có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Trao đổi về lĩnh vực văn hóa và các môn cổ học khác
anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Phát hiện vi mạch của người ngoài hành tinh trong sọ Napoleon?




PARIS – Thông qua khám nghiệm di thể của Napoleon Bonaparte, các nhà khoa học thừa nhận rằng họ đã “cực kỳ bối rối” trước phát hiện về một vi mạch (microchip) dài nửa inch được gắn trong hộp sọ của ông.
Họ cho biết vật thể kỳ bí này có thể là một vật cấy của người ngoài hành tinh – chứng tỏ vị Hoàng đế Pháp từng bị bắt cóc bởi UFO!
“Nhánh rẽ từ khám phá này gần như là không thể hiểu nổi”, tuyên bố của Tiến sĩ Andre Dubois, người đã đưa ra tiết lộ chấn động này cho một tạp chí y học của Pháp.
“Cho tới nay, mỗi dấu vết đều chứng tỏ rằng nạn nhân của những vụ bắt cóc của người ngoài hành tinh đều là người thường và không đóng vai trò nào trong các sự kiện trên thế giới.
“Nhưng giờ đây, chúng ta đã có bằng chứng thuyết phục rằng trong quá khứ, người ngoài hành tinh từng hành động để ảnh hưởng lịch sử nhân loại – và có thể vẫn đang tiếp tục!”
Tiến sĩ Dubois đã có phát hiện kinh ngạc này khi nghiên cứu hộp sọ được khai quật của Napoleon với số tiền chuyển nhượng 140.000 đô-la từ chính phủ Pháp.
“Tôi đang hy vọng được biết liệu có phải Napoleon đã chịu một cơn rối loạn tuyến yên dẫn tới hình hài thấp bé của mình hay không”, ông giải thích.
Nhưng thay vào đó, nhà nghiên cứu đã tìm thấy điều gì đó còn kinh người hơn: “Khi tôi khám nghiệm bên trong hộp sọ, bàn chải trên tay tôi quệt qua một cái mấu nhỏ.
“Rồi tôi nhìn vào khu vực ấy với một chiếc kính lúp – và thật kinh ngạc, vật thể đó là một loại vi mạch siêu tiên tiến.”
Từ mức độ sinh trưởng của vùng xương quanh vi mạch, vị chuyên gia tin rằng nó đã được cấy vào khi Bonaparte vẫn còn trẻ.
“Napoleon đã mất tích mấy ngày trong tháng 7 năm 1794, khi ông 25 tuổi. Sau đó ông tuyên bố mình đã bị cầm tù trong thời chính biến của Thermidor – nhưng không tồn tại ghi chép nào về vụ bắt giữ cả. Tôi tin rằng đây là thời gian vụ bắt cóc diễn ra.”
Kể từ đó, sự trỗi dậy của Napoleon giống như diều gặp gió. Ngay trong năm sau, ông đã được sắp xếp phụ trách quân đội của Pháp tại Italy.
Điều kỳ lạ là, ông đã có thể chuyển một đội quân thiếu đói và ô hợp thành một lực lượng chiến đấu đỉnh cao và đánh bại người Italy.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

phải nói một phát hiên lớn trong lịch sử nhân loại với phát hiện này chắc máy ông khoa học chính thống hết T0 mồm!!! :D
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »


Phần I GIA TỘC ROTHSCHILD - CƯỜNG QUYỀN DUY NHẤT Ở CHÂU ÂU


Dịch giả: Hồ Ngọc Minh
Hiệu đính: Nguyễn Giang Chi

Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc vào bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra(1).
Mayer Rothschild

Cho đến nay, Bill Gates vẫn được giới truyền thông không ngừng ca tụng và được coi là người đàn ông giàu nhất hành tinh với khối tài sản khổng lồ. Nếu tin rằng đó là sự thật thì có nghĩa là bạn đã bị lừa dối. Bởi vì bạn sẽ chẳng bao giờ tìm thấy được bóng dáng của các ông trùm thật sự giàu có trên bảng xếp hạng những người giàu nhất hành tinh này, còn giới truyền thông phương Tây thì đã bị những thế lực “vô hình” của các ông trùm kia khoá miệng.

Cho đến ngày nay, gia tộc Rothschild vẫn theo đuổi ngành ngân hàng, nhưng nếu bất chợt hỏi 100 người dân Bắc Kinh hay Thượng Hải, bạn sẽ thấy rằng, có đến 99 người biết rất rõ về Ngân hàng Hoa Kỳ, trong khi chẳng một ai biết được ngân hàng Rothschild là ngân hàng nào.

Rốt cuộc, vậy ai là Rothschild? Nếu một người làm việc trong ngành tài chính mà chưa từng nghe đến cái tên Rothschild thì chẳng khác nào một người lính không biết Napoleon, sinh viên ngành vật lý không biết Einstein là ai vậy. Cái tên Rothschild hết sức xa lạ đối với đa số người dân Trung Quốc (cũng như với người Việt Nam). Tuy nhiên, gia tộc này có một sức ảnh hưởng rất lớn đối với quá khứ, hiện tại và tương lai của người dân Trung Quốc cũng như người dân khắp nơi trên thế giới. Thông qua sự đối lập giữa tầm ảnh hưởng và mức độc nổi tiếng của của gia tộc Rothschild đối với thế giới hiện tại, ta có thể thấy khả năng giấu mình của dòng họ này cao siêu đến mức nào.

Rốt cuộc thì dòng họ Rothschild có bao nhiêu tài sản?
Đây vẫn là điều bí mật của thế giới. Theo tính toán sơ bộ thì con số đó là vào khoảng 500 tỉ đô-la(2). Rốt cuộc thì bằng cách nào mà dòng họ Rothschild đã kiếm được khoản tài sản khổng lồ như vậy? Đây là câu chuyện mà chương này sẽ giãi bày cùng bạn.
Sự kiểm soát chặt chẽ trong nội bộ gia tộc, các thao tác ngấm ngầm trong bóng tối, sự hiệp đồng chính xác như một chiếc đồng hồ, việc thu thập tin tức luôn đi trước thị trường lý trí lạnh lùng tuyệt đối, tham vọng vô hạn đối với quyền lực và tiền bạc, sự nhìn nhận thấu đáo đối với tiền tài và sự giàu có cũng như khả năng dự đoán thiên tài đã giúp cho dòng họ Rothschild xây dựng được một vương quốc tài chính rộng lớn và hùng mạnh nhất trong lịch sử xoài người, cho dù vương quốc đó đã từng nằm trong vòng xoáy khốc liệt và tàn bạo của tài chính, chính trị và chiến tranh suốt hơn hai trăm năm qua.

1. Waterloo của Napoleon và Khải hoàn môn của Rothschild

Nathan là con trai thứ ba và cũng là người gan dạ, thông minh nhất trong số năm anh em trong gia tộc Rothschild.
Năm 1798, Nathan được cha mình điều chuyển từ Frankfurt đến Anh để khai phá lĩnh vực ngân hàng của dòng họ Rothschild. Nathan là một chuyên gia ngân hàng có lòng dạ thâm hiểm và cách hành xử quyết đoán, chưa từng có ai thực sự hiểu được thế giới nội tâm của ông ta. Do có tài năng thiên bẩm đáng kinh ngạc về tài chính cùng những thủ đoạn tinh vi, đến năm 1815, ông ta đã trở thành một trong những ông trùm ngân hàng nổi tiếng tại London.
Amschel - người anh trai của ông ta chuyên lo việc điều hành đại bản doanh (M.A Rothschild and Sons) của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt, trong khi Salomon người anh trai thứ hai - đã xây dựng được một chi nhánh ngân hàng khác của dòng họ này ở thành Vienna - Áo (S.M Rothschild and Sons), còn Calmann - người em thứ tư của Nathan - đã xây dựng một chi nhánh khác ở thành phố Napoli của Ý, và James - người em trai thứ năm - cũng có một ngân hàng ở Paris. Hệ thống ngân hàng do dòng họ Rothschild xây dựng là tập đoàn ngân hàng quốc tế đầu tiên trên thế giới. Lúc này, năm anh em nhà Rothschild đang tập trung chú ý vào tình hình chiến tranh châu Âu năm 1815.
Đây là một cuộc chiến tranh quan trọng liên quan đến số phận và tiền đồ của đại lục địa châu Âu. Nếu như Napoleon giành được thắng lợi chung cuộc thì nước Pháp sẽ ở vào vị thế bá chủ đại lục châu Âu. Còn nếu Công tước Wellington đánh bại được quân Pháp thì nước Anh sẽ ở vào thế cân bằng chiến lược của một nước lớn chủ đạo của châu lục này.

Ngay từ những ngày đầu chiến tranh, với tầm nhìn xa rộng, dòng họ Rothschild đã xây dựng hệ thống thu thập và truyền tin tình báo chiến lược cho riêng mình. Họ đã xây dựng một mạng lưới những người đại diện bí mật, giống như những gián điệp tình báo chiến lược. Những người này được cử đi nằm vùng ở các thủ đô, các thành phố lớn, các trung tâm giao dịch và trung tâm thương mại quan trọng ở các quốc gia châu Âu. Tình báo thương mại, chính trị cũng như tình báo trong các lĩnh vực khác đi về như con thoi giữa các thành phố lớn như London, Paris, Frankfurt, Vienna và Napoli. Hiệu suất, tốc độ và độ chính xác của hệ thống tình báo này đều đạt đến trình độ khiến người ta phải thán phục, vượt rất xa so với tốc độ của bất kỳ mạng lưới tin tức của các cơ quan nhà nước nào, còn các đối thủ cạnh tranh thương mại khác càng khó mà đuổi kịp họ. Tất cả những điều này khiến cho ngân hàng Rothschild luôn chiếm được ưu thế vượt trội trong cạnh tranh quốc tế(3).

“Cỗ xe của ngân hàng Rothschild băng băng trên con đường quốc lộ của các vùng đất châu Âu, con thuyền ngân hàng Rothschild lao nhanh qua những eo biển hẹp, những tay gián điệp của ngân hàng Rothschild tràn ngập trên các đường phố châu Âu. Gia tộc này nắm giữ một lượng lớn hiện kim, công trái, thư tín và thông tin. Thông tin độc quyền nóng hổi nhất của họ được truyền đi với tốc độ cực nhanh trên trị trường cổ phiếu và thị trường hàng hoá. Nhưng những tin tức ấy đều không thể nào so sánh được với kết quả của chiến dịch Waterloo”(4).

Ngày 18 tháng 6 năm 1815, trận Waterloo được. triển khai ở ngoại ô Brussels - Bỉ. Đó không chỉ là cuộc quyết đấu sinh tử giữa hai đoàn hùng binh của Napoleon và Wellington mà còn là canh bạc lớn của hàng vạn nhà đầu tư, kẻ thắng sẽ giàu có vô biên, còn kẻ thua sẽ trắng tay, mất nghiệp. Không khí trên thị trường giao dịch cổ phiếu London căng thẳng đến cực điểm, tất cả mọi người đều chờ đợi kết quả cuối cùng của trận Waterloo trong lo âu. Nếu nước Anh thất bại thì giá trái phiếu của xứ sở sương mù sẽ rớt xuống đáy vực; còn nếu thắng, trái phiếu của quốc gia này sẽ tăng giá ngút trời xanh.

Khi hai đoàn hùng binh chạm trán nhau trong những trận chiến sống mái thì các gián điệp của Rothschild cũng khẩn trương cố gắng hết mức để thu thập các thông tin tình báo chính xác về tình hình chiến sự của hai bên. Nhiều điệp viên còn phụ trách việc chuyển các thông tin mới nhất liên quan đến tình hình chiến sự về trạm trung chuyển tin tình báo Rothschild gần chiến trường nhất. Đến chạng vạng tối, kết cục thất bại của Napoleon đã an bài. Một nhân viên chuyển thư nhanh của Rothschild tên là Rothworth đã tận mắt chứng kiến tình hình chiến sự và lập tức lao lên xe ngựa chạy với tốc độ phi mã về hướng Bruxelles, sau đó chuyển hướng về cảng Oostende. Khi Rothworth nhảy lên chuyến thuyền Rothschild tốc hành với giấy thông hành đặc biệt thì trời đã rất khuya. Eo biển Anh (English Channel) lúc này sóng to gió lớn, sau khi trả khoản phí 2.000 francs, Rothworth cũng đã tìm được một thuỷ thủ chịu giúp mình vượt được eo biển này ngay trong đêm(5). Đến sáng ngày 19 tháng 6, anh ta đã đến được bờ bên kia, tức là Folkestone của Anh. Đích thân Nathan Rothschild đã đứng đợi anh ta ở đó Nathan tức tốc xé thư ra xem, lướt nhanh qua dòng tít của bản tin chiến sự rồi giục ngựa lao thẳng về phía Sở Giao dịch chứng khoán London.

Khi Nathan vừa bước chân vào Sở Giao dịch chứng khoán, tất cả những người đang chờ đợi tin chiến tranh trong bầu không khí sốt ruột ở đó lập tức yên lặng. Mọi con mất đều đổ dồn vào gương mặt đầy bí ẩn không lộ chút cảm xúc của Nathan. Nathan bước chậm rãi về phía ghế chủ toạ vốn được xem là “trụ cột của Rothschild”. Lúc này, cơ mặt của ông ta gần như chẳng biến đổi chút nào, trông cứ như là tượng đá vậy. Đại sảnh của Sở Giao dịch khi đó hoàn toàn im phăng phắc chứ không huyên náo như mọi ngày. Mỗi người đều đem tất cả mọi sự giàu sang vinh nhục của mình ký thác vào ánh mắt của Nathan. Im lặng trong giây lát, Nathan liếc mắt ra hiệu cho các nhà đầu tư cổ phiếu của gia tộc Rothschild đang đứng chờ bên cạnh, mọi người ngay lập tức ùa về phía quầy giao dịch, bắt đầu bán đổ bán tháo công trái Anh. Đại sảnh thoáng chốc trở thành một khu hỗn loạn. Một số người bắt đầu to nhỏ với nhau, không ít người đờ đẫn đứng một chỗ. Khi đó, một lượng trái phiếu của Anh trị giá hàng mấy trăm nghìn đô-la Mỹ trong phút chốc bị đẩy thốc đẩy tháo ra thị trường. Giá công trái bất đầu tuột dốc, tạo nên một cơn sóng trượt giá, cơn sau mạnh hơn cơn trước, báo hiệu một sự sụp đổ hoàn toàn.

Lúc này, Nathan ngồi dựa mình vào ghế với vẻ mặt lạnh tanh. Cuối cùng, trong đại sảnh Sở Giao dịch có người đã thét lên rằng “Rothschild đã biết rồi!”, “Rothschild đã biết rồi!“, “Wellington đã thất bại?”. Tất cả mọi người có mặt ngay lập tức hoảng loạn như bị điện giật. Cuộc bán tháo trái phiếu cuối cùng đã trở nên hỗn loạn. Trong lúc mất hết lý trí, người này đã bắt chước người kia tạo nên một kiểu hành vi tự phát. Mỗi người đều muốn bán tống bán đổ những trái phiếu trong tay vốn đã không còn chút giá trị, cố vớt vát được gì hay nấy. Sau mấy giờ bán đổ bán tháo như vậy, trái phiếu của Anh đã chất đầy thành đống như đống rác, giá trị mệnh giá công trái chỉ còn lại 5%(6). Nathan lúc này vẫn thản nhiên ngồi quan sát tất cả những diễn biến xảy ra. Ông ta liếc nhẹ ánh mắt về phía các nhà đầu tư cổ phiếu - cái liếc mắt mà nếu không trải qua huấn luyện lâu dài thì không ai có thể hiểu được. Ngay lập tức, các nhà đầu tư cổ phiếu ập đến các quầy giao dịch, bắt đầu mua vào bằng hết những công trái Anh có trên sàn.

11 giờ đêm ngày 21 tháng 6, Henry Percy - người đưa tin của Công tước Wellington - cũng đã về đến London. Tin cho hay, đại quân của Napoleon đã thất bại hoàn toàn sau trận đánh suốt 8 giờ, tổn thất một phần ba số quân, nước Pháp đã tiêu rồi!
Tin tức này đã chậm hơn cả một ngày so với tin tình báo của Nathan! Và trong một ngày này, Nathan đã kiếm được một lượng tiền gấp 20 lần so với tổng số của cải mà Napoleon và Wellington có được từ mấy chục năm chiến tranh(7)! Trận Waterloo đã biến Nathan trở thành chủ nợ lớn nhất của chính phủ Anh để từ đó chi phối quyền phát hành công trái của nước này. Công trái Anh chính là chứng từ thu thuế của chính phủ trong tương lai, và nghĩa vụ nộp các khoản thuế của người dân Anh cho chính phủ đã biến tướng thành việc trưng thu thuế mà ngân hàng Rothschild đánh vào toàn dân. Các khoản chi tiêu của chính phủ Anh chủ yếu dựa vào việc phát hành công trái mà có, hay nói cách khác, chính phủ Anh cần phải đi vay tiền của các ngân hàng tư nhân để chi tiêu vì không có quyền phát hành tiền tệ trong khi còn phải chi trả lãi suất khoảng 8%, và toàn bộ đều được kết toán bằng tiền kim loại. Khi đã nắm giữ công trái Anh với số lượng áp đảo, trên thực tế Nathan là người đang quyết định giá trị của công trái, chi phối hoàn toàn lượng cung ứng tiền tệ của nước Anh, và như vậy, mạch máu kinh tế của nước Anh đã bị gia tộc Rothschild siết chặt.
Nathan đã không cần che đậy vẻ kiêu ngạo khi chinh phục được đế quốc Anh:
Tôi chẳng cần quan tâm con rối Anh nào đang thống trị đế quốc mặt trời không bao giờ lặn này. Ai khống chế được việc cung ứng tiền tệ của đế quốc Anh thì người đó khống chế được đế quốc Anh, mà người này chẳng ai khác ngoài tôi(8).

2. Bước khởi nghiệp của Rothschild.

Một số người có thể hiểu được hệ thống tiền tệ chi phiếu và tiền tệ tận dụng. Hoặc là họ cảm thấy vô cùng hứng thú với những khoán lợi nhuận mà hệ thống này tạo ra, hoặc là hết sức ỷ lại vào sự bố thí của các chinh trị gia. Mặt khác, đa số người dân không đủ trí lực để có thể hiểu được ưu thế to lớn được sinh ra tư hệ thống này. Họ thừa nhận sự áp bức mà không hề oán thán, thậm chí không chút nghi ngờ rằng hệ thống này sẽ làm tổn hại đến lợi ích của họ(9).

Anh em nhà Rothschild năm 1863.
Rothschild sinh trưởng trong thời đại khi mà cuộc cách mạng công nghiệp phát triển mạnh mẽ, ngành tài chính phồn vinh chưa từng thấy, thực tiễn và lý thuyết tài chính mới mẻ từ Hà Lan và Anh lan truyền ra khắp châu Âu. Cùng với sự ra đời của Ngân hàng Anh (Bank of England) vào năm 1694, một khái niệm và thực tiễn tiền tệ phức tạp hơn rất nhiều so với quá khứ đã được một loạt các ông chủ ngân hàng sáng tạo ra.

Trong 100 năm của thế kỷ 17, khái niệm và hình thức tiền tệ đều có những biến đổi sâu sắc. Từ năm 1694 đến 1776, khi tác phẩm “The Wealth of Nations” (Của cải của các quốc gia) của Adam Smith ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, tổng lượng tiền giấy do các ngân hàng phát hành đã nhiều hơn tổng lượng tiền kim loại đang lưu thông(10). Mâu thuẫn giữa nhu cầu lưu thông tiền tệ tăng đến mức cực đại trong những ngành công nghiệp mới trỗi dậy như ngành đường sắt, khoáng sản, đóng tàu, cơ khí, dệt may, công nghiệp quốc phòng, năng lượng… và khả năng yếu kém trong lưu thông tiền tệ của các ngân hàng cũ đã ngày càng trở nên gay gắt. Ngân hàng mới nổi của dòng họ Rothschild đã nắm bất được cơ hội lịch sử này. Bằng việc áp dụng những phương thức có lợi nhất cho mình, họ đã làm chủ toàn diện hướng đi lịch sử của lĩnh vực tiền tệ hiện đại, mà những người khác thì không có chút cảm giác nào đối với việc số phận của họ đang bị chế độ này quyết định.

Hai lần nội chiến và xáo động trên chính trường từ năm 1625 đã khiến quốc khố của nước Anh trống rỗng. Khi lên ngôi ở nước Anh vào năm 1689, William đệ nhất đã phải đối mặt với một cục diện rối rắm, thêm vào đó là cuộc chiến tranh mà ông đang tiến hành với vua Louis 14 của Pháp đã khiến cho William đệ nhất phải chạy vạy khắp nơi để vay tiền đến mức gần như không cần suy tính thiệt hơn. Lúc này, ngân hàng mà William Paterson làm thống đốc đã đề xuất với quốc vương của mình một ý tưởng mới xuất hiện từ Hà Lan: thành lập một ngân hàng trung ương tư nhân - Ngân hàng Anh, để tiến hành luân chuyển tiền tệ cho những khoản chi khổng lồ của quốc vương.

Ngân hàng tư nhân này đã cung cấp khoản hiện kim trị giá 1,2 triệu bảng Anh cho chính phủ và nó được xem như là “khoản vay vĩnh viễn” (Perpetual Loan) của chính phủ với mức lãi suất hàng năm là 8%, phí quản lý mỗi năm là 4.000 bảng Anh. Như vậy, mỗi năm chỉ cần tốn 100 nghìn bảng Anh, chính phủ đã có thể được hưởng khoản hiện kim 1,2 triệu bảng Anh ngay tức khắc, đồng thời có thể không cần hoàn trả tiền gốc vĩnh viễn? Đương nhiên, những “lợi ích” mà chính phủ phải cung cấp cho họ còn nhiều hơn nữa, đó chính là việc cho phép Ngân hàng Anh độc quyền phát hành chứng chỉ ngân hàng được quốc gia thửa nhận(11).

Lâu nay ai cũng biết cái lợi nhất của ông trùm ngân hàng Goldsmith chính là việc phát hành chứng chỉ ngân hàng. Những chứng chỉ này kỳ thực là sự biên nhận đối với tiền vàng được các khách hàng ký gửi tại ngân hàng Goldsmith. Bởi vì việc đem tiền mặt theo người là điều rất bất tiện cho nên phần lớn mọi người đã dùng chứng chỉ ngân hàng để giao dịch, sau đó thanh toán lại với nhau bằng tiền vàng tương ứng thông qua ngân hàng Goldsmith. Lâu dần, người ta cảm thấy chẳng cần thiết phải đến ngân hàng rút tiền vàng ra để thanh toán cho nhau làm gì, vì vậy, những biên nhận này sau đó dần biến thành tiền giấy. Các nhà hoạch địch chiến lược thông minh của Goldsmith phát hiện thấy rằng, hàng ngày có rất ít người đến rút tiền, cho nên họ bắt đầu ngấm ngầm dùng một số tiền nhàn rỗi của khách ký gửi để cho những người cần tiền vay lấy lời, sau khi người vay trả hết cả vốn lẫn lãi thì những chứng từ vay này cũng được các ngân hàng của Goldsmith bí mật tiêu huỷ mất như chưa từng có chuyện gì xảy ra, dù trên thực tế thì lợi nhuận vẫn cứ chảy vào túi họ đều đặn. Phạm vi lưu thông của các chứng chỉ ngân hàng Goldsmith càng rộng, mức độ chấp nhận càng cao thì lợi nhuận thu về càng lớn. Mà phạm vi lưu thông cũng như mức độ chấp nhận chứng chỉ ngân hàng do Ngân hàng Anh phát hành đều cao hơn rất nhiều so với những ngân hàng khác, những chứng chỉ ngân hàng được quốc gia công nhận này chính là tiền tệ quốc gia.

Lượng tiền mặt của Ngân hàng Anh được thu hút từ các nguồn trong xã hội. Những ai đặt mua chứng chỉ từ 2.000 bảng Anh trở lên đều có thể trở thành uỷ viên Hội đồng quản trị. Tổng cộng đã có 1.330 người trở thành cổ đông của Ngân hàng Anh, 14 người trở thành thành viên thường trực của Hội đồng quản trị, bao gồm cả William Patersonl(12).
Năm 1694, William đệ nhất đã ban hành Hiến chương Hoàng gia (Royal Charter) của Ngân hàng Anh, và như vậy, ngân hàng hiện đại đầu tiên đã ra đời.

Ý tưởng chủ đạo của Ngân hàng Anh chính là biến khoản nợ của quốc vương và những khoản nợ riêng của các thành viên trong hoàng gia thành món nợ vĩnh cửu của quốc gia, lấy thuế của toàn dân làm thế chấp, và tiền tệ quốc gia được Ngân hàng Anh phát hành dựa trên cơ sở các khoản nợ.

Cứ như vậy, quốc vương có tiền để tham chiến hay hưởng thụ, còn chính phủ thì có tiền để làm những gì mình thích làm, ngân hàng giải phóng được những khoản tiền lớn của các khách hàng đang khiến họ ngày đêm lo lắng và thu được những khoản lợi tức khả quan. Tóm lại là tất cả đều vui vẻ, chỉ có điều, những khoản thuế của người dân đã trở thành vật thế chấp. Do có được một công cụ tài chính mới và lớn mạnh như vậy nên số tiền bội chi của chính phủ Anh tăng lên chóng mặt. Từ năm 1670 đến năm 1685, thu nhập của chính phủ Anh là 24,80 triệu bảng Anh, từ năm 1685 đến 1700, thu nhập của chính phủ đã tăng lên hơn gấp đôi, đạt đến con số 55,7 triệu bảng Anh, nhưng việc vay tiền của ngân hàng Anh từ ngân hàng chính phủ trong khoảng thời gian 1685-1700 đội lên hơn 17 lần, từ 800 nghìn bảng Anh lên đến 13,80 triệu bảng Anh(13).

Điều lạ lùng là, thiết kế này đã cắt đứt mối quan hệ giữa việc phát hành tiền tệ quốc gia với khoản nợ vĩnh cửu của quốc gia. Cho nên, nếu phát hành thêm lượng tiền tệ mới thì điều tất yếu là phải tăng thêm quốc nợ, còn muốn thanh toán hết quốc nợ thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc huỷ hoại cả đồng tiền quốc gia. Như vậy, trên thị trường sẽ không còn tiền tệ để lưu thông, cho nên chính phủ cũng mãi mãi không thể nào hoàn trả hết khoản nợ này. Do phải hoàn trả lợi tức và đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế, cho nên điều tất yếu là chính phủ cần phải có nhiều tiền hơn đổ vào lưu thông, và những khoản tiền này lại cần phải vay từ ngân hàng mà ra, cho nên quốc nợ cũng không ngừng tăng lên, và toàn bộ lợi tức của những khoản nợ này đều chảy vào túi ngân hàng, còn gánh nặng lãi suất thì được đổ dồn vào nghĩa vụ đóng thuế của người dân!

Quả thật là từ đó về sau, chính phủ Anh cũng chẳng thể nào hoàn trả hết các khoản nợ đã vay. Đến cuối năm 2005, khoản nợ của chính phủ Anh từ 1,2 triệu bảng năm 1694 đã tăng lên thành 525,9 tỉ bảng, chiếm đến 42,8% GDP của nước Anh(14).

3. Thùng vàng thứ nhất của Rothschild

Ngày 23 tháng 2 năm 1744, Mayer A. Bauer cất tiếng khóc chào đời trong một khu tập trung Do Thái ở Frankfurt.
Móse - cha của Mayer - là một thợ bạc chuyên cho vay lãi lưu động, sinh sống và làm việc ở vùng Đông Âu. Sau khi Mayer ra đời, Móse quyết định định cư tại Frankfurt. Ngay từ nhỏ, Mayer đã thể hiện tài trí bẩm sinh đáng kinh ngạc về kinh doanh. Cha của Mayer đã dồn rất nhiều tâm huyết để đầu tư cho con trai, dốc lòng giảng giải cho Mayer một cách hệ thống những kiến thức kinh doanh liên quan đến tiền tệ và cho vay. Mấy năm sau, Móse qua đời, lúc này Mayer mới 13 tuổi nhưng được sự khích lệ của những người thân thích trong gia đình nên đã quyết định theo nghề tài chính và làm việc trong ngân hàng của dòng họ Heimer gốc Âu ở Hannover(15).
Với sự mẫn cảm và tính cần cù phấn đấu hơn người, Mayer đã nhanh chóng nắm bắt được các kỹ năng chuyên môn trong ngành ngân hàng. Trong suốt 7 năm ròng rã, Mayer giống như một miếng bọt biển đã hấp thu và tiêu hoá những kỳ mưu diệu kế trong ngành tài chính được truyền từ Anh sang. Nhờ vào khả năng làm việc xuất sắc của mình, anh được đề bạt trở thành cổ đông sơ cấp. Trong những ngày tháng làm việc ở ngân hàng, anh đã làm quen được một số khách hàng rất có ảnh hưởng, bao gồm cả tướng Stauffer- người có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển sau này của anh. Chính ở đây Mayer đã ý thức được lợi nhuận và hệ số an toàn khi cho chính phủ và quốc vương vay tiền với mức cao hơn rất nhiều so với việc cho vay cá nhân, bởi vì đây không chỉ là khách hàng lớn mà còn được đảm bảo bởi khoản thuế của chính phủ. Những khái niệm tài chính hoàn toàn mới mẻ đến từ nước Anh này đã khiến cho đầu óc của Mayer bừng sáng hẳn lên.
Mấy năm sau, khi đã trở thành một chàng thanh niên khỏe mạnh, Mayer trở về Frankfurt tiếp tục công việc làm ăn là cho vay lãi của cha mình. Anh còn đổi họ của mình thành Rothschild (Roth trong tiếng Đức có nghĩa là màu đỏ, Schild có nghĩa là dấu mốc). Khi biết được tướng Stauffer cũng đã trở về Frankfurt và đang làm việc trong cung vua William, Mayer nghĩ ngay đến việc phải lợi dụng tốt mối quan hệ này. Tướng Stauffer cũng tỏ ra rất vui khi gặp lại Mayer. Bản thân tướng Stauffer là một nhà sưu tập tiền có tiếng, còn việc nghiên cứu lĩnh vực tiền tệ của Mayer cũng đã có mấy đời gia truyền, cho nên khi đàm đạo đến các loại tiền cổ thì chàng trai trẻ này tỏ ra vô cùng thành thạo khiến cho vị tướng rất hài lòng. Một việc khiến cho tướng Stauffer càng vui hơn - đó là Mayer đã tự nguyện bán cho vị tướng này mấy đồng tiền hiếm với giá chiết khấu rất cao, vì thế mà ông đã xem Meyer như người tri kỷ. Sự khéo léo này đã giúp cho Mayer nhanh chóng thân quen với rất nhiều nhân vật có máu mặt trong hoàng cung. Một hôm, thông qua sự giới thiệu của tướng Stauffer, Mayer được vua William tiếp kiến, và anh chàng nhận ra rằng, vị vua này cũng là một nhà sưu tầm tiền cổ, vậy là Mayer lại dùng cách tương tự để lấy lòng William.
Sau nhiều lần được Mayer bán cho những đồng tiền quý với giá rẻ, vua William tỏ ra áy náy trong lòng, bèn hỏi xem Mayer có muốn giúp gì không. Chớp lấy thời cơ này, Mayer đề xuất muốn trở thành người đại diện chính thức của hoàng cung, và ngay tức khắc, anh đã được William đồng ý Ngày 21 tháng 9 năm 1769, Mayer đã gần huy hiệu hoàng gia lên tấm bảng hiệu của mình, bên cạnh viết một dòng chữ vàng: “M.A. Rothschild, người đại diện do vua William chỉ định”(16). Một thời gian sau, uy tín của Mayer nổi như cồn, công việc làm ăn cũng theo đó mà ngày càng phát đạt.
Trong lịch sử, bản thân thái tử William được mệnh danh là người ham tiền hơn mạng sống, nổi tiếng là người cung cấp “quân đội đánh thuê” cho quốc gia khác để “gìn giữ hoà bình”. Ông có mối quan hệ mật thiết với các hoàng thất ở nhiều quốc gia châu Âu, đặc biệt rất thích làm ăn với hoàng gia Anh quốc. Nhờ có rất nhiều nguồn lợi hải ngoại nên nước Anh thường xuyên phải dùng đến quân đội để duy trì và bảo vệ lợi ích của mình, nhưng số lượng binh lính lại không đủ trong khi lượng tiền mà nước Anh xuất ra lại tương đối nhiều và rất ít khi khất nợ, cho nên, quốc gia này rất hợp rơ với thái tử William. Sau này, khi cuộc chiến tranh giành độc lập của Mỹ nổ ra, số lượng quân Đức mà Washington phải đối phó còn nhiều hơn cả số quân của Anh quốc. Về sau, thái tử William đã tích luỹ được một khoản tài sản lớn nhất trong các hoàng thất châu Âu, ước khoảng 200 triệu đô-la Mỹ. Cũng vì thế mà người đời gọi ông là “con cá mập cho vay máu lạnh nhất châu Âu”(17). Sau khi trở thành một thành viên dưới trướng của thái tử William, Mayer tận tâm tận lực xử lý tốt tất cả mọi việc, vì vậy rất được William tin tưởng. Không lâu sau cuộc đại cách mạng tư sản Pháp bùng nổ (1789 - 1799), làn sóng cách mạng dần lan rộng sang các nước theo chế độ quân chủ lân cận.
Thái tử William bắt đầu nhấp nhổm không yên và lo rằng cuộc cách mạng đang ngày càng lan dần đến nước Đức, các phần tử phản loạn sẽ cướp sạch tài sản của ông. Ngược lại với cách nghĩ của thái tử, Mayer lại hết sức vui mừng với cuộc cách mạng Pháp, bởi vì cuộc khủng hoảng sẽ khiến cho lượng tiền bạc của ông tăng lên. Khi ngọn lửa cách mạng lan đến thành La Mã cổ kính, cắt đứt đường trung chuyển thương mại của Anh, giá hàng hoá nhập khẩu đã tăng vọt. Công việc vận chuyển hàng hoá từ Anh sang Đức đã giúp cho Mayer kiếm được bộn tiền.
Mayer luôn là nhân vật hết sức tích cực trong khu tập trung Do Thái. “Mỗi tối thứ sáu hàng tuần, sau khi kết thúc đợt hành lễ ở giáo đường của người Do Thái, Mayer luôn mời một số học giả Do Thái uyên bác nhất đến nhà mình tụ họp. Họ cùng nhau nhấm nháp rượu vang và thảo luận công việc một cách chi tiết tuần tự hoặc làm một số việc mãi cho đến khuya mới thôi”(18).
Mayer có câu nói nổi tiếng: “Gia đình cầu nguyện cùng nhau sẽ kết dính lại với nhau”(19) (người Do Thái thường cầu nguyện cùng nhau và xem đó như là sự biểu hiện của tình đoàn kết - ND). Người đời sau không thể hiểu được sức mạnh nào có thể khiến cho những người trong dòng họ Rothschild lại quyết tâm theo đuổi quyền lực đến như vậy.
Đến năm 1800, dòng họ Rothschild đã trở thành một trong những dòng họ Do Thái giàu có nhất ở đất Frankfurt.
Trong năm này, Mayer còn nhận được danh hiệu “đại diện hoàng gia đế chế” do quốc vương của xứ La Mã thần thánh trao cho. Danh hiệu này khiến cho ông có thể đi lại khắp nơi trong đất nước này, được miễn trừ các loại thuế đánh vào người Do Thái, thậm chí nhân viên công ty của ông còn có thể mang theo vũ khí.
Năm 1803, mối quan hệ giữa Mayer và thái tử William ngày càng mật thiết hơn khiến cho thế lực của Mayer mạnh hơn rất nhiều so với trước. Một người anh họ của thái tử William là quốc vương Đan Mạch ngỏ ý muốn vay của William một khoản tiền, nhưng sợ người khác biết được sự giàu có của mình nên thái tử đã không đồng ý. Sau khi biết được việc này, Mayer cho rằng đây là một cơ hội rất tốt, bèn đưa ra một phương án giải quyết cho thái tử: thái tử cứ xuất tiền, còn Mayer là người ra mặt thương lượng việc cho vay, lấy danh nghĩa Rothschild cho quốc vương Đan Mạch vay, và như vậy, Mayer có thể trích phần trăm lãi suất. Sau khi suy nghĩ cẩn thận, cảm thấy đây là một phương án vẹn cả đôi đường, vừa có thể cho vay mà lại không để lộ sự giàu có của mình ra cho thiên hạ biết, thái tử bèn nói với Mayer rằng, việc cho quốc vương vay tiền quả là chuyện nằm mơ mà Mayer cũng khó có thể thấy được, và việc này không chỉ được báo đáp về sau, mà còn là cơ hội tuyệt vời để nâng cao danh dự. Kết quả là công việc này đã đem lại cho Mayer thành công rất lớn. Liền sau đó, sáu khoản vay của hoàng thất Đan Mạch được giao dịch thành công thông qua Mayer.
Thanh danh của Rothschild theo đó cũng nổi lên như cồn, đặc biệt là mối quan hệ mật thiết giữa ông và hoàng gia bất đầu được mọi người biết đến ở châu Âu.
Sau khi lên ngôi, Napoleon đã từng có ý đồ muốn lôi kéo William về phía mình, nhưng William lại chần chừ nửa muốn nửa không và không đưa ra được lựa chọn của mình.
Vì không lôi kéo được William, Napoleon đã không nén được bực tức và tuyên bố phải quét sạch dòng họ William ra khỏi bản đồ những “nhân vật có quyền lực thống trị ở châu Âu”, rồi liền đó đưa quân áp sát biên giới. Thái tử William hốt hoảng trốn sang Đan Mạch lưu vong, và trước khi chạy ra nước ngoài đã đem khoản hiện kim trị giá 3 triệu đô-la Mỹ giao cho Mayer cất giữ. Chính khoản hiện kim này đã đem lại cho Mayer quyền lực và sự giàu sang chưa từng có trong đời. Đó cũng chính là thùng vàng đầu tiên giúp Mayer khai thông con đường đến đế chế tài chính của ông trong tương lai.
Mayer còn có một ý chí mạnh mẽ hơn nhiều lần so với việc thành lập Ngân hàng Anh. Khi có được khoản tiền kếch xù từ tay thái tử William, ông lại bắt đầu có ý muốn điều binh khiển tướng. Năm người con của ông giống như năm mũi tên sắc bén nhằm vào năm khu vực trung tâm của châu Âu. Người con cả Amschel trấn giữ toàn vùng Frankfurt, con thứ Salomon được cử đến Vienna khai phá chiến trường mới, người thứ ba Nathan được phái đến Anh để nắm giữ đại cuộc, người thứ tư Calmann được cử đến Napoli của Ý để xây dựng căn cứ địa và đóng vai trò như con thoi truyền đạt thông tin giữa các anh em, và người con út là James thì nắm giữ nhiệm vụ tác nghiệp ở Paris.
Một đế quốc tài chính chưa từng có trong lịch sử loài người đã được hình thành.

4. Nathan - chúa tể thành phố tài chính London

Họ là chúa tể của thị trường tiền tệ thế giới, đương nhiên cũng chinh là chúa tể của tất cả những gì có trên thế giới này. Trên thực tế, họ có cả nguồn thu nhập tài chính của vùng đất nam Italy, còn vua và bộ trưởng của các quốc gia (châu Âu)đều phải lãng nghe họ(20).
Benjamin Disraeli - Thủ tướng Anh, năm 1844
Thành phố tài chính London là một khu đất chỉ chiếm diện tích 2,6 km2 thuộc trung tâm London. Từ thế kỷ 18, nơi đây đã là trung tâm tài chính của nước Anh và thậm chí là của toàn thế giới với hệ thống tư pháp độc lập giống như Vatican, tức là một quốc gia nhỏ trong một đất nước lớn.

Vùng đất nhỏ bé hình viên đạn này tập trung toàn bộ cơ cấu tài chính chủ yếu của thế giới, tạo ra đến 1/6 GDP của nước Anh lúc bấy giờ. Kẻ nào nắm được thành phố London này cũng sẽ trở thành chúa tể của nước Anh. Khi Nathan đến Anh, đúng thời điểm này, cuộc đối đầu giữa Anh và Pháp đang diễn ra gay gắt. Cả hai nước ban hành lệnh cấm vận lẫn nhau, vì thế hàng hoá của Anh rất có giá ở châu Âu. Nathan bắt đầu bắt tay với người em của mình đang ở Pháp - James - để vận chuyển hàng hoá theo kiểu trao tay từ Anh sang Pháp, và công việc này đã đem lại rất nhiều tiền cho họ. Sau này, Nathan làm quen với John Harris - một nhân vật quan trọng trong Bộ tài chính Anh, và thông qua người này biết được quân Anh đang gặp khốn ở Tây Ban Nha.
Lúc đó quân Anh do huân tước Wellington chỉ huy đã chuẩn bị xong việc tấn công Pháp, nhưng cái thiếu duy nhất lúc bấy giờ là lương thực. Huân tước Wellington tuy có sự đảm bảo của chính phủ Anh, nhưng cho dù có nói khô bọt mép cũng khó thuyết phục được các nhà ngân hàng của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha chấp nhận chứng chỉ ngân hàng do ông đưa ra. Đại quân của huân tước Wellington đòi hỏi phải có vàng khẩn cấp(21).

Nathan rất nhanh nhạy và quyết tâm phải kiếm một mẻ từ việc này. Ông đi khắp nơi để hỏi nguồn vàng nhàn rỗi. Cũng may lúc đó có một lô vàng mới về từ Ấn Độ do công ty Đông Ấn Độ vận chuyển đến và chuẩn bị đem ra tiêu thu. Đây là lô vàng mà chính phủ Anh muốn đặt mua, chỉ có điều họ còn chần chừ vì giá quá cao, và muốn chờ giá vàng giảm mới chịu mua vào. Sau khi nắm được tình hình, Nathan bèn lập tức dồn hết số tiền 3 triệu đô-la của thái tử William cùng số tiền mình buôn bán hàng hoá kiếm được ở Anh để đặt mua trước một lượng vàng trị giá 800 nghìn bảng Anh của công ty Đông Ấn Độ(22) và sau đó lập tức nâng giá vàng lên. Thấy giá vàng chỉ tăng mà không giảm trong khi tình hình quân đội ở tiền tuyến ngày càng nguy cấp nên chính phủ Anh chỉ còn cách là mua lại vàng từ tay của Nathan với giá cao hơn. Phi vụ này đã giúp Nathan kiếm được bộn tiền.

Nhưng kế liên hoàn của Nathan vẫn chưa hết. Ông ta lại đề xuất phương án hộ tống số vàng này đến cho huân tước Wellington. Khi đó Pháp đang tiến hành phong toả đường bộ hết sức nghiêm ngặt đối với Anh, cho nên nếu đi bằng đường này thì rủi ro rất lớn, vì thế chính phủ Anh đã đồng ý trả một khoản tiền rất lớn để vận chuyển lô vàng này. Sau khi thương thảo xong, Nathan liền bảo em trai mình là James chỉ mới 19 tuổi thông báo cho chính phủ Pháp biết ông muốn vận chuyển vàng đến Pháp. Chính phủ Anh có thể sẽ hết sức tức giận đối với việc này, bởi vì việc vàng chảy sang Pháp sẽ khiến cho khả năng tài chính của Anh suy yếu đi rất nhiều. Vì có lợi trong việc này nên nhà cầm quyền Pháp bèn lập tức lệnh cho cảnh sát bảo vệ dọc đường bật đèn xanh cho qua. Cá biệt, một số viên quan còn được hối lộ với những khoản tiền lớn để che tai bịt mắt vờ như không thấy.
Vậy là số vàng do nhóm Nathan vận chuyển trên thực tế là nhằm mục đích nhận được sự giúp sức của chính phủ cả hai nước Anh - Pháp. Vì vậy, số vàng này đã được nhập một cách chính thức vào ngân hàng Paris. Nathan một mặt tham dự yến tiệc chào đón của chính phủ nước Pháp, một mặt ngấm ngầm phái người đem đổi toàn bộ số vàng này thành tiền vàng mà công tước Wellington đang cần, rồi vận chuyển đến tay quân Anh ở Tây Ban Nha thông qua hệ thống bí mật của gia tộc Rothschild. Cách xử lý “cao tay ấn“ này của Nathan thật chẳng khác gì những tình tiết trong phim Hollywood thời hiện đại.
Một nhân vật ngoại giao của Bỉ thường trú ở Anh đã nói rằng: “Sự ảnh hưởng của Rothschild đối với nền tài chính ở đây (London) lớn đến mức đáng sợ. Họ hoàn toàn quyết định giá giao dịch ngoại hối của thành phố tài chính London. Với tư cách là ngân hàng, quyền lực của họ khiến người ta phải trố mất. Khi Nathan nổi giận thì Ngân hàng Anh cũng phải run rẩy”.
Một lần, Nathan cầm một tờ chi phiếu được mở bởi ngân hàng Rothschild do anh trai của mình là Amschel gửi đến từ Frankfurt với đề nghị ngân hàng Anh đổi thành hiện kim.

Nhưng lấy lý do là chỉ đổi chi phiếu do mình phát hành, ngân hàng này đã từ chối. Nathan tức giận vô cùng. Sáng hôm sau, ông ta đã dẫn theo chín nhân viên của mình, đem theo một xấp chi phiếu của ngân hàng Anh đến và yêu cầu đổi ra vàng, chỉ trong một ngày đã khiến lượng dự trữ vàng của ngân hàng Anh giảm xuống rõ rệt.
Ngày thứ hai, Nathan lại đem đến nhiều chi phiếu hơn. Một quản lý cao cấp của ngân hàng Anh lập bập hỏi Nathan còn muốn đổi trong mấy ngày nữa, Nathan lạnh lùng trả lời: “Ngân hàng Anh từ chối nhận chi phiếu của tôi, tội gì tôi cần đến nó?” Ngân hàng Anh lập tức triệu hồi cuộc họp khẩn cấp, sau đó quản lý cao cấp của ngân hàng Anh đã phải khách khí báo cho Nathan biết rằng, từ nay về sau, ngân hàng Anh sẽ rất hân hạnh được quy đổi tất cả những chi phiếu do Rothschild phát hành.

Trong trận chiến Waterloo, Nathan chỉ cần nhất cử đã đoạt được quyền kiểm soát thành phố tài chính London, từ đó nắm giữ mạch máu của nền kinh tế Anh. Và cũng từ đây, các quyết định quan trọng bao gồm quyền phát hành tiền tệ và giá vàng đều nằm trong tay chi phối của dòng họ Rothschild.

5. James chinh phục Pháp

Một khi chính phủ lại vào nguồn tiền vàng của một ngân hàng, các ngân hàng sẽ đóng vai trò nắm giữ cục diện của chính phủ, bởi vì kẻ trao tiền bao giờ cũng có thế hơn kẻ nhận tiền. Tiền bạc không có tổ quốc, các nhà hoạt động trong lĩnh vực tài chính không biết thế nào là yêu nước và sự cao thượng, mục đích duy nhất của họ đó là làm sao để nhanh chóng có được tiền lời(23).
Napoleon - năm 1815

Trong thời kỳ Napoleon chấp chính, James - người con thứ năm của Rothschild - đi lại như con thoi giữa London và Paris, xây dựng hệ thống mạng lưới vận chuyển hàng hoá của Anh. Sau khi giúp Wellington vận chuyển tiền vàng thành công và cuộc chiến thu mua trái phiếu chính phủ Anh quốc kết thúc, James trở nên nổi tiếng ở Pháp. Ông đã xây dựng được ngân hàng Paris Rothschild, đồng thời âm thầm giúp đỡ cuộc cách mạng ở Tây Ban Nha.
Năm 1817, sau chiến bại ở trận Waterloo, nước Pháp đã mất đi một lượng lớn lãnh thổ có được từ chiến tranh của Napoleon, đồng thời rơi vào cảnh bị bao vây chính trị, nền kinh tế quốc dân cũng ngày càng tiêu điều. Chính phủ của Louis 18 chạy vạy khắp nơi để vay tiền, hy vọng nền tài chính quốc gia có thể từng bước ổn định. Việc một ngân hàng của Pháp và Ngân hàng Barings của Anh nhận được những khoản xin vay khổng lồ trong khi Ngân hàng Rothschild với tiếng tăm lừng lẫy như vậy lại rơi vào thinh lặng đã khiến James cảm thấy rất sốt ruột.
Đến năm 1818, những công trái chính phủ phát hành một năm trước ở Paris và nhiều khu vực khác đều bắt đầu tăng giá. Chính phủ Pháp đã nếm được vị ngọt của lợi nhuận nên muốn vay tiếp của hai ngân hàng kia. Và cho dù có thử đủ mọi cách đi nữa thì anh em nhà Rothschild cũng chẳng kiếm được một chút lợi ích nào. Thì ra, tầng lớp quý tộc Pháp tự cho mình là những người có dòng máu cao quý, còn Rothschild chỉ là kẻ tầm thường nên không muốn làm ăn với Rothschild. Mặc dù giàu nứt đố đổ vách, hào hoa rất mực, nhưng James không phải là người có địa vị xã hội cao. Sự kiêu ngạo của đám quý tộc Pháp đã khiến James hết sức phẫn nộ.
Ông bèn bắt tay cùng các anh em của mình lập kế hoạch khống chế quý tộc Pháp. Còn đám quý tộc cao ngạo nhưng dốt nát của Pháp lại đánh giá thấp chiến lược chiến thuật nổi bật trong lĩnh vực tài chính của dòng họ Rothschild. Khả năng hoạch định chiến lược cũng như bản lĩnh kinh doanh của họ vốn được ví với tài chỉ huy trên chiến trường của Napoleon.

Ngày 15 tháng 11 năm 1818, công trái của Pháp trước đó vẫn đang tăng giá ổn định thì đùng một cái lại có những biến động thất thường. Rất nhanh sau đó, những công trái khác của chính phủ cũng bắt đầu chịu ảnh hưởng, giá cả lần lượt trượt dốc với những mức độ khác nhau. Các nhà đầu tư trên thị trường bắt đầu bàn tán xôn xao. Cùng với thời gian, tình hình chẳng những không có chuyển biến tốt mà trái lại ngày càng có chiều hướng tệ hại(24). Sự bàn tán ở sở giao dịch ngày càng lan rộng đi khắp nơi, có người nói có thể Napoleon sẽ lên nắm quyền lại, cũng có người nói việc thu thuế tài chính của chính phủ không đủ để chi trả lợi tức cho các cổ đông, có người còn lo rằng sẽ xảy ra cuộc chiến mới.

Nội bộ hoàng cung của vua Louis 18 cũng hết sức căng thẳng. Nếu công trái vẫn tụt dốc với biên độ không phanh như vậy thì chính phủ sau này sẽ chẳng biết bấu víu vào đâu. Trên gương mặt của các nhà quý tộc cao ngạo lộ ra vẻ chán nản, ai ai cũng đều lo lắng cho tương lai của đất nước này. Chỉ có hai người đứng ngoài cuộc với vẻ mặt bàng quan lạnh lùng. Đó là James và Calmann.

Do rút ra bài học từ vết xe đổ của nước Anh, một số người đã bắt đầu nghi ngờ rằng gia tộc Rothschild đang thao túng thị trường công trái này. Tình hình thực tế chính là vậy. Bắt đầu từ tháng 10 năm 1818, dòng họ Rothschild đã dùng tài lực hùng hậu của mình làm hậu thuẫn, ngấm ngầm mua vào các công trái Pháp trên tất cả các thị trường lớn ở châu Âu khiến cho công trái của nước này bắt đầu tăng giá. Sau đó bắt đầu từ ngày 5 tháng 11, họ lại đồng loạt bán các trái phiếu này với số lượng lớn ra tất cả các thị trường châu Âu, gây nên sự hoang mang cực độ cho thị trường.

Khi chứng kiến cảnh giá trị công trái của mình rơi tự do xuống đáy như vậy, vua Louis 18 cũng cảm thấy ngôi vị của mình đang lung lay dữ dội. Lúc này, người đại diện của dòng họ Rothschild đã nói với vua Louis 18 rằng, tại sao ông không thử nhờ Ngân hàng Rothschild cứu vãn tình thế.
Trong tình cảnh nước sôi lửa bỏng, Louis đã quên cả địa vị cao sang của mình, đòi cho triệu anh em nhà James đến ngay lập tức. Bầu không khí của điện Elysee nhờ đó mà thay đổi ngay tức khắc, anh em James bị đối xử khinh rẻ trước đây giờ đi đến đâu cũng được tung hô chào đón. Và quả nhiên, chỉ với một cái búng tay của anh em James, thị trường trái phiếu đã bình ổn trở lại, còn họ thì trở thành trung tâm chú ý của nước Pháp. Sau chiến bại về quân sự của Pháp, họ đã cứu được nước Pháp từ cuộc khủng hoảng kinh tế? Những lời ca tụng và những tràng hoa tươi khiến anh em James sung sướng ngất ngây, ngay cả quần áo họ mặc cũng trở thành mốt thời thượng khi đó. Ngân hàng của họ trở thành nơi người ta vào ra giao dịch tấp nập.
Nhờ vậy, dòng họ Rothschild đã khống chế được hoàn toàn nền tài chính Pháp.
“Tài sản của James Rothschild đã đạt đến 600 triệu francs. Ở Pháp chỉ có tài sản của một người có thể sánh với ông ta, đó chính là quốc vương Pháp với khối tài sản trị giá 800 triệu francs. Tài sản của các ngân hàng khác tại Pháp cộng lại vẫn thấp hơn 150 triệu francs so với khối tài sản của James. Và nguồn tài sản này bỗng nhiên đem lại cho ông quyền lực cao siêu không thể tả được, thậm chí đến mức bất cứ lúc nào cũng có thể khiến cho nội các chính phủ tan vỡ”(25).

6. Salomon thăm Áo

Trong mắt họ (gia tộc Rothschild) không có chiến tranh và hoà bình, không có khẩu hiệu và tuyên ngôn, cũng không có chết chóc và danh dự, họ xem thường những thứ mê hoặc đôi mắt của người đời này. Trong mắt họ chỉ có bàn đạp. Thám tử William là một còn người thứ hai chính là Metternich(26).
Fryderyk Merton.

Salomon là con trai thứ hai của Mayer. Hàng năm, ông đi lại như con thoi giữa các thành phố lớn của châu Âu, đảm nhận vai trò điều phối giữa các ngân hàng của dòng họ. Ông là người có tài ngoại giao vượt trội trong số các anh em, nói năng cẩn trọng, rất khéo léo trong việc lấy lòng người khác. Một nhân vật làm ăn trong lĩnh vực ngân hàng từng giao tiếp với Salomon đã nhận xét về ông rằng “Không ai không hài lòng khi chia tay ông ấy”. Chính bởi nguyên nhân này mà các anh em trong nhà đã cùng cử ông đến Vienna khai trương nghiệp vụ ngân hàng của vùng trung tâm châu Âu.

Lúc này, Vienna vẫn là trung tâm chính trị của châu Âu, hầu như các hoàng gia của các nước châu Âu đều có mối quan hệ dây mơ rễ má với vương triều Habsburg. Habsburg được xem là vương thất của đế quốc La Mã thần thánh (giải thể năm 1806), thống trị một vùng rộng lớn bao gồm Áo, Đức, bắc Ý, Thuỵ Sĩ, Biliti, Hà Lan, Luxembourg, Tiệp Khắc, Solvenia và cả miền đông nước Pháp trong suốt hơn 400 năm, là dòng máu vương thất chính tông và cổ nhất châu Âu.

Tuy đế quốc La Mã thần thánh đã bị đánh bại trong cuộc chiến Napoleon, nhưng người kế thừa của vương triều Áo lại tỏ ra kiêu ngạo với vai trò vương triều chính thống của mình. Thêm vào đó là giáo lý Thiên Chúa giáo chính thống của vương triều này không kém phần cứng rắn so với giáo lý mới đang thịnh hành ở các quốc gia như Anh, Pháp.
Việc giao lưu với một gia tộc cao quý như vậy so ra còn cao hơn một cấp so với mối quan hệ với Thái tử William. Tuy đã nhiều lần có ý muốn thiết lập quan hệ kinh doanh với Habsburg, nhưng dòng họ Rothschild luôn nhận được sự cự tuyệt của vương triều này và chẳng thể nào bước vào bậc cửa của đế chế đó.

Ngay sau khi chiến tranh Napoleon kết thúc, Salomon đến gõ cửa đại thành Vienna. Tuy nhiên, tình thế lúc này đã hoàn toàn đổi khác. Dòng họ Rothschild khi đó đã trở thành một dòng họ danh gia vọng tộc ở châu Âu, với nhuệ khí dũng mãnh đã chinh phục được cả hai nền tài chính Anh và Pháp.

Dù vậy song Salomon cũng không dám trực tiếp bàn chuyện làm ăn với người của Habsburg mà muốn tìm được một bàn đạp. Và bàn đạp này chính là Klemens von Metternich ngoại trưởng Áo, nhân vật nổi tiếng trên chính trường châu Âu thế kỷ 19.

Sau chiến bại của Napoleon, thành phố Vienna do Metternich xây dựng nên đã duy trì thời kỳ hoà bình dài nhất ở châu Âu thế kỷ 19. Trong tình thế nước Áo ngày càng suy vi còn kẻ thù mạnh đang bao vây tứ phía, Metternich đã phát huy sự tinh tuý của chế độ đến mức cao nhất. Ông đã lợi dụng sức mạnh hiệu triệu chính thống của hoàng gia Habsburg còn lại ở châu Âu để lôi kéo và xây dựng mối quan hệ đồng minh bền chặt với các nước láng giềng là Phổ và Nga, vừa ngăn chặn được sự khôi phục của Pháp, lại kiểm soát được sự bành trướng của Nga, đồng thời còn hình thành nên một cơ chế kiểm soát liên hoàn đối với làn sóng chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa tự do trong nước, đảm bảo không mất kiểm soát thế lực của các phần tử đa dân tộc trong nước.

Hội nghị Aix-la-Chapelle năm 1818 là một hội nghị quan trọng quyết định đến tương lai của châu Âu sau cuộc chiến tranh với Napoleon. Các đại biểu đến từ các nước như Anh, Nga, Áo, Phổ, Pháp đã quyết định khoản bồi thường chiến tranh của Pháp và vấn đề rút quân của các nước đồng minh. Cả Salomon và Calmann đều tham gia hội nghị này.
Chính tại hội nghị này, Salomon đã làm quen được với Metternich thông qua Gentz - một thủ hạ của Metternich, và rất nhanh chóng trở thành bạn tâm giao. Một mặt, sự tán dương thấu tình đạt lý của Salomon đã khiến Metternich mát lòng mát dạ, mặt khác, Metternich cũng muốn dựa vào thế lực tài chính hùng hậu của gia tộc Rothschild. Hai người tỏ ra rất hiểu nhau. Mối quan hệ giữa Salomon và Gentz cũng ngày càng khăng khít hơn.

Dựa vào Metternich và sự tiến cử của Gentz, thêm vào đó là mối quan hệ làm ăn mật thiết giữa Rothschild với thái tử William và hoàng thất Đan Mạch, bức tường cao ngất của Habsburg cuối cùng cũng bị Salomon vượt qua. Các khoản vay và đầu tư của hoàng thất cho ngân hàng của Salomon ngày càng ổn định và tăng lên, chẳng mấy chốc Salomon đã trở thành “tay trong” của hoàng thất. Năm 1822, hoàng gia Habsburg đã phong hiệu Nam tước cho bốn anh em nhà Rothschild (trừ Nathan).

Được sự giúp sức về tài chính của Salomon, Metternich bắt đầu mở rộng sức ảnh hưởng của Áo, đưa quân đi khắp nơi đến các điểm nóng để “bảo vệ hoà bình”, vì vậy tiềm lực vốn ngày càng suy kiệt của nước Áo lại bị các cuộc điều quân này làm cho thảm hại thêm, và lẽ dĩ nhiên là ngày càng rơi vào vòng xoáy tài chính của dòng họ Rothschild. Khoảng thời gian từ năm 1814 đến năm 1848 ở châu Âu được gọi là thời đại của “Metternich”, còn trên thực tế, người khống chế Metternich lại chính là ngân hàng Rothschild đứng sau lưng.
Năm 1822, Metternich, Gentz, Salomon, James và Calmann đã tham dự hội nghị Verona quan trọng. Sau hội nghị này, ngân hàng Rothschild nhận được một khoản đầu tư với lợi nhuận. rất lớn là công trình đường sắt Trung Âu.
Lúc này, người Áo đã ngày càng ý thức được sức ảnh hưởng của Rothschild, và họ bắt đầu nói đùa với nhau rằng “Nước Áo có một hoàng đế Ferdinand và một quốc vương Salomon”.
Năm 1843, Salomon đã mua Công ty liên hiệp khoáng sản Vitkovice và Công ty luyện kim Magyar - hai công ty nằm trong nhóm 10 công ty công nghiệp nặng lớn nhất thế giới lúc bấy giờ.
Năm 1848, Salomon đã trở thành ông trùm kinh tế và tài chính của Áo.

7. Ảnh hưởng của Rothschild đối với Đức và Ý

Kể từ khi người Đức rút quân sau chiến dịch Napoleon, Liên bang Đức đã được hình thành từ hơn 30 quốc gia phong kiến phân tán trong quá khứ. Amschel nắm giữ vùng Frankfurt và được bầu làm Bộ trưởng tài chính đầu tiên của nước Đức liên bang, năm 1822 được hoàng đế của Áo phong làm Nam tước. Ngân hàng Rothschild ở Frankfurt trở thành trung tâm tài chính của nước Đức. Nhưng vì không có con nối dõi, nên Amschel luôn nhiệt tình giúp đỡ các bậc anh tài mới xuất hiện. Trong số những nhân tài này có một chàng thanh niên mà ông đặc biệt mến mộ - đó chính là Ottovon Bismarck, vị tể tướng có ý chí kiên cường và giàu lòng hy sinh của nước Đức và là một nhân vật nổi tiếng thế giới trong lịch sử hiện đại sau này.

Tình cảm giữa Amschel và Bismarck có cái gì đó giống như tình cha con. Và sau khi Amschel qua đời, Bismarck vẫn duy trì mối quan hệ mật thiết với dòng họ Rothschild. Nhà ngân hàng Samuel Bleichroder đứng sau lưng Bismarck cũng là người đại diện của dòng họ Rothschild(27).
Calmann là người bình dị nhất trong số năm anh em nhà Rothschild, đảm nhận vai trò người đưa tin chủ yếu trong dòng họ, chuyển tin tức đến các vùng của châu Âu và hiệp đồng với các anh em khác. Sau khi giúp. người em thứ năm giành được thắng lợi vang dội trong chiến dịch công trái năm 1818 của Pháp, ông liền được Nathan cử đến Napoli của Ý để xây dựng ngân hàng. Chính ở đây ông đã thể hiện khả năng vượt trội đến khó tưởng tượng so với những người anh em của mình. Calmann không những giúp sức cho Klemens Wenzel von Metternich phái quân đội đến Ý đàn áp cách mạng mà còn dùng những mánh khóe chính trị xuất sắc buộc chính phủ địa phương của nước này phải thừa nhận đã sử dụng chi phí của quân đội. Ông còn giúp cho Medici lập kế hoạch và thu hồi lại chức vị Bộ trưởng tài chính của Napoli. Calmann dần dần trở thành trụ cột tài chính trong hoàng cung của nước ý, sức ảnh hưởng của ông lan toả khắp bán đảo nước này. Ông thiết lập mối quan hệ giao thương qua lại với với Vatican. Khi gặp ông, giáo hoàng Gregory 16 đã phá lệ giao tiếp của Toà thánh bằng cách đưa tay ra cho phép Calmann hôn lên, thay vì đưa chân ra cho hôn như lẽ thường.

8. Đế chế tài chính của Rothschild

Chỉ cần anh em các ngài tụ họp lại cùng nhau thì trên đời chẳng có một ngân hàng nào có thể cạnh tranh, làm tổn thương hoặc kiếm lợi ở các ngài. Một khi các ngài hợp sức với nhau thì uy lực của các ngài sẽ lớn hơn bất cứ ngân hàng nào trên thế giới này(28).
Lời của Davison nói với Nathan, ngày 24 tháng 6 năm 1814.
Trước khi qua đời vào năm 1812, Rothschild cha đã để lại di chúc cho năm người con:
1. Những chức vụ quan trọng trong các ngân hàng của dòng họ phải do các thành viên trong dòng họ nắm giữ, tuyệt đối không để người ngoài nắm những cương vị này. Chỉ cần là đàn ông trong dòng họ thì đều có thể tham gia vào hoạt động thương mại của dòng họ.
2. Việc kết hôn chỉ có thể được tiến hành giữa những người họ hàng với nhau trong dòng họ, để tránh tình trạng thất thoát tài sản ra ngoài. (Quy định này trước đây được thực hiện nghiêm túc, về sau đã được nới rộng với việc cho phép các thành viên trong gia tộc được kết hôn với các dòng họ khác gốc Do Thái trong lĩnh vực ngân hàng).
3. Tuyệt đối không cho phép công bố tình hình tài sản ra bên ngoài.
4. Trưởng nam trong mỗi gia đình được xem là các thủ lĩnh, trừ khi được dòng họ đồng ý mới có thể chọn con thứ để tiếp quản. Bất cứ ai vi phạm di chúc này, sẽ mất đi toàn bộ quyền thừa kế tài sản(29).
Tục ngữ có câu: “Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn”, Rothschild đã thông qua hình thức kết hôn trong nội bộ dòng họ để triệt để đề phòng khả năng của cải thất thoát ra ngoài. Trong hơn 100 năm, việc kết hôn theo hình thức này đã diễn ra 18 lần, trong đó có 16 lần là giữa những người con cả vốn là các anh chị em họ với nhau.
Theo tính toán, khoảng năm 1850, dòng họ Rothschild đã tích luỹ tổng số tài sản lên đến 6 tỉ đô-la, và nếu tính tỉ lệ lãi suất 6% thì đến ngày nay, sau hơn 150 năm, tài sản của dòng họ này ít nhất cũng đã trên 50.000 tỉ đô-la.
Một quy chế gia tộc hà khắc, hoạt động hoàn toàn kín kẽ, sự phối hợp nhịp nhàng chính xác như một chiếc đồng hồ, nguồn thông tin sớm hơn thị trường, lý trí lạnh lùng sáng suất, tham vọng quyền lực và tiền tài vô hạn, sự hiểu biết thấu đáo về tiền bạc và của cải cũng như khả năng dự đoán thiên tài đã giúp cho dòng họ Rothschild xây dựng nên một đế chế tài chính lớn nhất trong lịch sử loài người, ngay cả khi đế chế này rơi vào vòng xoáy tàn bạo của tài chính, chiến tranh và chính trị.

Đến đầu thế kỷ 20, tổng số của cải mà dòng họ Rothschild khống chế đã bằng một nửa tổng của cải thế giới lúc bấy giờ(30).

Số lượng các ngân hàng của dòng họ Rothschild đã phủ khắp các thành phố quan trọng của châu Âu. Dòng họ này có một hệ thống thu thập thông tin tình báo và truyền tin nhanh chóng của riêng mình, thậm chí quý tộc và hoàng gia của các nước châu Âu khi muốn truyền những tin khẩn và bí mật đều phải thông qua hệ thống của họ. Họ còn là những người đầu tiên sáng lập nên hệ thống thanh toán tài chính quốc tế, lợi dụng sự khống chế của họ đối với thị trường vàng thế giới để xây dựng một hệ thống thanh toán sổ sách vận chuyển vàng mà không cần dùng đến hiện vật trong hệ thống ngân hàng của dòng họ.

Trên thế giới này, không ai có thể lý giải sâu sắc hơn ý nghĩa đích thực của vàng bằng dòng họ Rothschild. Vào năm 2004, khi tuyên bố rút lui khỏi hệ thống định giá vàng London, dòng họ Rothschild đang ngầm rời bỏ trung tâm bão táp tài chính chưa từng có của thế giới tương lai để định lại mối quan hệ giữa họ với giá trị của vàng. Nền kinh tế đô-la Mỹ chồng chất nợ nần và hệ thống tiền tệ pháp định của thế giới bốn phía rủi ro rình rập, cũng như hệ thống ngoại hối thế giới rất có thể sẽ đối mặt với một đợt thanh toán, chỉ có của cải nhiều năm tích luỹ của các quốc gia Đông Nam A có dự trữ vàng không đáng kể sẽ bị “phân phối lại cho những người thắng cuộc trong tương lai”. Quỹ đối xung sẽ phát động công kích một lần nữa, chỉ có điều, lần này đối tượng sẽ không phải là đồng bảng Anh hay tiền tệ của châu á, mà là trụ cột của nền kinh tế thế giới - đồng đô-la.
Đối với các ngân hàng, chiến tranh là một thông tin vô cùng tốt lành. Bởi các sản phẩm hay các thiết bị đắt tiền phải khấu hao dần dần trong thời bình sẽ tan thành mây khói trong tức khắc, các bên tham chiến sẽ không tiếc bất cứ giá nào để đạt được thắng lợi cuối cùng, đến khi chiến tranh kết thúc, chính phủ dù là của bên thắng hay thua đều bị lún sâu vào vòng nợ nần của các ngân hàng. Trong khoảng thời gian 121 năm kể từ khi ngân hàng Anh thành lập cho đến khi chiến tranh Napoleon kết thúc (1694 - 1815), nước Anh đã có 56 năm sống trong cảnh chiến tranh, một nửa thời gian còn lại được tiêu tốn cho việc chuẩn bị cuộc chiến kế tiếp sau đó.

Việc giật dây gây chiến và tài trợ cho chiến tranh phù hợp với lợi ích căn bản của ngân hàng, và ngân hàng của dòng họ Rothschild cũng không phải là ngoại lệ. Từ cuộc đại cách mạng Pháp (1789) đến chiến tranh thế giới lần thứ hai, hầu như đằng sau cuộc chiến tranh cận đại nào cũng đều thấp thoáng bóng dáng của họ. Dòng họ Rothschild hiện là chủ nợ lớn nhất của các quốc gia phát triển ở phương Tây.

Trước khi qua đời, phu nhân Gutle Schnaper của Rothschild cha còn nói rằng: “Nếu các con trai của ta không thích có chiến tranh, thì sẽ chẳng có ai còn nhiệt tình với chiến tranh nữa”.
Đến giữa thế kỷ 19, quyền phát hành tiền tệ của các quốc gia công nghiệp chủ yếu ở châu Âu như Anh, Pháp, Đức Áo, Ý đều lọt vào tầm khống chế của Rothschild, “Quân quyền thần thánh đã bị kim quyền thần thánh thay thế”. Lúc bấy giờ, sự phồn vinh thịnh đạt của đại lục địa châu Mỹ nằm bên kia bờ Đại Tây Dương đã lọt vào tầm ngắm của gia tộc này.
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 19:56, 06/01/12 với 2 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED) sự ra đời và bản chất của nó






"Tôi tư duy, nên tôi tồn tại" câu nói rất minh triết của nhà khoa học, nhà triết học và đồng thời là nhà toán học Pháp. Rene' Decartes, ông được xem là cha đẻ của nền triết học hiện đại. Lâu nay tôi luôn mê mẫn thuyết âm mưu (Conspiracy Theory). Nó giúp tôi tìm tòi, tự học và nhìn vấn đề phản biện ở góc độ khoa học trong mọi lĩnh vực. Tôi đã có 3 loạt bài về thuyết âm mưu(thuyết ngờ vực hay còn gọi là thuyết nghi ngờ). Hôm nay tôi thử nhìn FED (Federal Reserve System: Cục dự trữ liên bang Mỹ, Ngân hàng dự trữ liên bang Mỹ) xem sao? Dù tôi là người ngoại đạo của hệ thống ngân hàng tài chính. Có gì các bạn chuyên ngành tài chính ngân hàng góp ý giùm cho những cái sai, nếu có.


1. Bản chất của FED:

Năm 1913, mốc thời gian quan trọng mà ngân hàng trung ương Mỹ sau khi trãi qua nhiều cái tên khác nhau như: 1791-1811 là "First Bank of the United States"; 1811-1816 là "Central Bank"; 1816-1836 là "Second Bank of the United States"; 1837-1862 là "Free Banking Era"; 1863-1913 là "National Bank" và từ 1913 đến nay vĩnh viễn đổi tên là FED.(1)

Trước 1913, từ sau khi Mỹ tuyên bố độc lập khi tướng George Washington chiến thắng ở Massachusetts, dành quyền in giấy bạc về mình mà không lệ thuộc vào nước Anh - kẻ đô hộ nước Mỹ. Khoảng thời gian từ năm 1781-1791 FED có tên: The Bank of North America. Bản chất vốn của FED giai đoạn trước 1913 là của sự cộng tác về vốn của chính phủ Mỹ 20% và các tập đoàn tài phiệt của chấu Âu gồm có: Anh, Pháp, Đức, Italia và các nhà tài phiệt Hoa Kỳ nắm giữ 80% vốn.

Do suy thoái kinh tế toàn cầu 1907 có nguy cơ làm cho vai trò của các nhà tài phiệt bị mất đi sự thống lĩnh kinh tế toàn cầu, vì nó bộc lộ yếu kém trong điều hành kinh tế Mỹ và toàn cầu làm mất lòng dân chúng. Nên Bí mật của đảo Jekyll(2) đã được các nhà tài phiệt nắm 80% cổ phần FED có cuộc họp soạn thảo Dự luật mang tên thượng nghị sĩ Cộng Hòa vào ngày 22/11/1910, đương kim chủ tịch ủy ban tiền tệ quốc gia Hoa Kỳ lúc bấy giờ - Nelson W Aldrich(3) - Người có huyết thống với David Rockefeller, ông trùm tài phiệt Mỹ, vua dầu hỏa và là chủ tịch tập đoàn Standard Oil, được mệnh danh là người giàu nhất nước Mỹ.

Cuộc họp bắt đầu ngày 22/11/1910 và kéo dài 12 ngày, do quyết định của tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt (1901-1909) họ đã bỏ ra 2 năm đi chu du và nghiên cứu các hệ thống ngân hàng mà họ cho là tốt nhất thế giới lúc bấy giờ là Anh và Đức. Và được sự ủng hộ của tổng thống phe Dân Chủ thứ 28 Thomas Woodrow Wilson(4), Dự Luật Nelson Aldrich được chính phủ Mỹ công nhận. Bắt đầu năm 1913 cái tên gọi FED được giữ cho đến nay.

Và cũng bắt đầu từ 1913, toàn bộ vốn của FED không có sự tham gia cổ phần của chính phủ mà do các tập đoàn tài phiệt nắm giữ. Họ nắm quyền in đồng Mỹ kim, cứ mỗi Mỹ kim chính phủ Mỹ phải trả họ 2cents từ tiền đóng thuế người dân. Và tùy theo thời điểm mà họ qui định bản vị vàng hay bản vị dầu cho những đồng Mỹ kim được in ra. Nên đồng Mỹ kim có chữ ký chứ không phải đồng tiền tín phiếu như đồng Yuan Trung Quốc và VNĐ của ta. Đây là một điểm độc đáo mà các quỹ dự trữ liên bang hay ngân hàng trung ương các nước trên thế giới không có được. Và cũng chính đây là đặc điểm mà FED có quyền năng tối thượng với kinh tế toàn cầu.


2. Những tập đoàn tài phiệt nắm giữ FED, họ là ai?
Nếu bạn nào có đọc cuốn sách hot năm 2009 ở Việt Nam của tác giả Song HongBing: "Chiến tranh tiền tệ" (Currency Wars)(5) sẽ thấy câu nói nỗi tiếng của Meyer Rothschild ngay đầu chương 1: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Đây là ông tổ của hệ thống ngân hàng liên quốc gia hiện đại ngày nay. Gia tộc Rothschild là gia tộc đứng đằng sau giật dây, thiết kế, dàn dựng và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich đã nói ở trên để chiếm lấy FED về tay tư nhân mà chính phủ Mỹ đã phải ngậm đắng nuốt cay nhìn với con mắt bất lực, thèm thuồng.


2.1. Gia tộc Rothschild: Một đặc điểm gia tộc Rothschild là Meyer Rothschild(6) có dòng họ người Do Thái định cư tại Đức. Mỗi khi nói đến gia tộc này cả thế giới nghĩ ngay đến quyền lực và tiền bạc. Gia tộc này đã xây dựng nên một hệ thống ngân hàng tư nhân và chi phối phần lớn thị trường tiền tệ châu Âu. Tên của gia tộc này gắn liền với 5 chi nhánh ngân hàng Rothschild ở 5 nơi là đầu tàu của châu Âu do 5 người con của Meyer Rothschild nắm giữ: Con trai cả Amschel của Meyer chuyên lo điều hành đại bản doanh M.A Rothschild & Sons của ngân hàng gia tộc Rothschild tại Frankfurt. Người con thứ hai, Salomon Rothschild, đi xây dựng chi nhánh khác của gia tộc ở Vienna-Áo (S.M Rothschild & Sons). Nathan, người thứ ba, là người thông minh, táo bạo và lạnh lùng nhất trong số 5 anh em, ông được cha điều từ Frankfurt đi khai phá chi nhánh ngân hàng Rothschild London vào năm 1798. Calmann, người con thứ tư xây dựng chi nhánh Napoli-Ý và con trai thứ 5 xây dựng chi nhánh thứ 5 tại Paris. Gia tộc này đã biết lợi dụng các cuộc chiến tranh ở châu Âu và chiến tranh thế giới để tạo dựng cơ đồ bằng sự thôn tính các ngân quỹ quốc gia ở châu Âu.

Sau đó gia tộc Rothschild thò vòi bạch tuộc sang đất Mỹ với đại diện là Paul Warburg (1868-1932)(7), cũng là một người Đức gốc Do Thái, là cổ đông lớn công ty Kuhn Leoband Company tại New York. Ông này vào Mỹ năm 1904, nhưng mãi đến 1911 mới nhập tịch và tham gia vào cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll. Ông Paul Warburg có 4 anh em thì cả 4 đều có vị trí quan trọng: anh cả Max Warburg là cục trưởng cục tình báo Đức. Paul là thứ hai, người giữ chức chủ tịch FED đầu tiên của Mỹ, cũng là người nắm chức vụ về tài chính cao nhất Hoa Kỳ lúc bấy giờ. Felix Warburg - em trai thứ ba có cổ đông cao trong Kuhn Leob Co. Người em út là Fritz - Nắm chủ tịch sở giao dịch vàng Hamburg-Đức. Gia tộc Rothschild không bao giờ ra mặt ở FED, nhưng họ đứng đằng sau FED kể từ trước 1913 và là kẻ thiết kế, dàn dựng, hình thành và tạo ra Dự luật Nelson W Aldrich từ khi họp ở Jekyll đến được chính phủ Mỹ thông qua.

Không ai biết gia tộc này giàu bao nhiêu? Nhưng so với Bill Gates, người giàu nhất thế giới hiện nay thì họ có số vốn gấp hơn nhiều lần. Nhưng không phương tiện truyền thông nào nhắc đến.


2.2. Gia tộc Rockefeller: Đại diện gia tộc Rockefeller là ngài David Rockefeller(8), một người Mỹ sinh trưởng ở New York city, cháu nội duy nhất của triệu phú trùm dầu hỏa, người sáng lập ra Standard Oil - John D. Rockefeller. Tiếp quản tập đoàn dầu hỏa từ ông nội sau khi lấy tấm bằng PhD về kinh tế. David Rockfeller đã bành trướng lĩnh vực tham gia sang ngân hàng, người sáng lập và chủ Citigroup và ngay cả Chase Manhattan Bank của gia tộc Morgan ông cũng là một cổ đông lớn. Chính JP Morgan là người giúp cho gia tộc Rockefeller tiêu diệt toàn bộ đối thủ cạnh tranh với việc chuyên chở dầu giá rẻ đi khắp liên bang. Ông còn là nhân vật quan trọng trong lãnh đạo quốc gia. Một thời nước Mỹ xem ông là người giàu nhất nước Mỹ. Ông nội ông là một trong những thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll để soạn thảo ra Dự Luật Albrich. Người có huyết thống với ông. Hãy cứ nhìn hình ảnh ông tiếp Chu Ân Lai(9), thủ tướng Trung Quốc trong thời chiến tranh lạnh là đủ thấy ông có vai trò quan trọng như thế nào trong chính trường thế giới.

Lịch sử nhắc tới gia tộc Rockefeller như là người giàu nhất nước Mỹ bằng vào con đường đâm thuê chém mướn để dành lấy ngôi vị độc tôn dầu hỏa ở Mỹ từ thế hệ ông nội của David Rockefeller. Thì đến đời David Rockefeller, ông chủ với chủ sở hữu từ trùm dầu hỏa và một loạt ngân hàng, cũng như bàn tay lông lá quan trọng đến chính trường nước Mỹ. và thế giới. Nếu ai đã đọc Godfather thì có thể hiểu rằng gia tộc này đã đi lên bằng con đường như thế nào? Nhưng không ai biết tài sản của gia tộc này là bao nhiêu? Nhưng có lẽ, cỡ Bill Gates còn kém gấp nhiều lần.



2.3. Gia tộc JP Morgan: Đại diện gia tộc Morgan là ngài John Pierpont Morgan(10), cũng là một người Mỹ sinh ra và lớn lên ở Connecticut. Ông là trùm ngành công nghiệp Mỹ từ sắc thép đến truyền thông như AT&T, General Electric, cha để của dự án xây dựng hệ thống đường ray toàn nước Mỹ và những hãng bảo hiểm lớn nhất nước Mỹ. Gia tộc Morgan còn nắm 1 lượng lớn cổ phần của Cittigroup của gia tộc Rockfeller. Tập đoàn JP Morgan ước tính có tổng số tài sản tương đương với dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc năm 2009, khoảng 2,041 tỷ USD! Ông không tham gia cuộc họp bí mật ở đảo Jekyll, nhưng có trợ lý Benjamin Strong của ông. Ông mất năm 1913 tại Ý. Song tập đoàn JP Morgan mãi mãi trường tồn và lớn mạnh. Nhưng tiền thân của JP Morgan là đứa con được gia tộc Rothschild đỡ đầu từ hệ thống ngân hàng Merchant Bank do George Peabody và xây dựng một tiền đồn dài lâu cho cuộc tấn công vào thị trường tài chính của nước Mỹ!!!



2.4. Gia đình Carnegie: Đại diện gia dình này là ngài Andrew Carnegie (11). Một trong những ông vua công nghiệp sắc thép của Pittsburgh, PA, nhà doanh nghiệp, người khai sinh môi giới tài chính và là một con người vì sự nghiệp giáo dục và bảo tàng của nước Mỹ. Ông đến Mỹ cùng cha từ Scotland. Ai đã từng quan tâm đến giáo dục Mỹ không thể không biết đến Carnegie Mellon University(12) do ông lập ra rất nỗi tiếng. Và còn bao nhiêu công trình vì cộng đồng do ông tạo nên. Ông được phong tặng là nhà từ tâm của nước Mỹ.


2.5. Một số thành viên khác: Ngoài những thành viên cộm cán trên. Một số thành viên tham gia cuộc họp bí mật tại đảo Jekyll, ngày 22/11/1913 để quyết định đem FED về cho quyền lực ngầm tài phiệt tư nhân. Như Charles D. Norton(14), chủ tịch First National Bank. Henry P. Davison(15) cổ đông lớn của JP Morgan và là chủ tịch Liberty National Bank, chủ tịch chữ thập đỏ Mỹ. Và Frank A. Vanderlip(16) chủ tịch National city Bank và là người từng cho chính phủ Mỹ mượn tiền trong cuộc chiến tranh lập quốc giữa Mỹ và Tây Ban Nha.

Ngoài ra còn có 2 thành viên chính phủ là Nelson Albrich, nhưng thực ra là gia đình của Rockefeller. A. Piatt Andrew, trợ lý bộ trưởng tài chính.

Qua đó, có một điều đáng quan tâm là FED là tư nhân hoàn toàn và không chỉ là của những nhà tài phiệt Mỹ. Họ là tập hợp của một NHÓM QUYỀN LỢI ăn chia tài chính với chính phủ Mỹ có 80% cổ phần trong FED. Sau đó đã gây áp lực với chính phủ Mỹ thông qua cho vay tài chính trong các cuộc chiến tranh để đi đến thâu tóm toàn bộ quyền lợi tài chính thế giới 100% về mình và trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM. Các thành viên tạo vốn cho FED có mặt ở toàn cầu. Mỗi hơi thở FED là sự sống hay cái chết kinh tế của toàn cầu.

PHẦN II: DỰ LUẬT ALDRICH VÀ SỰ SỐNG KINH TẾ TOÀN CẦU
Nước Mỹ là nơi những con người bỏ mẫu quốc ra đi để tìm một chân trời mới không theo những lề thói cũ của những cựu lục địa già nua. Những quốc phụ tạo nên nước Mỹ đã có những tấm lòng cao cả muốn xây dựng một thiên đường hạ giới cho miền đất mới. Nhưng vì lòng tham của con người đã làm thất vọng họ, dù họ đã cố gắng chống chọi bằng cách đưa ra nhiều đạo luật để bảo vệ tuyên ngôn nước Mỹ.

Lịch sử nước Mỹ có những trang đau buồn vì phân biệt chủng tộc, vì nội chiến etc... Nhưng có lẽ đau buồn nhất là sự thông qua đạo luật Nelson Aldrich vào ngày 23/12/1913 của tổng thống thuộc đảng Dân chủ thứ 28: Thomas Woodrow Wilson (1913-1921). Cái ngày mà người ta bảo rằng: Cho đến nay trong lịch sử 43 đời TT Mỹ, không có một tổng thống nào ký bất kỳ một dự luật nào một cách vội vã trước khi thiên chúa giáng sinh! Điều mà sau này chính ông cũng đã phải thốt lên đó là sai lầm của mình(1). Nhưng ông không thể làm khác vì chiếc ghế ông ngồi vào đã được định 2 năm trước khi tổng tuyển cử tổng thống nhiệm kỳ thứ 28. Và việc ông ký đạo luật Aldrich là việc ông phải làm một cách bất thường để trả lễ cho chiếc ghế quyền lực của mình vì những gì mà những ông trùm tài phiệt đã đánh bóng, loppy và đưa ông lên đỉnh vinh quang của sự nghiệp chính trị. Mặc dù trước ông, hai vị tiền nhiệm đã vì nhân dân Mỹ và nước Mỹ nên họ đã chạm vào thánh đường tiền tệ, mà họ phải đối diện với mưu sát: TT thứ 7: Andrew Jackson (1829-1837)(17) và TT thứ 16 bị ám sát: Abraham Lincoln (1861-1865)(18). Lịch sử nước Mỹ có 3 vị tổng thống muốn lấy quyền in tiền về chính phủ. Hai người vừa kể và người thứ 3 là TT thứ 35: John F. Kennedy (1961-1963)(19). Họ đều có hoặc cận kề với cái chết!

Như vậy, tại sao có đạo luật Aldrich? Nó ra đời như thế nào? Nó phục vụ cho ai? Và nó có vai trò gì với nước Mỹ và nhân loại?

A. Đạo luật Nelson Aldrich có gì?(20)
Hiến pháp Mỹ vì tính lịch sử mà có một lỗ hổng chết người là chính phủ chỉ phát hành tiền đồng kim loại, còn tiền giấy thì chỉ là tờ chứng nhận trao đổi. Nước Mỹ trước năm 1913, có 20% cổ phần trong ngân hàng trung ương như đã nói. Nhưng với 20% đó không đủ lực để chống chọi 80% còn lại khi từ nhóm quyền lợi họ kết dính nhau để trở thành quyền lợi nhóm. Chính điều này mà các cuộc suy thoái kinh tế và chiến tranh do các nhà tài phiệt đã nêu ra ở phần 1, tạo ra bằng cách thổi phồng cho vay lãi suất thấp, rồi thắt chặt tiền tệ nâng lãi suất thu hồi tiền về từ các con nợ. Đẩy con nợ vào cảnh bần cùng, bán nhà, bán đất, vô gia cư. Và làm cho chính phủ Mỹ lâm vào thế nợ nần chồng chất. Nên một cuộc cải tổ tài chính Mỹ đã được ông TT thứ 26 Theodore Roosevelt đề xuất và giao cho những nhà tài phiệt nghiên cứu và viết ra. Bộ óc khổng lồ với tư duy minh triết, uyên thâm lúc bấy giờ ngồi vào chấp bút là Paul Warburg. Người đại diện dòng học Rothschild tại Mỹ và đã lập ra một chân rết với gia tộc Rockefeller và JP Morton trước khi có cuộc âm mưu ở đảo Jekyll. Điều gì có lợi cho các tập đoàn tài phiệt đến ắt đến. Câu chuyện ngắn gọn ở phần 1, nói lên tất cả và từ đó mọi sức khỏe của kinh tế toàn cầu đã thuộc về tay các ông trùm tài phiệt trên toàn cầu.

Đạo luật Nelson Aldrich có mấy điều đáng chú ý:
1. FED(21) là ngân hàng tư nhân 100% hoàn toàn, chính phủ Mỹ không còn cổ phần trong FED. Một khi chính phủ muốn chi tiêu quá phần tiền thu thuế từ dân Mỹ thì chính phủ phải vay tiền từ FED thông qua FED in thêm tiền. Quốc hội có nhiệm vụ khống chế FED.
2. FED là tổ chức duy nhất được phép in tiền giấy Mỹ kim. Chính phủ Mỹ chỉ được phép đúc tiền đồng Mỹ kim từ giá trị <=$1. Mỗi lần FED in thêm tiền USD bao nhiêu thì chính phủ Mỹ hay nói cách khác là người dân Mỹ phải nợ FED bấy nhiêu.
3. FED gồm có 12 FED con nằm ở các tiểu bang: mỗi FED con là ngân hàng thương mại tư nhân ở địa phương. 12 FEd con có trụ sở ở: 1- Boston, 2-New York, 3-Philadelphia, 4-Cleveland, 5-St Louis, 6-San Francisco, 7-Richmond, 8-Atlanta, 9-Chicago, 10- Minneapolis, 11- Kansas City và 12-Dallas. Theo đó các FED con đều có quyền in tiền giấy. Cứ theo thứ tự từ 1 đến 12 mà đánh vần theo alphabets thì A là FEd của Boston in ra, B là FED của New York in ra ...ký hiệu đầu serial ở trên tờ tiền. Nhưng FED New Yrok chiếm 53% cổ đông của FED liên bang.
4. Trung ương FED đặt ở Washington DC, nhưng mọi hoạt động làm khuynh đảo thế giới tài chính ở New York. Đây là một trò dối trá cùng với chia đều 12 FED con để vuốt ve nhóm miền Nam và người dân Mỹ sau những cuộc suy thoái do họ làm ra để moi từng đồng tiền từ túi dân nghèo.
5. Cơ cấu FED gồm một hội đồng quản trị có 7 thành viên:
+ Có 3 thành viên: Chủ tịch hội đồng quản trị FED (Chairman of the Goverment Board), Bộ trưởng tài chính (The Treasury Secretary) và Giám Sát Ngân Khố (the Comptroller of Treasury) là người của chính phủ.
+ Thành viên của hội đồng quản trị do tổng thống bổ nhiệm và thay thế. Nhưng mỗi nhiệm kỳ TT Mỹ chỉ được bổ nhiệm và thay thế 2 lần, mỗi lần chỉ 1 người với sự chấp thuận của thượng viện.
+ Nhưng chức năng của hội đồng quản trị FED do hội đồng tư vấn liên bang (Federal Advisory Council) khống chế, và cùng với hội đồng quản trị, Hội đồng tư vấn liên bang sẽ mở hội nghị thảo luận công việc.
+ Thành viên của hội đồng tư vấn liên bang sẽ do Chủ tịch hội đồng quản trị của 12 FED con quyết định. Nhưng đa số thành viên của hội đồng quản trị là do hiệp hội ngân hàng trực tiếp hoặc gián tiếp khống chế.
6. Đồng đô la Mỹ có thể co giãn theo tình hình và được tái chiết khấu. Và bắt đầu sau dự luật người dân Mỹ bắt đầu phải đóng thuế thu nhập (income tax).


Qua đó, chúng ta thấy có mấy điều quan trọng sau đây:
1. Cái gọi là Cục dự trữ liên bang Mỹ hình thức và hiện tượng là của chính phủ Mỹ. Nhưng bản chất là của các nhà tài phiệt đã nói ra ở phần 1. Một sự lấp liếm và lách luật tài tình của Paul Warburg - một tay Đức có nguồn gốc Do Thái.
2. Tước bỏ hoàn toàn chức năng in tiền giấy của chính phủ Mỹ kể từ ngay trước ngày thiên chúa giáng sinh năm 1913. Nhưng trên đồng tiền Mỹ kim vẫn tồn tại câu: "In God, We trust". Và kể từ đó, bao tờ tiền đô la xanh in ra là người dân Mỹ nợ FED bấy nhiêu.
3. Một sự che lấp quyền lực đằng sau hậu trường với người dân Mỹ và các nhóm tài chính miền Nam để khuynh đảo chính trường nước Mỹ và chỉ huy kinh tế, chính trị toàn cầu.
4. Hủy hoại lý tưởng cao cả của những con người có công khai sinh ra cái gọi là "Miền đất hứa", từ khi nước Mỹ chỉ là 13 bang lập quốc ban đầu tiên của 6 bang thuộc New England, 6 bang thuộc Mid Atlantic và Puerto Rico.
5. Cái điều cuối cùng lưu ý trong đạo luật Nelson Aldrich đã giúp cho FED được quyền làm tăng hay giảm giá đồng Mỹ kim và cũng cho phép các ngân hàng thương mại bơm tiền vào thị trường hay thu tiền vào lại ngân hàng một cách tự do để thổi phồng cái bong bóng kinh tế hoặc chích xì quả bóng tạo ra những cuộc suy thoái chủ động theo ý các Ông Trùm!!!
6. Mọi quyền năng của FED thuộc về các ông Trùm nắm 53% cổ phần ở New York. Các ông Trùm ấy ngày nay thế giới gọi là con quái vật ăn thịt người có nhiều đầu hydra như đã liệt kê ở phần I.


B. FED phục vụ cho ai?
Khách quan mà nhìn thì FED là nơi để phục vụ quyền lực của nước Mỹ về kinh tế chính trị đối với thế giới còn lại. Và cũng khách quan mà nhìn thì bản chất của FED là phục vụ cho quyền và lợi của các ông Trùm. Bàn tay của chúa len lỏi vào tận cung đình nhà Trắng. Cho nên trong một bài viết về Văn hóa quảng cáo và thần tượng (22), tôi có dẫn nguồn 44 bài phát biểu TT Mỹ không có gì khác nhau. Chỉ cái khác của nước Mỹ với thế giới còn lại là họ biết đẩy công nghệ quảng cáo lên tột đỉnh, và biến bi kịch thành niềm hy vọng cho con dân nước Mỹ và thế giới trong lúc bị các ông Trùm và chính phủ Mỹ rút ruột qua cơn đại suy thoái toàn cầu 2007-2008 mà thôi.

Tôi còn nhớ thời TT thứ 42 Bill Clinton (1984-2000), lúc đó nước Mỹ thịnh vượng. Công ăn việc làm phủ phê. Giá cổ phiếu của các công ty Mỹ tăng vùn vụt. Chỉ số Dow Jones tăng mỗi ngày. Người dân Mỹ vay tín dụng trả sau với credit card để chơi cổ cánh, buôn bất động sản với những lời khuyên rất bùi tai của Robert Kiyosaki và Sharon Lechter trong bộ sách: Rich dad, Poor Dad (23). Người Mỹ vay ngân hàng, trả bằng sự bảo đảm việc làm của mình trong dài hạn. Kẻ thì mua bất động sản, người thì chơi cổ cánh với Wall Street. Còn các nhân viên làm thuê cộm cán thì được thưởng các tấm cổ phiếu của các công ty làm ăn đang phất. Họ ngủ một đêm tới sáng thấy mình lãi một cục đồng Mỹ kim. Họ sẳn sàng tiêu xây hoang phí. Các ngân hàng thương mại thoãi mái cho vay những đồng tiền ma (24), mà không sợ bất kỳ một cơn bão lớn đang chờ chực ngay trước cửa nhà mình. Khi các ông trùm tung chiêu tạo ra suy thoái 2007-2008. Đến nay, những cổ phiếu mà các công ty thưởng cho nhân viên xuất sắc và cổ cánh dân Mỹ mua trỡ thành giấy lộn. Những mãnh đất và những ngôi nhà mà người dân có được thời ông Bill Clinton, họ buộc lòng phải bán đổ bán tháo. Nhưng không có ai mua và phải bị siết nợ trở về khổ chủ, của Cesar phải trả lại cho Cesar - những ông Trùm!


Đó là nói chuyện người dân nước Mỹ, còn thế giới còn lại thì sao? Như trong một bài viết của tôi vào ngày 12/10/2009 về Thuyết Ngờ vực(Conspiracy Theory)(25) như sau:
"Thế thì đồng đô la mất giá từ lúc 1Euro = 0.9usd đến hôm nay 1Euro = 1.4798usd. Từ lúc 1usd = 120 Yên Nhật đến hôm nay 1usd chỉ còn ăn 88 Yên Nhật. Từ lúc 420usd = 1oz vàng và đến hôm nay 1oz vàng đã đến con số 1.050usd!(26) ... Như vậy, người Mỹ mất gì và được gì? Thế giới còn lại mất gì và được gì? Hầu hết các báo đài trong nước chỉ quan tâm kinh tế Mỹ suy thóai và sự vươn lên của con rồng nham hiểm và bẩn thỉu Trung Quốc. Ít có báo nào quan tâm một vực thẳm đang chờ con rồng Trung Quốc và người Mỹ đã sắp đặt tất cả trò khủng hỏang kinh tế tòan cầu để trục lợi.

Đồng đô la mất giá người Mỹ tăng khả năng xuất khẩu. Châu Âu và thế giới còn lại giảm khả năng xuất khẩu và thất nghiệp do sản xuất đình đốn. Hàng lọat ngân hàng Mỹ phá sản, thế giới mất tiền vì mua cổ phiếu của chúng. Trong đó không lọai trừ Trung Quốc và có thể có cả Việt Nam. Nhưng, ta chỉ thấy một số công khai ở các nước có nền kinh tế minh bạch, vì dụ Singapore: con dâu ông Lý Quang Diệu và là vợ đương nhiệm thủ tướng Lý Hiển Long, chủ tịch tập đòan tư bản nhà nước Temaset - Singapore, bà Hồ Minh đã phải từ chức(27) khi thua thiệt trong vụ phá sản hàng lọat ngân hàng TM của Mỹ lên đến 50 tỷ đô la Singapore. Một số tiền lớn hơn dự trữ ngọai tệ quốc gia của Việt Nam mà người Singapore đã dành dụm bổng chốc tan theo bong bóng xà phòng. Nước Mỹ đã ngồi không để giật tiền thế gới còn lại bằng vào luật phá sản của mình. Để rồi nhà nước Mỹ vay tiền Trung Quốc để làm gói kích cầu và mua lại các ngân hàng phá sản với giá rẻ mạt, không lọai trừ là con số zero hoặc âm. Những NH mà cách đây chỉ 2 năm làm cả thế giới đổ tiền vào hàng tỷ đô la Mỹ kim để mua cổ phiếu.

Đã thế, cả thế giới lo lắng, Trung Quốc phải mở hầu bao cho chúa chổm vay tiếp. Và nước Mỹ lấy tiền vay tung ra tiêu dùng thõai mái với cái gọi là kích cầu(28) đúng bằng con số Trung Quốc cho vay. Nhưng, qua đó người dân Mỹ ý thức được rằng đã đến lúc họ phải biết tiết kiệm. Tiết kiệm để làm gương, tiết kiệm để yêu nước và tiết kiệm để dẩn đầu thế giới. Và người Mỹ vay của thế giới lúc 1usd ăn 1.1Euro. Khi họ trả lại món nợ này có thể 1usd chỉ còn ăn 0.6Euro. Ai lợi, ai lỗ trong cuộc vay trả này?

Tóm lại, cả thế giới còng lưng ra làm bằng mồ hôi, nước mắt và có thể cả máu dưới sự o ép của cuộc sống và có thể có cả chính quyền sở tại, để rồi chỉ trong vài tháng tất cả công sức đó bị biến thành bong bóng xà phòng khi người Mỹ suy thóai kinh tế. Thế thì, suy thóai kinh tế Mỹ là chủ động hay thụ động? Suy thóai để lấy lại vị trí dẫn đầu hay suy thóai để con rồng bẩn thỉu và nham hiểm vươn lên? Rồng vươn lên đâu không thấy. Tôi chỉ thấy Rồng và một số nước kể cả đồng minh của Mỹ đã họp kín để muốn lật đổ đồng đô la.(29)

Thế giới có thể làm ra nhiều tiền. Mỹ còn biết làm ra tiền giỏi hơn thế giời, đó là điều hiển nhiên mà ai cũng thấy. Nhưng ngòai ra Mỹ còn là kẻ biết lấy tiền từ trong túi của thế giới còn lại một cách hợp pháp. Về cách này có lẽ thế giới còn lại phải còn cắp cặp để học Mỹ dài dài. Và Mỹ còn dẫn đầu thế giới dài dài. Tất cả chỉ là thuyết nghi ngờ mà tôi tổng kết suốt 1 năm qua. Ai muốn hiểu sao thì hiểu."

Song có lẽ mất tiền nhiều nhất là các tham quan và chính quyền ở các nước đang phát triễn. Họ cho con đi du học. Con họ được các ông Trùm quan tâm, đến trường loppy và cho học bổng vào các trường tốt của nước Mỹ. Ở đó, con họ được học các ngành finance, economics ... Con họ nghe các thầy, các đàn anh rỉ tai đầu tư cổ phiếu. Thế là những cuộc chảy tiền về Mỹ cho con cái họ và chính phủ họ đầu tư. Cứ $1 vào Mỹ, FED in $1 cho chính phủ Mỹ phục vụ chiến tranh vùng Vịnh, cắt cái đầu ương ngạnh của Saddam Hudssein. Nước Mỹ có được giếng dầu có trữ lượng đứng hàng thứ 3 thế giới. Xong cuộc, của Secar cũng trả về Cesar khi các cổ cánh trở thành giấy lộn trong cuộc suy thoái 2007-2008! Không biết Trung Quốc mất cú này bao nhiêu, nhưng họ phải ngậm đắng, nuốt cay bơm thêm tiền những 800 tỷ USD cho Mỹ, mà phải năn nỉ để cho vay. Có phải vì hy vọng nước Mỹ sẽ vớt dùm những cổ cánh mà họ đầu tư tăng lên một tý để nuôi hy vọng là không mất trắng chăng?

Châu Âu, cựu lục địa thức tĩnh đầu tiên khi họ cấp tốc làm nên Viện tiền tệ Châu Âu(30) năm 1994. Biết bao trỡ lực để 1998 nó trở thành Ngân hàng trung ương Châu Âu(31) sau cuộc suy thoái 1997. Nó đẻ ra đồng tiền Euro để hòng làm đối trọng với đồng USD. Nhưng biết làm sao được? Đến hôm nay, đồng USD vẫn thống sói, dù nó có mất giá.


Và tôi cũng không biết các ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ thế giới là của ai, vì chưa nghiên cứu kỹ khi viết loạt bài này. Nhưng ở mỗi nơi chính phủ Mỹ có 17% cổ phần. Trong khi luật định của chúng là chỉ cần 15% veto (quyền phủ quyết) thì 2 tổ chức gọi là nhân đạo này sẽ không được phép cho vay. Ở đâu vay nhiều tiền của 2 tổ chức tài chính này, hầu như ở đó không chóng thì chày cũng có "chuyện lùm sùm". Khi thuận lợi người ta cần quyền biểu quyết, để dụ cừu non vào chuồng. Nhưng khi khó khăn quyền phủ quyết lại thường hay áp dụng để "xén lông cứu".

Ông chú Theodore Roosevelt, TT thứ 26 nước Mỹ yêu cầu Nelson Aldrich cải cách hệ thống tài chính Mỹ theo FED. Để rồi ông TT thứ 28 Thomas Woodrow Wilson ký dự luật thành lập FED. Đến ông cháu Franklin Delano Roosevelt(1933-1945)(32), TT thứ 32, người do hoàn cảnh lịch sử nên phải ngồi chiếc ghế TT nước Mỹ 4 nhiệm kỳ, đã cứu thoát các nhà tài phiệt khi ký thỏa thuận xóa bản vị vàng cho đồng USD. Từ đó, $35 không còn bắt buộc chính phủ Mỹ và FED phải có 1oz vàng vào kho bạc liên bang mới được in tiền. Một lối thoát để phục vụ cho tính co giãn đồng đô la Mỹ tùy theo tình hình tác chiến của FED và nước Mỹ với các đối thủ khi cần thiết. Vàng đó không còn là bảo chứng cho đồng USD in ra thì họ làmn gì? Họ dùng để bán ra khi đồng USD mất giá thông qua IMF(33) với giá cao ngất ngưỡng với cái gọi là để bù đắp vào thâm hụt ngân sách để kiếm lời. Khi họ tung chiêu hồi mã thương, vàng sẽ hạ trỡ lại rồi họ sẽ mua vào. Có gì lãi hơn nhỉ?

Thế đấy, của Cesar phải trả lại Cesar!!! Những cuộc khủng khoảng như 2007-2008 là những cuộc thi "xén lông cừu" mà các nhà tài phiệt dùng để ám chỉ. Các chu kỳ suy thoái cứ thế tiếp diễn như một vòng tuần hoàn diễn đi, diễn lại. Ai chết cứ chết. Nước Mỹ và dân Mỹ cứ nợ ngày càng nhiều (tính đến 2009 số nợ của Mỹ lên đến 8,500 tỷ USD). Nhưng nước Mỹ vẫn là số 1 và các ông Trùm mãi là Trùm. Dù thế giới có cho rằng họ là con quái vật hydra ăn thịt người có những cái đầu. Chặt hết đầu này, nó mọc ra 2 đầu khác như trong thần thoại cổ Hy Lạp.


C. FED có vai trò gì với Mỹ và nhân loại?
Có lẽ đến đây, mọi người đã rõ? Dù là cái tên FED hay bất kỳ cái tên gì trước đó. Bản chất vấn đề nằm ở chỗ câu nói ban đầu mà tôi mượn của Meyer Rothschild: "Chỉ cần khống chế được quyền phát hành tiền tệ của một quốc gia, tôi sẽ không phụ thuộc bất cứ thứ pháp luật nào do ai đặt ra". Dòng họ Rothschild là dòng họ mà người ta bảo rằng: Bất cứ ai theo ngành tài chính tiền tệ mà không biết đến họ thì chẳng khác nào người lính không biết đến Napoleon, sinh viên ngành Vật lý không biết Albert Einstein là ai vậy(5).

Giai đọan đầu, chính phủ Mỹ và FED là hai đối thủ không thể cùng chung một bầu trời hít thở không khí trong lành của Tân Lục Địa. Ngày nay, chính phủ Mỹ biết đồng thuận sau 3 lần kinh nghiệm của các ông Andrew Jackson, Abraham Lincoln và John F. Kennedy. Họ từ đối thủ trỡ thành QUYỀN LỢI NHÓM cho những mưu toan vì mục tiêu một nước Mỹ đại ca và vì lợi ích các Ông Trùm. Cả hai như cậy phong lan gió bám vào đại th
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 19:54, 06/01/12 với 3 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

do thái trong thời trung cổ thì bị Thiên chúa giáo thảm sát khắp châu âu , đến đệ nhất thế chiến thì bị Nga hoàng ra lệnh thảm sát , đến đệ nhị thế chiến thì đc hitler ra lệnh tổng thảm sát . sau chiến tranh thế giới thứ hai thì láo toét 1 mình chống lại liên minh 8 nước Hồi giáo đòi chiếm vùng đất thánh jerusalem . Iran tuyên bố sẽ dọn cỏ do thái là vì vậy . Vậy đâu là nguyên nhân khiến do thái bị ghét đến như thế.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Chúng ta biết rằng bill gate ông trùm máy tính là dân do thái , Mark Zuckerberg ông chủ Facebook tỉ phú trẻ tuổi giàu nhất thế giới cũng dân do thái . Albert Einstein với thuyết tương đối làm khuynh đảo nền khoa học cũng dân do thái , Các mác là lí luận xã hội , chính trị , viết về CNCS có ảnh hưởng vô cùng lớn đến thế kỉ XX cũng dân do thái ……. Trí thông minh do thái là đây nhưng có phải vì thế mà do thái bị khinh ghét.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Nếu ai chịu khó đọc đầy đủ thì gia tộc Rothchird là gia tộc do thái gốc Đức , chúng nắm trong tay gần như toàn bộ nền kinh tế của thế giới , lũng đoạn , đầu cơ , đại suy thoái , tất cả là do bọn khốn này điều khiển . Cái gọi là tôi không quan tâm thằng mặt thộn nào lên nắm quyền ở Anh , chỉ cần nắm trong tay quyền phát hành tiền mặt tôi không lệ thuộc vào luật pháp của quốc gia nào , điều khiển tổng thống Mỹ như con rối , là đây bộ mặt của những tên do thái chết tiệt mà vì 1 bọn như chúng làm hại uy danh của mọi người do thái .

gia tộc do thái gốc Đức đã độc chiếm chính trường của Mỹ và Châu Âu rồi .
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Nhiều người cho rằng việc kinh tế chính trị hiện đại thì có liên quan thế quái nào đến tôn giáo , xin lỗi , nếu chịu khó đọc hết tất cả những gì tôi post thì sẽ hiểu , không những liên quan mà còn liên quan rất mật thiết nữa .



Tôi sẽ phân chia ra 3 vùng quyền lực của 3 tôn giáo do thái giáo , Kito giáo và hồi giáo .



Do thái nắm giữ quyền lực về tiền bạc , tài chính của Mỹ và Châu âu do đó quyết định nắm giữ quyền lực về chính trị của Mỹ và châu Âu .Nói gọn là kiểm soát mấy thằng tai to , mặt lớn của Mỹ và Châu Âu.


Thiên chúa giáo , đúng như bản chất của nó từ xa xưa , đến thời trung cổ , đến nay nắm giữ quyền lực tinh thần , khi mà hầu hết người dân Châu Âu và Mỹ đều theo đạo Thiên chúa giáo .Đó chính là quyền lực đức tin . Một thời làm cho vua nước Pháp sợ hãi , không giám động chạm vào chuyện tranh giành quyền lực của Thiên chúa .




Hồi giáo chiếm giữ vùng đất Bắc phi điển hình là Ai cập , Lybia , sudan. Và vùng đất Trung đông rộng lớn như irac , iran , pakistan , afgakistan. Chi phối mọi thứ từ chính trị , kinh tế tới đức tin của người dân.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Thế nào là công nghệ thời cổ đại , xin mọi người hãy xem clip sau đây. Coi để biết khoa học bây giờ dấu giếm những gì .




[media]http://www.youtube.com/watch?v=JdYrQEsM ... re=related[/media]
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Hình ảnh

Hình ảnhHình ảnh
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 21:24, 06/01/12 với 1 lần sửa.
Được cảm ơn bởi: beheovtvn
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Văn hóa - Cổ học”