Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Hỏi đáp, luận giải về tử vi
Hình đại diện của thành viên
Tôn Ngộ Không !!!
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2584
Tham gia: 19:29, 25/01/22

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi Tôn Ngộ Không !!! »

muốn biết một lá số giàu hay không ?
Nhìn điền - tật - huynh

Mệnh chủ tính cách, quý tiện. Tật chủ tài năng bẩm sinh.

Jack Ma là ví dụ. Thời phong kiến sĩ- nông- công- thương, cái loại thi rớt đại học 3 lần như Jack Ma thì mệnh phải rất kém, bất quý. Sau có giàu cũng bị xã hội thời đó xem là trọc phú. Bạn thi rớt đh 1 lần thì bạn đổ cho vận, chứ 3 lần thì bạn dốt thật rồi :))

Thời buổi kinh tế thị trường, người giàu được xem là người có địa vị nên Jack Ma mới có chữ " quý " theo tiêu chuẩn hiện đại, chứ không phải theo thời xưa

Cách mò giờ sinh Jack Ma
_ xấu trai, học dốt --> mệnh, tài , quan kém
- rất giàu, kinh doanh nhờ bản năng --> tật, điền đẹp
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 06:02, 17/07/21
Lá số con trai vua Minh Mạng: hoàng tử Tuy Lý Vương lasotuvi/1/9R7BAK25.jpg ( trên tạp chí KHHB viết năm 1972 có bình luận). Ông này sinh năm 1819 mất năm 1897 thọ 79 tuổi. Không biết lá số này có chuẩn không. Theo anh lá số này có đẹp không? Nếu tốt đẹp thì chắc chỉ tốt về tài lộc, quyền chức chứ chưa chắc đã nổi tiếng về văn chương chữ nghĩa vì mệnh Thân không có Khôi Việt, Tả hữu, xương khúc? Có điều cung ách có Khôi Việt xương tướng ấn Quyền hội tụ, nên nếu đúng số ( đúng lá số của ông này) là người có tài, có trí tuệ, giỏi văn chương thì phải xét kỹ cả cung ách. Mong có ý kiến của anh về lá số này.

1 số thông tin về ông này ( sưu tầm): Tuy Lý Vương (Canh Thìn 1820 - Đinh Dậu 1897) Nhà thơ lớn của triều Nguyễn, tự Khôn Chương, Quí Trọng, hiệu là Tĩnh Phố, biệt hiệu Vĩ Dạ, tên thật Nguyễn Phúc Miên Trinh con thứ 11 của vua Minh Mạng. Ông thông minh, hiếu học, có biệt tài về văn chương thi phú, thơ ông nổi tiếng không những trong nước mà lan tận sang Trung Quốc. Ông là thành viên của Mặc Vân Thi xã một hội thơ văn tập hợp những danh sĩ tài ba của Kinh đô Huế, trong đó góp mặt có Tùng Thiện Vương, Tương An Quận Vương, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát... Năm 1839, ông được phong Tuy Lý Công, sau phong Tuy Lý Vương. Năm 1882, ông được cử làm Hữu Tôn chính ở Tôn Nhân phủ. Năm 1883, khi vua Tự Đức mất, ông được di chiếu làm Phụ chính, trong thời gian này ông và con trai muốn chống lại phái chủ chiến của Tôn Thất Thuyết, nên bị trấn áp. Ông sợ hãi trốn xuống một tàu chiến của Pháp đậu ở Thuận An, nhờ Tổng trú sứ Pháp Đờ Sămpô (De Champeaux) che chở, nhưng bị Tôn Thất Thuyết đòi giao nộp và đưa đi an trí ở Quảng Ngãi. Đến triều Đồng Khánh, ông mới được thả về. Thời Thành Thái ông làm Phụ chính kiêm Tả Tôn chính ở Tôn Nhân phủ. Ông là một nhà thơ lớn của thi nhân Việt Nam thế kỷ XIX. Ông để lại các tác phẩm chính: Vĩ Dạ hợp tập, Vĩ Dạ văn tập, Vĩ Dạ thi tập, Nam Cầm khúc, Nữ phạm diễn nghĩa từ, Trung Quốc công thi tập. Người đương thời ca tụng văn thơ ông hết lời. Thơ văn ông chủ yếu đều bằng chữ Hán, có một ít bài bằng chữ Nôm, xin trích một bài thơ Nôm sau: "Cũng phải xơi ngơi cũng phải chơi, Làm người nào phải Phật lo đời. Ngày dài dễ đặng ba muôn sáu, Tháng chẵn lần qua một chục hai. Việc phủ vua quan giờ có phép, Tiệc thơ hầu hạ dám nhường ai. Mua vui nghìn lượng xin đừng tiếc, Đã thấy co ro rất củ khoai". Ông mất năm Thành Thái thứ 9, vào ngày 24 tháng 10 năm Đinh Dậu, 1897, hưởng thọ 77 tuổi, triều đình cho tổ chức Quốc táng, an táng tại làng Dương Xuân Thượng, cách Huế chừng 3 cây số. Năm 1991, phủ đường và tẩm mộ của ông được Nhà nước ta xếp hạng di tích lịch sử cấp quốc gia.
Đầu trang

Long Đức
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2976
Tham gia: 20:12, 18/09/14

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi Long Đức »

hysshu đã viết: 01:44, 19/04/22 Lá số con trai vua Minh Mạng: hoàng tử Tuy Lý Vương lasotuvi/1/9R7BAK25.jpg ( trên tạp chí KHHB viết năm 1972 có bình luận). Ông này sinh năm 1819 mất năm 1897 thọ 79 tuổi. Không biết lá số này có chuẩn không. Theo anh lá số này có đẹp không? Nếu tốt đẹp thì chắc chỉ tốt về tài lộc, quyền chức chứ chưa chắc đã nổi tiếng về văn chương chữ nghĩa vì mệnh Thân không có Khôi Việt, Tả hữu, xương khúc? Có điều cung ách có Khôi Việt xương tướng ấn Quyền hội tụ, nên nếu đúng số ( đúng lá số của ông này) là người có tài, có trí tuệ, giỏi văn chương thì phải xét kỹ cả cung ách. Mong có ý kiến của anh về lá số này.
Có cha và anh làm Vua thì số đã hơn người rồi!

Không biết lá số có đúng không.

Lá số này không cho là đẹp, nếu cung Quan OK hơn thì có thể. Chỉ không cho là đẹp thôi chứ lá số khá sáng sủa và nhiều cung rất tốt.

Lá số cũng thuộc dạng thông minh (VCD có Nhật Nguyệt xung chiếu), có Tấu Thư thì thường hay khéo ăn nói hoặc xa hơn thì có văn tài (Tấu + Kình) [Long Phượng đồng cung Sửu Mùi cũng được cho là học giỏi nữa]. Cung Quan thì hơi yếu. Thường những người có tâm hồn thi thơ và để tâm tư vào đấy nhiều thì tham vọng chính trị không cao.

Theo lá số mà nói thì những lá số như thế thường là thông minh lanh lợi, học hành tốt, có thể nổi bật ở các điểm thông minh, học hành, chữ nghĩa hơn là quyền chức (Quan).

Theo mình thì văn tinh ở cung Tật thì cũng xét như kiểu các sao khác, ví dụ như khi thấy sao ái tình, tình dục tại cung Tật thì người ta bảo đam mê sắc dục/dễ vướng vào chuyện sắc dục/ái tình, hoặc dễ vì sắc dục mà mang họa, hoặc bị bệnh hoặc về đường tình dục gì đó v.v... , thế nên khi văn tinh tại cung Tật thì có thể cho rằng đam mê sách vở cũng được. Tuy nhiên, cung Tật này không gọi là có nhiều văn tinh (có Việt + Khôi, còn Khúc thì đi với Kỵ).

Nếu an Tự Hóa vào thì lá số này được Tự Quyền tại Di, Tự Quyền tại Tài, và Mệnh cũng có thể coi như được thêm Tự Lộc.
Được cảm ơn bởi: hysshu
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 09:13, 19/04/22
LS này lasotuvi/1/9R7BAK25.jpg theo em thì có các cung: Thiên di; cung Phúc; cung phụ mẫu; cung huynh đệ; cung Nô; tử tức là các cung đẹp nhất. Thiên di Nhật nguyệt ở Mùi khá đẹp, lại giáp Quyền Lộc, song Lộc nhị hợp. Cung Phúc VCD đắc tam không, lại mệnh Hỏa, có Quang quý Khoa long phượng hổ cái tả hữu chiếu. Cung Phụ mẫu Liêm trinh vượng địa có ấn tướng, Quyền, song Lộc chiếu. Cung huynh đệ Thất Sát miếu có Khôi Việt Quyền song Lộc chiếu. Nô Vũ Phủ song Lộc Khôi ấn tướng Khôi rất đẹp: Bạn bè và người dưới quyền nhiều người tài giỏi, giầu sang , nghĩa hiệp, cung Tử tức rõ ràng đẹp. Cung phụ mẫu, cung huynh đệ như vậy cũng ứng với bố mẹ, anh làm vua.

Cung Mệnh có Nhật Nguyệt xung chiếu có Kình tấu; long phượng, kình phượng. Mệnh lại giáp 2 cung Phụ mẫu và Huynh đệ khá tốt nên cũng được thơm lây nhiều. Cung Phúc tốt: mồ mả tổ tiên tốt, số này rõ ràng được hưởng Phúc lớn nhiều, chứ không phải kiểu người sáng lập khai sáng dựng nghiệp. Con Vua, anh cũng là Vua thì không cần lá số đẹp ( trung bình khá trở lên là được) thì cũng hơn rất nhiều người khác.

LS này nếu bảo là đúng là số của Tuy Lý Vương ( con vua Minh Mạng) thì cũng có lý, có cơ sở. Có điều vận ông này mất ở vận Vũ Phủ Canh Ngọ: vận này là vận tuổi già có Đào hoa xung chiếu nhưng Lộc tồn chế hóa được Đào hoa, nếu mất ở vận này do Đào Hồng thì cũng chưa có cơ sở. Tuổi già ngay cả vận đẹp thì cũng có thể mất ( thời xưa tuổi thọ như ông này cũng là cao rồi)

Em bổ sung phần luận giải lá số này lasotuvi/1/9R7BAK25.jpg trên tạp chí KHHB năm 1972 ( tác giả Linh Cơ):

Rất hiếm có những lá số được hưởng đủ cả Phúc Lộc Thọ. Được như vậy ắt phải khác thường, đáng để cho học giả Tử Vi Đẩu Số nghiên cứu.

Hoặc cung Mệnh hoặc cung Phúc Đức của người tuổi gì, đóng đúng vào cung ấy tính theo địa bàn trong lá số, thì là người được hưởng phúc dẫu cung Mệnh có xấu, cũng được âm một nửa tính cách xấu. Tuy Lý Vương tuổi Mão, được cung Phúc Đức đóng đúng vào cung Mão theo địa bàn, sự hưởng Phúc là lẽ tất nhiên.

Đầy đủ cả Phúc Lộc Thọ, như vậy, Tuy Lý Vương hẳn là người phúc lớn. Vậy cung Phúc Đức của lá số này được những cách gì? Trước hết cung này “vô chính diệu đắc tam không” vì Tuần Triệt cùng Tài Bạch chiếu lại, Địa không ở cung Thê chiếu lên. Các sao Âm Dương, Long Phượng, Cự Cơ, Tả Hữu, Đại Tiểu, Không Kiếp, Kình toàn là đắc địa. Thêm vào đó, bộ tứ linh Long, Ly, Quy, Phượng (Long Trì, Bạch Hổ, Hoa Cái, Phượng Các) thì cung Phúc Đức này tốt vô cùng, chủ về cường thịnh, quý hiển… Nếu luận về mồ mả, thì được một ngôi mộ kết phát đến tột bực, nào là ba … (1 từ bị thiếu chữ) án ở trước mặt, hai bên tả hữu, long chầu, hổ chực, voi quỳ, phượng múa, nào là cờ biển, tàn quạt, v.v… ngôi đất to lớn, như vậy, ắt phải phát đến Đế Vương…

Cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ có chi chứng tỏ rằng cha và anh em Vua không?
Cung Phụ Mẫu có Liêm Trinh đắc địa, cung Dần thuộc Mộc sinh cho Liêm Trinh Hỏa, vậy Liêm Trinh lại càng tỏ rạng, Liêm Trinh ngộ Tướng Quân, là người có quyền uy xuất chúng.
a) Tam Hóa hợp chiếu: Hóa Lộc (cung Nô Bộc), Hóa Quyền (cung Giải Ách) cùng chiếu xuống. Hóa Khoa (cung Thê) lục hợp.
b ) Lưỡng trùng thiên lộc: Hóa Lộc, Lộc Tồn cùng ở một cung (Nô Bộc) chiếu xuống. Hai sao này không khắc nhau nếu ở hai cung Dần, Ngọ.
c) Quyền sinh sát: Hóa Quyền, Tràng Sinh, Kiếp Sát. Ba sao này cùng ở một cung (Giải Ách) nên ảnh hưởng càng mạnh.
Phải chăng chỉ là vua mới có quyền như vậy?
d) Binh, Hình, Tướng, Ấn: Cách Tướng Quân, Quốc Ấn ở cung Phụ Mẫu, Thiên Hình, Phục Binh ở cung Giải Ách. Cách này tuy là cách của võ tướng, nhưng đã là vua thì mặc nhiên có quyền hành nguyên nhung trong thiên hạ.
e) Tướng, Ấn, Khoa, Quyền cách: Hóa Khoa ở cung Thê, lục hợp với cung Phụ Mẫu, Hóa Quyền ở cung Giải Ách, chiếu. Cách này chủ về đại vinh hiển.
g) Ấn phù cách: Quốc Ấn cung Phụ Mẫu. Đường Phù cung Thê, lục hợp. Đường Phù tức là lệnh tiêu, hay cờ lệnh, hay một thứ phù hiệu để chứng tỏ lệnh ở nơi nào xuất phát.
h) Thai, Cáo, Quang Quý cách: Tức là bộ tứ quý Thai Phụ (cung Nô Bộc chiếu), Phong Cáo (tại bản cung), Thiên Quý (cung Thê, lục hợp), Ân Quang (cung Phúc Đức do triều củng).
(Ít người biết cách triều củng này, cung Mão củng cung Dần, cung Dần triều cung Mão).
i) Không Kiếp Tỵ Hợi cách: Địa Không, Địa Kiếp đắc địa ở cung Thê lục hạp. Hung tinh đắc địa, phát dã như lôi.
Có nhiều cách hay kể trên tỏ ra cha được đại quý hiển, có uy quyền tột chúng. Như vậy, chỉ có vua mới ứng hiện được!

Cung Huynh Đệ cũng có những cách hay như cung Phụ Mẫu vì cung Giải Ách và cung Nô Bộc chính và hợp chiếu.
Ngoài ra, sau Thất Sát, chính tinh đắc địa, sao Thiên Khôi là “Tại quốc vi nhân trưởng” với thêm hai cách đặc biệt:
1) Long Vân khánh hội: Thanh Long cư Thìn là Long cư Long Vị, giữa chân tướng con rồng. Hóa Kị là đám mây. Thanh long chiếu vào cung Bào thì anh là chân mệnh Đế Vương. Rồng có mây thì rồng mới linh động.
2) Phong Hổ đồng hành: Phi liêm là gió, cư ngay bản cung. Sao Bạch Hổ tại cung Thê, tức là cung Hợi. Hổ tung hoành vào ban đêm, trong khoảng giờ Hợi thì uy lực nhiều nhất Bạch Hổ hội với Phi Liêm có Triều củng (cung Hợi triều cung Tý).
Có cha và anh làm vua, không lo đương số lại đói rách khổ sở! Con người ta, ảnh hưởng của gia đình rất cần thiết cho sự nghiệp và địa vị trong xã hội. Vì lẽ đó trong số Tử Vi, cung Mệnh được đặt vào giữa hai cung Phụ Mẫu và Huynh Đệ. Có hai cung giáp tốt, cung Mệnh cũng được tốt lây tại số này, cung Mệnh lục hợp với cung Huynh Đệ, nên được hưởng 30/100 cái tốt của cung đó.

Các cách hay của cung Mệnh.

Cung Thiên Di đối chiếu có Âm Dương được Lộc Tồn (lục hợp) nên sáng tỏ thêm ra, Long Phượng chủ quyền quý. Kình Dương đắc địa tức là cái bút, chủ văn chương nổi tiếng. Hai cung Quan Lộc và Tài Bạch, tam hợp với cung mệnh có Tam Thai, Bát Tọa, chủ quyền quý văn chương, Cự Môn, Thiên Cơ, đắc địa ở cung Dậu là Tài Quan cách, Tam Thai, Bát Tọa, cũng chủ sẽ quyền quý văn chương. Đà La là cái nghiên mực thuộc về văn chương. Sao Thiên Mã đóng tại cung Tỵ thành Chiến Mã, ngựa dùng vào chiến trận ắt là ngựa thực hay. Như vậy, đương số có tài mẫn tiệp xuất chúng.
Để ý sao Tang Môn, sao Cự Môn thành Lưỡng Môn, đi cùng với Long, Phượng, Thai Tọa chiếu vào Mệnh, nên đương số được sống trong cảnh cửa cao nhà rộng, lầu son gác tía.
Sao Cô Thần, Quả Tú, thủ chiếu Mệnh mà đương số không bị cảnh sống cô độc, luôn luôn đầy đàn vợ con bên cạnh vì Mệnh thuộc Thổ, cung an Mệnh cũng thuộc Thổ, sao Quả Tú lại thuộc Thổ. Riêng sao Cô Thần thuộc Hỏa. Đây thuộc về luật chế hóa Ngũ Hành (Sinh, khắc, chế, hóa): “Thổ đa, Hỏa tức” nghĩa là nhiều Thổ thì Hỏa tắt, nên sao Cô Thần mất hiệu lực (Đàn ông kỵ Cô Thần, đàn bà kỵ Quả Tú).
Cung Thiên Di giáp Quyền Lộc, cũng là một cách rất hay. Tam Hóa (Hóa Lộc, Hóa Quyền, Hóa Khoa) rất cần thiết cho sự quý hiển mà không có Hóa nào chiếu vào Mệnh.
Như vậy phải hiểu rằng. Tuy Lý Vương là người được hưởng phúc và không phải là người gây nên những sự nghiệp vĩ đại!

Cung Tử Tức có sao Tử Vi và Thiên Tướng, chính tinh, được Thiên Phủ, Vũ Khúc chiếu, Liêm Trinh đắc địa chiếu, không có các sao sát hại. Theo vào đó, được Đế Vượng đối chiếu thì sự đông con theo lối lũy tiến.
Ngoài các cách hay chính của các cung kể trên, còn thiếu sót nhiều cách hay phụ nữa, kể hết thì bình giải quá dài. Bài này cần thiết đối chiếu các đại hạn và các tiểu hạn trong lá số Tử Vi, xem có đúng với quãng đời vinh nhục của Tuy Lý Vương hay không?

Đại hạn từ 22 đến 31 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Thê, có tứ sát tinh Không, Kiếp, Kình, Đà và bại tinh Tang, Bạch, Khốc, chủ về tang thương. Vậy trong thời kỳ của đại hạn, Tuy Lý Vương phải bị một các tang lớn là thân phụ, vua Minh Mạng băng hà. Trong đại hạn còn có sao Thiên Mã, chủ về việc thay đổi, Tuy Lý Vương phải thay đổi nếp sống sau khi chịu tang.
Năm Canh Tý, Tuy Lý Vương 22 tuổi. Tiểu hạn tại cung Tuất, Thái Tuế lưu niên tại cung Tý. Tính cả thiên bàn cùng địa bàn năm đó thì bị các sao: La, Võng, Thương, Sứ, Cô Thần và Tang Bạch lưu niên cùng Linh Tinh: Cung Mệnh đã có sẵn Kình Đà, nay lại thêm Kình Đà lưu niên, nên bị đại tang.
Đại hạn từ 32 đến 41 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Tử Tức. Cung này có nhiều sao tốt (đã nói ở trên) nên là thời kỳ được hưởng hưng vượng:
Năm Tân Hợi, Tuy Lý Vương, 33 tuổi được ủy nhiệm giữ chức Giám Đốc Tân Học.
Tiểu hạn năm đó đóng tại cung Tài Bạch, Thái Tuế lưu niên tại cung Hợi. Tính cả thiên bàn cùng địa bàn thì có Cự Cơ đắc cách, Đại Tiểu Hao đắc địa, Không Kiếp đắc địa, Thai Tọa, Tả Hữu, Mã ngộ Khốc, Khách và Khoa ngộ Không (Địa Không) ứng vào cách tự nhiên được ân điển làm quan lớn, không phải như các người khác phải leo dần từng bậc thang danh vọng.
Để ý thấy năm Giáp Dần, Tuy Lý Vương được vinh phong Tuy Lý Công và năm Mậu Dần được thụ tước Tuy Lý Vương, vì tiểu hạn hai năm đó đóng tại cung Huynh Đệ và Thái Tuế lưu niên của hai năm Dần đóng tại cung Phụ Mẫu là hai cung tốt nhất trong lá số.
Hai tiểu hạn đó thuộc hai đại hạn 42~51 và 52~61 cùng tốt cả.
Năm Đinh Mão, Tuy Lý Vương 49 tuổi. Không nói gì đến số Tử Vi ta thấy phần nhiều người khi tới 49 tuổi đều lo năm đó xấu vì là năm trùng hợp với tuổi, sẽ bị các vận hạn xấu, hoặc bị chết, hoặc bị tang, hoặc bị gặp những sự không may như kiện tụng mất của, v.v…
Năm đó, tiểu hạn ở ngay cung Mệnh, có các sao Cô, Quả, Dương, Đà, Hỏa, Tang, Điếu. Cung địa bàn có Hư, Khốc, Hổ, Không, Kiếp, Đại Tiểu Hao. Các sao lưu niên năm đó như Tang Bạch, Kình Đà lưu niên đều đóng đúng vào các cung mà các sao ấy sẵn có. Hơn nữa sao Hóa Kỵ lưu niên đóng vào cung Tài Bạch cũng chiếu về tiểu hạn. Vậy năm đó, Tuy Lý Vương phải chịu đại tang thân mẫu.
Đại hạn 62-71 tuổi, Đại Hạn này đóng tại cung Thiên Di giáp Thương Sứ, có các ác sát tinh là Không, Kiếp, Khốc, Quả, thì đại hạn này Kình xấu, kém xa các đại hạn vừa qua.
Năm Quý Mùi, Tuy Lý Vương 65 tuổi, tiểu hạn đóng tại cung Quan Lộc, Thái Tuế, ở ngay tại cung đại hạn, cả hai đều có Không Kiếp. Như vậy cả ba đại hạn Tiểu hạn, Tuế hạn có đủ bộ lục sát tinh: Không Kiếp, Kình Đà, Hỏa, Linh (Linh Tinh ở cung Tuất, cũng vào cung Mùi): Lục bại tinh Tang Bạch, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao nên Tuy Lý Vương bị cách tuột hết cả chức tước. Thêm vào các cách xấu đó, hai sao Cô Quả làm cho Vương phải xa gia đình, lưu đầy tại Quảng Ngãi. Sao Tang Khốc hợp với các sao xấu làm cho Vương bị một cái tang đau đớn, phải khóc, là người con bị án tử hình. Vương bị hạ ngục vì các sao Bạch Hổ, Quan Phù. Hai sao này chủ về hình án, lưu đầy.
Vận hạn to tát như vậy mà không bị chết là vì có sao Hóa Khoa hóa giải. Sau Giải Thần và Thiên Giải giúp sức cho Hóa Khoa.
Năm Ất Dậu, Tuy Lý Vương 67 tuổi, đại hạn vẫn ở cung Thiên Di. Tiểu hạn lại đóng ngay tại cung Thiên Di nên ảnh hưởng hai sai Giải Thần và Thiên Giải phát huy đến tột độ, sao Hóa Khoa cũng cùng chiếu cả vào hai hạn. Thêm vào đó, Thiên Quan quý nhân ở ngay cung Tuế hạn, Thiên Phúc quý nhân sẵn có (ở giữa cung Mệnh và cung Mão theo địa bàn, vì cung Mão là cung Mệnh thứ hai của đương số), Tuy Lý Vương thoát khỏi cảnh lưu đầy và được phục hồi chức tước… Được như vậy, không những do các sao kể trên mà còn phụ thuộc vào hai sao Quang Quý…
Đại hạn 72-81 tuổi: Đại hạn này đóng tại cung Nô Bộc thấy có Đào Hồng ở đối cung thì biết rằng trong Đại hạn này, Tuy Lý Vương phải từ giã cõi đời.
Năm Đinh Dậu, tiểu hạn ở cung Thiên Di (cung Mùi) và Tuế hạn ở cung Tài Bạch (cung Dậu)
Cộng các sao của Đại hạn, Tiểu Hạn, Tuế Hạn thấy đủ bộ lục sát Tinh: Địa Không, Địa Kiếp (cung Hợi chiếu lên Tiểu hạn) Đà La (cung Tỵ chiếu vào cung Dậu là Tuế hạn) Linh Tinh (cung Tuất chiếu vào Đại hạn) Hỏa Tinh (ở ngay cung Tuế hạn)
Lục bại tinh: Đại Hao và Thiên Hư (ở cung Tuế hạn) Tiểu Hao và Thiên Khốc (ở cung Mão chiếu vào Tiểu hạn và Tuế hạn) Tang Môn (cung Tỵ chiếu vào Tuế hạn) Bạch Hổ (cung Hợi chiếu lên Tiểu Hạn).
Các sao lưu niên như Tang, Hổ, Khốc, Hư, Đại Tiểu Hao và Kình Đà cũng lại đóng cả vào chỗ các cung đã có sẵn. Hai sao Thiên Giải và Giải Thần ở cung Tiểu Hạn không phải để giải cái xấu. Chính hai sao đó giải thoát linh hồn.
Còn nhiều các cách khác xấu: như Suy-Bại-Tuyệt, như Văn Khúc ngộ Hóa Kỵ (cung Thìn lục hợp với Tuế hạn) như Bạch Hổ gặp Hổ lưu niên ở cung Mão là cung Mệnh thứ hai… như Cô Quả v.v…

Tháng, Ngày, Giờ mà Tuy Lý Vương trút hơi thở cuối cùng, bình giải cả ra đây e bài này quá dài.
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 09:13, 19/04/22
LS VCD tuyệt đẹp của nữ hoàng Victoria: lasotuvi/1/LBKJOG1R.jpg ( 1819-1901). Mệnh Thân đắc Thái tuế. Di có Tử Tham Quyền, Cung Thân quá rực rỡ. Độ khả tín AA ( trên astro.com). Giờ sinh: 4h15 phút sáng. Mong anh Long Đức có ý kiến bình luận về lá số này , lá số này theo anh thì có bị lệch ngày AL giữa Lịch địa phương vs Lịch Tàu/Ta không?
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 07:10, 14/04/22 cũng nên xét đến trường hợp có những lá số có nhiều Tự Hóa nhưng bản thân lại rất bình thường ...

Đúng là nhiều lá số Mệnh hoặc Tài hoặc Quan có Tự hóa khá mạnh mà em thấy cũng bình thường. Ví dụ lá số này lasotuvi/1/32BU8CJX.jpg cung quan Vũ Tham kỵ địa không đồng cung. Cung quan can Kỷ: Vũ hóa Lộc, Tham Hóa Quyền, nói về tự hóa thì cung quan khá mạnh. Theo anh lá số này có đạt trung bình khá không, cung Thân chắc bình thường? ( chủ lá số này là con của anh họ em: nó mơ mộng lắm, ước mơ tham vọng cao, nhưng học hành bình thường, gia cảnh bố mẹ bình thường)
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 20:33, 29/05/21
Cung Phúc là 1 khái niệm trừu tượng, nhiều ý nghĩa sâu rộng.

1. Cung Phúc hay chỉ dòng họ, sự may mắn, âm phần và cả phúc đức do mình tạo ra trong đời...Nhưng với nữ giới thì có vẻ phức tạp hơn khi xét cung Phúc. Ví dụ: trước 20 tuổi ( giai đoạn này thường chưa lấy chồng) nữ giới thường chịu ảnh hưởng của âm phần, mồ mả đất cát, may mắn dòng họ của bố. Nhưng khi lấy chồng rồi thì ảnh hưởng ở bên nhà chồng là chính, khi đó cung Phúc đức của nữ khi đã lấy chồng lại chịu ảnh hưởng của mồ mả âm phần, may mắn bên dòng họ nhà chồng.

2. Trong 1 dòng họ cũng có người thành công, có người may mắn ăn lên làm ra, có người vất vả lao lực nhưng thất bại nhiều, ít may mắn....Vậy cung Phúc đức cũng chưa hẳn chỉ mồ mả tổ tiên dòng họ

Mong có ý kiến của anh Long Đức về các điều trên.
Đầu trang

Long Đức
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2976
Tham gia: 20:12, 18/09/14

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi Long Đức »

hysshu đã viết: 01:04, 07/05/22 Cung Phúc là 1 khái niệm trừu tượng, nhiều ý nghĩa sâu rộng.

1. Cung Phúc hay chỉ dòng họ, sự may mắn, âm phần và cả phúc đức do mình tạo ra trong đời...Nhưng với nữ giới thì có vẻ phức tạp hơn khi xét cung Phúc. Ví dụ: trước 20 tuổi ( giai đoạn này thường chưa lấy chồng) nữ giới thường chịu ảnh hưởng của âm phần, mồ mả đất cát, may mắn dòng họ của bố. Nhưng khi lấy chồng rồi thì ảnh hưởng ở bên nhà chồng là chính, khi đó cung Phúc đức của nữ khi đã lấy chồng lại chịu ảnh hưởng của mồ mả âm phần, may mắn bên dòng họ nhà chồng.

2. Trong 1 dòng họ cũng có người thành công, có người may mắn ăn lên làm ra, có người vất vả lao lực nhưng thất bại nhiều, ít may mắn....Vậy cung Phúc đức cũng chưa hẳn chỉ mồ mả tổ tiên dòng họ

Mong có ý kiến của anh Long Đức về các điều trên.
1. Lá số dựa vào thời điểm ra đời thì cung Phúc không thể là cái phúc đức do mình tạo ra trong đời được. Coi đó là cái phúc mà mình có được thì đúng hơn. Còn âm đức mình tạo ra trong đời là phúc hậu thiên, cái phúc mình vun đắp.

Với nữ giới thì cũng không có gì là phức tạp, chẳng qua là do đời sống xã hội mà thôi. Phụ nữ thời xưa, cuộc sống của họ phụ thuộc vào Phụ, Phu, Tử - lúc nhỏ thì phụ thuộc vào cha, lớn lên lấy chồng thì phụ thuộc vào chồng, về già thì phụ thuộc vào con. Thế nên, cuộc đời tốt hay xấu, sướng hay khổ, gắn liền với Phụ Phu Tử (thời xưa, người trong gia đình ảnh hưởng trực tiếp lên nhau như chồng phạm pháp thì vợ con cũng dính lây, bị ảnh hưởng trực tiếp).

Chồng tốt thì mình được nhờ. Đấy là cái chính. Có thể vì thế mà người ta liên kết đến việc sau khi lấy chồng thì hưởng phúc nhà chồng. Theo mình, đấy chỉ gián tiếp thôi chứ không liên quan đến chuyện âm phần mồ mả nhà chồng.

Thời nay thì phụ nữ không còn phụ thuộc vào người đàn ông như xưa, họ có sự nghiệp, công việc, tự nuôi sống bản thân được nên cũng vì thế mà ngày nay người ta khi xem Tử Vi không chỉ coi trọng Mệnh Phúc Phu Tử như xưa.

2. Nói / lập-luận như thế cũng không đúng. Mồ mả trong một họ có nhiều mà, đâu chỉ có 1. Nếu tin vào việc âm phần thì chắc nghe nói việc có người hưởng từ mộ của bố, mẹ hoặc ông, bà, v.v... mà, hoặc có ngôi mộ phát cho phái nam, có cái thì phát cho phái nữ, hoặc phát cho trưởng cho thứ gì đó, v.v...

Đúng là cung Phúc Đức chưa hẳn chỉ mồ mả tổ tiên dòng họ, nhưng lấy lập luân rằng:"Trong 1 dòng họ cũng có người thành công, có người may mắn ăn lên làm ra, có người vất vả lao lực nhưng thất bại nhiều, ít may mắn ..." thì không thể bác bỏ được.
Được cảm ơn bởi: hysshu
Đầu trang

yesterday2016
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 3757
Tham gia: 18:29, 08/07/16

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi yesterday2016 »

Tôn Ngộ Không !!! đã viết: 19:16, 15/04/22
Tôn Ngộ Không !!! đã viết: 16:29, 15/04/22 vừa xem được lá số của ông anh đại gia, mệnh tài quan chẳng có khoa quyền lộc gì, trống trơ cát tinh, còn bonus thêm mấy con sát tinh phá cách.

tất cả đều dồn hết về điền - tật. Vũ Khúc cư điền hội song lộc tả hữu, quang quí.

Mình đã ngộ ra, điền trạch mới là tiền của mình. Tài bạch là dòng tiền mà mình quản lý, tiền mình quản lý không có nghĩa là tiền của mình. Ví dụ giám đốc ngân hàng nhà nước, quản lý tiền rất nhiều, nhiều nhất thiên hạ nhưng đút túi là dựa cột.

ngày xưa trọng sĩ - nông - công - thương.
Mệnh xét ưu tiên về quí cách, người xưa thậm chí còn bỏ qua phú cách, vì vậy mà điền- tật là thứ ít được ghi chép lại chăng ?
điền - tật tam hợp với nhau.
mới xem lá số của Lý Gia Thành ! kaka các thầy gọt đủ kiểu , mệnh tài quan của lá này chẳng có vẹo gì mà vẫn cứ cố gọt mệnh tài quan.

Đơn giản ngay trước mắt điền có tuần đối xung cung tử thái dương rực rỡ khoa quyền lộc. Thái Dương còn chủ danh nên cái giàu của ông được tôn làm thầy thiên hạ, khác với cái giàu của Vũ Khúc chỉ chủ phú.

Tuần rất quan trọng trong lá số này, không có nó thì điền không chịu ảnh hưởng nhiều của Thái Dương đối xung. :x
Theo bạn thì Tuần giúp hút thái dương về Điền à?
Còn triệt ở Nô thì hút hay chặn thái dương?
Đầu trang

hysshu
Bát đẳng
Bát đẳng
Bài viết: 8340
Tham gia: 23:43, 24/09/19

Re: Xét lá số Tử Vi (mang tính tham khảo)

Gửi bài gửi bởi hysshu »

Long Đức đã viết: 06:26, 07/05/22
hysshu đã viết: 01:04, 07/05/22 Cung Phúc là 1 khái niệm trừu tượng, nhiều ý nghĩa sâu rộng.

1. Cung Phúc hay chỉ dòng họ, sự may mắn, âm phần và cả phúc đức do mình tạo ra trong đời...Nhưng với nữ giới thì có vẻ phức tạp hơn khi xét cung Phúc. Ví dụ: trước 20 tuổi ( giai đoạn này thường chưa lấy chồng) nữ giới thường chịu ảnh hưởng của âm phần, mồ mả đất cát, may mắn dòng họ của bố. Nhưng khi lấy chồng rồi thì ảnh hưởng ở bên nhà chồng là chính, khi đó cung Phúc đức của nữ khi đã lấy chồng lại chịu ảnh hưởng của mồ mả âm phần, may mắn bên dòng họ nhà chồng.

2. Trong 1 dòng họ cũng có người thành công, có người may mắn ăn lên làm ra, có người vất vả lao lực nhưng thất bại nhiều, ít may mắn....Vậy cung Phúc đức cũng chưa hẳn chỉ mồ mả tổ tiên dòng họ

Mong có ý kiến của anh Long Đức về các điều trên.
1. Lá số dựa vào thời điểm ra đời thì cung Phúc không thể là cái phúc đức do mình tạo ra trong đời được. Coi đó là cái phúc mà mình có được thì đúng hơn. Còn âm đức mình tạo ra trong đời là phúc hậu thiên, cái phúc mình vun đắp.

Với nữ giới thì cũng không có gì là phức tạp, chẳng qua là do đời sống xã hội mà thôi. Phụ nữ thời xưa, cuộc sống của họ phụ thuộc vào Phụ, Phu, Tử - lúc nhỏ thì phụ thuộc vào cha, lớn lên lấy chồng thì phụ thuộc vào chồng, về già thì phụ thuộc vào con. Thế nên, cuộc đời tốt hay xấu, sướng hay khổ, gắn liền với Phụ Phu Tử (thời xưa, người trong gia đình ảnh hưởng trực tiếp lên nhau như chồng phạm pháp thì vợ con cũng dính lây, bị ảnh hưởng trực tiếp).

Chồng tốt thì mình được nhờ. Đấy là cái chính. Có thể vì thế mà người ta liên kết đến việc sau khi lấy chồng thì hưởng phúc nhà chồng. Theo mình, đấy chỉ gián tiếp thôi chứ không liên quan đến chuyện âm phần mồ mả nhà chồng.

Thời nay thì phụ nữ không còn phụ thuộc vào người đàn ông như xưa, họ có sự nghiệp, công việc, tự nuôi sống bản thân được nên cũng vì thế mà ngày nay người ta khi xem Tử Vi không chỉ coi trọng Mệnh Phúc Phu Tử như xưa.

2. Nói / lập-luận như thế cũng không đúng. Mồ mả trong một họ có nhiều mà, đâu chỉ có 1. Nếu tin vào việc âm phần thì chắc nghe nói việc có người hưởng từ mộ của bố, mẹ hoặc ông, bà, v.v... mà, hoặc có ngôi mộ phát cho phái nam, có cái thì phát cho phái nữ, hoặc phát cho trưởng cho thứ gì đó, v.v...

Đúng là cung Phúc Đức chưa hẳn chỉ mồ mả tổ tiên dòng họ, nhưng lấy lập luân rằng:"Trong 1 dòng họ cũng có người thành công, có người may mắn ăn lên làm ra, có người vất vả lao lực nhưng thất bại nhiều, ít may mắn ..." thì không thể bác bỏ được.
Theo trang xemtuong.net khi xem 1 lá số có cung Phúc bị Tuần hoặc Triệt, dù Phúc có chính tinh hay VCD thì đều có nói: Lập nghiệp ở nơi thật xa quê hương, càng sớm xa gia đình lại càng khá giả, họ hàng ly tán, ngành trưởng họ lụn bại. Em nghiệm lý nhiều trường hợp lá số cung Phúc bị Triệt ( Tuần thì em chưa nghiệm lý) thì đúng là nên xa quê hương, càng sớm xa gia đình lại càng khá giả, ngành trưởng họ thì kém phát triển, hay bị trục trặc trên nhiều phương diện ( kinh tế, vợ con hoặc về già bị thế này thế khác) đằng thứ thì phát đạt, thuận lợi.

Mong anh có ý kiến về điều này.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Luận giải Tử vi”