PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Các bài học thuật về môn tướng pháp, danh tính, chữ viết
Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7271
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi phonglan »

Lượng chỉ của tôi là lượng chỉ xương, nó vô giá khôgn thể định bằng tiền như vàng đâu. Cuộc đời mà. Tuy nhiên cũng có cuộc đời chẳng đáng một xu, nhưng đó là do các cụ nói một cách ẩn dụ thôi.
Đầu trang

GVR
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 150
Tham gia: 17:58, 12/01/10
Đến từ: -GVR-

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi GVR »

Theo mình thì chỉ xem cho biết thôi,chứ nó chung chung quá,mình có người bạn lá số xấu mà lượng chỉ cao,cung Phúc cũng xấu nữa.có người trúng có người không trúng hihihi mình góp ý thui nhé.
Đầu trang

lockelaton
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 543
Tham gia: 19:09, 03/11/09
Đến từ: ashes and dust

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi lockelaton »

hí, cháu được 4 lượng 3 chỉ: (17/8 giờ mão, ất sửu - AL)
"Số này là người tánh rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần với người sang quí. Một đời phước lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên đặng hạnh thông."

đúng lắm bác ơi, nhưng mà khổ tâm quá bác ạ, lúc nào cũng muốn tự mình làm tự mình hưởng mà thôi, nhưng khỗ cái là không thoát được, mọi chuyện đều phải nhờ vả, ăn bám thì mới nên chuyện, đến giờ mà vẫn công danh chẳng có gì, tiền tình cũng không nốt, không lao lực nhưng khổ cái tâm #-o


Mà sao cháu đọc 1 số sách thấy có cách tính chênh lệch nhau 1 chút, nên chả biết cái nào đúng nữa, lúc trước nhớ có đọc trong cuốn nào đó thì chỉ có 3 luong 8 rồi 1 cuốn thì ra 4 luong 2 giờ của bác lại là 4 luong 3 cuối cùng không hiểu cái nào đúng cái nào sai nữa. 8->
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7271
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi phonglan »

lockelaton đã viết:hí, cháu được 4 lượng 3 chỉ: (17/8 giờ mão, ất sửu - AL)
"Số này là người tánh rất thông minh, làm việc lỗi lạc hiên ngang gần với người sang quí. Một đời phước lộc tự trời định sẵn, chẳng cần phải lao lực mà tự nhiên đặng hạnh thông."

đúng lắm bác ơi, nhưng mà khổ tâm quá bác ạ, lúc nào cũng muốn tự mình làm tự mình hưởng mà thôi, nhưng khỗ cái là không thoát được, mọi chuyện đều phải nhờ vả, ăn bám thì mới nên chuyện, đến giờ mà vẫn công danh chẳng có gì, tiền tình cũng không nốt, không lao lực nhưng khổ cái tâm #-o


Mà sao cháu đọc 1 số sách thấy có cách tính chênh lệch nhau 1 chút, nên chả biết cái nào đúng nữa, lúc trước nhớ có đọc trong cuốn nào đó thì chỉ có 3 luong 8 rồi 1 cuốn thì ra 4 luong 2 giờ của bác lại là 4 luong 3 cuối cùng không hiểu cái nào đúng cái nào sai nữa. 8->
Vậy cái nào đúng với cuộc đời của bạn hơn? 3,8 - 4,2 hay 4,3? Cái nào đúng nhất thì bnj hãy tin vào cái đó.
Đầu trang

Ẩn long cư sỹ
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 522
Tham gia: 16:48, 30/01/10

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi Ẩn long cư sỹ »

Bây giờ ta thử đi tìm lá số 7 lượng 1 chỉ xem thế nào? Xét theo năm thì ta được các năm Mậu Ngọ, Kỷ Mão có 1 lượng 9 chỉ; xét theo tháng ta được các tháng 3,9,10 có 1 lượng 8 chỉ; xét theo ngày ta được các ngày 18,26 có 1 lượng 8 chỉ; xét theo giờ ta được các giờ Tý, Tị có 1 lượng 6 chỉ; cộng lại được 7 lượng 1 chỉ. Lấy ngẫu nhiên lá số giờ Tỵ ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ ta có:
Hình ảnh
Nhìn vào lá số thấy âm dương thì nghịch lý, vận hạn thì không đẹp, số được hưởng quan lộc, tài lộc rất ít bất quá chỉ có thể cùng lắm lá nổi danh về học thuật là cùng!

Xét kỹ thì không biết phép cân xương tính số tác giả căn cứ vào đâu? lại không nói nam nữ khác nhau? cũng giống như cụ Thái Thứ Lang cứ cố đưa lý thuyết về lá số phi thường cách vào sách cho người học hoang mang thêm chứ căn bản làm gì có lá số ấy! Tôi cho rằng phải căn cứ vào thuyết âm dương ngũ hành làm căn bản, như vậy thì tuổi Kỷ Mão( chi khắc can rất xấu) lại có số lượng chỉ cao, tuổi Mậu Ngọ(chi sinh can) có số lượng chỉ cao xét ra còn tạm hữu lý. Như vậy ở đây có sự mâu thuẫn lớn giữa Tử Vi và Phép cân xương tính số; mà kể cả các sách Tử Vi còn mâu thuẫn nhau nữa là. Xem ra còn khó khăn dài dài trong việc nghiên cứu các bộ môn học thuật này!
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
jone
Đang bị cấm
Đang bị cấm
Bài viết: 1233
Tham gia: 17:17, 03/11/09

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi jone »

Ẩn long cư sỹ đã viết:Bây giờ ta thử đi tìm lá số 7 lượng 1 chỉ xem thế nào? Xét theo năm thì ta được các năm Mậu Ngọ, Kỷ Mão có 1 lượng 9 chỉ; xét theo tháng ta được các tháng 3,9,10 có 1 lượng 8 chỉ; xét theo ngày ta được các ngày 18,26 có 1 lượng 8 chỉ; xét theo giờ ta được các giờ Tý, Tị có 1 lượng 6 chỉ; cộng lại được 7 lượng 1 chỉ. Lấy ngẫu nhiên lá số giờ Tỵ ngày 26 tháng 9 năm Mậu Ngọ ta có:
Hình ảnh
Nhìn vào lá số thấy âm dương thì nghịch lý, vận hạn thì không đẹp, số được hưởng quan lộc, tài lộc rất ít bất quá chỉ có thể cùng lắm lá nổi danh về học thuật là cùng!

Xét kỹ thì không biết phép cân xương tính số tác giả căn cứ vào đâu? lại không nói nam nữ khác nhau? cũng giống như cụ Thái Thứ Lang cứ cố đưa lý thuyết về lá số phi thường cách vào sách cho người học hoang mang thêm chứ căn bản làm gì có lá số ấy! Tôi cho rằng phải căn cứ vào thuyết âm dương ngũ hành làm căn bản, như vậy thì tuổi Kỷ Mão( chi khắc can rất xấu) lại có số lượng chỉ cao, tuổi Mậu Ngọ(chi sinh can) có số lượng chỉ cao xét ra còn tạm hữu lý. Như vậy ở đây có sự mâu thuẫn lớn giữa Tử Vi và Phép cân xương tính số; mà kể cả các sách Tử Vi còn mâu thuẫn nhau nữa là. Xem ra còn khó khăn dài dài trong việc nghiên cứu các bộ môn học thuật này!







Ai nói không có lá số phi thường đây nè


Hình ảnh
Đầu trang

Ẩn long cư sỹ
Tam đẳng
Tam đẳng
Bài viết: 522
Tham gia: 16:48, 30/01/10

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi Ẩn long cư sỹ »

Nhìn vào lá số mà ai kia cho là phi thường cách( có lẽ lấy ở diễn đàn lyhocdongphuong.org.vn) quá sai vì chỉ cần xét theo định nghĩa của cụ Thái Thứ Lang là rõ, theo cụ thì lá số phi thường cách phải là Mệnh: Tử, Phủ, Vũ, Tướng; Thân: Sát, Phá, Liêm, Tham tất cả phải từ đắc địa trở lên; mệnh, thân phải được sự phò tá của các sao: Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Hồng, Đào, Khoa, Quyền, Lộc... sát tinh đắc địa: Không, Kiếp,... Đấy là chưa cần bàn về sự có hay không có của phi thường cách. Cái sai quá rõ thì không cần bàn đến năng lực hay công lao của người đưa ra cái lá số kia!

Tôi tạm trích lại một phần của bài viết của chú Phuocduyen mà tôi cho là hợp lý do chú ấy tổng hợp từ kinh nghiệm bản thân, kinh nghiệm của cụ Thiên Lương và Giáo sư Lê Trung Hưng:

I-Kỹ thuật tiêu chuẩn để nhận biết lá số Tử-Vi

Trong phạm vi bài tham luận này, bỏ ra ngoài những giai đoạn lập lá số Tử -Vi mà tạm coi như việc hoàn thành lá số có đầy đủ. Người có bản số hãy theo theo dõi các dữ kiện " sao " sau đây :

1- Dữ kiện nghị lực : Sao Thiên Mã.
2- Dữ kiện sinh tồn :các sao vòng Tràng Sinh.
3- Dữ kiện hưng thịnh : các sao vòng Lộc-Tồn.
4- Dữ kiện tính khí : các sao vòng Thái Tuế.
5- Dữ kiện thời vận : các sao Tuần và Triệt.
6- Dữ kiện bẩm chất : các sao Thiên Không, Đào Hoa, Hồng Loan.
7- Dữ kiện hoạt động : các sao Vòng Mệnh và vòng Thân.
8- Dữ kiện thú tính : các sao Địa Không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa-Tinh, Linh-Tinh.
9- Dữ kiện phù trợ : các sao Tả-Phù, Hữu-Bật, Lực Sĩ, Bác-Sĩ, Hóa Quyền, Hóa Khoa.
10- Dữ kiện ma thuật : Mệnh vô chính diệu.

Ngoài các dữ kiện sao vừa nói, ta hãy nói sơ lược lại nền tảng phối hợp ngũ hành, để thích nghi luận lý :

a)- Tương sinh : Mộc-Hỏa-Thổ-Kim-Thủy-Mộc.
b)- Tương khắc: Mộc-Thổ-Thủy-Hỏa-Kim-Mộc.
c)- Bình Hòa : Thổ gặp Thổ (dù là loại Thổ gì cũng vậy)
d)- Bất cập : Hỏa gặp Hỏa (dù là loại Hỏa gì cũng vậy)
e)- Thái quá : Thủy gặp Thủy (dù là loại Thủy gì cũng vậy)
f)- Phát triển :Kim gặp Kim và Mộc gặp Mộc.

Có nhiều sách ghi thêm tính chất của nhiều loại Thổ, nhiều loại Hỏa để cố gắng phân tích sự tiết giảm xung đột hay tăng thêm hòa hợp; điều này có phần biện bác để an ủi cho những người gặp cảnh ngộ xấu hoặc là tâng bốc những người ưa nghe điều tốt mà thôi. Vì đã ở thế cùng hành tất phải ở tình trạng ngưng đọng hơn là ảnh hưởng với nhau (lý thuyết nhất nguyên tính trạng) Do đó, chủ ý của bài viết này là nhằm cái biến dịch của ngũ hành trên 12 cung số của bản số Tử Vi mà luận giải.

II- Sao Thiên Mã

Người Đông Phương ưa cảm thông sự vật hơn phát biểu sự vật nên việc dùng từ ngữ chỉ có ý nghĩa tượng trưng (chứ không có tính cách mô tả chủ quan như Tây Phương) cho nên dữ kiện được gọi là " sao Thiên Mã " chỉ nên hiểu là cái nghị lực của con người trong bản số Tử Vi. Tùy theo vị trí của 4 cung : Dần, Tỵ, Thân, Hợi mà sao Thiên Mã đóng, ta hiểu như sau :

a)- Thiên Mã ở cung Dần : đứng ở cung Mộc rất hợp với người mạng Mộc bạc nhược với người mạng Kim, vất vả với người mạng Thủy, làm hại người mạng Thổ, làm lợi người mạng Hỏa.

b)- Thiên Mã ở cung Tỵ : đứng ở cung Hỏa rất hợp với người mạng Hỏa, làm lợi người mạng Thổ, vất vả người mạng Mộc, làm hại người mạng Kim, bạc nhược với người mạng Thủy.

c)- Thiên Mã ở cung Thân : đứng ở cung Kim rất hợp với người mạng Kim, làm lợi người mạng Thủy, vất vả người mạng Thổ, làm hại người mạng Mộc, bạc nhược với người mạng Hỏa.

d)- Thiên Mã ở cung Hợi : đứng ở cung Thủy rất hợp với người mạng Thủy, làm lợi cho người mạng Mộc, vất vả với người mạng Kim, làm hại người mạng Thổ.

III- Vòng Tràng Sinh

Vòng Tràng sinh có 12 sao đóng đủ trên 12 cung Tử Vi, ý nghĩa của vòng sao này ta nên coi là dữ kiện sinh tồn của đương số, do đó, khi cung an Mệnh, cung Phước đức (tiền kiếp) và cung Tật Ách (hậu kiếp) có những sao cùng hành với bản mệnh thì luận ra tính cách thọ, yểu, mạnh, khỏe, hay đau yếu :

a)- Đối với saoTràng Sinh (là Thủy) Cung Mệnh sinh sao, sao sinh bản Mệnh là đắc cách. Thí dụ : Người hành Mộc, mệnh an tại Dậu (Tuổi Âm Nam, Dương Nữ) thuộc Kim có các Sao Trường Sinh là Thủy (Kim-Thủy) sao Trường sinh sinh ra hành Mộc. Cung Mệnh sinh sao, sao khắc bản mệnh là sống không khỏe mạnh. Cung Mệnh khắc sao, sao sinh bản Mệnh bất đắc kỳ tử. Cung Mệnh khắc sao, sao khắc bản mệnh : chết non.

b)- Đối với sao Thai (Thổ) thì cần phải đóng ở cung Phúc Đức để chứng tỏ tiền kiếp đã kết tụ tinh anh, phát kết ra kiếp hiện tại, thì lý tự nhiên cuộc sống phải bền, để ý nghĩa của " Thai " hiện hữu như một căn bản không phản hồi được. Trường hợp này, cung Mệnh có sao Mộ, cung Quan có Trường Sinh, Cung Tài có Đế Vượng, (ngu si hưởng thái bình!?)

c)- Đối với sao Đế Vượng (là Kim) cần phải tụ hội ở cung Tật ách (hậu kiếp) để minh chứng ngày ra đi sang kiếp sau được tiếp đón như một thành tích vẻ vang tuyệt đỉnh (vì trong chu kỳ sinh thái của Vòng Tràng-Sinh, thì giai đoạn Đế Vượng coi như điểm cực đại của hàm số Parabole, biểu diễn vòng luân hồi của con người). Trường hợp này là người có sao Tuyệt ở cung Mệnh (khôn ngoan ở đời)

IV- Vòng Lộc Tồn

Sống ở đời, người ta ai cũng cần có phương tiện thuận lợi tối đa để hưởng hạnh phúc (dù là hạnh phúc tạm), nên trong khoa Tử-Vi có vòng sao Lộc Tồn được coi là những dữ kiện của sự hưng thịnh. Vòng Lộc Tồn cũng có 12 sao an đủ 12 cung trên bản số. Tuy nhiên ta lưu ý 4 cung : Dần, Mão, Thân, Dậu nhiều nhất :

a)- Tuổi Giáp : Lộc tồn ở Dần.
b)- Tuổi Ất : Lộc tồn ở Mão
c)- Tuổi Canh : Lộc tồn ở Thân.
d)- Tuổi Tân : Lộc tồn ở Dậu.

Cho nên, những người sanh năm Dần-Ngọ-Tuất mà tuổi Giáp (Giáp Dần, Giáp Ngọ, Giáp Tuất) thì hưởng cái lộc này lâu dài (đúng nghĩa Lộc tồn) những người tuổi Ất Mão, Ất Hợi và Ất Mùi; Canh Thân, Canh Tý và Canh Thìn; Tân Tỵ, Tân Dậu, và Tân Sửu cũng được hưởng may mắn nói trên. Kỳ dư các tuổi khác nếu, cung Mệnh, cung Quan hoặc cung Tài mà có Lộc tồn, thì Lộc tuy có nhưng không tồn được (hưởng trong giai đoạn ngắn mà thôi !? )

V- Vòng Thái Tuế

Có lẽ đây vòng sao hệ trọng nhất đối với người nghiên cứu khoa tử vi lý học . Bởi vòng này diễn tả cái tính khí, phẩm hạnh của đương số cũng như nó cho biết cái chu kỳ thăng trầm của cuộc đời . Cho nên ta phân 12 sao của ngũ hành là :

- Dần Ngọ Tuất : Hành Hỏa
- Tỵ Dậu Sửu : Hành Kim
- Hợi Mão Mùi : Hành Mộc
- Thân Tý Thìn : Hành Thủy

Thành ra 4 nhóm mệnh danh như sau :
a-Nhóm chánh phái : Thái tuế, Quan Phù, Bạch Hổ.
b-Nhóm tả phái : Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn.
c-Nhóm thiên hữu : Long Đức, Thiếu Âm, Trực Phù.
d-Nhóm thiên tả : Thiếu dương, Tử Phù, Phúc Đức.

Cung An Mệnh thuộc nhóm nào, thì giúp ta nhìn thấy cái cá tính chung của đương số ngay, Ví dụ như :

- Những người tuổi Dần, Ngọ, Tuất, cung Mệnh, cung Quan Lộc và Tài Bạch cũng đóng ở 3 cung Dần, Ngọ, Tuất (có nhóm chánh phái đóng) thì là những người đảm lược, lương hảo, anh hùng.

- Những người tuổi Tỵ, Dậu, Sửu có 3 cung Mệnh, Quan và Tài đóng ở 3 cung Tỵ, Dậu, Sửu (có nhóm chánh phái đóng) thì hiển hách hơn người, được kính nể;

- Ta tiếp tục lý luận như trên cho các người tuổi Thân, Tý, Thìn. Mệnh, Quan và Tài cũng đóng Thân, Tý, Thìn. Những người tuổi Hợi, Mão Mùi mà 3 cung Hợi, Mão, Mùi đều là chánh phái cả. Cộng thêm các dữ liệu sao có trong bản số của đương số thì kết luận thêm cho chính xác.

Giai đoạn tuổi ở 1 trong 3 cung của nhóm: Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ, đều là thời vận tốt nhất cho người có lá số tử vi. Khi cung Mệnh của của bản số tử-vi thuộc nhóm tả phái đó là người bất mãn, lang bạt và đau khổ. Cung Mệnh thuộc nhóm thiên hữu là người bẩm chất hiền lành nhưng nhu nhược, cung Mệnh thuộc nhóm thiên tả, là người khôn vặt, lanh lợi những chuyện tầm thường.

VI- Luật của sao TUẦN & TRIỆT

Kiếp nhân sinh ví như cái xe lăn trên đường đời, Sao Triệt được coi như cái Thắng đầu của xe, còn sao Tuần coi như bộ thắng sau của xe. Thắng đầu cần mới nguyên, rất hữu hiệu trong việc cản bánh xe lăn (đôi khi còn tạo ra nguy hiểm ! làm cho xe lật) nên dưới 30 tuổi ảnh hưởng của sao Triệt thật đậm đà. Sao Tuần ít bộc phát ảnh hưởng rõ rệt, nhưng lại bền vững suốt đời người (thắng của bánh xe sau tác dụng điều hòa tốc độ của xe chạy). Luật hóa giải TUẦN-TRIỆT được đặc biệt cho những ai có bản số Tử vi mà cung Mệnh bị một trong hai sao Triệt và Tuần trấn đóng, thì đi đến giai đoạn cung có sao còn lại đóng, là vận hên đã tới.

Thí dụ : Mệnh đóng tại Tỵ có sao Triệt, cung Phúc đức có sao Tuần , vậy đi đến giai đoạn cung Phúc đức thì phát huy được danh phận (dù không thuộc vòng Thái Tuế-Quan Phù-Bạch Hổ). Lý giải điều này cũng tự nhiên. Vi khi xe chạy mà người tài xế điều hành được hai bộ thắng thì tất nhiên phải an toàn bảo đảm như ý muốn.

VII- Bộ ba Thiên Không, Đào Hoa và Hồng Loan


Người biết coi Tử vi, ai cũng biết :Thiên Không (Hành Hỏa), Đào Hoa (Hành Mộc) và Hồng Loan (thuộc hành Thủy). Bản chất của Hỏa Tinh là tàn phá, là gieo rắc tai ương (Thần chiến tranh) : cho nên khi ba cung Mệnh, Quan và Tài của bản số tử vi có :

a)- Thiên Không, Đào Hoa nghĩa là Mộc dưỡng hỏa, để Hỏa tàn phá thêm mạnh dạn, thêm khốc liệt, ý tượng trưng cho sự khôn ngoan quá quắt của đương số. Người có cách này là mẫu người muốn chiếm đọat, muốn lấn tới để ăn người.

b)- Thiên Không Hồng Loan : Nghĩa là lửa đã bị Thủy trấn áp, bó tay qui hàng, nên cung Mệnh có cách này là mẫu người thoát tục, thích cảnh tịnh hơn cảnh động.

c)- Thiên Không độc thủ (ở Thìn-Tuất-Sửu-Mùi có Hồng Đào chiếu) bụng dạ thất thường người Âm Nam, Âm Nữ là lửa ngầm, người Dương Nam, Dương Nữ là lửa bùng : tất cả đều thủ đoạn vặt hoặc không bộc lộ hoặc phát tiết ra ngòai.

VIII- Vòng Mệnh và Vòng Thân


Căn cứ của Luật Tam hạp :
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa.
- Thân Tý Thìn là Thủy.
- Hợi Mão Mùi là Mộc.
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Thì khi cung an Mệnh đứng ở vị trí nào so với vòng Thái Tuế, ta phải nhìn thế tam hợp của cung an Mệnh như Vòng tha nhân đối với Vòng bẩm tính đương số là vòng Thái Tuế tam hợp của cung an Thân là Vòng hành động của đương số. Biện chứng qua Luật ngũ hành tiêu-trưởng, ta vạch trần được tác phong đường số một các dễ dàng.

Ví dụ : Người tuổi Tỵ (Vòng Thái Tuế là Tỵ-Dậu-Sửu : Kim), cung an Mệnh đóng ở Tuất (Vòng tha nhân là Dần-Ngọ-Tuất : Hỏa), cung an Thân ở Tý (Vòng hành động là Thân-Tý-Thìn : Thủy). Ta lý giải ngay : số người này là mẫu người ra đời bị người ta chèn ép (do Hỏa khắc Kim), chịu nhiều thua thiệt, vất vả (vì Kim sinh Thủy)


IX- Nhóm hung tinh chiến lược


Ta gọi là hung tinh chiến lược, vì các sao Địa không, Địa Kiếp, Đà La, Kình Dương, Hỏa Tinh, Linh Tinh, có những bộ mặt thú tính man dã nhưng hóa giải được khi điều hướng đúng chỗ.

a)- Hai sao Địa Kiếp, Địa Không khi đứng trong nhóm tam hợp của vòng Thái Tuế, Quan Phù, Bạch Hổ, thì dù đắc địa (Tỵ, Hợi) hay hãm địa, cũng vẫn mất hiệu lực phá hại của nó, để trở nên ý nghĩa của người có tài mà không có thời. Mặt khác, nếu đương số thuộc hành Thổ thì đã làm cho tính chất Hỏa của Không Kiếp bị tiết khí : nên vẫy vùng yếu kém hẳn.

b)- Hai sao Đà La đóng ở Dần Thân Tỵ Hợi và Kình Dương đóng ở tứ mộ (Thìn Tuất Sửu Mùi ) lại có Vòng Thái Tuế ở đây thì không còn là sao tác họa mà trở thành bộ " hồi chánh tinh " đới công chuộc tội, phát võ hiển vinh, vượng phu ích tử.

c)- Hai sao Hỏa tinh, Linh Tinh cũng là bộ Hỏa-Linh. Nếu đứng trong vòng Thái Tuế thì tạo thành những cái thất bại anh dũng của đương số. Người có cách này, dù " khí thiêng đã về thần" cũng được người đời kính nể khâm phục. Nói cách khác: Đấy là cách của người " Sinh thọ tử bất ninh thọ nhục "

X- Bộ sao phò trợ

Quan niệm " phù thịnh không phù suy " là ý nghĩa của các nhóm sao phù trợ : Tả Phù, Hữu Bật, Lực Sĩ, Bác Sĩ, Hóa Quyền ... Nếu các vòng sao này
lọt vào trong vòng Thái Tuế, thì đúng là những " lương đống công thần " giúp cho đương số thăng tiến thành đạt ở đường đời, bằng trái lại, chúng nhảy sang vòng Tuế Phá, Điếu Khách, Tang Môn (nhóm tả phái), thì chẳng khác nào thả cọp về rừng, sức tán hại càng phát triển, làm cho đương số trăm chiều vất vả (Đặc biệt nếu cung Mệnh có cách này, mà vòng Thái Tuế không tam hợp với cung Mệnh, thì rõ ràng là loại Hoàng Sào thảo khấu, ác bá côn đồ). Nhớ đây chỉ là cái chung nhất cần phải kết hợp thêm các dữ liệu sao trong bản số Tử-vi để mà diễn giải thì mới có kết luận thêm chính xác tới mức độ nào.

XI- Mệnh vô chính diệu : cách số của ma thuật

Nói chung những người có cung Mệnh vô chính diệu, thường là mẫu người sắc sảo, quyền biến có nhiều cảm ứng bén nhạy hơn người có chính diệu thủ cung Mệnh. Xem số Tử-vi những người Mệnh vô chính diệu rất khó, vỉ độ chuyển biến của các dữ kiện "sao" rất "Sensible" nghĩa là có cách số ma thuật huyền hoặc nhất. Càng nhiều hung tinh, bại tinh đắc địa tọa thủ Mệnh, càng có lợi cho đương số. Tuy nhiên vẫn cần vòng Thái Tuế tam hợp với cung an Mệnh hoặc cung an Thân để có thể hướng cái chánh nghĩa về cho nhóm ác tinh này, bằng không thì đương số sẽ trở thành những hồ ly tinh tu luyện thành người, bản tính dã thú ... khó phân biệt (!?) sẽ tạo ra những nghiệp ác để rồi đền tội một cách mau chóng (chết yểu).

XII- TỔNG LUẬN

Nếu nắm vững mười dữ kiện căn bản nêu trên, lẽ tất nhiên khoa Tử-Vi không còn là bí truyền ân sủng cho một riêng ai; tất cả chỉ còn là toàn những tương quan ngũ hành sinh khắc hoặc chế hóa, chỉ còn là những lý giải minh bạch cho các dữ kiện được gọi là "sao" của bản số Tử-vi mà nhãn quan của con người nghiên cứu luôn luôn phải khách quan một cách thành khẩn
Được cảm ơn bởi: Ducminh, huonggiang86
Đầu trang

linhchi54990
Lục đẳng
Lục đẳng
Bài viết: 2768
Tham gia: 18:52, 08/09/10

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi linhchi54990 »

em dc 5 lượng 3 chỉ nè,mà ls cũng đạt mức trung bình thui ah
Đầu trang

khieuquang
Nhất đẳng
Nhất đẳng
Bài viết: 187
Tham gia: 19:57, 01/07/10
Đến từ: Thành phố Thái Bình

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi khieuquang »

Theo tôi phép cân xương tính số cũng chỉ để tham khảo mà thôi.Nhiều người cân lượng cao mà chẳng làm nên trò trống gì ,ngược lại có người cân lượng thấp thì ăn nên làm ra.Tóm lại phép cân số chỉ dùng để tham khảo mà thôi.
Đầu trang

Hình đại diện của thành viên
phonglan
Ban tư vấn
Ban tư vấn
Bài viết: 7271
Tham gia: 12:44, 19/01/09

TL: PHÉP CÂN XƯƠNG TÍNH SỐ

Gửi bài gửi bởi phonglan »

khieuquang đã viết:Theo tôi phép cân xương tính số cũng chỉ để tham khảo mà thôi.Nhiều người cân lượng cao mà chẳng làm nên trò trống gì ,ngược lại có người cân lượng thấp thì ăn nên làm ra.Tóm lại phép cân số chỉ dùng để tham khảo mà thôi.
Hoàn toàn nhất trí. Ngay từ bài đầu tiên tôi đã viết rõ điều này rồi.

phonglan đã viết:Phép "Cân Xương Tính Số" là phép xem vận mạng một cách ngắn gọn trên cơ sở quy đổi năm sinh, tháng sinh, ngày sinh, giờ sinh thành một số lượng chỉ nhất định. Khi xem cho một người cần cộng toàn bộ số lượng chỉ của năm, tháng, ngày, giờ sinh (đã quy đổi) của người đó, rồi tra giải đoán tương ứng với số lượng chỉ đó.Khi xem cần tra các bảng để quy đổi số lượng chỉ theo năm, tháng, ngày giờ sinh cho chính xác.
Tuy nhiên, phép xem này chỉ nên dùng để tham khảo.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Kiến thức tướng pháp”