NGUYÊN LÝ NẠP ÂM

Kiến thức tổng hợp về âm dương, ngũ hành, can chi, ...
Trả lời bài viết
lytranle
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 240
Tham gia: 11:05, 05/11/09
Đến từ: Thành phố HCM

NGUYÊN LÝ NẠP ÂM

Gửi bài gửi bởi lytranle »

NGUYÊN LÝ NẠP ÂM
Lý Trần Lê
25/8/2012

I/ PHẦN MỞ ĐẦU
Nạp Âm là khái niệm vô cùng quan trọng của Dịch Học. Trong Thuyết Tam Tài THIÊN – ĐỊA – NHÂN thì NHÂN chính là Ngũ Hành của Nạp Âm. Trong nhiều môn thuật của Lý Số thì Ngũ Hành của Nạp Âm là cái HỒN, là TÂM LINH của CON NGƯỜI. Quan trọng là vậy, thế nhưng đã qua hàng nghìn năm nay hầu như ít ai thấu hiểu được Nguyên Lý của Phép Nạp Âm .
+ Thiệu Vĩ Hoa ( Nhà Dịch Học Danh Tiếng Trung Quốc hiện nay ), trong Sách “ Dự đoán theo Tứ Trụ ” và Sách “ Chu Dịch với Dự Đoán Học ” đã viết :
“Trong Bảng 60 Giáp Tý, căn cứ nguyên tắc gì để nạp Âm Ngũ Hành? Người xưa tuy có bàn đến nhưng không có căn cứ rõ ràng và cũng chưa bàn được minh bạch, do đó vẫn là huyền bí khó hiểu. Bảng 60 Giáp Tý biến hóa vô
cùng, cho đến nay đối với giới Học Thuật của Trung Quốc vẫn còn là một bí ẩn ’’ .

+ Học Giả THIÊN SỨ, trong bài “ BÍ ẨN 60 HOA GIÁP ” đăng trên Diễn Đàn vietlyso.com, cho rằng Thẩm Quát đã sai khi lý giải về vấn đề Nạp Âm và cuối cùng Ông kết luận :
“ Trải qua hàng ngàn năm, mặc dù hết sức cố gắng, những nhà nghiên cứu cổ kim vẫn không thể nào tìm ra được nguyên lý nào làm nên sự lập thành bảng nạp âm Lục Thập Hoa Giáp. … Còn bảng Lục Thập Hoa Giáp lưu truyền qua cổ thư Chữ Hán thì ngay cả người Hán cũng chẳng biết nguyên lý nào tạo ra nó và rối mù “.
+ Nhà Dịch Học Nguyễn Mạnh Linh trong Bộ HIỆP KỶ BIỆN PHƯƠNG THƯ của Doãn Lộc do Ông chú giải, thì phần Nạp Âm này, Ông cũng chỉ viết y nguyên như trong Sách HIỆP KỶ BIỆN PHƯƠNG THƯ ( HKBPT )của Mai Cốc Thành, không có thêm lời chú giải nào.
+ Có khá nhiều tác giả đã gắng giải thích vấn đề Nạp Âm , nhưng cũng chỉ là trích dẫn những điều vốn rất bí ẩn trong Bài Nạp Âm của Thẩm Quát mà chẳng lý giải thêm được ý nào, thậm chí còn trích dẫn luôn cả những chỗ sai trong bài đó.
(Trong Bài Nạp Âm của Thẩm Quát - in trong HKBPT, Bản dịch của Vũ Hoàng- Lân Bình , tôi phát hiện có đến 7 chỗ sai sót, không hiểu do đâu - LTL ).
+ Bất cứ ai, hễ bước chân vào lĩnh vực Lý Số đều có chung một điều day dứt : Nạp Âm thật quá mơ hồ và huyền bí, không sao hiểu được. Khi thổ lộ tâm trạng bức xúc đó ra thì được các bậc đàn anh, các bậc Trí Giả khuyến cáo : “Cứ chấp nhận như vậy đi, đừng mất thì giờ vô ích về chuyện Nạp Âm. Xưa nay nó vẫn huyền bí, không ai giải thích nỗi ! ”
Như vậy là cho đến nay chưa có ai lý giải được Nguyên Lý của Phép Nạp Âm.
Thực ra, những điều gọi là huyền bí đó , đã được THẨM QUÁT ( 1031 –1095 ) giải thích trong bài Nạp Âm rồi.
* Bài NẠP ÂM của Thẩm Quát được in trong Bộ Sách HKBPT. Sách được biên soạn dưới thời Vua Càn Long, cách nay trên 200 Năm.
*Thẩm Quát là Nhà Khoa Học kiệt xuất thời Bắc Tống (960 – 1279), nghĩa là Nguyên lý Nạp Âm đã được Ông giải thích cách nay đã trên 1000 năm.
Nhưng tại sao không có ai hiểu ?
Phải chăng là vì Thẩm Quát nói sai , hay vì bài viết quá súc tích , có quá nhiều điển tịch uyên thâm ?
Để khỏi mất thời gian tìm kiếm của Quý Vị và để thuận tiện cho việc trình bày, tôi trích dẫn ra đây bài viết đó của Thẩm Quát. Bài này được dẫn ra từ Sách HKBPT, Bản Dịch của Vũ Hoàng-Lân Bình, Nhà Xuất Bản VHTT, 2008. Trang 105.

NẠP ÂM
Thẩm Quát nói rằng: Sáu mươi Giáp Tý có nạp âm, ý đó vốn mới mẻ hiếm thấy. Đại để 60 luật lữ cùng nhằm làm cung pháp một luật hàm 5 âm, 12 luật nạp 60 âm. Phàm khí bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải, âm khởi từ phương Tây mà đi về bên trái, âm dương đan xen nhau mà sinh biến hóa. Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là bốn mùa bắt đầu ở mộc, đi về bên phải chuyển tới hỏa, hỏa chuyển tới thổ, thổ chuyển tới ở kim, kim chuyển tới ở thủy. Chỗ bảo rằng âm bắt đầu ở phương Tây nầy là ngũ âm bắt đầu ở kim, chuyển xoay về bên trái tới hỏa, hỏa chuyển tới mộc, mộc chuyển tới thủy, thủy chuyển tới thổ (nạp âm với nạp Giáp của Dịch cùng một phương pháp, Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn mà chung hết ở Khôn. Nạp âm bắt đầu ở kim – kim là Càn vậy, chung ở thổ – thổ là Khôn vậy). Phép của nạp âm cùng loại với lấy vợ, cách tám sinh con ,như thể phép tương sinh của luật lữ. Ngũ hành trước trọng sau mạnh, mạnh mà sau quý. Tam nguyên của Độn Giáp đã ghi chép như thế vậy. Giáp tí là trọng của Kim (Thương của Hoàng chung), lấy vợ cùng vị tức là Ất sửu (Thương của Đại Lữ cùng ngôi vị). Đó là cặp của Giáp với Ất, Bính với Đinh. Ở dưới đều phỏng theo thế (1). Cách tám sinh ra Nhâm thân ở dưới là mạnh của Kim (Thương của Di tắc), cách tám đó là Đại lữ (2) sinh ra Di Tắc vậy. Ở dưới đều phỏng theo thế. Nhâm thân lấy vợ cùng một ngôi vị là Quý dậu (Thương của Nam lữ). Cách tám, Canh thìn sinh ở trên la quý của Kim (Thương của Cô tẩy), như thế tam nguyên của kim hết . Nếu chỉ lấy thời dương mà nói thì dựa vào Độn Giáp chuyển thuận: trọng-mạnh-quý. Nếu kiêm nói về vợ thì nghịch chuyển : mạnh-trọng-quý. Canh Thìn lấy vợ Tân tỵ cùng ngôi vị (Thương của trọng lữ), cách tám ở dưới sinh Mậu tí, trọng của hỏa (Chủy Kim của Hoàng chung) (3). Tam nguyên hết thì đi về bên trái chuyển tới phương Nam, hỏa Mậu tí - Kỷ sửu (Chủy của Đại lữ) sinh ra Bính thân, mạnh của hỏa (Chủy của Di Tắc) Bính Thân lấy vợ Đinh dậu (Chủy của Nam lữ) sinh Giáp thìn, quý của hỏa (Chủy của Cô tẩy) Giáp thìn lấy vợ Ất tỵ (Chủy của Trọng lữ) sinh Nhâm tí, trọng của mộc (Giác của Hoàng chung). Tam nguyên hỏa hết thì đi về bên trái chuyển tới ở phương Đông nam – mộc. Như đi về bên trái đến Đinh tỵ là Cung của Trọng lữ ngũ âm hết lần một (4). Quay lại từ Giáp ngọ, trọng của kim, lấy vợ Ất mùi, cách tám sinh Nhâm dần. Giống như phép của Giáp tí thì hết ở Quý Hợi (5) (gọi là Nhuy tân lấy vợ Lâm chung, trên sinh ra loại của Thái thốc) (6). Tí đến Tỵ là dương, vì vậy từ Hoàng chung đến Trọng lữ, đều hạ sinh. Từ Ngọ đến Hợi là âm, vì vậy từ Lâm chung (7) đến Ứng chung đều thượng sinh ” .
( Những chỗ gạch dưới và đánh số là những chỗ cần đính chính – LTL ) .
Như Quý Vị thấy đấy, rất khó mà đọc và hiểu được bài viết đó.
Đúng là bài quá súc tích, có quá nhiều điển tịch uyên thâm. Chẳng hạn như : Luật Lữ , cách 8 sinh con , sinh trên, sinh dưới, Hoàng Chung, Đại Lữ, Thương của Hoàng Chung , Đại Lữ sinh Di Tắc, Tam nguyên của Kim; sao lại Trọng-Mạnh-Quý mà không là Mạnh-Trọng-Quý ? …
Hơn nữa, bài in quá rối mắt; thiếu những dấu phân cách, xuống dòng , có những chỗ sai làm cho ta càng thêm khó đọc.

Trước tiên tôi đính chính lại 7 điểm đã đánh dấu trong bài trên, sau đó chép lại bài cho thông thoáng dễ nhìn, đồng thời đánh số vào những chỗ cần giải thích để tiện theo dõi.
Đính chính
1/ Bỏ dòng ( 1 ) này đi , vì câu lủng củng, vả lại ý chính của nó đã có ở phía dưới.
2/ ( 2 ) Cách tám sinh đó là Đại Lữ sinh ra Di Tắc. Câu này sai. Cần sửa lại là Hoàng Chung sinh ra Di Tắc.
3/ ( 3 ) Bài viết là “Chủy Kim của Hoàng Chung ’’. Câu này vô nghĩa, cần sửa lại : Bỏ chữ Kim đi. Câu đúng là Hoàng Chung của Chủy .
4/ ( 4 ) : Bài viết là “ … Cung của Trọng Lữ ngũ âm hết lần một “.
Sửa lại : thêm dấu châm câu vào giữa hai chữ “ Lữ và ngũ “. Câu đúng là “ … Cung của Trọng Lữ . Ngũ Âm hết lần một “.
5/ ( 5 ) : Bài viết là “ … thì hết ở Quý hợi “. Câu này sai. Cần sửa lại là “ … thì hết ở Đinh Hợi “.
6/ Câu ( 6 ) đặt không đúng chỗ, cần đặt nó vào sau câu “ cách tám sinh Nhâm Dần “ ở phía trên.
7/ ( 7 ) : Bài viết là “ từ Lâm Chung đến Ứng Chung “. Cần sửa lại là “ từ Nhuy Tân đến Ứng Chung “.

Chép lại Bài Nạp Âm của Thẩm Quát:
Thẩm Quát nói rằng:
Sáu mươi Giáp Tý có nạp âm, ý đó vốn mới mẻ hiếm thấy.
Đại để 60 luật lữ (1) cùng nhằm làm cung pháp một luật hàm 5 âm, 12 luật, nạp 60 âm.
Phàm
Khí bắt đầu ở phương Đông mà đi về bên phải,
Âm khởi từ phương Tây mà đi về bên trái.
Âm Dương đan xen nhau mà sinh biến hóa
.(2)
+ Chỗ gọi là khí bắt đầu ở phương Đông nầy là
bốn mùa
bắt đầu Mộc,
đi về bên phải chuyển tới Hỏa,
Hỏa chuyển tới Thổ,
Thổ chuyển tới ở Kim,
Kim chuyển tới ở Thủy.(3)
+ Chỗ bảo rằng Âm bắt đầu Phương Tây nầy là
Ngũ Âm bắt đầu ở kim,
chuyển xoay về
bên trái tới Hỏa,
Hỏa chuyển tới Mộc,
Mộc chuyển tới Thủy.
Thủy chuyển tới thổ
.(4)
( Nạp Âm với nạp Giáp của Dịch cùng một phương pháp : Càn nạp Giáp mà Khôn nạp Quý, bắt đầu ở Càn mà chung hết ở Khôn. Nạp Âm bắt đầu ở Kim – Kim là Càn vậy, chung ở Thổ – Thổ là Khôn vậy).(5)
Phép của Nạp Âm cùng loại với Luật Thú Thê : cách tám sinh con ,như thể phép tương sinh của Luật Lữ.(6)
Ngũ hành trước Trọng sau Mạnh, Mạnh rồi sau Quý ( Tam nguyên của Độn Giáp đã ghi chép như thế vậy ).(7)
ngôi
Bắt đầu từ Giáp Tý
1/ Giáp TýTrọng của Kim (Hoàng Chung của Thương ), lấy vợ cùng vị tức là Ất Sửu ( Ất Sửu là Đại Lữ của Thương, cùng ngôi vị). (8) .
Cách 8 sinh ra Nhâm Thân ở dưới.Nhâm Thân là Mạnh của Kim ( Di Tắc của Thương ) (9).
Cách tám đó là Hoàng Chung sinh ra Di Tắc vậy (10)
Ở dưới đều phỏng theo thế.
2/ Nhâm Thân lấy vợ cùng một ngôi vị, đó là Quý Dậu (Nam lữ của Thương) (11). Cách tám, sinh trên ra Canh Thìn là Quý của Kim (Cô Tẩy của Thương). Như thế Tam Nguyên của Kim hết (12).
Nếu chỉ lấy thời Dương mà nói thì dựa vào Độn Giáp chuyển thuận: Trọng - Mạnh - Quý (13). Nếu kiêm nói về vợ thì nghịch chuyển : Mạnh-Trọng-Quý.
3/ Canh Thìn lấy vợ Tân Tỵ cùng ngôi vị - Trọng Lữ của Thương, cách tám ở dưới sinh Mậu Tý - Trọng của Hỏa (Hoàng Chung của Chủy) (14).
Tam nguyên hết thì đi về bên trái chuyển tới phương Nam, Hỏa (15).
4/ Mậu Tý lấy vợ là Kỷ Sửu (Đại lữ của Chủy), sinh ra Bính Thân, Mạnh của Hỏa (DiTắc của Chủy).
5/
Bính Thân lấy vợ là Đinh Dậu (Nam lữ của Chủy), sinh Giáp Thìn,Quý của Hỏa (Cô tẩy củaChủy). 6/ Giáp Thìn lấy vợ Ất Tỵ (Trọng Lữ của Chủy), sinh Nhâm Tý --Trọng của Mộc (Hoàng chung của Giốc). ( 16a ) Tam nguyên Hỏa hết thì đi về bên trái chuyển tới ở phương Đông- Nam – Mộc (16b) .
Tiếp tục như vậy, đi về bên trái, ta sẽ đến
Đinh Tỵ là Trọng lữ của Cung .
Ngũ âm hết lần một (17).
Quay lại từ Giáp Ngọ
Giáp Ngọ,Trọng của kim, Giáp Ngọ lấy vợ Ất Mùi, cách tám sinh Nhâm Dần ( Gọi là, Nhuy Tân lấy vợ Lâm Chung, Thượng Sinh ra Thái Thốc) (18).
Tiếp tục, giống như đã làm với Giáp Tý , vòng này sẽ kết thúc tại Đinh Hợi (19).
Từ Tí đến Tỵ là Dương, vì vậy từ Hoàng Chung đến Trọng Lữ, đều hạ sinh. (20a ) Từ Ngọ đến Hợi là Âm, vì vậy từ Lâm Chung đến Ứng Chung đều thượng sinh (20b).

&&&&&&&&&&&&&&&&&


Tôi đã rất kiên nhẫn đọc bài Nạp Âm đó, đã hiểu được đôi điều và thấy rằng Thẩm Quát nói đúng.
Xin tải lên đây một số kết quả bước đầu mà tôi đã thu hoạch được để chia sẻ với Quý Vị, Quý Bạn . Chắc chắn bài viết còn có nhiều chỗ sai sót nhầm lẫn . Hy vọng sẽ được Quý Vị, Quý Bạn phân tích góp ý, sửa chữa , bổ sung nhằm làm sáng tỏ, thật sáng tỏ những điều bí ẩn đã quá “ thâm căn cố đế ” này.
Xin chân thành và cảm ơn trước Quý Vị và Quý Bạn.

PHẦN II : KHƠI THÔNG NHỮNG ĐIỀU KHÓ HIỂU
TRONG BÀI NẠP ÂM
A/ Trước hết xin thống nhất lại một số thuật ngữ sau.[/CENTER ALIGN]

Khi nói về Nạp Âm, ta thường gặp những câu nói như sau :
1/ Nhiều người thường nói “ Ngũ hành nạp âm” hoặc “ Nạp âm Ngũ hành”.
Nói như thế là không đúng, vì mỗi Hành tự nó đã có Âm rồi - Âm là Bản tính của Ngũ Hành. Cũng không cần nạp thêm Âm cho Ngũ Hành vì mỗi Hành chỉ mang một Âm thôi.
Ngũ Âm của Ngũ Hành

Bảng 1- Ngũ Âm.Ngũ Hành..JPG
Bảng 1- Ngũ Âm.Ngũ Hành..JPG (20.77 KiB) Đã xem 7620 lần
( Còn Tiếp )











Được cảm ơn bởi: Mr.Hoang
Đầu trang

lytranle
Thượng khách
Thượng khách
Bài viết: 240
Tham gia: 11:05, 05/11/09
Đến từ: Thành phố HCM

TL: NGUYÊN LÝ NẠP ÂM

Gửi bài gửi bởi lytranle »

Xin lỗi Quý Vị :
Câu (20b) tôi đã viết nhầm. Xin sửa lại là : Từ NHUY TÂN đến Ứng Chung - Xem đính chính (7) ở phía trên.
LTL.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức chung”