Tôi nêu lá số 3 nhân vật lớn của Trung Quốc thế kỷ 20. Thực ra họ không phải là gia đình quá giàu có, đặt tên có thể là 1 ông thầy đồ, hoặc 1 ống bác có học vấn( và mấy ông ấy cũng chẳng biết gì về dịch học)NeBoTat đã viết: ↑17:06, 29/05/20 Anh Vio chắc hơi nóng nên lười giải thích. Tôi nhìn thấy bài này cũng 2, 3 lần mà cũng lười giải thích vì vấn đề không phức tạp, nhưng thôi hôm nay làm luôn vậy. Nhìn hoài nó cũng kì.
-----
Bát tự của Tưởng Giới Thạch theo tôi biết là lấy nguồn từ cuốn Thiên Lý Mệnh Cảo vì tác giả Phong Thiên Lý nói rằng Tưởng Giới Thạch từng đem bát tự đến cho ông ấy luận mệnh.
Bát tự Mao Trạch Đông được lấy nguồn từ quyển Thiều Sơn Tứ Tu Tộc Phổ, chứ không phải do đương số hay người thân (huyết mạch gần) cung cấp.
Thạch là hành kim. Huyền cơ của chữ Thạch chính là thổ kim tương sinh: Bát tự có sách xem Thạch hành thổ, nhưng Dịch học (bói Dịch) xem Thạch hành kim. Thành ra chữ "Giới Thạch" chính là lấy thổ kim tương sinh (Thạch) phạt mộc (Giới), bởi vì trong bát tự hoả kỵ thần khắc trực tiếp kim tại 2 chỗ niên trụ và thời trụ. Cho nên lấy thổ kim phạt mộc là vừa lấy thổ tiết hoả, vừa phạt mộc là nguyên thần của hoả, phòng niên vận mộc vượng mà gây ra tai hoạ.
"Trạch Đông" nhiều trang Tàu đều cho là thuỷ ( Trạch 澤, bộ thuỷ) sinh mộc (Đông 東, bộ mộc). Nhưng cũng đừng quên, chữ Đông 東 là loại chữ chỉ sự (không phải tượng hình). Huyền cơ nằm ở chỗ chỉ sự này. Chữ Đông 東 chỉ việc buổi sáng nhìn thấy mặt trời 日 treo ở trên cây 木 (mặt trời mọc) ở hướng nào thì hướng đó là Đông 東. Nhìn kết cấu chữ xem có phải chữ Đông là có 1 mặt trời treo ở giữa ngọn cây hay không? Cho nên chữ Trạch Đông là thuỷ mộc hoả tương sinh, sinh đến hoả. Chứ không phải thuỷ mộc mà bảo là lấy kỵ thần mộc làm dụng.
Đừng xem thường các cụ Nho ngày xưa. Người ta đặt tên 2, 3 tầng nghĩa, 1 viên đá ném 2, 3 con chim chứ không ấu trĩ đến mức nhìn vào sai rành rành vậy đâu. Thường nói: thâm thuý như Nho Tàu, là vậy đấy. Đặt tên không chỉ có nhìn số nét, âm thanh, ý nghĩa, mà còn có lối mà các ông Nho hồi xưa hay dùng đó là chiết tự; thậm chí các ông ấy còn dùng chiết tự để tạo ra chữ mới mà đặt tên theo đúng ý đồ của mình.
Muốn nghiên cứu danh tính học mà đặc biệt là danh tính học tiếng Hoa thì nên trang bị 1 ít kiến thức Hán Ngữ. Muốn được người khác tôn trọng thì phải làm việc cật lực, và chân tâm; chứ sự tôn trọng mà tự nhiên có chỉ là mang tính chất bề ngoài, xã giao là chính, thâm thuý là 10.
Còn về đánh giá độ khả tín của 2 bát tự trên thì tôi đã nêu nguồn gốc bát tự. Độ khả tín cao bao nhiêu là tuỳ mỗi người tự đánh giá.
Thực ra ý tôi nói là việc đặt tên theo ngũ hành nó không đem lại nhiều lợi ích, trong khi việc này nếu làm đúng thì lại cực khó:
1. khó khăn cho việc chuyển đổi tên tiếng việt( la tinh) qua hán ngữ, tiếp theo là vấn đề gán ngũ hành cho cái tên đó cũng là khó khăn.
2. việc chọn được ngũ hành thuận lợi của đương số cũng rất khó, mỗi thầy mỗi kiểu.
Cái quan trọng là phương pháp giáo dục( ví dụ Phần lan hay Đức), cái nào hay mình áp dụng( cái này rất cần sự quan tâm, tâm huyết của bố mẹ).
Người Do Thái đọc hơn 50 quyển sách/ năm. Nhưng sách họ đọc nhiều nhất là Kinh Do Thái. Những gì được học họ trải nghiệm, thất bại, rồi sửa....rồi thành công. Rất, rất.. vất vả. Nó mới là cái gốc cho tương lai con cái.