

- Thấy có thể bị cám dỗ nên niệm Phật.

- Thấy thời gian kéo dài, vô vị nên niệm Phật.

- Gặp rắc rối về pháp lý nên niệm Phật để bình tĩnh ứng phó.

- Bị ai chọc giận, công kích nên niệm Phật.

- Tại đám đông tụ họp, ăn nhậu, vui chơi, thấy người ta nói chuyện “vô duyên”, tào lao, nhảm nhí mất thì giờ, nên niệm Phật để không giây dưa vào chuyện vô ích.

- Các em khi vào thi, nên niệm Phật để đầu óc thanh thản, bình tĩnh. Thiếu bình tĩnh, quá lo âu, xao xuyến đưa đến việc không đọc kỹ câu hỏi, đề tài, tính toán sai, lạc đề v.v…

- Đêm khuya thanh vắng một mình trên tàu, xe, trên sông nước nên niệm Phật.

- Khi bệnh tật, đau ốm nằm nhà thương nên niệm Phật để không mất tinh thần, không sợ chết. Càng rên la, càng mất tinh thần, càng chết sớm, càng làm khổ gia đình.

- Nếu niệm Phật cùng lúc lại quán sổ tức (theo dõi hơi thở) thì công năng rất lớn chẳng khác gì thiền định vậy.

Kết Luận:

Niệm Phật miễn phí, không phải trả tiền (free) mà cũng không bị đóng thuế, đem lại tốt lành cho đời tại sao chúng ta không thử xem? (why not?). Xin quý vị, quý bạn mạnh dạn thực hành. Nếu thấy chẳng công hiệu gì cả thì bỏ đi cũng chẳng mất mát gì. Đức Phật cũng chẳng phiền trách hay trừng phạt bạn. Cuối cùng, xin thưa rằng như chúng ta đây – những con người gọi là trần tục, sống, thở hít không khí, gia đình đầy đủ và hưởng tất cả những lạc thú của kiếp người mà vẫn cảm thấy lo âu, xao xuyến, bất an và lo sợ ngày mai. Trong khi đó, hằng vài trăm ngàn, có khi hằng triệu tăng/ni trên khắp thế giới, sống đời âm thầm, đơn sơ, đạm bạc, không gia đinh, không của cải, không danh vọng, không quyền thế, không lạc thú trần gian như chúng ta…thế mà các vị lúc nào tâm hồn cũng thanh thản, cử chỉ dịu dàng, giới hạnh trang nghiêm, miệt mài đi tới mục đích cuối cùng: Giải thoát cho chính mình và cứu độ chúng sinh. Tại sao những vị này có thể “hy sinh” và sống đời cao thượng đến như thế? Các ngài có gì bí mật chăng? Xin thưa qúy ngài chẳng có loại “vũ khí” bí mật nào cả. Các ngài cũng chẳng có phép mầu hoặc sự che chở của bất cứ thần linh mầu nhiệm nào cả. Hành trang duy nhất mà các ngài mang theo là giáo lý của Đức Phật và phương tiện tiến tu là Thiền Định hoặc Tụng Kinh, Niệm Phật…điều mà tôi và quý bạn đã thấy rõ như ban ngày.

Không còn bàn cãi gì nữa. Tụng kinh niệm Phật công năng ghê gớm và lợi lạc có thể nhìn thấy. Còn như chuyện tu hành như thế nào, hành trì như thế nào, giới luật như thế nào, phát nguyện lớn như thế nào mà có thể đắc đạo, ngồi yên trong biển lửa, cắt xẻ thân thể mà không kêu than như Đức Phật thường nói trong nhiều bộ kinh…thì hàng sơ cơ, thô thiển như tôi hoàn toàn không biết. Không biết mà nói bừa sẽ mang tội vọng ngữ.

(California Tháng 8 năm 2554.PL – 2010.TL)
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức chung”