Vi diệu

Trao đổi về phong tục, tín ngưỡng
KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Câu chuyện quả táo

Một em bé đáng yêu đang cầm hai quả táo trong tay. Mẹ em bước vào phòng và mỉm cười hỏi cô con gái nhỏ: “Con yêu, con có thể cho mẹ một quả táo được không?”

Em bé ngước nhìn mẹ trong một vài giây, rồi sau đó lại nhìn xuống từng quả táo trên hai tay mình. Bất chợt, em cắn một miếng trên quả táo ở tay phải, rồi lại cắn thêm một miếng trên quả táo bên tay trái.

Nụ cười trên gương mặt bà mẹ bỗng trở nên gượng gạo. Bà cố gắng không để lộ nỗi thất vọng của mình.

Sau đó, cô gái nhỏ giơ lên một trong hai quả táo vừa bị cắn lúc nãy và rạng rỡ nói: “Quả táo này dành cho mẹ nhé, nó ngọt hơn đấy ạ!”.

https://www.youtube.com/watch?v=pw2hyaaOz5Y
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Cổ học tinh hoa
Biên dịch: Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc & Từ An Trần Lê Nhân


Khấu Chuẩn thương nhớ mẹ

Ông Khấu Chuẩn (1) thuở nhỏ, tính hay du đãng, không giữ lễ phép lại thích chơi chim, chơi chó. Bà mẹ ông vốn là người nghiêm khắc, thấy con thế quở phạt luôn, mà ông vẫn không chừa.

Một hôm, ông bỏ học đi chơi, bà mẹ giận lắm, cầm cái quả cân ném ông, trúng phải chân, máu chảy đầm đìa… ông bị đau, ít lâu mới khỏi. Từ bấy giờ, ông không dám lêu lổng, phóng túng, chỉ chuyên cần học tập. Về sau, thi đỗ, làm quan đến tể tướng. Lúc ông quý hiển, thì mẹ ông đã tạ thế rồi. Mỗi khi ông sờ đến vết thương ở chân, thì ông lại nức nở khóc lóc và nói rằng: “Chính cái vết thương này làm cho ta nên người đây”.

Nhân Phả

Lời bàn:

Mẹ làm cho con đến chảy máu chân, đến thành vết thương cũng là quá. Nhưng chẳng qua cũng là một cơn giận dữ, bất ngờ đến nỗi thế. Chớ thực bản tâm là có ý muốn răn bảo con, cố làm cho con chừa được những nết xấu đi, thực là một bà hiền mẫu biết dạy con vậy. Còn ông Khấu Chuẩn, vì cái vết thương ấy mà thành ra học tập, trở thành một người quý hiển, mỗi khi trông thấy vết chân lại ngậm ngùi nhớ đến mẹ thì cũng là một người con khá biết nghe lời mẹ và thương mẹ suốt đời.

-----------------------------------------------------------

(1) Khấu Chuẩn: Người đời nhà Tống đỗ tiến sĩ, làm quan đời vua Chân Tôn đến chức tể tướng, có công đánh giặc Khiết Đan.

https://www.youtube.com/watch?v=Kz5U2Vl ... %E1%BB%AD
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Tử sự phụ mẫu (Con thờ cha mẹ)
Bạch Vân cư sĩ

Ngẫm đạo làm con ở rất nan,
Ở cho lọn đạo mới là ngoan.
Hay khi "ôn sảnh" bề cung dưỡng,
Siêng thủa "thần hôn" việc hỏi han.
Dầu giận hờn, càng kính thuận,
Vâng sai khiến, dám phàn nàn?
Chữ rằng: "Chưa dễ đền ơn nặng",
Lọ nỗi riêng tây theo thế gian?

https://www.youtube.com/watch?v=bt5Irf- ... cS%C3%A1ch
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Gia huấn ca
Ức Trai tiên sinh

Với cha mẹ

Dù nội, ngoại hai bề cũng vậy,
Đừng trành hanh bên ấy, bên này,
Cù lao đội đức cao dày
100. Phải lo hiếu kính đêm ngày khăng khăng.
Bởi thương đến mới năng mắng quở,
Muốn cho ta sáng sủa hơn người,
Ân cần kẽ tóc, chân tơ,
Tấm lòng chép để mấy lời tạc ghi.
105. Đừng nặng nhẹ, tiếng chì tiếng bấc,
Đừng vùng vằng mặt vực, mặt lưng,
Có thì sớm tiến trưa dâng,
Cơm ngon canh ngọt cho bằng chị em.
Dù chẳng có thì yên một phận,
110. Người trên ta há giận ta sao!
Hoặc khi lầm lỗi điều nào,
Đánh đằng cửa trước, chạy vào cửa sau.
Khi ấm lạnh ta hầu coi sóc,
Xem cháo cơm, thang thuốc mọi bề,
115. Ra vào thăm hỏi từng khi,
Người đà vô sự, ta thì an tâm.
Việc báo hiếu phải chăm chữ hiếu,
Kiệm hay phong cũng liệu tuỳ ngơi.
Đừng điều tranh cạnh chia bai,
120. Xấu trong làng nước, để cười mai sau.

https://www.youtube.com/watch?v=yF_4X5t ... cS%C3%A1ch
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Hòa thượng Cua
Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn

Thiền sư Tông Diễn, hiệu Chân Dung (1640 - 1711), nối pháp đời thứ 37 tông Tào Động, dân gian quen gọi ngài là Hòa thượng Cua, do sự tích truyền lưu về câu chuyện cảm động của đời ngài.

Không biết được tục danh của ngài, quê quán có thể ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Nghe kể rằng: Khi Sư còn bé cha mất sớm, mẹ tảo tần buôn gánh bán bưng để nuôi con. Khi Sư được mười hai tuổi, một hôm bà mẹ chuẩn bị gánh hàng ra chợ bán, dặn con: “Mẹ có mua sẵn một giỏ cáy (cua) để sẵn ở ao, trưa nay con giã cáy nấu canh, trưa về mẹ con mình dùng.” Bà gánh hàng đi rồi, gần đến giờ nấu cơm, Sư ra ao xách giỏ cáy lên định đem giã nấu canh như lời mẹ dặn, song nhìn thấy những con cáy tuôn những hạt bọt ra, dường như khóc rơi từng giọt nước mắt. Xót thương quá, Sư không đành đem giã, lại đem đến ao giở nắp giỏ thả hết.

Trưa bà mẹ đi bán về, vừa nhọc nhằn vừa đói bụng, hai mẹ con lên mâm cơm ngồi ăn, bà không thấy món canh cáy liền hỏi lý do. Sư thưa: “Con định đem đi giã, thấy chúng nó khóc, con thương quá đem thả hết.” Bà mẹ nổi trận lôi đình, không ăn cơm, chạy lấy roi đánh Sư. Sợ quá, Sư chạy một mạch không dám ngó lại. Bà mẹ đuổi theo không kịp, mệt lả đi trở về. Ngang đây đứa con trai bà mất luôn.

Khoảng hơn ba mươi năm sau, đã thành Hòa thượng trụ trì, Sư nhớ đến mẹ liền về quê cũ tìm kiếm. Đến một cái quán bán nước trà, một bà lão đầu tóc bạc phơ đang châm trà bán cho khách. Sư vào quán ngồi, chờ bà lão rảnh, hỏi thăm lai lịch bà lão. Bà thở dài than:

- Tôi chồng mất sớm, có một đứa con trai mà nó bỏ đi mất từ khi được mười hai tuổi. Thân già hôm sớm không ai, tôi phải lập quán bán nước trà, kiếm chút ít tiền sống lây lất qua ngày.

Sư hỏi:

- Bà lão ưng ở chùa không, chúng tôi thỉnh bà về chùa để nương bóng từ bi trong những ngày già yếu bệnh hoạn.

Bà nói:

- Tôi già rồi đâu làm gì nổi mà vào chùa công quả, không làm mà ăn cơm chùa tội lắm.

Sư nói:

- Bà đừng ngại, ở chùa có nhiều việc, người mạnh gánh nước bửa củi, nấu cơm, người yếu quét sân, nhổ cỏ, miễn có làm chút ít, còn thì giờ tụng kinh niệm Phật là tốt.

Bà lão thấy thầy có lòng tốt bèn nói:

- Nếu Thầy thương giúp kẻ cô quả này, tôi rất mang ơn.

Sư hẹn ít hôm sau sẽ có người đến đón bà về chùa. Về chùa, Sư họp Tăng chúng hỏi ý kiến có thuận cho bà lão cô quả ấy ở chùa không. Toàn chúng đều động lòng từ bi đồng ý mời bà lão về chùa. Sư cho cất một am tranh gần chùa, cho người đi rước bà lão về ở đây. Mỗi hôm, Sư phân công bà lão quét sân chùa hay nhổ cỏ, tùy sức khỏe của bà. Sư luôn luôn nhắc nhở bà tu hành.

Thời gian sau, bà lão bệnh, Sư cảm biết bà không sống được bao lâu, song vì có duyên sự phải đi vắng năm bảy hôm. Trước khi đi, Sư dặn dò trong chúng: “Nếu bà lão có mệnh hệ gì thì chúng Tăng nên để bà trong áo quan đừng đậy nắp, đợi tôi về sẽ đậy sau.” Đúng như lời Sư đoán, bốn năm hôm sau bà tắt thở, Tăng chúng làm đúng như lời Sư dặn, chỉ để bà trong áo quan mà không đậy nắp. Vài hôm sau Sư về, nghe bà lão mất còn để trong áo quan. Sư về nhìn mặt lần chót rồi đậy nắp quan lại. Sư nói to:

- Như lời Phật dạy: Một người tu hành ngộ đạo cha mẹ sanh thiên, nếu lời ấy không ngoa xin cho quan tài bay lên hư không để chứng minh lời Phật.

Sư liền cầm tích trượng gõ ba cái, quan tài từ từ bay lên hư không, rồi hạ xuống. Ngang đây mọi người mới biết bà lão là mẹ của Sư.

Trong quyển Hồng Phúc Phổ Hệ có những đoạn tán thán công đức của Sư:

“Diêu văn Đại Thánh sư, thần đức nan tuyên giả, chỉ tích mẫu quan phi, niệm kinh Bảo Liên Hoa, đầu đơn đế nhãn minh, tiến ngọc quân vương tạ...”

Nghĩa là: “Xa nghe thầy Đại Thánh, thần đức khó nói hết, gậy chỉ quan (tài) mẹ bay, tụng kinh Bảo Liên Hoa, nạp đơn vua mắt sáng, dâng ngọc quân vương tạ (ơn)...”

Sau này, chỗ quán bán trà của mẹ, Sư lập một ngôi chùa tên “Mại Trà Lai Tự” ở thôn Phú Quân, huyện Cẩm Giang. Am bà ở để tên là “Dưỡng Mẫu Đường” ở phủ Vĩnh An.

Lại một đoạn khác cũng tán thán lòng hiếu thảo của Sư có hai câu:

“Dưỡng Mẫu Đường linh thế thái vĩnh trường khan, Vọng mẫu tháp trí trà lai nhân tịnh đổ.”

Nghĩa là:

“Dưỡng Mẫu Đường khiến người đời mãi nhớ, Vọng mẫu tháp trí trà lai mọi người thấy.”

*

Sư trụ trì ở Đông Sơn nghe Thiền sư Thông Giác từ Trung Quốc đắc đạo trở về ở chùa Vọng Lão trên núi Yên Tử, liền tìm đến yết kiến. Thiền sư Thông Giác hỏi:

- Như khi ta đang nghỉ, đợi đến bao giờ có tin tức?

Sư đáp:

- Đúng ngọ thấy bóng tròn, giờ Dần mặt trời mọc.

Thông Giác hỏi:

- Bảo nhậm thế nào?

Sư bạch bằng kệ:

Cần có muôn duyên có
Ưng không tất cả không
Có không hai chẳng lập
Ánh nhật hiện lên cao.

(Ưng hữu vạn duyên hữu
Tùy vô nhất thiết vô
Hữu vô câu bất lập
Nhật cảnh bổn đương bô.)

Thông Giác bước xuống bảo:

- Tào Động hợp quần thần, tiếp nối dòng của ta, nên cho ngươi pháp danh Tông Diễn.

Ngài nói kệ trao pháp:

Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Phật Phật, Tổ Tổ truyền
Uẩn không sen đầu lưỡi.

(Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Phật Phật, Tổ Tổ truyền
Uẩn không liên đầu thiệt.)

Từ đây Sư luôn theo hầu dưới gối, cho đến khi Thiền sư Thông Giác về trụ trì chùa Hạ Long. Ở chùa Hạ Long, Sư cũng sớm hôm không rời tả hữu. Ban ngày Sư đi khuyến hóa cúng dường chúng Tăng, ban đêm thì thưa hỏi diệu nghĩa thâm huyền, có khi suốt đêm ngồi thiền không đặt lưng xuống chiếu. Sư chịu vất vả nhọc nhằn không tiếc thân mạng. Đến năm ba mươi hai tuổi, Sư thọ giới Cụ túc. Sau đó, Sư xin phép Thiền sư Thông Giác đi hành cước tham vấn các nơi.

Năm niên hiệu Vĩnh Trị (1678), vua Lê Hy Tông ra lệnh cho các quan khắp nước bất cứ ở đâu Tăng Ni hoặc già hoặc trẻ đều đuổi hết về rừng núi. Sư biết được tin này rất đau lòng, tự nghĩ: “Tại sao nhà vua đối với đạo Phật lại cho là vô dụng? Nếu ở núi rừng, dù thuyết pháp đá phải gật đầu, giảng kinh được hoa trời rơi loạn, cũng chẳng có lợi ích gì cho chúng sanh. Nếu không hoằng dương được chánh pháp thì làm sao đáng đền ơn Phật Tổ! Chỉ riêng tốt cho mình thì làm sao độ được hàm linh trong bể khổ, thật uổng công vào cửa Phật, luống trôi qua một đời.” Sư bèn quyết tâm rời chốn sơn dã về đất thần kinh, mong cảnh tỉnh nhà vua, cứu vãn Phật pháp trong khi tai nạn. Sư trở về trình thầy để xin phép đến kinh đô, Thiền sư Thông Giác hoan hỉ. Sư đi mấy hôm đến chùa Cổ Pháp, xin phép nghỉ lại trong chùa, vị Trụ trì ở đây tiếp đãi rất ân cần. Suốt đêm, Sư tọa thiền đến khi nghe tiếng chuông sáng mới xả thiền, lên điện lễ Phật. Khi lễ, Sư nhìn lên thấy tượng đức Điều Ngự, Sư liền viết bài thơ dâng lên như sau:

Trước là vua sau cũng là vua
Xưa sao kính mộ nay chẳng ưa?
Có linh xin nguyện phen này đến
Cửa khuyết ra vào được tự do.

(Tiền Quốc vương hề hậu Quốc vương
Tiền hà kỉnh mộ hậu hà mang
Hữu linh tương nguyện kim phiên xuất
Ư cửu trùng môn nhập bất phương.)

Ba hôm sau, Sư đến kinh đô vào cửa Đông thì trời đã tối, nghe có tiếng mõ ở gần khám đường, ngỡ đây là nhà Phật tử, bèn gõ cửa. Chủ nhân mở cửa trông thấy Sư liền thỉnh vào nhà. Vào nhà, Sư thấy trên bàn thờ Phật hương đèn trang nghiêm, bèn hỏi:

- Tượng Phật thờ là từ đâu có?

Chủ nhà đáp:

- Tôi là cai ngục, nhân đào đất được tượng đồng nên đem về thờ.

Sư bảo chủ nhà:

- Tượng Phật quí như thế lẽ nào lại thờ nơi thấp bé thế này, tôi muốn cùng anh mai ra thành phố quyên tải những nhà hảo tâm để mua cây gỗ cất một ngôi chùa nhỏ thờ Phật mới xứng đáng.

Chủ nhà liền bằng lòng.

Sáng hôm sau, Sư ra phố phường quyên tiền, gặp quan Đề lĩnh bắt đem về dinh chất vấn:

- Hiện nay lệnh Vua truyền khắp nước, tất cả Tăng Ni già trẻ đều phải vào ở trong rừng núi. Ông là người thế nào dám bỏ núi rừng về kinh kỳ đi lại tự nhiên như thế này? Có phải khinh thường pháp luật của Vua không?

Sư trả lời:

- Mệnh lệnh của Vua mà có ai dám trái phạm, chỉ vì kẻ Tăng quê mùa này ở trong núi sâu được một viên ngọc quí, mang đến đây để dâng hiến nhà vua, xin ông đạo đạt lên Vua cho tôi dâng ngọc, dâng xong tôi sẽ trở về núi.

Quan Đề lĩnh nghe xong liền vào triều tâu lên Vua. Vua sai quan Đề lĩnh ra nhận ngọc đem vào Vua xem. Đề lĩnh về thuật lại Sư nghe.

Sư nói:

- Viên ngọc quí rất thiêng liêng vô giá, người ăn cá thịt hôi tanh không thể cầm giữ được, dám phiền ông trình lên nhà vua cho tự tay kẻ hèn này dâng lên nhà vua, cho mãn nguyện của kẻ trung thành ở nơi hoang vắng.

Quan Đề lĩnh vào tâu lại, nhà vua không bằng lòng. Sư than: “Mặt trời tuy sáng tỏ, không khỏi bị mây che. Mặt trăng dù rạng ngời, khó khỏi đám mây phủ, việc này như thế ta biết làm sao?” Sư ở đây ba tháng mà không vào được triều đình, bèn suy nghĩ viết một tờ biểu, nói rõ việc tu hành cách thức làm yên nhà lợi nước một cách rành mạch rõ ràng. Thí dụ đạo Phật như là hòn ngọc quí soi sáng mười phương, phá dẹp mọi mây mờ u tối. Viết xong, Sư để trong cái hộp đem dán kín cẩn mật, xin cầu quan Đề lĩnh vào triều tâu lên Thánh thượng một lần nữa rằng: “Xin nhà vua chọn lấy một ông quan văn trung trực thanh liêm, tắm gội và trai giới ba ngày, sẽ ra nhận ngọc quí dâng lên Vua.” Vua nghe xong liền phán cho viện Hàn lâm chọn một người rất tín cẩn, thành tâm trai giới ba ngày rồi đến chỗ vị Tăng quê nhận lấy hòn ngọc dâng lên Vua. Vị quan văn được đề cử giữ đúng trai giới ba ngày xong, liền đến dinh quan Đề lĩnh hỏi vị Tăng để nhận ngọc. Sư trao cái hộp, dặn dò cẩn thận dâng lên tận tay Vua. Vị quan văn bưng hộp ngọc đến trước triều dâng lên Vua, khi mở ra xem chỉ là một tờ biểu, chớ không có hòn ngọc nào. Vua phán vị quan văn đọc tờ biểu cho Vua nghe. Vị quan quì đọc xong, Vua nghe qua thấy lý lẽ rõ ràng, sự tình đầy đủ, lời văn sáng suốt, ý tứ thâm trầm, bèn ra lệnh quan Đề lĩnh dẫn vị Tăng này vào triều.

Khi vào triều, Vua cho Sư ngồi một bên trước mặt Vua. Vua hỏi những sách lược trị dân, Sư ứng đối sự lý rất dung thông. Khi ấy, Vua phán: “Đạo Phật là viên ngọc quí, chẳng lẽ trong nước chúng ta không dùng, Tăng Ni hay khuyên người làm thiện, tại sao lại vất bỏ đi? Người đem Phật pháp khai hóa dân chúng cũng là phương pháp tốt giúp cho triều đình trị dân.” Vua liền mời Sư ở lại chùa Báo Thiên để bàn luận đạo lý. Thượng hoàng nghe tiếng sai Trung sứ đến nói với Vua thỉnh Sư vào cung diễn giảng kinh pháp. Vua cũng đến dự nghe thấu hiểu đạo lý, liền ban cho Sư được quyền ra vào nội cung để tuyên dương chánh pháp, đồng thời ra lệnh thu hồi lệnh trước, để Tăng Ni tự ý trở về chùa mình ở đâu tùy duyên giáo hóa.

Vua Lê Hy Tông đã thấm nhuần đạo lý, thành tâm sám hối lỗi trước của mình, nên tạc hình Vua quì mọp để tượng Phật trên lưng để tỏ lòng thành sám hối. Tượng này hiện còn thờ ở chùa Hồng Phúc.

Đã giải được ách nạn của Tăng Ni (Phật pháp) và giáo hóa được vua chúa trong triều, Sư nghỉ việc xin Vua về núi thăm thầy. Vua bằng lòng liền ban áo gấm cho Hòa thượng ở núi để an ủy, tặng tiền bạc để Sư làm lộ phí, hẹn thời gian ngắn gặp lại.

Hôm ấy, Sư lên đường khi đến bến đò Bồ-đề, thấy nước sông Nhị trong veo thuyền lớn nhỏ qua lại tự do, liền cảm hứng làm bài thơ:

Ngàn tầm sông Nhị đục rồi trong
Qua lại thuyền bè rất thong dong
Mừng gặp Bồ-đề đồng đến bến
Toại lòng ta nguyện độ quần sanh.

(Thiên tầm Nhị thủy trọc hoàn thanh
Phao quá đông tây vãng phục hành
Hỉ đáo Bồ-đề đồng đáo ngạn
Toại dư xuất thế độ quần sanh.)

Sau đó, về đến Đông Triều, rồi tới Hạ Long, Sư lên điện lễ Phật, vào phương trượng lễ thầy, mọi người gặp lại trong niềm hoan hỉ. Ở lại thời gian, Sư từ giã trở lại kinh đô. Về đến kinh vua chúa đều mừng rỡ. Vua ban cho Sư chức Ngự tiền chi quân (ngồi ở trước Vua) và áo gấm. Sư từ chối chức tước, chỉ nhận áo gấm cho vui lòng Vua. Sư tổ chức khắc bản in kinh Hoa Nghiêm để ở chùa Báo Thiên, khắc bản kinh Pháp Hoa in để ở chùa Khán Sơn. Bấy giờ bà Quốc nhũ (mẹ vú của Vua) quê ở Hòe Nhai mời cậu Vua phát tâm cúng dường cho Sư tu sửa chùa Hồng Phúc. Sư nhận lời khởi công xây dựng không bao lâu thì được hoàn thành. Làm chùa xong còn dư tiền, Sư sáng lập chùa Cầu Đông, xong xuôi Sư xin Vua cho người cai ngục lúc trước làm Tăng gìn giữ chùa Cầu Đông.

Sau Sư trụ trì ở chùa Hồng Phúc, thường tới lui giảng đạo cho vua chúa nghe. Ngày tháng trôi qua, Sư thấy tuổi già sắp đến ngày viên tịch, bèn gọi đệ tử là Thiền sư Tĩnh Giác hiệu Hạnh Nhất đến dạy: “Gió từ thổi mạnh cuốn sạch mây mù, vầng mặt trời trí tuệ sáng ngời, gió lành thổi mát trong triều ngoài nội, nhưng không hề trụ trước, vì không cũng hoàn không. Trước sau như một cho ngươi hiểu rõ ba điểm hiển mật, cho ngươi giữ lấy trung đạo, ra đời độ người nay cũng như xưa, trời Tây, cõi Đông đạo vốn như nhau.” Dặn dò xong Sư nói kệ:

Xuân đến hoa chớm nở
Thu về lá vàng rơi
Đầu cành sương lóng lánh
Cánh hoa tuyết rạng ngời.
Buổi sáng trời trong rồng bày vảy
Ngày trưa mây sáng voi hiện hình
Vằn cọp tuy thấy một
Bầy phụng thể toàn đồng.
Đạt-ma Tây sang truyền pháp gì?
Cành lau qua biển nổi phau phau.

(Hoa khai xuân phương đáo
Diệp lạc tiện tri thu
Chi đầu sương oánh ngọc
Ngạc thượng tuyết liên châu.
Thanh thần vân tán sản long giáp
Bạch nhật hà quang lỏa tượng khu
Báo văn tuy kiến nhất
Phụng chúng thể toàn câu.
Đạt-ma Tây lai truyền hà pháp?
Lô hoa thiệp hải thủy phù phù.)

Truyền pháp xong, Sư bảo: “Báo thân của ta đến đây đã hết.” Nói rồi, Sư ngồi trên giường thiền yên lặng thị tịch. Bấy giờ là ngày 16 tháng 7 năm Tân Sửu nhằm niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ năm (1711) triều Lê Dụ Tông, Sư thọ bảy mươi hai tuổi. Đệ tử làm lễ hỏa táng xong, thu xá-lợi xây tháp ở Đông Sơn để thờ.

https://www.youtube.com/watch?v=JYM5Kyxi0uk
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Bàn Tay Mẹ - Thiền Sư Thích Nhất Hạnh

https://www.youtube.com/watch?v=bU3CSGk ... E1%BB%A5ng
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

ĐẠO HIẾU - Hòa Thượng Thích Giác Hạnh

https://www.youtube.com/watch?v=cjxxOnw ... %BB%992020
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Trung Hiếu - Pháp Sư Tịnh Không

https://www.youtube.com/watch?v=abNdZd2 ... mM%C3%A0u
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Vu Lan không có ba
Thích Nữ Hạnh Đoan

Ba kính yêu!

Dù ba là một tăng sĩ, nhưng những lời cuối này con vẫn muốn gọi lại từ “Ba” vì vĩnh viễn con không bao giờ còn được gọi nữa. Con cũng xin lỗi đã tả ba không giống một vị Thánh mà ghi đủ tính tật như bao phàm nhân bình thường, song đây chính là điểm con vui - bởi con nghĩ người ta sẽ chẳng có hy vọng gì khi đọc tiểu sử của những vị vãng sinh có đời sống đầy thiện nghiệp, sạch như vỏ ốc, họ sẽ lý luận: Các vị ấy sinh ra đã là Thánh rồi!... và họ sẽ không trông mong gì đến việc tự giải thoát, dễ dàng sống phó mặc, buông xuôi...

Trước đây khá lâu ba từng bị sỏi mật phải mổ. Sau đó ba thường đau tới đau lui, vào viện rồi ra viện nên khi hay tin ba bệnh, con cho rằng đây chỉ là những trận đau ốm vặt như mọi khi, rồi sẽ ổn thôi.
Nhưng từ lúc bệnh viện trả ba về với thông báo: Hết thuốc chữa! Bệnh ba đang ở giai đoạn cuối, ung thư tụy, di căn qua ruột, gan... nội tạng ba hư hoại hết, không thể tiếp thu bất cứ chất bổ dưỡng nào, giờ chỉ còn nước về nhà nằm chờ chết và ba sẽ ra đi rất là đau đớn...

Điều này làm chúng con rất lo, biết là lão, bịnh... rồi sẽ tử, nhưng đâu ai muốn ba ra đi trong oằn oại thống khổ? Như vậy sẽ loạn tâm, khó chánh niệm mà đã không chánh niệm được thì khó sinh cõi lành.

Chị Hai con cả đời hiếm khi lễ lạy cầu nguyện gì... Vậy mà lần này, chị đi lên tận Đà Lạt, viếng thiền viện Trúc Lâm, cúng dường thành kính mấy lượt, chỉ mong một điều: Ba ra đi được an lành, không đau đớn.

Sữa không thể uống, đạm, nước biển gì cũng không truyền được, thức ăn có chút muối hay sữa đều làm cơn đau gia tăng, ba chỉ húp cháo trắng, sau đó thì giảm dần, thành uống nước cháo.
Những ngày sau đó ba yếu hẳn, buổi sáng, ba tiên đoán: Đêm nay, bệnh thầy sẽ trở nặng, e có thể đi luôn...

Quả nhiên tối đó ba thở khò khè, mặt xám xịt và nấc cụt liên hồi. Tình hình rất nguy kịch. May thay, có một bác sĩ quen qua thăm, điều trị cấp cứu kịp thời, nhờ vậy mà ba vượt qua nguy hiểm. Nhưng họ nói ba không qua nổi tháng Bảy này.

Hôm sau chị Thủy gọi điện về hỏi thăm (lúc này chị đang vân du, hoằng pháp tận bên Mỹ), con thúc: Chị phải về lẹ, kẻo không kịp. Thế là chị bế giảng, tranh thủ đổi vé xin về chuyến sớm nhất.

Chị Thủy về tới, ba cười bảo: Da thầy vàng hết rồi, chắc gần đi!

Chị Thủy hỏi: Tía có thể nói trước ngày nào mình đi không?

Ba đáp: Nói thì được! Nhưng sợ... không trúng!

Những ngày sau đó ba yếu hơn, không thể bước đi, không thể tự ngồi dậy được nữa. Ba sai người đi mời những ai ba từng xích mích, phiền lòng... sang cho ba nói chuyện. Con ở trong phòng lo lắm. Con sợ ba phàn nàn gì đó với họ, vì ở độ tuổi già, ba có khó tính hơn thời trẻ nhiều.

Khách qua, ba nói: Tôi với quý vị là thiện hữu tri thức, tôi có làm gì không phải thì xin hãy mở lòng tha thứ cho...

Ba ơi, con bỗng trào nước mắt. Con sung sướng vì được nghe ba nói như vậy.

Còn chị Thủy xuýt xoa: Hoan hô ba! Ba xin lỗi rất là anh hùng.

Ba thích đi ngày mùng năm tháng Năm (Tết Đoan ngọ), nhưng đến ngày ấy ba vẫn chưa đi, cơn đau hoành hành ba nhiều hơn, đàm cứ trào lên làm ba nghẹt thở, run cầm cập, mắt trợn trắng. Ba cứ chết nháp nhiều phen làm tụi con khiếp vía mà vẫn không thể đi.

Chị Thủy sực nhớ, nói:
- Tía ơi, phải sám hối để ra đi cho nhẹ, con đại diện phát lồ sám hối dùm tía, tía nhiếp tâm nghe sám theo nghen...

Và chị đọc các giới, điều kỳ lạ là giới nào ba không phạm thì mặt chị Thủy trắng trẻo, đọc trơn tru và lỗi nào ba phạm thì mặt chị Thủy tự nhiên biến thành đen hù, đọc khó khăn, chị rặn từng chữ, quai hàm cứng ngắc...

Con thấy chị nói hay quá nên tới ngồi cạnh chị, định thu âm, nhưng hình như chị Thủy đang rất khó thở, còn con thì thấy như có một ngọn núi to đen đang phủ ập đè xuống mình, khiến con ngột ngạt tức ngực lây, con phải đứng dậy, bỏ đi...

Chị Thủy càu nhàu: Lỗi này tía phạm nặng quá nên con đọc không thông, nói không ra lời, rặn từng chữ mà mệt khủng khiếp! Tía phải thành tâm sám hối theo con đó...

Cái chỗ va vấp khó thở, khó qua đó chính là tội khẩu nghiệp. Có ai sinh ra mà không phạm về khẩu đâu? Khi lòng bất bình thì chỉ trích nặng, khi tâm không sáng thì lời nói dễ xảy lỗi lầm. Chàng Vô Não trước khi thành Thánh cũng từng phạm tội sát như non, nàng Liên Hoa Sắc trước khi chứng A la hán cũng từng trả báo, phải chịu một đời lao đao vì tội ác khẩu, nguyền rủa, dối gian...

Ba ơi, con không thể bỏ qua đoạn này. Phật từng nói có hai loại người đáng khen: Người không phạm lỗi và người phạm lỗi mà biết sám hối. Bởi vì sau khi ba sám hối xong, mọi sự diễn tiến dường như rất suôn sẻ và kỳ diệu.

Do ba bệnh nằm liệt giường, không thể lễ Phật sám hối gì được nữa, chị Thủy phải đọc thay, sám hối thay, nhưng diệu dụng đúng là không nhỏ đó ba, con thật xúc động khi mục kích điều này. (Rút kinh nghiệm, con sẽ khẩn thiết sám hối khi cơ thể còn khỏe mạnh, chứ để tới nằm trên giường thì muộn lắm, và biết còn ai sẽ thay con sám hối dùm? Con phải tự lực cứu mình sớm, là hay hơn phải không ba?)

Phút cuối cùng của cuộc đời, ba chuyển sang Tịnh độ. Con nhớ ngày xưa ba từng nói: Đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất, phải tu cho vững mạnh hùng hồn - Pháp môn niệm Phật là dành cho đàn bà con nít... nhưng chính cơn đau xác thân ở giờ phút cận tử đã cho ba những bài học quý. Ba trở nên khiêm cung, hiền thiện, dễ thương hơn rất nhiều. Ba nói: Nếu tái sinh trở lại, ba sẽ tu một lèo tới nơi tới chốn không bao giờ vướng vào đời sống gia đình ở thế gian nữa... Nhưng bây giờ ba chỉ muốn sinh sang Cực lạc, tu chứng rồi trở lại Ta bà độ sinh.

Ý nguyện của ba làm tụi con quýnh quáng, hộc tốc niệm Di Đà gấp rút để hỗ trợ ba vãng sinh. Ba bảo đau quá tâm loạn, tụng chú khó thành câu, nhưng niệm một tiếng Phật lại tiêu hết khổ ách...

Khuya nào con cũng nghe ba niệm Nam mô Quan Âm cứu khổ cứu nạn... vang vang, con không ngủ được. Thế là con ra ngồi hộ niệm cho ba. Con sợ ba ra đi không ai hay, con sợ ba đau đớn quá, con sợ mình niệm thiếu chí thành ba sẽ không vãng sinh. Mà ba chỉ cần thấy bóng người thoáng qua là nói:

- Cho ngồi dậy chút! Đỡ ngồi dậy chút!

Con đỡ dậy, ba ốm nhom, còn xương không mà con đỡ cũng thật khó khăn. Nhưng ngồi một phút ba lại đòi nằm và cứ thế… hết nằm lại đòi ngồi, chỉ trong hai tiếng đồng hồ xem như con phải “cử tạ” hết sáu mươi lần. Thế này thì con loạn, ba cũng loạn, hồng danh Di Đà sẽ xa lăng lắc vì không nhiếp niệm, làm sao mà đủ lực vãng sinh? Thế là con nói:

- Ba ơi! Phải chí thiết niệm Phật nhất tâm bất loạn mới vãng sinh được! Nếu ba cứ chú ý tới thân thể bệnh này, nó sẽ làm ba loạn tâm không nhiếp niệm được. Bây giờ con niệm Phật hỗ trợ cho ba, con sẽ không biết gì bên ngoài, trời cũng không đất cũng không, chỉ còn câu niệm Phật, nếu ba nói gì con cũng không hay, không biết đâu! Phải niệm chí tử hoa sen mới nở bung cánh, ba mà quên niệm thì sen héo... hết vãng sinh, ba phải ráng nghe!

-Ừ!

Thế là con niệm vang vang, niệm để quên nỗi khổ đối diện với căn bệnh của cha mình, niệm để quên đêm dài đăng đẳng, con biết phải chí thành miên mật thì mới mong kết nối được với cõi Cực lạc, cảm đến Đức Di Đà rủ lòng từ đón cha mình, con vừa niệm vừa quán tưởng từ quang Phật đang phóng xuống xoa dịu bệnh tật của ba...

Hộ niệm vậy mà con bỗng được bình an, tất cả thống khổ trong lòng đều tan biến, tâm con bỗng hiện ra ba cánh sen sáng óng ánh chiếu diệu, đóa sen lớn quá nên con không thấy hết trọn cánh của nó...
Mỗi đêm con đều ra hộ niệm, song bình thường ba tu thiền nên niệm Phật một hồi ba lại lộn qua sổ tức và cứ đếm từ một tới mười. Hết đếm, ba lại niệm không giống ai: Nam mô A Di Đà Phật, vãng sinh trăm phần trăm.

Rồi niệm một hồi, ba không còn niệm hồng danh Di Đà mà chỉ còn “Trăm phần trăm! Trăm phần trăm!”

Con thường phải ngừng niệm, nhắc ba đọc lại cho đúng. Quả là một cuộc hòa tấu gấp gáp (khá vất vả) để xin visa nhập cư cõi Cực lạc...

Dần dà ba niệm miên mật hơn, ba bảo con: Ba cảm nhận sắp được vãng sinh... Bốn ngày trước khi mất, lưỡi ba thụt sâu, ba phát âm giọng cứng và ngọng nghịu rất khó nghe, vậy mà một ngày trước khi mất, lưỡi ba lại thò ra bình thường, ba nói năng rất rõ, không quên một điều gì và niệm Phật rất chuyên chú. Ba còn dặn đi dặn lại: Khách tới phải đãi ăn chu đáo, không được để họ đói… Điều kỳ lạ là ba không hề thấy đau. Mỗi lần hỏi thăm, ba đều nói: Không đau! Không đau gì hết! chư Phật và Bồ tát đỡ cho ba rồi!

Giây phút cuối cùng ba thở ra rất nhẹ, đi bình an đến không ngờ, miệng không ngưng niệm Phật.
Chị Thủy đã góp phần không nhỏ trong việc hướng linh, động viên nhắc nhở ba, chị Hai thì săn sóc về thể chất ba chu đáo. Ba ra đi quá an lành, tĩnh tại... nên tụi con không đứa nào rơi nước mắt mà vui mừng khôn tả.

Vậy mà giây phút cúng cơm ba lần đầu tiên, chị Thủy vừa xướng lên thì nước mắt chị tuôn ròng ròng, chị nghẹn ngào đọc không thành câu. Tan lễ, ông anh họ phát biểu:

- Cô ạ, bình sinh tôi không dễ khóc, vậy mà lúc cúng cơm chú, thấy cô nghẹn ngào rơi lệ... báo hại tôi cũng rơi lệ theo...

Chị Thủy cười bảo, mình làm giáo thọ từng giảng huyễn, không, thao thao bất tuyệt... Vậy mà tới hồi cúng ba mình nước mắt ở đâu cứ trào ra không cầm được. Đúng là - làm bác sĩ thì không nên trị bịnh cho người thân, làm thầy chùa thì rất khó tụng kinh cho thân quyến. Tụng cái gì mà tụng? Trong lòng xúc cảm dâng trào còn đọc được chữ nào...

Đó là lý do ba thấy tụi con rất ít tụng kinh cho ba, toàn là đứng xa xa chắp tay chia sẻ. Từ đầu tới cuối con không khóc, nhưng lúc đưa ba vào lò thiêu, nhìn linh quan tụt xuống vào nơi hỏa táng, bất giác con khóc mướt, không cầm được, nhưng con khóc chút thôi ba, thật là mắc cỡ đó.

Ba yêu kính,

Khi ba bệnh nặng chờ ra đi, ba chiêm nghiệm về lý vô thường, về cơn đau diễn tiến. Còn con hầu cạnh giường ba, con cảm nhận được sự bất lực và phản bội của thân xác, sẽ có một ngày nó không nghe lời mình, nằm ỳ ra, bất động, nhờ vào sự săn sóc của người chung quanh, thần trí sẽ mê mờ nếu thiếu lực tu...

Ba đã ra đi rất tuyệt vời, khiến con cảm thấy Phật pháp thật nhiệm mầu và hiểu rõ mình cần chuẩn bị tư lương cho tốt trước khi xác thân tan rã. Ba ơi! Con cũng muốn chia sẻ với mọi người về kinh nghiệm quý giá này.

Hạnh Đoan
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

KMD
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 1741
Tham gia: 11:03, 25/04/14

Vi diệu

Gửi bài gửi bởi KMD »

Orca Tahlequah is a mother again
Sep. 5, 2020 at 7:08 pm Updated Sep. 7, 2020 at 3:41 pm

By Lynda V. Mapes
Seattle Times environment reporter

Mother orca Tahlequah has had her baby.

The endangered southern resident killer whale, J35, touched hearts in the Pacific Northwest and around the world in August 2018 when she lost a calf that lived only a half-hour. She carried the calf for 17 days and 1,000 miles, refusing to let the calf go.

“It’s fabulous news,” Ken Balcomb, founding director of the Center for Whale Research, said of the new baby, which he documented Saturday in the San Juan Islands. The gender is not yet known.
Tahlequah and several of the southern resident orcas were known to be expecting, after a recent drone survey of the orcas by John Durban, senior scientist at Southall Environmental Associates and Holly Fearnbach, marine mammal research director of the nonprofit SR3.

The photo surveys are used to assess body condition of the southern residents over time.

“We are really encouraged she carried it to term,” Durban said of the baby, in a text Saturday evening. “And hope our continued monitoring shows it to be in good condition, and [to] document its growth.”

Every calf matters for the J, K and L pods in a population that has dwindled to 72 orcas, the lowest in more than 40 years.

The southern residents have recently returned to their summer home range of the San Juan Islands for several weeks.

Scientist Deborah Giles was on the water with all three pods Saturday with her scat-sniffing dog to collect fecal samples from the orcas for ongoing research by the University of Washington Center for Conservation Biology.

“It was a fantastic day with members of all three pods,” she texted from her boat. “We were hugely successful, collecting 7 samples, our daily record for the year.

“The whales behaved much like we used to see them, socializing, with lots of amazing surface active behavior.”

This sort of behavior has become less common in recent years, as chinook salmon runs decline, and the orca families spread out to hunt and spend more time foraging than socializing.

The southern resident orcas are struggling to survive against multiple threats, including lack of adequate chinook salmon, their preferred food, boat noise and disturbance that makes it more difficult for them to feed, and pollution.

The birth of Tahlequah’s baby is the third to the southern residents since 2019 and so far the other two young whales continue to survive.

https://www.youtube.com/watch?v=nBmlRaL3ouc
Được cảm ơn bởi: Tudotutronghanhphuc
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Phong tục - Tín ngưỡng”