NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Kiến thức tổng hợp về âm dương, ngũ hành, can chi, ...
Trả lời bài viết
Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

Theo các vị đã đi sâu vào khoa Tử-Vi Đẩu số, thì sự Sinh, Khắc, Chế, Hóa trong Ngũ Hành rất cần thiết trong khoa Tử-Vi và bói toán. Về lý thuyết căn bản thì các sách cũng như trên các diễn đàn đã nêu ra qúa nhiều, nay tôi chỉ đi vào một số khía cạnh về Ngũ hành chế hóa.
Ví dụ hai hành khắc nhau như Thủy khắc Hỏa mà lại tốt như Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời) với Quý Hợi là Đại Hải Thủy (Nước biển lớn). Vì lửa trên trời tức là mặt trời chiếu xuống biển cả, thì phát ra muôn ngàn hào quang rực rỡ.
1- Kim
Trong cát, giáo gươm hai thứ Kim
Nếu nằm trên Chấn ắt tương xâm
Kim còn bốn thứ đều sợ Hỏa
Gươm cát vắng Hỏa chẳng thành hình
Ất Mùi là Sa Trung Kim (kim khí trong cát)
Quý Dậu là Kiếm Phong Kim (kim khí của gươm giáo)
Cả hai đều không nên gặp Mộc, vì cây không sống được, nếu trồng trên đất có chất kim khí và cây mà gặp gươm giáo sẽ bị chặt gãy. Nhưng hai thứ Kim đó mà gặp Hỏa lại tốt, có lửa mới rèn thành gươm giáo, có lửa thì chất Kim vùi trong cát (vàng cốm) mới trở thành nén vàng qúy giá. Còn các thứ Kim khác đều sợ Hỏa (khắc).
2- Thủy
Thuỷ ở sông Ngân cùng biển cả
Cả hai chẳng sợ Thổ địch cừu
Ngoài còn mấy thứ đều kỵ Thổ
Một đời cơm áo thật khó cầu …
Đinh Mùi là Thiên Hà Thủy (nước sông Ngân Hà) và Quý Hợi là Đại Hải Thủy (nước biển cả) không sợ Thổ vì nước sông Ngân Hà trên trời cách xa với mặt đất và đất thì không hút nổi hết nước của biển cả. Còn Thổ khắc tất cả các thứ Thủy khác.
3- Mộc
Mộc Tằm dâu, liễu dương, tùng bách
Thạch lựu, rừng sâu đều kỵ Kim
Duy chỉ cây trồng đồng bằng Mộc
Thiếu Kim sao được mọc lên cao ?
Các thứ mộc như Quý Sửu là Tang Đố Mộc (gỗ cây tằm dâu), Quý Mùi là Dương Liễu Mộc (gỗ cây dương liễu), Tân Mão là Tùng Bách Mộc (gỗ cây tùng bách), Tân Dậu là Thạch Lựu Mộc (gỗ cây lựu), Kỷ Tỵ là Đại Lâm Mộc (gỗ cây rừng lớn) đều sợ Kim. Đất mà có chất Kim khí thì cây sẽ chết, nếu gặp rìu búa, cây sẽ bị đốn gãy.
Duy chỉ các cây trồng ở đồng bằng như ngũ cốc, cây có trái, cây cảnh. Kỷ Hợi (Bình Địa Mộc) thì lại cần phải có đồ kim khí như cầy, cuốc, kéo, liềm .. để cầy, vun sới, tỉa xén, thì nó mọc tốt và cây cảnh mới đẹp đuợc.
4- Hỏa
Đèn lồng, lò lửa, cùng đỉnh núi
Thấy Thủy, cả ba đều chẳng hay
Lại còn ba thứ chẳng kiêng Thủy
No Ấm một đời, giầu lại sang
Ất Tỵ là Phú Đăng Hỏa (lửa đèn lồng); Đinh Mão là Lò Trung Hỏa (lửa trong lò); Ất Hợi là Sơn Đầu Hỏa (lửa đỉnh núi) ba thứ đó kỵ Thủy, gặp Thủy là tắt liền.
Nhưng ba thứ khác là : Đinh Dậu là Sơn Hạ Hỏa (lửa chân núi); Kỷ Sửu là Tích Lịch Hỏa (lửa sấm sét); Kỷ Mùi là Thiên Thượng Hỏa (lửa trên trời) gặp Thủy, không bị ảnh hưởng gì hại mà lại còn tốt vì hợp với tình thế.
5- Thổ
Thành lũy, mái nhà cùng trên vách
Ba Thổ đều sợ Mộc đâm xoi
Ngoài còn ba thứ chẳng sợ Mộc
Một đời thanh qúy, bước lên mây
Kỷ Mão là Thành Đầu Thổ (đất trên thành lũy); Đinh Hợi là Ốc Thượng Thổ (đất trên mái nhà); Tân Sửu là Bích Thượng Thổ (đất trên vách nhà). Ba thứ đất này đều sợ Mộc (Mộc khắc Thổ) vì nếu cây mà mọc trên các thứ đất đó, rễ sẽ đâm xuyên làm cho đất lở và nứt ra.
Còn ba thứ Thổ khác mà gặp Mộc lại tốt như :
– Tân Mùi là Lộ Bàng Thổ (đất cạnh đường) cần có cây cối mọc bên đường cho rợp, mát
– Kỷ Dậu là Đại Dịch Thổ (đất ở nền nhà, trạm hay cầu, quán ..) cũng cần có cây mọc để cho trạm hay cầu
quán được đẹp mắt và mát mẻ.
– Đinh Tỵ là Sa Trung Thổ (đất trong cát) đất trong bãi cát rất tốt cho các việc trồng ngô, hoặc trên bãi sa mạc mà có cây mọc thì còn gì qúy bằng.
[/size]
Sửa lần cuối bởi Phuocduyen vào lúc 14:33, 01/03/09 với 8 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: hkeikun, Lão Nông, Thiên Cơ, Thiên Hương, Trang 1983, mimi1986, ducminhpham2002, smile., nobfebbig, Anha, Phong Du, Tử Phủ, surini82, TVLS09, anhkiet_kso, teamoon, KHAI TRI, hakh, kimcuong68, kimtudon, matxanh, coi91
Đầu trang

Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

Giai thoại về Sinh Khắc, Chế Hóa của NGŨ HÀNH

A- MỘT TRƯỜNG HỢP KIM SINH THỦY

Để cho ta thấy rõ về Sinh, Khắc, Chế Hóa của Ngũ Hành, người xưa đã để lại những giai thoại có thật để chứng minh lẽ huyền bí của tạo hóa về sinh khắc ngũ hành chế hóa.
Trong thời chiến cuốc, Thái Trạch người nước Yên, học rộng, tài cao đi du thuyết các nước chư hầu, nhưng không có nước nào dùng. Khi đến nước Lương, nghe tiếng có Đường Cử là người giỏi về khoa Tướng Số liền tìm đến xin vào gặp mặt để hỏi vì sao mà mình cứ lận đận và đến bao giờ mới đạt được công danh, phú qúy.
Đường Cử ngắm nhìn Thái Trạch rồi nói :
– Tiên Sinh mũi như con rết, vai cao hơn đầu, trán nhăn, mày cau, hai chân khuỳnh khuỳnh. Tôi nghe bậc Thánh nhân mà như vậy cũng không cần xem tướng, huống hồ là Tiên Sinh.
Thái Trạch nghe Đường Cử nói như vậy biết là nhà tướng số nước Lương có ý chê mình diện mạo xấu xa không làm nổi bậc Công Khanh, nhưng Thái Trạch vốn tin mình học rộng, tài cao thế nào cũng có ngày áo bào tung bay trước gió, vinh quy bái tổ về làng. Ông ta nói với Đường Cử :
– Phú qúy thì tôi đã sẵn có, học thức thì Trạch này chưa phải thua những bậc lương đống của các nước.. Chỉ xin Tiên Sinh cho biết Trạch này đến bao giờ nữa.
Đường Cử tính một lúc rồi nói :

– Tuổi thọ của Tiên Sinh còn dài. Kể từ nay, Tiên Sinh còn 43 năm nữa.

Thái Trạch cười lớn :
Trạch này vốn ăn ngon, mặc đẹp, đi thì lên xe, xuống ngựa, ở thì lầu cao, gác rộng, ngọc giắt, vàng đeo, vái nhường trước mặt vị nhân quân. Như vậy 43 năm cũng đủ cho Trạch này đường mây rộng bước.
Nói xong, từ biệt ra đi. Sau khi sang nước Hàn, thăm nước Triệu. Thái Trạch vẫn chưa tìm được minh chủ. Khi trở về Ngụy, không may nửa đường bị cướp, mất sạch của cải, hành lý.
Đang khi bụng đói không biết soay sở vào đâu, ngồi nghỉ ở dưới gốc cây bên vệ đường thì gặp Đường Cử đi qua trông thấy. Nhìn Thái Trạch trong tình cảnh như vậy, Đường Cử hỏi đùa :
– Sao, Tiên sinh chưa gặp minh chủ à ?.
Thái Trạch đáp :

– Còn đang tìm kiếm đây.

Đường Cử nghiêm nét mặt nói :

– Tiên Sinh cốt tướng thuộc về Thủy. Tiên Sinh đã thừa biết Kim sinh Thủy. Tại hướng Tây thuộc Kim, có nước Tần đang cường thịnh mà vua Tần lại chiêu hiền, đãi sĩ. Phạm Chuy, Thừa Tướng nước Tần đang lo sợ cho chức vụ của mình bị lung lay vì Chuy đã bảo lãnh với vua Tần cho Trịnh An Bình và Vương Kê. Nay hai kẻ đó vừa phạm tội đối với triều đình. Theo luật nước Tần, kẻ nào bảo lãnh cũng bị tội như chánh phạm nên Phạm Chuy đang nóng lòng muốn từ chức !. Tiên Sinh sao chẳng sang Tần mà tìm công danh chớ chịu khốn đốn ở đây hay sao ?
.
Nói xong, Đường Cử mới Thái Trạch về nhà ăn ở rồi đưa tặng mấy nén vàng làm lộ phí sang Tần. Qủa nhiên, Thái Trạch được vua Tần trọng dụng và thay Thừa tướng Phạm Chuy, phò tá Tần tóm thâu thiên hạ.
Được cảm ơn bởi: Thiên Cơ, Thiên Hương, Trang 1983, mimi1986, TVLS09, KHAI TRI, kimcuong68, tonytony11, coi91
Đầu trang

Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

B- TRƯỜNG HỢP HỎA CHẾ HÓA KIM
Cuối thời Chiến Quốc, sau khi diệt được Tần, Tây Sở Bá Vương Hạng Võ cậy mình sức mạnh, tự cho mình như một vị Hoàng Đế, cắt đất, phong hầu cho các bạn đồng minh đã diệt Tần. Các đồng minh của Hạng Võ vì thế yếu phải tự coi như chư hầu của Sở Bá Vương
Trong các đồng minh này có Lưu Bang (sau này khai sáng ra nhà Hán) là có thực lực có thể đối chọi với Hạng Võ. Hạng Võ tìm cách chèn ép, đàn áp Lưu Bang, vì sợ sau này Lưu bang sẽ cường thịnh trở thành một đối thủ lợi hại. Nay nhân dịp cắt đất phong hầu, Hạng Võ cũng biết Lưu Bang là người có công lao nhất trong việc diệt Tần, nhưng nếu cắt một nơi ruộng đất phì nhiêu, dân cư đông đúc mà cho Lưu Bang, thì sau này Lưu Bang sẽ trở thành cường thịnh, phong phú, có thể nhân đà ấy quật lại mình thì sao ?. Do đó sau khi suy tính kỹ lưỡng, Hạng Võ phong cho Lưu Bang cai trị đất Tây Thục là đất xa xôi núi non hiểm trở. Hạng Võ yên trí là Lưu Bang sẽ bó tay không làm gì được. Nếu mình sai một tướng tài giỏi trần thủ nơi hiểm yếu Lưu Bang sẽ bị cô lập, quân đội sẽ tan rã vì bọn lính sẽ bỏ Lưu Bang mà đi không ai thích từ bỏ quê hương để đi sống nơi viễn xứ.
Nhưng Phạm Tăng, một người trí lược, mưu cơ, quân sư của Hạng Võ, cho là ý định của Hạng Võ là thất sách và nghĩ rằng :
– “Lưu Bang dùng toàn màu đỏ, cờ đỏ, áo đỏ. Như vậy là thuộc về hành HỎA. Nay được cai trị đất Tây Thục thuộc về hành KIM. KIM gặp HỎA sẽ thành khí, nghĩa là các chất KIM khi gặp được lửa thì sẽ chảy ra, rèn đúc được các đồ hữu dụng như vũ khí v.v.v…”
“Nếu vậy là thả hổ về rừng, trái hẳn với ý nghĩa của Sở Vương, Lưu Bang sẽ trở nên dũng mãnh có thể tiêu diệt được Sở”.
Quả nhiên đúng như sự phỏng đoán của Phạm tăng, chỉ vài năm sau, Lưu Bang tiến quân phá Tam Tần, bình tề, diệt Sở, nhất thống thiên hạ rồi khai sáng ra nhà Hán lưu truyền cơ nghiệp được 400 năm !.
Được cảm ơn bởi: Thiên Cơ, Thiên Hương, vnsteel, Tử Phủ, TVLS09, KHAI TRI, babymoi, vuongthuavu, kimcuong68, kimtudon, coi91
Đầu trang

Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH CHẾ HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

CÁC NGUYÊN TẮC NGŨ HÀNH CHẾ HÓA
Nguyên thủy là bản tiếng Hán, xin tạm dịch như sau :
1- Nguyên tắc 1
Kim do Thổ sinh ra, Thổ nhiều thì Kim bị chôn lấp
Mộc do Thủy sinh, Thủy nhiều thì Mộc bị trôi nổi phiêu bạt
Thổ do Hỏa sinh ra, Hỏa nhiều thì Thổ bị cháy tiêu
Thuỷ do Kim sinh ra, Kim nhiều thì nước bị đục
Hỏa do Mộc sinh sinh ra, Mộc nhiều thì Hỏa càng sáng tỏ.
2- Nguyên tắc 2
Kim sinh Thủy, Thuỷ nhiều thì Kim bị chìm mất
Thuỷ sinh Mộc, Mộc nhiều thì Thủy bị cạn (thu rút lại)
Mộc sinh Hỏa, Hỏa nhiều thì Mộc bị cháy hết.
Hỏa sinh Thổ, Thổ nhiều thì Hỏa tối lại
Thổ sinh Kim, Kim nhiều thì Thổ yếu (mất nhiều năng lực)
3- Nguyên tắc 3
Kim suy (ít) gặp Hỏa, tất bị đun, chảy ra
Hỏa yếu gặp Thủy, tất bị tắt, tiêu diệt
Thủy yếu (ít) gặp Thổ, tất bị ứ tắc
Thổ suy (ít) gặp Mộc, tất gặp sự đảo lộn bế hãm (mất tính chất nguyên thủy)
Mộc yếu gặp Kim, tất bị chém gãy.
4- Nguyên tắc 4
Kim mạnh (nhiều) được Thủy, sự nhọn sắc mòn gãy bớt đi
Thuỷ mạnh (nhiều) được Mộc, thế sức mạnh bị tiết bớt đi
Mộc mạnh (nhiều) được Hỏa, sự cứng rắn bị hóa giải bớt đi
Hỏa mạnh (nhiều) được Thổ, sự sáng rực bị giữ bớt lại
Thổ mạnh (nhiều) được Kim, sự ủng hộ (giúp sức) bị chế bớt lại
5- Nguyên tắc 5
Kim khắc Mộc, nhưng Mộc rắn thì Kim gãy, sứt mẻ
Mộc khắc Thổ, nhưng Thổ nhiều, nặng thì Mộc gãy
Thổ khắc Thủy, nhưng Thủy nhiều thì Thổ bị trôi đi
Thủy khắc Hỏa, nhưng Hỏa bốc cháy lớn, thì Thủy bị cạn bốc hơi đi
Hỏa khắc Kim, nhưng Kim nhiều chảy tràn ra thì Hỏa tắt.
Được cảm ơn bởi: Admin, Thiên Cơ, Thiên Hương, Trang 1983, kimkhi, surini82, TVLS09, KHAI TRI, kimcuong68, kimtudon, Chonhau_nucuoi, khanhnhunghp11, matxanh, coi91
Đầu trang

Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH BIẾN HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

Theo nạp âm :

rHàng Can :
Giáp - Ất thuộc Mộc
Bính - Đinh thuộc Hỏa
Mậu – Kỷ thuộc Thổ
Canh – Tân thuộc Kim
Nhâm – Quý thuộc Thủy

rHàng Chi
Hợi – Tý thuộc Thủy
Dần – Mão thuộc Mộc
Tị - Ngọ thuộc Hỏa
Thân - Dậu thuộc Kim
Thìn – Tuất – Sửu – Mùi thuộc Thổ

Vậy tại sao :
Giáp Tý : Giáp thuộc Mộc; Tý thuộc Thủy mà Giáp Tý lại thành Kim ?
Bính Ngọ : Bính thuộc Hỏa; Ngọ thuộc Hỏa mà Bính Ngọ lại thành Thủy ?

rĐược biết trong Hà đồ :
Số 1 và số 6 thuộc Thủy
Số 2 và số 7 thuộc Hỏa
Số 3 và số 8 thuộc Mộc
Số 4 và số 9 thuộc Kim
Số 5 và số 10 thuộc Thổ

rTrong Ngũ hành, chỉ có Mộc và Kim giữ vững tính chất nguyên thủy còn Hỏa, Thủy, và Thổ đều biến thể như sau :

Thổ biến thành Thủy: Ví dụ như thân thể người ta là vật chất tức là Thổ, xác chết tiêu tan ra nước.
Thủy biến thành Hỏa: Nước do hai chất dưỡng khí và khinh khí hợp thành. Hai thứ khí đó đốt thành lửa.
Hỏa biến ra Thổ: Địa cầu khi xưa là một khối lửa.
Được cảm ơn bởi: Thiên Cơ, Thiên Hương, ducminhpham2002, TVLS09, KHAI TRI, kimcuong68, matxanh, coi91
Đầu trang

Phuocduyen
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 493
Tham gia: 23:18, 10/02/09

NGŨ HÀNH BIẾN HÓA

Gửi bài gửi bởi Phuocduyen »

* Ta còn biết thêm rằng :

rHàng Can :
Giáp – Kỷ thuộc số 9
Ất - Canh thuộc số 8
Bính – Tân thuộc số 7
Đinh – Nhâm thuộc số 6
Mậu – Quý thuộc số 5

rHàng Chi
Tý – Ngọ thuộc số 9
Sửu – Mùi thuộc số 8
Dần – Thân thuộc số 7
Mão – Dậu thuộc số 6
Thìn – Tuất thuộc số 5
Tị - Hợi thuộc số 4

Vậy :

rGiáp Tý, Ất Sửu đều là KIM vì :

Giáp : 9 + Tý : 9 = 18
Ất : 8 + Sửu : 8 = 16
--------------Cộng = 34
Số 34 tức là lẻ 4. Vậy số 4 thuộc KIM

rBính Dần, Đinh Mão đều là HỎA vì :
Bính : 7 + Dần : 7 = 14
Đinh : 6 + Mão : 6 = 12
----------------Cộng = 26
Số 26 tức là lẻ 6. Vậy số 6 thuộc THỦY, mà THỦY biến thành HỎA

rMậu Thìn, Kỷ Tị đều là MỘC vì :
Mộc : 5 + Thìn : 5 = 10
Kỷ : 9 + Tị : 4 = 13
-------------- Cộng = 23
Số 23 tức là lẻ 3. Vậy số 3 thuộc MỘC

rCanh Ngọ, Tân Mùi đều là THỔ vì :
Canh : 8 + Ngọ : 9 = 17
Tân : 7 + Mùi : 8 = 15
----------------Cộng = 32
Số 32 tức là lẻ 2. Vậy số 2 thuộc HỎA, mà HỎA Biến ra THỔ

rNhâm Thân, Quý Dậu đều là KIM vì :
Nhâm : 6 + Thân : 7 = 13
Quý : 5 + Dậu : 6 = 11
----------------- Cộng = 24
Số 24 tức là lẻ 4. Vậy số 4 thuộc KIM.

Tương tự các Giáp Tuất-Giáp Thân-Giáp Ngọ-Giáp Thìn-Giáp Dần … đều tính như trên.
Được cảm ơn bởi: Thiên Cơ, Thiên Hương, vnsteel, Trang 1983, mimi1986, kiennd, ducminhpham2002, smile., mysterious, TVLS09, hihihehehaha, loanphung, saytuvi, KHAI TRI, timeup, hunganh1, kimtudon, tam961, tonytony11, duka1985, nhanqua, Chonhau_nucuoi, Vô thường, PhanQuocTuan, HoangThieuPhu, hoangphantung, coi91, minhgiac
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức chung”