Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Hỏi đáp, luận giải trao đổi về âm dương, ngũ hành, can chi
orange
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 17
Tham gia: 16:47, 21/04/09

Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi orange »

Các bác ai am hiểu về vấn đề này, xin cho em nick yahoo để em được tư vấn ạ. Đa tạ các bác.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Thái_Dương(v)
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 757
Tham gia: 18:00, 29/12/08
Đến từ: Vùng lá me bay

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi Thái_Dương(v) »

Hầu Đồng là vấn đề thuộc về tín ngưỡng. Tự bản thân mình thấy cần phải ra hầu Thánh thì cứ ra vì cái này ko phải ai cũng trải qua để có thể hiểu. TD tôi thích dự hầu vì ko khí rộn rã và thích nghe chầu văn thôi chứ ko chắc có duyên với Thánh. Và Thánh có thật hay ko tôi cũng ko biết nữa. Tôi có biết sơ sơ 1 chút chứ ko đầy đủ về mảng này,tuy nhiên quanh chuyện hầu Thánh cũng có nhiều chuyện kì bí và khó giải thích,cũng khó mà tin đc. Nếu có hứng thú thì TD tôi xin đc hầu chuyện : thai_duong9989hn_vxt.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
apollo
Ngũ đẳng
Ngũ đẳng
Bài viết: 2016
Tham gia: 23:37, 01/01/09
Đến từ: Vô Cực
Liên hệ:

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi apollo »

Đạo Mẫu là một tín ngưỡng dân gian Việt Nam thờ các nữ thần (thường gọi là các Thánh Mẫu). Đạo Mẫu là một phần quan trọng trong hệ thống tín ngưỡng dân gian và bản sắc dân tộc của Việt Nam
Nguồn gốc lịch sử của đạo Mẫu không được ghi lại rõ ràng trong sách vở. Có người cho rằng nó có nguồn gốc từ thời tiền sử, khi người Việt thờ các thần linh thiên nhiên, các thần linh này được kết hợp lại trong khái niệm Thánh Mẫu hay Nữ thần Mẹ. Theo thời gian, khái niệm Thánh Mẫu được mở rộng để bao hàm cả các nữ anh hùng trong dân gian - những người phụ nữ có thật nổi lên trong lịch sử với vai trò người bảo hộ hoặc trị bệnh. Những nhân vật lịch sử này được kính trọng, tôn thờ, và cuối cùng được thần thánh hóa để thành một trong các hiện thân của Thánh Mẫu.
Các vị thần trong đạo Mẫu phản ánh các phẩm chất của một người Mẹ vừa thần thánh lại vừa con người. Đạo Mẫu không chú trọng vào cuộc sống sau khi chết, nó quan tâm đến cuộc sống hiện tại và câu hỏi làm thế nào để người ta có thể đạt được một cuộc sống hạnh phúc và đầy đủ trên trần gian.
Trong tín ngưỡng dân dã của người Việt Nam, việc tôn thờ Nữ thần, thờ Mẫu là một hiện tượng khá phổ biến và có căn cỗi lịch sử và xã hội sâu xa.
Tuy đều là sự tôn sùng các thần linh nữ tính, nhưng giữa thờ Nữ thần với thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu không hoàn toàn đồng nhất.
Tôn thờ Nữ Thần
Từ rất lâu đời, ở nước ta Nữ Thần đã được nhân dân tôn vinh và thờ cúng. Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt , thì trong tổng số 27 vị, đã có 14 là Tiên nữ.
Trong truyền thuyết Nữ thần Mặt Trời và Nữ thần Mặt Trăng đã soi sáng và sởi ấm cho mặt đất, tạo lập nên vũ trụ.
Huyền thoại về Bà Nữ Oa đội đá vá trời. Các nữ thần Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Phong, Pháp Điện tạo ra mây, gió , sấm chớp…
Sinh thành ra dân tộc Việt Nam có Mẹ Âu Cơ đẻ ra một bọc trứng, nở thành 100 người con.
Các bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hoá và các giá trị văn hoá, là tổ của nhiều ngành nghề truyền thống như Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa…
Nhiều Nữ thần là các danh tướng anh hùng ngoài trận mạc, là những nhân tài xây dựng đất nước như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Ỷ Lan, Bùi Thị Xuân…
Các vị Nữ thần từ bao đời nay được nhân dân tôn làm Thánh , Thần, được triều đình sắc phong thành các vị Thần, Thành Hoàng của nhiều làng.
Đạo Mẫu có các nghi lễ tổ chức theo Âm lịch với các tín đồ và nhiều người đi lễ tham gia. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Nghi lễ phổ biến nhất là lên đồng (hay còn gọi là hầu bóng). Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần sẽ nhập vào người lên đồng, linh hồn này được vời đến để nghe lời cầu nguyện của người đi lễ. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ (bà đồng), đôi khi mới do nam giới đảm nhận (ông đồng).
Các giá đồng (các điệu múa linh thiêng) là một phần quan trọng của nghi lễ. Có 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô,... Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn (hay chầu văn). Hát văn là một thể loại hát nói (vừa hát vừa nói). Hát văn do người đồng biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.
Thờ Mẫu
Tục thờ Mẫu và Tam toà Thánh Mẫu có quan hệ mật thiết với tục thờ Nữ thần
Mẫu là Nữ thần nhưng không phải tất cả các nữ thần đều là Mẫu, mà chỉ có một số nữ thần được tôn vinh là Mẫu.
Danh từ Mẫu là gốc Hán Việt, còn thuần Việt gọi là Mẹ. Nghĩa ban đầu, Mẫu hay Mẹ đều để chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng của người con đối với người sinh ra mình.
Ngoài ý nghĩa xưng hô thông thường đó, từ Mẫu và Mẹ có ý nghĩa rộng rãi tôn vinh những bà Mẹ chung của mọi người.
Tín ngưỡng thờ Mẫu chứa đựng những nhân tố về một hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ, thể hiện một ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn, dân tộc, lòng yêu nước đã được thiêng liêng hoá mà Mẫu là biểu tượng cao nhất.
Đạo Mẫu tiếp thu những ảnh hưởng của tục thờ cúng tổ tiên,một tín ngưỡng có vai trò quan trọng hàng đầu trong tín ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Trong quá trình đạo Phật du nhập vào nước ta và một bộ phận quan trọng của nó đã phát triển theo khuynh hướng dân gian hoá, giữa đạo Phật và đạo Mẫu có sự thâm nhập và tiếp thu ảnh hưởng lẫn nhau khá sâu sắc.
Điều dễ nhận biết là ở hầu hết các ngôi chùa hiện nay ở nông thôn đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là dạng “ tiền Phật hậu Mẫu “
,phía trước thờ Phật ,phía sau thờ Mẫu.
Tam Toà Thánh Mẫu
Chúng ta thấy trong những điiện thờ Mẫu có một hệ thống được thờ như sau:
Trên cao nhất của thượng điện là Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế.. Tuy vậy, ít nơi thờ. Vì đúng lẽ chỉ có những vị tiên trên thượng giới mới được thờ Thượng đế.
Tiếp đến là thờ Tam Toà Thánh Mẫu ( Mẫu Tam phủ, Mẫu tứ phủ)
Mẫu là quyền năng sáng tạo vũ trụ duy nhất và hoá thân thành Tam vị , Tứ vị cai quản các cõi các miềm khác nhau của vũ trụ: Mẫu Thiên,Mẫu Địa, Mẫu Thoải, Mẫu Thượng Ngàn.
Thường chúng ta thấy Tam toà thánh mẫu trong các điiện thờ:

Mẫu Thượng Thiên hay còn gọi là Mẫu Cửu Trùng (Cửu Thiên Huyền Nữ) mặc áo đỏ, ngồi chính giữa.Sau này một số điện thờ Mẫu, nơi chính giữa thờ Mẫu Liễu Hạnh.
Mẫu Thượng Thiên sáng tạo bầu trời và làm chủ quyền năng mây, gió ,sấm, chớp…
Mẫu Liễu Hạnh xuất hiện vào khoảng đời hậu Lê, nhưng nhanh chóng trở thành vị Thần chủ của Đạo Mẫu Việt Nam và được tôn vinh với tư cách là Mẫu Thượng Thiên, được thờ ở vị trí trung tâm, mặc trang phục màu đỏ.
Thánh Mẫu Liễu Hạnh được cho là công chúa của Ngọc Hoàng Thượng đế, do lỡ tay làm vỡ chén ngọc mà bị đày xuống trần làm con gái nhà họ Lê (ở nơi ngày nay thuộc tỉnh Nam Định) vào năm 1557. Dưới trần, bà có cuộc sống ngắn ngủi, lấy chồng và sinh con năm 18 tuổi và chết năm 21 tuổi. Do bà yêu cuộc sống trần tục nên Ngọc Hoàng cho bà tái sinh lần nữa. Trong kiếp mới, bà du ngoạn khắp đất nước, thưởng ngoạn phong cảnh thiên nhiên, gặp gỡ nhiều người. Bà thực hiện nhiều phép mầu, giúp dân chống quân xâm lược. Bà trở thành một lãnh tụ của nhân dân và thậm chí bà còn tranh đấu với vua chúa. Do đức hạnh của bà, nhân dân đã lập đền thờ bà (Đền Sòng tỉnh Thanh Hóa). Bà đã được thánh hóa và trở thành một vị Thánh Mẫu quan trọng nhất và một hình ảnh mẫu mực cho phụ nữ Việt Nam.
Tại làng Tây Hồ -Hà Nội có Phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh, dựng trên doi đất trông ra Hồ Tây,, cảnh đẹp , gió lộng từ ba phía, ngoài ra còn có những đền thờ nổi tiếng ở nhiều nơi như Phủ Giầy, xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, đền Sòng, Phố Cát- Thanh Hoá…
Mẫu Thượng Ngàn là hoá thân Thánh Mẫu toàn năng trông coi miền rừng núi, ngồi bên trái , mặc áo xanh.
Các đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính được nhiều người biết đến là ở Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ ( Lạng Sơn).
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Suối Mỡ thờ Mỵ Nương Quế Hoa, con gái Vua Hùng.
Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn ở Bắc Lệ thờ công chúa La Bình, con gái đức Thánh Tản và Ngọc Hoa.
Mẫu Thoải (Mẫu Thuỷ) là vị Thánh trị vì vùng sông nước, xuất thân từ dòng dõi Long Vương, liên quan đến thuỷ tổ dân tộc Việt .ngồi bên phải, mặc trang phục màu trắng.
Mẫu Địa là vị thánh trông coi đất đai, mặc áo màu vàng.
Ngũ vị Quan Lớn
Sau hàng Mẫu là Ngũ Vị Quan Lớn, gọi tên từ Quan Đệ Nhất đến Quan Đệ Ngũ. Các vị đều mặc võ quan, mang kiếm hay kích màu sắc trang phục Thoải Phủ màu trắng, Thiên Phủ màu đỏ, Nhạc Phủ màu xanh, Địa Phủ màu vàng.
Các vị Quan lờn đều có nguồn gốc là thiên thần, vâng mệnh trời xuống giúp dân lành.
Nhưng cũng có nơi gắn các vị Quan lớn với các Nhân thần, những vị tướng có công với nước.
-Quan Đệ Nhất quyền cai Thiên Phủ trên trời, theo thần thoại là thần làm mưa làm gió, và cũng là Quan Lớn ở trong cung điện Ngọc Hoàng. Mặc bào mầu đỏ.
-Quan Đệ Nhị (Quan Giám Sát) ngày cúng của Đức Giám Sát là Âm Lịch mùng Ba tháng Ba. Châu văn ràng: Quyền cai rừng núi Lâm Cung, lên rừng suống biển tâu về Bát Hải Long Vương. Lúc đánh trận cho nhà vua thánh, Ông Quan là vị giám sát trước để đánh thuận xông pha. Mặc bào mầu xanh lá cây. Lúc lên giá này, ông cầm khăn phủ diện để minh giám hoàn cảnh.
-Quan Đệ Tam (Quan Tam Phủ) là con vua Bát Hải Long Vương, ra trận cầm đối đao vệ dân hộ quốc. Mặc bào mầu trắng. Lúc lên giá này, ông cầm đôi bạch kiếm đi xông pha quỉ thế tà giới.
-Quan Đệ Tứ (Quan Khâm Sai) là một ông quan Địa Linh quyền cai đất bằng. Ông có trách nhiệm đi khâm sai các vùng các dân, giữ an lành của nước Việt. Mặc bào mầu vàng.
-Quan Đệ Ngũ (Quan Tuần Tranh) là một ông Quan anh hùng hào kiệt có kể là tướng đi tuần ở Sông Tranh. Mặc bào mầu xanh biển. Lúc lên giá này, ông cầm cái thanh long đao to như của ông Quan Công của thời Tam Quốc.
Tứ Vị Thánh Bà hay Tứ Vị Chầu Bà được coi như hoá thân , phục vụ trực tiếp của Tứ Vị Thánh Mẫu
Tứ Phủ Chầu Bà (四府十二位英靈公主)
-Chầu Đệ Nhất (Thiên Phủ)
-Chầu Đệ Nhị (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ngôi Kiều Công Chúa
-Chầu Đệ Tam (Thoải Phủ). Danh hiệu: Thuỷ Điện Công Chúa
-Chầu Thác Bờ (Thoải Phủ & Nhạc Phủ) Có người hầu là giá thứ ba, tức là Chầu Đệ Tam, Bà chúa Thác Bờ
-Chầu Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Chiêu Dung Công Chúa
Đình Cốc Thượng là nơi tôn thờ Chiêu Dung công chúa Lý Thị Ngọc Ba, đã có công với dân, với nước. Bà đã cùng Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh tan quân xâm lược Nam Hán phương Bắc, đem lại thái bình cho dân tộc vào thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên (năm 40)
-Chầu Năm (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Suối Lân Công Chúa
-Chầu Ngũ Phương Có người hầu giá này thay vao Chầu Năm, tức là Chúa Ngũ Hành Ngũ Phương
-Chầu Lục (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Lục Cung Công Chúa
-Chầu Bẩy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Tân La Công Chúa
-Chầu Tám (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Bát Nàn
Bà họ Vũ, ở làng Phượng Lâu, huyện Kim Động, trấn Sơn Nam (nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Thân phụ của bà là thầy thuốc làm nhiều việc phước đức. Bà nổi tiếng là phụ nữ xinh đẹp và giỏi võ nghệ.
-Chầu Chín Cửu Tỉnh ở Bỉm Sơn Thanh Hoá
-Chầu Mười(Nhạc Phủ). Danh hiệu: Nữ Tướng Đồng Mỏ Chi Lăng
-Chầu Mười Một
-Chầu Bé (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Bắc Lệ Công Chúa
Dưới hàng Chầu là hàng các ông Hoàng, được gọi theo thứ tự từ Ông Hoàng đệ Nhất đến ông Hoàng Mười.
Thập Vị Thủy Tế (十位八海龍兒皇子王爺)
-Ông Hoàng Cả (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Quận/Lê Lợi
-Ông Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
-Ông Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
-Ông Hoàng Đệ Tứ (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Hoàng Khâm Sai
-Ông Hoàng Năm
-Ông Hoàng Sáu
-Ông Hoàng Bảy (Nhạc Phủ). Danh hiệu: Ông Bảo Hà
-Ông Hoàng Bát (Nhạc Phủ). Danh hiệu:Ông Bát Quốc, là một ông quan gốc người Hán đóng quân ở Lào Cai
-Ông Hoàng Chín (Thiên Phủ). Danh hiệu: Ông Cờn Môn
-Ông Chín Thượng(Nhạc Phủ)
-Ông Hoàng Mười (Địa Phủ). Danh hiệu: Ông Nghệ An, có công chống giặc Thanh từ bên TQ
Một số đền thờ có các ông Hoàng được nhiều người biết đến như : đền ông Hoàng Bảy ỏ Bảo Hà, Ông Hoàng Mười ở Bến Thuỷ - Nghệ Tĩnh.
Hàng Cô được gọi từ Cô Đệ Nhất (cô cả ) đến Cô Thứ Mười Hai ( cô bé), đều là các thị nữ của Thánh Mẫu.Các cô ăn mặc rất đẹp, áo các màu, thắt lưng hồng, tóc cài hoa…

Tứ Phủ Tiên Cô(四府山莊神領聖姑)
-Cô Đệ Nhất Thượng Thiên (Thiên Phủ)
-Cô Đệ Nhất Thượng Ngàn(Nhạc Phủ)
-Cô Đôi Thượng(Nhạc Phủ)
-Cô Đôi Cam Đường(Nhạc Phủ) quê cô ỏ Đình Bảng Bắc Ninh nhưng cô Hiển Thánh ở Cam Đường Lào Cai
-Cô Bơ Hàn Sơn (Thoải Phủ) tức là Cô Ba Bông & Cô Ba Tây Hồ
-Cô Tư (Địa Phủ)
-Cô năm Suối Lân(Nhạc Phủ)
-Cô sáu Sơn Trang(Nhạc Phủ)
-Cô bảy Tiên la(Nhạc Phủ)
-Cô Tám đồi chè(Nhạc Phủ) ở đền Phong Mục
-Cô Chín Sòng Sơn(Thiên Phủ)
-Cô Chín Thượng(Nhạc Phủ)
-Cô Chín Thoải (Thoải Phủ)
-Cô Mười Đồng Mỏ(Nhạc Phủ)
-Cô Bé Đông Cuông(Nhạc Phủ)
-Cô Bé Suối Ngang (Nhạc Phủ)
-Cô Bé Thác Bờ (Thoải Phủ)
-Cô Bé Thoải(Thoải Phủ)
-Cô Bé Đen(Nhạc Phủ) tức là Cô Bé Sóc
Các Cậu quận là những người chết trẻ hiên linh, họ là những phụ tá của các ông Hoàng.
-Cậu Hoàng Cả (Thiên Phủ)
-Cậu Hoàng Đôi (Nhạc Phủ)
-Cậu Hoàng Bơ (Thoải Phủ)
-Cậu Hoàng Bé(Nhạc Phủ)
Tại các điện thờ Mẫu ở hạ ban hoặc ngoài sân còn có sự hiện diện của các vị Quan Ngũ Hổ hay ông Lốt (rắn). Trong quan niệm dân gian, thần Ngũ Hổ cai quản núi rừng, là vị thần linh canh giữ các ngội đền.
Quan Ngũ Hổ (五方神虎威靈)
-Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Thanh Hổ Thần Quan (東方甲乙木德青虎威靈)
-Nam Phương Bính Đinh Hoả Đức Xích Hổ Thần Quan (南方丙丁火德赤虎威靈)
-Trung Ương Mậu Kỷ Thổ Đức Hoàng Hổ Thần Quan (中央戊已土德黃虎威靈)
Tây Phương Canh Thân Kim Đức Bạch Hổ Thần Quan (西方庚辛金德白虎威靈)
•Bắc Phương Nhâm Quý Thuỷ Đức Hắc Hổ Thần Quan (北方壬癸水德黑虎威靈)
Còn Rắn Thần cai quản nơi sông nước.

Ông Lốt (兩位青蛇白蛇大神將軍)
-Thanh Xà Đại Tướng Quân
-Bạch Xà Đại Tướng Quân

Các Ngôi đền, Chùa ở nước ta thường được xây dựng ở những nơi thanh tú, gần những nơi có sông núi mây trời, xung quanh khuôn viên thường có những cây cao bóng cả, hoa thơm bốn mùa tươi sắc.
Ngày Xuân đi lễ đền chùa, cầu mong Trời Phật Thánh Mẫu phù hộ cho gia đình mình, cho đất nước .Lòng chúng ta hướng về điều thiện và thấy cảnh vật cũng như con người ngày càng tươi đẹp thêm.

Sưu tầm
Được cảm ơn bởi: Thái_Dương(v), Mai Hoa, myvan, phdminh, orange, vnpttq
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
namthiencasanova_73
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 14
Tham gia: 18:55, 05/03/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi namthiencasanova_73 »

Ở Việt Nam có tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần với tập tục hầu bóng, lên đồng, kèm theo các động tác múa đặc trưng của từng vị Thánh nhập đồng, thực hiện nghi lễ trong môi trường âm nhạc, ca hát tưng bừng. Trong môi trường hành lễ trang nghiêm và tâm linh như vậy, người có hệ thần kinh yếu rất dễ chịu tác động của không khí buổi lễ, dẫn đến làm thay đổi thần thức, cảm giác hoà nhập với không khí linh thiêng thần thánh. Trong cuộc sống thường nhật, những người như vậy cũng thỉnh thoảng hay rơi vào cảm giác ảo, mơ thấy thần thánh, thân mình bay bổng… Về mặt Thần kinh học, người ta cho rằng những người đó có hệ thần kinh yếu, dễ xúc cảm. Khi có tác động bên ngoài, tâm thức những người đó có xu hướng hoà nhập với môi trường.

Khi lễ hầu bóng diễn ra ở các đền, phủ, điện, trong không khí đàn ca, trống phách, múa hát tưng bừng, mùi nhang khói kích thích, một số ít người tham gia hành lễ có cảm giác thấy lâng lâng, phiêu phiêu, bay bổng, thần thức hoà nhập với không khí lễ hội múa hát khi Thánh giáng vào người con đồng. Đặc biệt, trong môi trường thực hành nghi lễ tâm linh, yếu tố âm nhạc, ca múa hát, mùi nhang khói, lời lẽ và âm thanh khấn vái… có tác dụng rất mạnh. Nếu người hầu đồng có hệ thần kinh như vậy, việc hoà nhập tâm linh trong trạng thái Thánh giáng là điều tất yếu.

Người ta gọi hiện tượng trên là “Ốp đồng”. Người rơi vào trạng thái trên gọi là người bị ốp đồng. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu, thờ Đức Thánh Trần, những người như vậy được cư dân tín ngưỡng gọi là NGƯỜI CÓ CĂN ĐỒNG. Căn đồng là một hiện tượng được nhiều người quan tâm nhưng không phải ai muốn là có căn. Người ngồi hầu Thánh có cảm giác hào hứng, hoà nhập lễ nghi tâm linh khi thực hành nghi lễ hầu bóng cũng chưa phải là người có căn đồng. Chỉ có những người có hệ thần kinh yếu ở mức độ nào đó khi đi lễ đền, phủ mới bị hiện tượng ốp đồng và người ta gọi họ là những người căn cao, số nặng, là người có duyên (có căn) với các vị Thánh trong Tứ phủ.

Theo tín ngưỡng thờ Mẫu, người có căn đồng là người sinh dương thế nhưng số hệ thiên cung, mệnh càn bóng quế, con cái của cửa Tứ phủ công đồng. Tín ngưỡng thờ Tứ phủ cho rằng, người có căn đồng là người đã được các Thánh chấm, không sớm thì muộn, tùy theo căn số của từng người sẽ được Thánh bắt đi lính làm đồng. Nếu không trình diện để hầu sẽ bị các Thánh hành hạ. Lắm người căn cao số nặng ấy, vì không biết đến cửa Thánh để kêu, để cầu nên bị hành cho đủ các kiểu: ốm đau bệnh tật nhưng đi chữa không khỏi vì không biết là mình bị bệnh gì, bị hành cho dở dại dở điên, công danh sự nghiệp lận đận, nhân duyên khó thành...Nhưng nếu mình biết đến cửa Thánh, cúi đầu đội lệnh, chẳng dám đơn sai thì mọi việc sẽ khác hẳn, bệnh hết, mạnh khỏe, bình an, công thành danh toại.

Tóm lại, người có căn đồng trước sau gì cũng phải ra trình diện, làm ghế ngồi cho Thánh, tức là phải hành lễ trình đồng, mở phủ. Nếu không có căn đồng mà nghe lời phán bảo linh tinh rồi ra lễ trình đồng, mở phủ thì chỉ tốn tiền và thời gian, tự mua dây trói mình vì buộc phải theo đền, phủ suốt đời. Nếu bỏ cuộc sẽ bị Thánh trách quở; mọi khó khăn bất trắc trong cuộc sống sẽ được qui cho là tại vì Thánh phạt.

Vậy làm sao biết được căn mệnh của mình là gì để tránh được những điều đáng tiếc có thể xảy ra? Ai có thể xác định được được căn số trong mỗi con người ? Nhiều người chỉ nghe thầy tứ phủ phán bảo về căn số của mình, rằng có căn với Quan lớn này, Cô, Cậu nọ rồi phải đăng đàn làm lễ trình đồng, mở phủ, tự mình gây không ít khó khăn cho mình và hao tiền tốn của. Người ta cho rằng có nhiều cách để biết được căn số của mình. Ví dụ: được các ngài báo mộng; được các ngài về ốp đồng khi mình tham gia hành lễ trình đồng; khi hầu bóng mà mình luôn thích xem và say mê về giá đó; hoặc có thể là do xem bói mà biết được. Nhưng xem bói phải hết sức lưu ý, không phải thầy nói gì mình cũng tin, vì bây giờ cũng lắm thầy làm vì tiền hơn là làm vì tâm để cứu thế độ dân. Đây là một vấn đề hết sức khó khăn nhưng không phải không có đường thoát, đó là nhờ lập Bát tự để tìm hiểu căn số của mình. Đương nhiên người lập Bát tự phải hết sức am hiểu và giỏi Dịch lý. Hơn nữa, người có căn hay không cũng có thể tự nhận biết qua các hiện tượng trên. Tuy nhiên, cần lưu ý phải khẳng định người có căn đồng là những người mạnh khoẻ, có thể chất, tinh thần và tâm lý hoàn toàn khác với người bị bệnh tâm thần phân liệt.

Nếu phải ra trình đồng, mở phủ, ai là người có thể giúp được người có căn đồng thực hành nghi lễ trong khi xã hội trắng đen lẫn lộn đồng giả, đồng thật này? Bây giờ tìm được một Đồng thầy thật sự khó lắm.

Nếu người có căn đồng không nặng lắm có thể làm lễ tôn lô nhang bản mệnh; nếu chưa đạt yêu cầu thì phải làm lễ trình đồng, mở phủ chính thức thành con dân hầu Thánh, bắc ghế cha ngồi,bắc ngôi mẹ ngự, thành ghế đệm cho Thánh ngự. Muốn làm lễ bốc bát nhang bản mệnh,trước hết người có căn đồng nên chọn một Đồng thầy thật sự, thông thạo việc Thánh. Lễ phải được tiến hành theo đúng trình tự, đúng phép cửa Thánh, có dâng sớ, điệp văn, phẩm vật và đồ mã tiến cúng. Về nguyên tắc, bốc bát nhang ở đền, phủ, điện nào là mình đã trở thành con nhang đệ tử của nơi đó. Các ngày lễ tiệc, đầu năm, cuối năm phải đi lễ đầy đủ ở đó thì mới tốt. Nếu vì lý do nào đó mà tạm thời đi các đền, phủ khác để thực hành nghi lễ thì phải xin và được sự đồng ý của Đồng thầy.

Nếu nặng căn quá mà mình chưa có điều kiện để ra trình đồng, mở phủ, thì có thể lập đàn để xin tiễn căn khất đồng. Nếu vì công danh, sự nghiệp… mà chưa trình đồng, mở phủ thì phải xin khất vì chưa lo liệu được việc Thánh. Cần nhớ đây là lễ xin khất chứ không phải xin từ bỏ căn vì người có căn trước sau gì cũng phải đến hầu Thánh mới yên. Người ta nói người có căn đồng không chống lại được số mệnh gắn bó với Thánh. Quan trọng là người có căn phải nhất tâm tin tưởng thì mới thành công và yên ổn trong vạn sự.

Lễ trình đồng – còn gọi là hầu bóng, là một loại hình sinh hoạt đặc biệt trong quá trình thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của dân tộc Việt Nam. Trong nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần được vời đến sẽ nhập vào người hầu đồng, nghe lời cầu nguyện của người đi lễ, phán truyền công việc và ban phát lộc. Trong các nghi lễ, phụ nữ thường đóng vai trò chính, người lên đồng cũng thường là phụ nữ, đôi khi mới do nam giới đảm nhận. Ngày nay, rất nhiều thầy tứ phủ đảm nhiệm công việc hầu đồng. Các nghi thức hành lễ không được đào tạo chính thức mà chủ yếu được truyền khẩu từ đời này qua đời khác. Do đó, không có qui định chuẩn mực, trình tự tiến hành nào cụ thể cho quá trình hành lễ.

Các giá đồng biểu hiện qua các điệu múa linh thiêng là một phần quan trọng của nghi lễ. Về lý thuyết thì có 38 vị thánh được thờ trong Tứ phủ, ứng với 38 giá đồng, nhưng thực tế có thể hầu được tới 72 giá đồng, bao gồm giá các quan lớn, giá các cậu, giá chầu bà, giá các cô, ông Lốt, quan Ngũ hổ... Trên thực tế, chỉ có một số Ngài về mở phủ và chứng đàn trong lễ trình đồng.Trong buổi lễ, các giá đồng được biểu diễn cùng với hát văn hay còn gọi là hát chầu văn. Hát văn là một thể loại hát nói - vừa hát vừa nói. Hát văn do ban hát biểu diễn cùng với dàn nhạc cung văn. Người hầu đồng múa điệu múa thần linh theo nhịp điệu và nội dung bài hát văn. Người ta nói rằng, chầu văn tạo nên một khung cảnh và âm nhạc tâm linh để giúp cho người đồng nhập vào vai mới và gắn kết với những con người và nơi chốn ở bên ngoài thế giới địa phương của họ.
Lễ sơ khởi là lễ đội bát nhang. Lễ này thực hiện không tốn kém nhiều... Nếu mọi việc vẫn chưa ổn thì phải ra làm lễ trình đồng. Sau khi đã được tôn lô nhang mà căn mạng vẫn còn quá nặng thì đệ tử (con đồng) phải ra đàn Tứ Phủ sơn trang làm lễ trình đồng để chính thức trở thành ghế đệm cho các Ngài thì mới hết bị Ngài hành.

Người muốn đội bát nhang hay trình đồng phải nhờ một vị sư hoặc chủ đồng đền và một thầy viết sớ, thầy bói coi tuổi để biết mình thuộc căn cơ nào? thuộc con nhang của Phủ nào trong 4 phủ? do vị Quan nào cai quản? Thí dụ: Tuổi Canh Thìn thuộc căn Bơ phủ (Phủ Thoải), quan cai đầu đồng là ông Hoàng Bơ. Tức tuổi ấy có căn với ông Hoàng Bơ và là ghế của ông Hoàng Bơ. Tuy nhiên, trong hàng vạn người may ra mới có một người có căn thực sự, do đó, cần phải lập Tử Vi và Bát tự xem mệnh có căn đồng thực sự không? Ngày nay, nhiều khi chỉ đi gặp Thầy tứ phủ, nghe Thầy phán truyền về căn mạng là về thu xếp làm lễ trình đồng ngay, không biết đúng sai đến đâu.

Lễ trình đồng có mục đích trình diện con đồng với chư vị Mẫu, Mẹ, Vua, Cha, với các ông Hoàng, bà Chúa của bốn phủ. Sau lễ ấy, con đồng mới được chính thức làm ghế đệm để các Ngài về phán bảo và làm việc quan. Ghế đệm chính là thân xác con đồng, được các Ngài nhập vào để phán truyền với các con nhang, đệ tử Tứ phủ.Lễ trình đồng ngày nay rất tốn kém.
Thông thường tín đồ chỉ đưa tiền cho nhà đền (Thủ đền), nhà đền lo sắm lễ tất cả. Ngày nay, tín đồ giao hết tiền cho Thầy Tứ phủ tự thu xếp. Cuộc lễ có thể tổ chức vào ngày tốt, tiến hành trong 3 ngày. Ngày đầu gọi là lễ trình (mở Đàn, mở Phủ), ngày thứ 2 có hoặc không, để cách khoảng chứ không có lễ nghi gì quan trọng, và ngày cuối cùng là ngày tiễn Đàn sơn trang nên được gọi là: “Tiền tứ phủ, hậu sơn trang”. Ngày nay, đôi khi người ta tổ chức luôn trong phạm vi một ngày. Lễ trình mở Đàn, mở Phủ chủ yếu làm thủ tục trình báo với các Ngài trong Tứ phủ, cúng các loại đồ mặn, một ít đồ mã, tiền vàng. Lễ này ta tạm hiểu giống như thủ tục tổ chức, ổn định hội nghị, tuyên bố lý do, khai mạc, chào cờ và đọc báo cáo hội nghị. Lễ tiễn Đàn sơn trang mới là lễ chính, phần quan trọng nhất của lễ trình đồng. Tại Lễ tiễn Đàn sơn trang, các Ngài sẽ nhập vào người hầu đồng, điểm nhang phù phép lễ vật, vui chơi và phán truyền.

Lễ tiễn Đàn sơn trang cần rất nhiều lễ vật. Loại lễ vật thứ nhất là hoa quả, vật dụng tư trang, đồ ăn, bánh kẹo.... Hoa quả bầy trên khắp các ban thờ, thường dùng nhất là hoa huệ trắng, ngày nay là hoa hồng. Đặc biệt ban thờ trước giá hầu thường được cắm hoa hồng. Tiền để Thánh ban phát lộc bày cả khay trên bàn lễ. Có khi người ta lấy tiền giấy kết thành hình con bướm mắc vào cành huệ để các Ngài dùng những cành hoa ấy phát lộc. Rất nhiều trái cây đủ loại được bày thành từng mâm. Trong đó có một vài mâm đặc trưng mà buổi hầu đồng nào cũng phải có: Mâm quạt, mâm lược và mâm gương soi để dâng cho giá cô Bơ phủ. Một mâm hoa quả như: ớt, ổi, dứa, chuối, đu đủ..., gừng, chanh... gọi là lộc sơn trang để dâng cô Bé Thượng Ngàn; một mâm kẹo bánh, đồ chơi trẻ con để dânh cho giá Cậu; một mâm trứng, oản thịt luộc để dâng Ngũ hổ năm dinh; kẹo lạc trà tàu thuốc lá mà đầu thuốc có phết một ít thuốc phiện để dâng giá ông Hoàng Bảy.

Loại lễ thứ hai là đồ mã. Để chuẩn bị được một buổi hầu đồng thì trước đó một tuần, các thợ mã chuyên nghiệp đã phải tập kết nguyên vật liệu để làm một đàn đại mã, có tên Long Tu Phượng Mã. Long Tu Phượng Mã có đủ voi, ngựa: đỏ, vàng và trắng. Mỗi con đều to hơn những chú ngựa vẫn chạy trong rạp xiếc. Một voi xám với tỉ lệ 1/1 so với những chú voi thật, ngoài ra còn có một thuyền rồng dài 3,5m rộng 0,8m được trang trí cầu kỳ.
Tất cả những thứ trên được đặt ở sân đền vì chúng quá to để có thể đưa được vào bên trong hậu điện. Trong Đền là nơi ngự trị của 4 toà sơn trang với khoảng 60 hình nhân cao từ 1,2 - 1,6m có bốn màu: đỏ, xanh, vàng, trắng, tượng trưng cho bốn hướng.
BÀY TRÊN BAN THỜ tỨ PHỦ
-Trên cùng bày mũ Vua cha, mũ quan tả hữu, mũ bình thiên, mũ các quan công đồng.
-Dưới một chút thì bày 4000 vàng hoa bốn màu tượng trưng cho bốn phủ kèm theo 4000 vàng cô cũng bốn màu bày cùng với bốn mâm lễ (trứng, lược, quạt, thuốc lá, khăn mặt, khăn phủ...)
-Sáu bài vị 6 màu, gồm 5 màu đỏ, xanh, trắng, vàng, tím dành cho 5 quan lớn (ngũ vị tôn ông) còn một bài vị màu hồng là bản mệnh.
-Lúc phát tấu thì bày mũ hia và ngựa nhỏ của 5 quan lớn dưới bàn hầu
BÀY XUNG QUANH SẬP CÔNG ĐỒNG
-Một ngựa đỏ thiên phủ,một voi vàng địa phủ, một thuyền rồng trắng thuỷ phủ
-Bốn toà sơn trang bốn màu (xanh, đỏ, trắng, vàng), mỗi toà gồm một hình chúa bà ngồi trên bệ, hai hình chầu cầm quạt chầu vào,12 hình cô, một thuyền nhỏ, một bè nhỏ, một thoi nhỏ, một núi giùm,1000 vàng đại,1000 vàng cô, 12 bộ hài sảo. Ngoài ra có thể có thêm mỗi toà một voi và một ngựa cùng màu.
-Rắn đỏ, rắn xanh, rắn vàng hoặc có thể thay rắn bằng hinh con nghê, hình người 3 đầu màu trắng (còn gọi là Tam đầu cửu vĩ) để tiến bốn phủ
-Năm hình nhân như người thật, bốn hình bốn màu tiến bốn phủ,còn một hình màu hồng là bản mệnh dung cho quan tuần về chứng hình bản mệnh và hoá theo đàn mã.
-Ba toà chúa bói, hoặc có thể là một toà, tòa này nhỏ hơn toà sơn trang.
-Một hình quan lớn Trần triều, một hình Đức ông đệ tam, 2 hình nhị vị vương cô,một hình Cô bé Cửa Suốt, một hình Cậu bé Cửa Đông. Những đồ lễ này ngày nay ít người dâng.
-Một ngựa Trần triều, tráp áo màu đỏ,1000 vàng thiếc
-Một thuyền rồng Cô bé Cửa Suốt màu đỏ, tráp áo, 1000 vàng đỏ
-Một ngựa Cậu bé Cửa Đông màu đỏ, tráp áo,1000 vàng đỏ
-Năm ngựa quan lớn, tráp áo 5 màu, 5000 vàng 5 màu
-Ba hình ông hoàng cưỡi ngựa, tráp áo, 3000 vàng 3 màu trắng, xanh, tím dành cho Ông hoàng Bơ,Ông hoàng Bảy, Ông hoàng Mười.
-Năm hình 5 màu cho 5 cô: Cô Đôi,Cô Bơ, Cô Sáu, Cô Chín, Cô Bé, và 5000 vàng cho 5 cô.
-Hai (hoặc 3, 4) hình cậu, ngựa cậu, vàng hoa cho Cậu Bơ, Cậu Bé.
-Quần áo chúng sinh và tiền vãng sinh
SỚ
-Sớ tiến bốn phủ,mỗi phủ một sớ,mỗi hình nhân hay ngựa mang một sớ điệp,sớ cho mấy toà sơn trang, sớ phát tấu, sớ công đồng, sớ Trần triều, sớ bốn phủ bốn màu,mỗi phủ một sớ...
Đi cùng với đàn mã này là 13 suất lộc tố hảo thuộc loại lộc ngon, đắt tiền để trong khi nhảy, Thánh sẽ phát lộc cho khách dự. Có tới 13 bộ quần áo của các ông hoàng, bà chúa, cô, cậu. Sau mỗi một giá đồng, người hầu đồng lại thay một lần quần áo.
Nếu không tận mắt chứng kiến một buổi hầu đồng mở phủ, thì không ai có thể tưởng tượng hay tin được rằng: để có được một buổi hầu đồng hoàn hảo thì khổ chủ phải bỏ ra bao nhiêu tiền mua mã, sắm lễ, trang bị quần áo, thuê phường hát văn. Giới hầu đồng vẫn thường bảo “tuỳ tiền biện lễ”, nhưng phải chứng kiến tận mắt mới hiểu được sự vô cùng của câu này. y, hình nhân 3 đầu…

Loại lễ vật thứ ba là một mâm sớ, 4 quyển sổ, 4 nghiên son, 4 thỏi mực, 4 bút lông. Mỗi sổ dành cho một phủ. Trên ban thờ hầu được thiết lập thành 4 phủ. Đó là 4 dãy lụa đỏ, xanh, trắng, vàng trải dài trên bàn phủ xuống tận đất. Mỗi vuông lụa ngang khoảng 7 đến 9 tấc, dài khoảng 2,50m. Những vuông lụa đó phủ kín để che dấu bên trong là một cái thau, một cái gáo múc nuớc để trên thau, một hũ nước dán miệng kín bằng một tờ giấy cùng màu với phủ, một mâm gạo, một mâm trứng, thuốc lá, trà tàu, một hộp trầu cau. tất cả đều mới và cùng màu với phủ. Những lễ vật như thau, gáo múc nuớc, hũ nước do Thầy tứ phủ quyết định và ngày nay, đôi khi ít được sử dụng trong quá trình hành lễ. Ngoài cửa đền còn có bày một mâm gạo, trứng, muôi và cháo để cúng chúng sinh.

Khi mọi lễ vật đã được chuẩn bị xong, cuộc lễ bắt đầu. Lễ thường được tiến hành từ 10 giờ sáng. Người ra đàn phải tìm cho mình một Quan thày (Thầy tứ phủ) có đức cao trọng vọng và có tiếng trong Tứ Phủ để hầu mở phủ. Người ra đàn phải mang những y phục mà mình đã may để trình. Những y phục này chỉ có giá trị khi đã dâng lên và được các Ngài “chứng” bằng cách điểm dấu nhang lên trên đó. Ngày nay, vấn đề y phục cũng do Thầy tứ phủ và đệ tử theo hầu thầy đảm nhận toàn bộ. Vì vậy, đôi khi đó là những bộ y phục cũ, đã dùng rồi. Chỉ riêng y phục khăn chầu áo ngự cũng có thể viết được một bài dài mô tả về số lượng và sự phong phú của nó.

Trước bệ hầu, bà đồng, hoặc Thầy tứ phủ (người hầu bóng) đảm nhận việc hầu đồng ngồi giữa, xung quanh có bốn đệ tử theo hầu, lo việc thay khăn áo, đưa trình các vật dụng như rượu, thuốc lá, trầu cau, kiếm, đao, nến lửa…Bốn người hầu này còn được gọi là hầu dâng, phụ đồng hoặc tứ trụ… tuỳ theo vùng miền, mỗi người một cái quạt lông sặc sỡ, quạt cho Ngài mát, che chắn khi Ngài uống nước, uống rượu, châm thuốc lá …

Sau khi bà đồng, hoặc Thầy tứ phủ đảm nhận việc hầu đồng sửa soạn hầu mở phủ thì cung văn tấu nhạc, Thầy tứ phủ đọc sớ và người ra đàn lễ bái trước tất cả các ban thờ, xong trở lại ngồi chầu nơi bệ hầu để khấn vái chờ nghe các Ngài phán bảo.

Quan thầy hầu trước là giá Tam tòa thánh mẫu. Rồi đến giá Quan. Giá này quan trọng nhất vì chỉ có các quan mới có quyền mở phủ còn những giá khác chỉ về chứng đàn mà thôi. Bởi vậy quan thầy hôm ấy bắt buộc phải hầu giá các quan, còn các giá Cô, cậu,... gọi là hầu cho vui, muốn hầu hay không là tùy. Trong hầu đồng thì trùm khăn phủ diện có ý nghĩa quan trọng nhất trong nghi lễ Thánh giáng. Xuất phát từ quan niệm cho rằng người hầu đồng chỉ là cái xác, cái giá, cái ghế để Thánh nhập vào, nên khi người hầu đồng trùm khăn lên đầu, thì họ được coi như người đã chết.

Mỗi phủ có một quan đầu đồng và quan ở phủ nào thì mở phủ ấy. Thí dụ:
Quan Bơ về mở phủ thứ 3, sắc trắng. Sau những nghi thức thường lệ “Quan” cầm một bó nhang đốt cháy, tay trái cầm chéo khăn và “chống nạnh”, Quan dậm chân hét một tiếng to, lúc ấy chiêng trống nổi lên dồn dập. Quan cầm bó nhang, xoay xoay trước ban thờ và 4 hướng, tiến đến phía các phủ cũng làm dấu điểm nhang. Đoạn ngồi xuống, nghe thầy cúng hoặc cung văn đọc sớ, đọc xong dâng mâm sớ lên cho quan điểm nhang. Quan kiểm sổ bằng cách chấm bút son vào sổ. Rồi đứng dậy tiến tới phủ của mình, Quan giở khăn choàng phủ ra, hầu dâng xếp khăn lại đặt trở lên bàn thờ. Quan lấy vài miếng trầu cau, một quả trứng, thuốc lá, một nhúm gạo bỏ tất cả vào thau sau khi đã điểm nhang trên các vật ấy. Quan lấy gáo chọc thủng nắp thố nước, múc 4 gáo đổ vào thau. Như vậy, là mở phủ xong, Quan trở lại chỗ hầu, nghe văn, ban lộc và xa giá hồi loan. Các quan ở phủ khác cũng đều làm giống như vậy. Sau khi quan thầy hầu mở xong 4 phủ tức là buổi lễ mở phủ đã xong. Suốt trong buổi hầu đồng người ra trình đồng phải hì hục khấn vái và quấn quít bên cạnh Quan thầy. Sau phần nghi lễ chính thức, nhà đền có thể bày tiệc thiết đãi linh đình.
Được cảm ơn bởi: orange
Đầu trang

Rickochet
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 80
Tham gia: 17:55, 12/03/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi Rickochet »

Mở phủ không phải là chuyện đơn giản anh (chị) ạ. Em nghĩ rằng phải thật sự có căn số nặng, có duyên với thánh thì mới "phải và nên" ra đồng. Sẽ được phúc, được lộc rất lớn. Nhưng, trước khi mở phủ phải xem xét 2 vấn đề lớn nhất là: tiền bạc và thời gian. Nói tiền bạc thì có thể hơi quá, hơi báng bổ, nhưng đó thật sự là vấn đề đáng quan tâm. Riêng vấn đề thời gian, bác nên biết rằng, một năm thường có 4 vấn: Xuân- Hạ- Thu- Đông. Nhưng người hầu thánh không nhất thiết phải hầu cả 4 vấn. Có người hầu 1 vấn, có người hầu nhiều hơn. Nhưng khôg có thời gian và điều kiện để hầu được thì phải khất đồng. Được, nhưng đúng là không nên.

Các giá đồng thì có 36 giá như bác apollo nói ở trên. Nhưng khi hầu đồng thì không nhất thiết phải hầu cả 36 giá vì cả vấn đề sức khỏe và thời gian. Thường thì mới ra đồng, bác nhất thiết phải hầu 5 giá quan: Đệ nhất, nhị, tam, tứ, ngũ. Và giá căn quả của bác.

Anh (chị) nên tham khảo ở một số người đã ra đồng, có căn quả, căn đồng thầy để tham khảo và quyết định. Như vậy sẽ chính xác hơn.

Chúc may mắn!

Mà em tò mò có thể hỏi bác căn được không?
Đầu trang

orange
Mới gia nhập
Mới gia nhập
Bài viết: 17
Tham gia: 16:47, 21/04/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi orange »

Em cảm ơn các bác đã chỉ giáo những kiến thức trên. Câu chuyện của em tình cờ và dài dòng nên không tiện kể trên đây, rất mong được đàm đạo cụ thể với các bác. Em đã add nick cô Thái Dương, nhưng ko thấy đúng..
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
Thái_Dương(v)
Tứ đẳng
Tứ đẳng
Bài viết: 757
Tham gia: 18:00, 29/12/08
Đến từ: Vùng lá me bay

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi Thái_Dương(v) »

Àh phải,đúng là tôi gõ nhầm. Nick là: thai_duong0909hn_vxt
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
mr lucky
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 94
Tham gia: 09:54, 24/07/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi mr lucky »

Đọc mấy bài viết của các bác hay quá, trước em cũng được đi lễ ở mấy nơi, nhưng ko hiểu cái môtê ji cả, nhờ có topic này em đã hiểu mấy phần.
Lần đó, ấn tượng nhất là được nghe hát chầu văn ở bản đền của bà chúa thượng ngàn các bác ah. mặc dù phải thức đến hơn 2h sáng nhưng nghe hát chầu văn hay quá quên cả mệt mỏi luôn.
Nếu có thời gian, em vẫn thích đi thêm một chuyến nữa để có thể nghe lại mấy bài chầu văn đó.
Đầu trang

Rickochet
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 80
Tham gia: 17:55, 12/03/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi Rickochet »

Bạn có thể pm nick yahoo của mình. Mình sẽ gửi cho bạn các bài hát chầu văn của Văn Chương để nghe thử xem.

Thân mến.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
mr lucky
Chính thức
Chính thức
Bài viết: 94
Tham gia: 09:54, 24/07/09

TL: Em muốn tìm hiểu kỹ về vấn đề ... ra Hầu Đồng ạ!

Gửi bài gửi bởi mr lucky »

Cám ơn bạn Rickochet nhé. mình đã vừa tìm được mấy bài hát chầu văn của nsut Văn Chương trên mạng rùi.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Hỏi đáp Tổng hợp”