có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Trao đổi về lĩnh vực văn hóa và các môn cổ học khác
anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Nếu ngày xưa kinh tế châu Âu sụp đổ , thì cách vượt qua khủng hoảng là bóc lột thuộc địa .


Các đế quốc già như Anh , Pháp nắm giữ hơn 80% thuộc địa thế giới dư sức vượt qua khủng hoảng bằng bóc lột sức lao động nhân dân thuộc địa , vơ vét vàng , của cải để tạo vốn phát triển , bán những sản phẩm dư thừa từ cuộc khủng hoảng mà bên họ không ai đủ tiền mua thì qua ép buộc dân thuộc địa phải mua hàng của chúng .


Các đế quốc non trẻ như Đức ,Ý bị cuốn vào vòng xoáy khủng hoảng ko có cách nào thoát đc như Đế quốc già , thế là họ quyết giành lấy lại thuộc địa để phát triển kinh tế .

Câu hỏi đặc ra là giành như thế nào .
Hình ảnh
Nếu là thời ban đầu như Anh , Pháp thì chỉ cần cho quân lính cầm súng đạn chì ( cướp biển Carribe ) lên tàu to đi xâm lược mà không gặp trở ngại gì lớn .Mọi thứ thật dễ dàng .


Nhưng đến thời của Đức thì không thể cho quân đi cướp mấy cái thuộc địa của Đế quốc già đc ,đơn giản vì có quá nhiều thuộc địa rộng lớn , xa hơn nữa vòng trái đất , việc làm phí sức như vậy ngay lập tức gặp sự phản khán quân sự của Đế quốc già .
Nhưng đế quốc già rất khôn , vì trong khủng hoảng Đức không có thuộc địa thì nó sẽ phải sớm kiệt quệ kinh tế thôi . Bản chất TƯ BẢN là như vậy .

Đức buộc phải đánh trước để cứu nguy , nhưng làm sao mà cướp đc thuộc địa đây , chỉ có cách là quân phiệt bộ máy chính quyền , tiêu diệt Anh , Pháp thì nghiễm nhiên 80% thuộc địa trên thế giới sẽ là của họ .
Mỹ nhảy vào hô hào tội ác chiến tranh , bảo bọn châu Âu bên nào cũng là quân độc ác , xâm chiếm lãnh thổ các quốc gia làm thuộc địa , mở ra mặt trận THÁI BÌNH DƯƠNG ( xem phim the pacific) bảo vệ các dân tộc trên các đảo giành độc lập khỏi tay phát xít Nhật .
Hình ảnh

Nhưng Mỹ có tốt bụng thế , thay cho cái xâm lược thuộc địa cũ , CN thực dân đc thay thế bằng CN đế quốc. Kiểm soát , chi phối nền kinh tế các nước giải phóng , cái giá phải trả cho việc giải phóng đất nước mà không tự dựa vào sức mình là đây . Việt Nam vốn cũng là thuộc địa nhưng quân đội giải phóng hoàn toàn là người VN , dù nghèo nhưng ta vẫn là ta .
Bằng chiêu bài phát triển kinh tế , theo Mỹ là theo Mẫu quốc tiêu chuẩn của thế giới , Mỹ tự quảng cáo mình là đất nước của tự do, là tương lai của các quốc gia theo Mỹ .


Các quốc gia theo Mỹ nhận đc những khoản hời về viện trợ nhưng thực ra là lệ thuộc kinh tế , Họ…. đều biết là lệ thuộc kinh tế vào Mỹ , nhưng vì những gì Mỹ hứa hẹn và xảy ra trước mắt họ là kinh tế phục hồi nhanh chóng , phát triển lên đến đinh cao như SINGAPO đứng top thế giới dù đất nước bé như cái con muỗi là điển hình của trò lấy ánh sáng chói mà lòe mắt người không thấy đc cái tối .
Hình ảnh


Như đã nói của seza lại về với seza . Rồi họ sẽ chống mắt lên mà xem bản chất thật của CNTB kiểu Mỹ .

Vay mượn bao nhiêu thì phải trả giá bấy nhiêu với cái chiêu bài Đại khủng hoảng kinh tế sắp tới .

Mỹ là quốc gia cho vay “ nhẹ lãi “ , nhưng luôn tìm kiếm cơ hội khiến cho “ con nợ “ không thể nào trả hết khoản nợ của mình .
Khi không trả được nợ , hoặc sẽ chống lại Mỹ hoặc sẽ trở thành con tốt của Mỹ trong trò chơi chiến tranh , chinh phục thế giới .
Đấy chính là CNTB theo kiểu Mỹ ……………………………………

Hình ảnh
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Mỹ tự mình thổi cái bong bóng phát triển kinh tế không dựa vào thực lực , khiến nhiều nước nghĩ rằng Mỹ là siêu cường , đến khi chính Mỹ lại đâm kim vào cái Bong Bóng kinh tế thì cuống quýt cả lên
Hình ảnh
Đến lúc này nhiều người mới hiểu Mỹ giàu lên là nhờ giăng bẫy , đánh trống lãng để khi cuốn vào chiến tranh ,Mỹ lại bình tĩnh xử trí từng thằng phản đối mình bằng cái lò vũ khí “to đùng” phát triển sau thế chiến 2 .

Phát triển kinh tế đứng hàng siêu sao thế giới , cho mấy đàn em vay mượn khắp nơi để phát triển kinh tế .Thế tiền ở đâu để mà phát triển cái kho vũ khí khổng lồ thế . Vũ khí là hàng thật ,ai cũng biết vũ khí của Mỹ khủng khiếp cỡ nào . Vậy tiền ảo chui vào nền kinh tế mất rồi , bảo sao mà kinh tế không bị khủng hoảng như hiện nay .

Hình ảnh
Mỹ nợ Trung quốc hàng nghìn tỉ đô la , tranh cãi tỷ giá nhân dân tệ . Châu âu chạy đua kinh tế với Mỹ nhưng không biết kinh tế bong bóng , đến khi vỡ rồi thì vay mượn khắp nơi cầm hơi .

Thắt lưng buột bụng , buồn cười .

Hô hào kích cầu kích cung , mỗi người mua càng nhiều đồ càng tốt , cứ mua ko cần xài . Mua 5 cái áo vest nhưng chỉ sài 1 . Đến bay giờ thì lại hô hào thắt lưng buột bụng , cắt giảm ngân sách , đòi tiền thuế từ dân . Dân nào chịu nổi việc đóng thuế bù vào khoản nợ , sau thời gian chi tiêu xa hoa phung phí đến thế .

Hình ảnh
Chỉ có tiền thuế của dân mới cứu đc khủng hoảng nợ . cắt giảm chi tiêu , chỉ là đồ vớ vẫn thể hiện quyết tâm của chính phủ , muốn người dân noi theo .

Dân có nghe không khi mà hàng người biểu tình khắp nơi , thế giới này sẽ đi về đâu , tất cả đc quyết định từ 1-1-2012 đến 1-5-2012 . Khi mà khủng hoảng nợ sẽ đi đến đáy của nó . Liệu có vượt qua đc , hay sụp đổ EU là điều tất yếu của ông trùm Mỹ . chờ thêm vài tháng sẽ rõ .
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Cách mạng đẫm máu của Ý chống lại giáo hội VATICAN . Vì sao? Loạt bài sau đây dành cho những ai yêu thích cuốn mật mã DAVINCI.
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

JESUS ĐÃ SỐNG CUÔC ĐỜI NHƯ THẾ NÀO?

Hình ảnh

Cũng giống như Socrate và Khổng Tử, Jesus không viết sách và không ra khỏi đất nước mình. Tất cả những gì chúng ta biết về Ngài đều do bốn cuốn sách phúc âm của Matthew, Luke, Mark, và John. Các cuốn này chỉ kể những gì liên quan đến 3 năm cuối đời của Ngài mà thôi. Ba mươi năm đầu của cuộc đời Jesus không có một sách nào nói tới, ngoại trừ huyền thoại Giáng sinh và chuyện Jesus bị lạc cha mẹ trong dịp lễ Passover ở đền thánh Jerusalem vào năm Jesus lên 12 tuổi. Tóm lại, một khoảng thời gian lớn lao trong cuộc đời Jesus, kéo dài tới 30 năm, cho đến nay vẫn là một ẩn số lịch sử.


Chúng ta chỉ biết rõ một điều là Ngài đã sinh ra và lớn lên với tư cách một công dân Do Thái dưới thời lệ thuộc La Mã, triều đại hoàng đế Augustus. Tuy là người Do Thái nhưng Ngài nói tiếng Aramic của dân tộc Syria là nước ở phía bắc Do Thái. Ngài giảng đạo bằng tiếng Aramic chứ không phải bằng tiếng Hebrew của Do Thái. Khi thân xác còn bị treo trên thập giá, Jesus kêu cứu Thiên Chúa mà ngài gọi bằng Cha "Abba,Abba" là tiếng Aramic. Nhưng điều trớ trêu là không có một cuốn sách phúc âm nào được viết bằng ngôn ngữ chính thức và duy nhất của ngài là tiếng Aramic !. Các bản gốc của các sách phúc âm đều được viết bằng tiếng Hy Lạp từ 35 năm đến 70 năm sau khi Ngài "lên trời". Các tác giả viết về Jesus đều là những người sống xa Ngài cả về không gian lẫn thời gian và hoàn toàn mù tịt về 30 năm cuộc đời son trẻ của Chúa. Người ta gọi thời gian này là "30 năm bí ẩn" hoặc "30 năm thất lạc của Jesus" (The lost years of Jesus).

Phúc âm đầu tiên do Mark viết*: "Đây mở đầu phúc âm của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa" (Here begin the Gospel of Christ, the Son of God) và chuyện mở đầu là lễ rửa tội của Chúa do John the Baptist chủ lễ trên sông Jordan, lúc đó Ngài vừa tròn 30 tuổi.
Thông thường, khi tay chúng ta bị dính dơ thì chúng ta rửa tay. Mọi tín đồ tin mình có tội nên mới xin chịu phép rửa tội. Sau này nghi lễ rửa tội trở thành một thủ tục bắt buộc để nhập đạo. Vào lúc đó, John Baptist (tức Thánh Gioan Baotixita) đang là vị giáo chủ nổi tiếng của giáo phái Essene là một trong ba giáo phái lớn của đạo Do Thái. Trụ sở chính của giáo phái này đặt tại Qumran ở gần Biển Chết (The Dead Sea) và chỉ cách 5 cây số từ trụ sở này đến chỗ Jesus được Gioan Baotixita ban phép rửa tội trên sông Jordan để được chính thức công nhận đã bỏ giáo phái Pharisees để gia nhập giáo phái Essenes (tương tự như người Công giáo đổi đạo sang Tin Lành ngày nay). Sau mỗi đợt thuyết pháp, nhiều tân tín đồ xin theo đạo Essenes đều kéo nhau xuống sông Jordan để cho Gioan Baotixita làm phép rửa tội. Sau đó, các tân tín đồ trở thành những đệ tử chính thức của Gioan Baotixita. Jesus là một trong số những tân tín đồ đó.

Hình ảnh
Sự kiện Jesus được Gioan Baotixita ban phép rửa tội trên sông Jordan vào lúc Jesus 30 tuổi đã xác nhận chính Jesus cũng tin mình là kẻ có tội tổ tông như niềm tin của mọi người Do Thái khác cùng thời. Jesus, cũng như mọi tín đồ Do Thái, chẳng bao giờ có ý nghĩ sẽ dùng cái chết của mình để xóa tội tổ tông cho chính mình và cho cả loài người. Mọi lý thuyết thần học Ki Tô Giáo về sự Cứu Chuộc (Salvation ) của Jesus đều là chuyện bịa đặt để lường gạt những người nhẹ dạ dễ tin mà thôi.
Phúc âm của John (Gioan Thánh Sử) thì mở đầu bằng cách giới thiệu Jesus là Ngôi Lời và đặc biệt chú trọng đến sự chết và sự sống lại của Jesus. John tuyệt nhiên không đả động gì đến 30 năm tuổi trẻ của Jesus.


Chỉ có Phúc Âm của Matthew và Luke thêm phần "Huyền Thoại Giáng Sinh" mâu thuẫn nhau như đã trình bày nơi chương 3. Riêng một sách Phúc âm của Luke kể thêm: Vào năm lên 12 tuổi, Jesus được cha mẹ dẫn đến đền Thánh Jerusalem dự lễ Vượt Qua (Passover). Nguyên vì gia đình của Jesus từ trước đến lúc đó là tín đồ của giáo phái Pharisees là giáo phái độc quyền chiếm giữ đền thánh Jerusalem. Do đó, mỗi khi đi dự lễ do giáo phái Pharisees tổ chức, cha mẹ Jesus đều dẫn con tới đền thánh này. Theo phúc âm của Luke thì trong dịp này, Jesus đã tỏ ra rất khôn ngoan trong cuộc tranh luận về giáo lý đạo Do Thái với các tu sĩ ở đền thánh Jerusalem (Luke 1: 41-52). Căn cứ theo các phúc âm, chúng ta có thể xác quyết một điều là gia đình Joseph-Maria-Jesus vốn là những tín đồ theo đạo Do Thái thuộc giáo phái Pharisees.


Từ đầu thế kỷ II Trước Công Nguyên (TCN), đạo Do Thái bị phân hóa thành 3 giáo phái chính :


1) Pharisees độc quyền chiếm giữ đền thánh Jerusalem, có số tín đồ đông nhất, lập trường chính trị nói chung là ôn hòa.
2) Sadducess ít tín đồ nhất nhưng rất bảo thủ và cuồng tín cực đoan, chỉ tôn trọng luật viết (written law) của đạo Do Thái và phủ nhận giá trị mọi tục lệ cổ truyền bất thành văn. Judas Escariot theo giáo phái cực đoan này. Về chính trị, Judas và Phê Rô đều là các du kích quân thuộc tổ chức chính trị Zealot với chủ trương tiêu diệt đế quốc La Mã bằng biện pháp quân sự.
3) Essenes giáo phái đông thứ nhì sau Pharisees. Giáo phái này cấp tiến nhất vì đứng về phía người nghèo, chủ trương cộng đồng tài sản giống như kiểu lý thuyết Cộng Sản. Giáo phái này kịch liệt đả kích hai giáo phái trên và kết tội họ là những kẻ đạo đức giả, bóc lột dân nghèo. Sau khi Gioan Baotixita bị vua Herod chém đầu theo lời yêu cầu của bà mẹ người đẹp Salomé, Jesus bắt đầu đi lang thang giảng đạo để tiếp nối con đường của sư phụ. Jesus cũng chửi rủa các giáo phái đối lập với luận điệu y hệt như vị tiền bối quá cố của mình.

Hình ảnh
Sự kiện Jesus được cha mẹ dẫn đến đền thánh Jerusalem đủ cho ta thấy gia đình Joseph thuộc giáo phái Pharisees của đạo Do Thái. Như vậy, Jesus đã theo giáo phái Pharisees từ nhỏ theo nếp cũ của gia đình cho đến khi trưởng thành mới cải đạo sang giáo phái Essenes của John the Baptist. Jesus cũng như mọi tín đồ Pharisees khác đã được các tu sĩ của giáo phái này dạy dỗ các điều căn bản của giáo lý trong các nhà hội (synagogue) vào các ngày lễ Sabbath. (thứ bảy hàng tuần). Các điều căn bản là: Luật 10 điều răn của Moises (Mai-sen), sách Leviticus tương tự như Sách Bổn Công Giáo, Thiên Chúa Jehovah cao hơn các tà thần khác như Molech, Jupiter, Appollo của Babylon, Ai Cập, La Mã và Hy Lạp v.v...


Jesus tin tuyệt đối vào Kinh Thánh Do Thái. Jesus tuyên bố: "Cho tới khi trời đất hư mất, một dấu chấm trong Kinh Thánh Do Thái cũng không hư mất". (Matthew 5: 18).Riêng lời xác nhận này cũng đủ cho ta thấy trình độ tâm linh của Jesus cũng chẳng khá hơn mấy so với các tín đồ Do Thái cùng thời vì Jesus cũng tin mọi chuyện nhảm nhí trong Cựu ước là những chân lý tuyệt đối !. Jesus tin xác loài người sẽ sống lại vào ngày tận thế. Trong thời gian đi theo John the Baptist sống ở nơi hoang dã, Jesus mặc áo dài trắng giống như các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes và tất nhiên đã học hỏi thêm được nhiều điều khác của đạo Do Thái qua sự giải thích của giáo phái này. Do đó, bài giảng nổi tiếng nhất của Jesus được mệnh danh là Bài Giảng Trên Núi (The Sermons on the Mount) tức "Kinh Phúc Thật Tám Mối", là những điều đã được rút ra từ nhiều sách của đạo Do Thái: Genesis, Deuteromony, Exodus, Psalms, Prophets và các sách của giáo phái Essenes đã được các nhà khảo cổ tìm thấy tại Qumran năm 1947. Các tài liệu này gồm hàng trăm cuốn sách bằng da lừa, bằng những thanh gỗ hoặc thanh đồng. Các học giả quốc tế gọi những tài liệu này là "The Dead Sea Scrolls", hiện đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng.


Khoảng năm 25 sau Công nguyên, John the Baptist bị bắt và bị chém đầu do lệnh của vua Herod. Trong lúc còn bị giam trong tù, John đã viết một bức thư và nhờ một lính gác ngục tốt bụng chuyển cho Jesus. Trong thư này, John Baptist gọi Jesus là "kẻ đến sau mọi người" (the coming one after all - Mark 1: 14-15). Sau khi nhận được tin John đã chết, Jesus bắt đầu giảng đạo thay John.
Hình ảnh
John the Baptist làm lễ nhập đạo do thái cho Jesus

Nơi đầu tiên được diễm phúc nghe Ngài giảng là quê hương Gallilee của Ngài. "Bây giờ, sau khi John bị bắt và bị giết, Jesus đến Gallilee rao giảng tin mừng của Thiên Chúa" (Mark 1: 14-15). Jesus cố gắng thực hiện các lời tiên tri của Isaiah và Daniel để tỏ ra mình là Chúa Cứu Thế (Kitô) mà cả nước Do Thái đã mong đợi từ lâu. "Isaiah là ngọn đèn sáng của Do Thái cho toàn thể loài người. Cuộc đời của Chúa Jesus là để hoàn thành các lời tiên tri của Isaiah về Chúa Cứu Thế" (John 8:12).


Tuy nhiên, có một điều hết sức quan trọng mà Jesus chẳng bao giờ làm hoặc làm không nổi để trở thành Chúa Cứu Thế đúng theo định nghĩa của tiên tri Isaiah là : "Chúa Cứu Thế là Đấng đến để giải cứu mọi kẻ bị áp bức" (to let the oppressed go free - Isaiah 6: 9 và 61 :1- 2). Thực tế cho thấy Jesus chưa bao giờ cứu những người bị áp bức. Vậy Jesus không thể là Chúa Cứu Thế chân chính mà chỉ là Chúa Bịp ! Số người trên thế gian bị đầy ải áp bức sau khi Jesus "cứu chuộc" lại còn đông hơn gấp bội so với số người bị áp bức trước khi Jesus có mặt trên đời này. Chẳng những Jesus đã không giải phóng cho một ai thoát khỏi sự áp bức, trái lại Jesus đã trở thành một tấm bình phong để những thế lực tội ác núp bóng giết hại trên hai trăm triệu người trong hai ngàn năm qua !. Riêng một sự kiện hiển nhiên này cũng đã đủ để đập tan cái điều cho rằng Jesus là Chúa Cứu Thế Ki-Tô (luận điệu này là của kito giáo ko phải của Jesus !).


Jesus đi theo con đường của John Baptist nên Jesus cũng tự biết sớm muộn thế nào cũng bị bắt và bị giết. Ngài tuyển mộ 12 môn đệ để sau này lãnh đạo 12 bộ lạc Do Thái. Về niềm tin tôn giáo, Jesus cũng giống như sư phụ John Baptist, luôn luôn chú trọng kêu gọi mọi người ăn năn tội lỗi và chuẩn bị đón nhận ngày tận thế đã đến gần trong tầm tay (the end of the world is at hand). Ngài hăm dọa mọi người: "Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sẽ đến bất thần như kẻ trộm". Jesus đã tiếp nối con đường của John the Baptist với chủ đích tạo lập một khối quần chúng đông đảo gồm toàn những người trong sạch khao khát "nước Chúa trị đến" (purified individuals expecting the kingdom of God). Một khi mạng lưới quần chúng lan rộng trên toàn Do Thái, cuộc nổi dậy thần thánh sẽ giải phóng đất nước Do Thái thoát khỏi ách thống trị của La Mã và bọn chính quyền Do Thái bù nhìn. Bọn bù nhìn gồm có triều đình Herod và Hội Đồng Tối Cao Do Thái (Shanderin) đặc trách các vấn đề tôn giáo và tục lệ. Các tín đồ theo John và Jesus đều tin tưởng rằng: Nước Chúa sẽ phá tan quyền lực của La Mã. Sức mạnh vật chất của dân tộc Do Thái không đủ để lật đổ bạo quyền nếu không có sự can thiệp của Thiên Chúa. Mọi người cần phải giữ linh hồn trong sạch để được xứng đáng đón nhận nước Chúa sắp đến. Một khi nước Chúa trị đến, cuộc sống thanh bình hạnh phúc của toàn dân tự nhiên sẽ được thực hiện. John the Baptist và Jesus là những nhà tiên tri dỏm về ngày tận thế (False apocalyptic prophets) có tham vọng khôi phục vương quốc Do Thái với chủ thuyết ngày tận thế sắp đến để kích động tâm lý quần chúng. Cái ngày tận thế "sẽ đến trong tầm tay" của hai thầy trò Jesus chưa bao giờ xảy ra và sẽ chẳng bao giờ xảy ra. Thế gian này vẫn sống mãi cho đến khi nào mặt trời nguội đi. Nếu có một ngày nào đó sẽ là ngày tận thế thì đó chính là ngày tận thế của cái giáo hội ác ôn bịp bợm tôn thờ Jesus!.( Jesus là người tốt khi muốn khôi phục đất nước Do thái nhưng bị giáo hội Kito làm bức bình phong tôn thờ để lừa gạt dân chúng ).

Hình ảnh

quân đội La Mã
Jesus không hoàn toàn tin tưởng vào thắng lợi cuối cùng vì cũng có lúc Jesus đã hình dung ra một sự rối loạn và phân tán của dân tộc Do Thái. Jesus nói: "Các ngươi tưởng rằng ta đến để mang hòa bình cho trái đất sao? Không đâu, ta bảo thật, ta chỉ mang đến sự phân tán" (Do you think that I have come to bring peace to the earth? No, I tell you, but rather division! - Luke 12: 51-53).


John the Baptist và Jesus không phải là những người đầu tiên dùng chủ thuyết "ngày tận thế" để kích động quần chúng, Tám thế kỷ trước Jesus, Isaiah đã dùng chủ thuyết này với mục đích cải tạo xã hội và bản thân Isaiah đã được dân Do Thái tôn kính như Messiah (Chúa Kitô). Đến khi John và Jesus xuất hiện, nhiều người Do Thái đã coi John và Jesus là Messiah hoặc "Isaiah tái thế". Chính vì vậy, khi Jesus cưỡi con ngựa nhỏ về Jerusalem, một đám đông quần chúng đã tung hô "Vinh danh Đấng đã nhân danh Thiên Chúa mà đến" (Blessing on Him who comes in the name of God - Mark 11: 9-10). Trong phiên xử tại đền thờ Jesuralem (người Do Thái chỉ được phép xét xử các tội liên quan đến tôn giáo), tu sĩ cao cấp của đền thờ hỏi Jesus: "Ông có phải là Chúa Kitô không?" (Are you the Messiah?) Jesus trả lời: "Phải" (yes, I am - Mark 14: 61).


Tội của Jesus đã được xác định về phương diện tôn giáo vì Jesus đã dám mạo nhận là Con Trai “Duy Nhất “của Thiên Chúa. Theo giáo lý và tục lệ Do Thái thì sự mạo nhận này là một tội xúc phạm nặng nề đến đạo Do Thái. Tuy nhiên, các tu sĩ Do Thái không có quyền đưa ra một hình phạt hình sự nào đối với Jesus, do đó họ đã giao Jesus cho quan toàn quyền La Mã Poncius Pilate xét xử.


Vào lúc này, tại Jerusalem đang cử hành đại lễ Vượt Qua (Passover) là một ngày lễ kỷ niệm trọng đại, vừa có tính cách lễ trọng của tôn giáo, vừa là ngày quốc khánh của Do Thái. Số dân chúng từ khắp nơi đổ về thủ đô Jerusalem hết sức đông, đến nỗi các bải trống chung quanh thủ đô cũng không có đủ chỗ cho khách hành hương dựng lều trại. Quan toàn quyền Pilate phải đem quân từ thành phố Cesarea về tăng cường bảo vệ an ninh cho thủ đô. Đã từ lâu, Pilate để tâm theo dõi nhóm tôn giáo mới của John the Baptist và Jesus, coi nhóm này là một nhóm chính trị chống La Mã (Anti-Roman Political group). Trong số các môn đệ của Jesus có nhiều người là du kích quân của đảng chính trị Zealot như Judas Iscariot và Peter (Phêrô). Peter có tục danh là "Simon the Zealot"- Mark 3:18). Jesus tự nhận là Messiah đồng nghĩa với "Vua của Do Thái" và công khai chống lại La Mã. Kinh Thánh Cựu Ước Do Thái đã định nghĩa Messiah như sau: Messiah là Vua David Mới, Ngài sẽ chiến thắng mọi kẻ thù của Do Thái và tái lập trật tự ở Jerusalem" (Messiah is New King David. He would subdue Israrel's enemies and set up his rule in Jerusalem).
La Mã và chính quyền Do Thái chỉ nhìn Jesus trên khía cạnh chính trị của truyền thuyết Kitô (the political view of messiah). Họ cho rằng Jesus và phe nhóm đã lợi dụng lúc đồng bào Do Thái qui tụ đông đảo tại Jerusalem trong dịp lễ Pasover (Lễ Vượt Qua) để dấy lên cuộc đảo chánh núp dưới chiêu bài tôn giáo. Jesus cưỡi ngựa vào Jerusalem, tự xưng là Messiah vua Do Thái. Hơn nữa, Jesus còn công khai vào đền thờ Jerusalem đánh đuổi những người bán hương liệu và các thứ lễ vật cho khách hành hương, lật đổ các bàn ghế của những người đổi tiền vì khách hành hương đến đây từ nhiều nước khác cần phải đổi tiền của nước họ để có tiền Do Thái chi tiêu trong ngày lễ. Tất cả các sự việc trên đã dẫn đến cái chết của Jesus với tội danh "âm mưu lật đổ chính quyền". Trên cây thập giá, lính La Mã đã ghi rõ cái ý nghĩa chính trị của huyền thoại Kitô (the political view of Messiah): Jesus Nazareth, vua Do Thái (Mark 15: 26). Trong các ảnh tượng Chúa ở nhà thờ, dòng chữ này thường được ghi vắn tắt là "INRI".


Trong tác phẩm nghiên cứu công phu về cuộc đời thật của Jesus mang tựa đề ngắn gọn chỉ một chữ: JESUS (Humphrey Carpenter, Oxford University Press, second edition 1983) tác giả đã đi đến hai nhận định sau đây:


1. Jesus cũng như John đã bị giết chết không vì một lý do nào khác ngoài lý do chính trị.
2. Jesus và những kẻ theo ông ta không phải là những người phục vụ hết mình vì con người mà cái chính lo phục vụ cho cái
quan niệm sai lầm về Thiên Chúa của họ. Họ làm như vậy vì họ tin theo các luật đạo Do Thái và lời nói của các thánh tiên tri .Họ không hề tự hỏi tại sao phải làm như vậy, họ chỉ biết tuân theo các luật đạo một cách mù quáng máy móc vì họ chẳng bao giờ chịu vận dụng tới trí tuệ của họ."
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 13:53, 11/01/12 với 1 lần sửa.
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

ABRAHAM: ÔNG TỔ CỦA CÁC ĐẠO CHÚA
Hình ảnh
Các đạo thờ Chúa gồm đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi đều có chung một ông tổ là Abraham. Abraham là người Do Thái, sinh trưởng tại thành phố Ur thuộc đế quốc Babylon, (hiện nay thuộc phía nam Iraq, gần giáp Kuwait) vào thế kỷ 20 trước công nguyên.

Theo các nhà khảo cổ thì, hiện tại vùng Lưỡng Hà Châu (Mesopotamia) là vùng đồng bằng được cấu tạo bởi hai con sông lớn Tigris và Euphrate, giống người Sumerians đã lập nên một nền văn minh quan trọng của thế giới cổ. Họ là những người đầu tiên xây cất những thành phố lớn, thời cổ gọi là những quốc gia đô thị (city-states) như UR, ERECH, KISH, BABYLON vào khoảng 4000 năm trước Công Nguyên. Tại những thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra chữ viết, bánh xe, kỹ thuật luyện kim, vườn treo, những tháp Babel (trong kinh thánh Do Thái) những điều luật thành văn, thơ văn và rất nhiều huyền thoại. Trong số những huyền thoại của Sumerians có chuyện vườn Địa Đàng của đạo Do Thái sau này (Garden of Eden).


Năm 2300 trước Công Nguyên, giống dân Semitic-Akkadians tức giống Do Thái-Ả Rập dưới sự lãnh đạo của vua Sargon đã chiếm toàn vùng Lưỡng Hà Châu. Hai nền văn hóa Semitic - Akkadian và Sumerians hòa đồng và phát triển trong 300 năm. Tới năm 2000 trước Công Nguyên, giống dân Armonites chinh phục các quốc gia đô thị trong vùng Lưỡng Hà Châu và lập nên đế quốc Babylon. Họ chọn đô thị Babylon làm thủ đô cho cả đế quốc. Babylon hiện nay là vùng sa mạc, cách Baghdad thủ đô Iraq khoảng 80 dặm về phía nam. Những người sống trong đế quốc Babylon tin tưởng thủ đô của họ là nơi linh thiêng, là cái cổng của thiên đàng. Babylon được xây dựng như hình ảnh của nước trời (an image of heaven). Mỗi một ngôi đền, mỗi một ngọn tháp hay một khu vườn treo (hanging gardens) là một bản sao của các lâu đài trên thiên đàng (a replica of celestial palace). Tại các đền thờ, các tu sĩ làm lễ và đọc sách Thánh Kinh mà họ gọi là Enuma Elish. Thánh kinh thường được viết dưới dạng thơ có nội dung ca tụng các vị thần đã chiến thắng sự hỗn mang trong vũ trụ (the victory of the gods over chaos). Trong số các vị thần đó có thần El mà tượng của "ngài" là một con bò đực mạ vàng (the gilded bull). Babylon là tiếng ghép lại từ hai chữ Bab và Ili, có nghĩa là Cái Cổng của Trời (Gate of God). "Tư tưởng cốt yếu của người Babylon là: không có vật gì tự nhiên mà có. Trước khi có thần thánh và con người, một vật tự hữu thiêng liêng đã có từ trước vô cùng" (There was no creation out of nothing. Before either the gods or human being existed, a substance which was itself devine had esixted from all eternity - A History of God p. 7). Đó là tư tưởng sơ khởi về một Thiên Chúa cho các đạo thuộc hệ thống Độc Thần Giáo sau này. Những quan niệm của người Babylon về thiên đàng, về thánh kinh, về đất thánh (Holy place) và về thần quyền (sacred power) là những yếu tố quan trọng làm nền móng cho cả 3 đạo Do Thái, Kitô và đạo Hồi.
Hình ảnh

Đế quốc Babylon được thành lập cách đây khoảng 4000 năm, nhưng trước đó có những thành phố khác trong đế quốc như thành phố Ur đã được xây cất từ năm 5500 TCN. Ur là một trong những thành phố cổ nhất thế giới vì tính tới nay thành phố này đã có 7500 tuổi! Thành phố Ur và toàn vùng Babylon đã bị hủy diệt do một trận lụt lớn gây ra vì sự đổi dòng của con sông Euphrate vào cuối thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, cả vùng này trở thành sa mạc vì thiếu nguồn nước. Các nhà khảo cổ gọi nền văn minh ở vùng này là "nền văn minh của dân Sumerian trước đế quốc Babylon" (the pre-Babylon Sumerian civilization). Chính tại thành phố Ur, các nhà khảo cổ đã tìm thấy những dấu vết về nhân vật Abraham (thực sự là những huyền thoại nói về Abraham) ông tổ chung của đạo Do Thái, đạo Kitô và đạo Hồi. Tại thành phố này, người Sumerians đã phát minh ra bánh xe, chữ viết, một giờ có 60 phút, vòng tròn có 360 độ. Thành phố này cũng đã phát sinh ra các bạo chúa (tyrans) và các cuộc tàn sát đẫm máu về tôn giáo. Nhiều bạo chúa tại thành phố này đã tự xưng là thần thánh từ trời xuống cai trị muôn dân bằng thần quyền (to rule by divine right). Dân Sumerians biết luyện kim để đúc lưỡi cầy khiến cho những cánh đồng của họ thêm màu mỡ và biết dẫn thủy nhập điền để tạo nên một nền nông nghiệp phồn thịnh. Tuy nhiên, họ cũng dùng luyện kim để đúc giáo mác và mũi tên đồng khiến cho những ruộng lúa xanh tươi của họ trở thành những cánh đồng máu (killing fields).


Giữa thế kỷ 19, các nhà khảo cổ Âu Châu đổ xô đến vùng Babylon khai quật tìm cổ vật. Họ đã mang về các nước Âu Châu không biết bao nhiêu di vật của nền văn minh rất lâu đời này: Những con bò đực mạ vàng (the gilded bulls), những phiến đá ghi chép các huyền thoại và các luật thời cổ. Có nhiều huyền thoại của dân Sumerians sau này đã đi vào kinh thánh của Do Thái. Các cổ vật tìm thấy ở Babylon đã mở toang cánh cửa bí mật của các đạo thờ Chúa* bằng những hiện vật cụ thể và các tài liệu lịch sử thành văn (written history). Các cổ vật này cũng là những tài liệu vô cùng quí giá cho nhiều ngành nghiên cứu khoa học.



Năm 1917, nhân dịp quân Anh đánh chiếm Iraq, một đoàn khảo cổ người Anh do nhà khoa học Leonard Wooley dẫn đầu, đã đến phía nam Iraq, gần giáp Kowait, khai quật thành phố Ur chìm dưới lớp cát sa mạc. Giữa thập niên 60, nhiều đoàn khảo cứu khoa học của Mỹ đến vùng Babylon và Ur khai quật 25.000 địa điểm (identified sites) đã tìm thấy rất nhiều di vật của nền văn hóa cổ này. Họ đã giúp cho các nhà nghiên cứu hiểu thêm rất nhiều về nguồn gốc của các đạo thờ Chúa. Căn cứ vào các cổ vật và sử liệu khách quan, các nhà nghiên cứu đã xác định Babylon mới thực sự là nơi xuất phát đầu tiên của các đạo Thiên Chúa.



Trước đó, mọi người đã lầm tưởng Jerusalem, thủ đô Do Thái, là thánh địa của các đạo này. Người Babylon quan niệm cuộc sống trên thế gian chỉ là tạm bợ, cuộc sống đời sau ở thiên đàng mới đích thực là hạnh phúc vĩnh cửu. Họ tin thế gian này sẽ bị tiêu hủy trong một lúc nào đó gọi là ngày tận thế. Sau ngày tận thế, nước trời sẽ được thiết lập ở thế gian. Hai ý niệm về thiên đàng và ngày tận thế luôn luôn quyện lại với nhau. Đó là những ý niệm xuyên suốt từ Babylon (Gate of God) qua Jerusalem và Vatican ngày nay.
Những tư tưởng đầu tiên của Abraham chưa hẳn là đã xác định có một Thiên Chúa Duy Nhất (The Only One God) mà ông ta chỉ có ý định chọn một vị thần mạnh nhất trong các vị thần của dân Sumerians để tôn thờ mà thôi. Vị thần mà Abraham chọn là thần El, một con bò đực mạ vàng. Hiện nay tại bào tàng viện Baghdad có trưng bày tượng bò đực mạ vàng của dân Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (3000 TCN). Khoảng năm 2000 TCN, Abraham được tôn lên làm vị lãnh đạo các tộc trưởng Do Thái trong đế quốc Babylon (the leader of all patriachs of Jews). Abraham dẫn dân Do Thái rời khỏi đế quốc Babylon về miền Đất Hứa là vùng Canaan, hiện nay được gọi là West Bank (tả ngạn phía Tây sông Jordan). Tại đây, Abraham đã kết hợp với các bộ lạc Do Thái khác với ý định thành lập một quốc gia cho các dân tộc Do Thái. Ông có nhiều vợ. Dân tộc Do Thái rất tự hào tự xưng là con cháu của Abraham (the children of Abraham) nhưng thuộc dòng Isaac, con trai của Abraham và bà vợ cả của Abraham là Sarah.
Hình ảnh


Các dân tộc Hồi Giáo Ả Rập cũng tự xưng là con cháu của Abraham, nhưng thuộc dòng Ismael, con trai của Abraham và bà vợ bé tên là Hagar. Sau khi sinh Isaac (có nghĩa là Tiếng Cuời) bà vợ cả Sarah thường hay ghen tương với bà vợ bé nên đã đòi Abraham phải ruồng bỏ Hagar và Ismael. Abraham cầu xin Chúa cho Ismael thì được Chúa hứa sẽ cho Ismael trở thành tổ phụ của một đại quốc gia sau này. Sau đó, Abraham đưa bà Hagar và con trai Ismael đến thung lũng Mecca. Tại đây có con suối thiêng Zamzam, hai mẹ con của Ismael được Thiên Chúa đích thân chăm sóc. Abraham thường hay đến thăm Ismel và hai cha con cùng xây nên đền Kabah là ngôi đền thờ Thiên Chúa đầu tiên trên thế giới. Ismael trở thành tổ phụ của các dân tộc Ả Rập. ( A History of God. p.154).
Những người theo đạo Kitô gốc Âu Mỹ hay Á Châu không có liên hệ huyết thống gì với Abraham, nhưng vì đạo Kitô cũng như đạo Hồi đều thoát thai từ đạo Do Thái nên những người theo đạo Kitô cũng coi Abraham như một vị thánh tổ phụ (Father). Trong sách kinh Nhựt Khóa của Tổng-giáo-phận Sài Gòn (trang 143-146) có "Kinh Cầu Cho Dân Nước Việt Nam Đặng Trở Lại Đạo Thánh" có đoạn như sau: "Lạy Chúa, thuở Chúa mới giáng sanh, Chúa đã kêu gọi ba vua phương Đông đến thờ lạy chúa. Chúa đã phán rằng: Ngày sau sẽ có nhiều kẻ bởi Đông Tây đến nghỉ ngơi cùng thánh Abraham trên nước thiên đàng. Nay nước Việt Nam cũng là một cõi Đông Phương đang còn nhiều kẻ tin vơ thờ quấy, chưa hề biết Đấng Chí Tôn. Xin Chúa hãy làm cho nó tìm đến cùng Chúa hầu ngày sau đặng nghỉ ngơi trên nước thiên đàng, chúc tụng không khen Chúa đời đời kiếp kiếp".

Hình ảnh
Đối với đạo Hồi, Abraham là tiên tri thứ nhất, Moses là tiên tri thứ hai, kế đến là nhiều tiên tri Do Thái khác rồi mới đến Jesus. Mahomét (Ma-hô-mét) là tiên tri cuối cùng và lớn hơn hết của Thiên Chúa (The last and greatest prophet of God). Người Hồi Giáo không coi Jesus hay Mahomét là Thiên Chúa Hiện Thân (God Incarnate) mà chỉ coi những vị này là những con người bằng xương bằng thịt như chúng ta. Tuy nhiên họ tôn kính Mahomét là một vị đại thánh mà không một ai trên thế gian có thể sánh ngang với ngài về sự hiểu biết và quyền năng. Không một ai được Thiên Chúa mặc khải một cách hoàn hảo cho bằng Mahomét! (None is his equal either in knowledge or in authority. None has received or handed down so perfect a relevation).

Hình ảnh
Khác với Jesus, Mahomét không khoe khoang khoác lác mạo nhận là con Một (The Only Son Of God) hay con thứ củaThiên Chúa, không làm phép lạ để biểu diễn khả năng phù thủy bịp bợm, không lập ra các phép bí tích nhảm nhí và cũng không truyền chức cho ai độc quyền cai trị giáo hội và thế giới. Jesus dốt đặc cán mai nên không viết một chữ nào để lại cho hậu thế. Các lời Jesus nói đều do người khác gán cho. Mahomét là một thi sĩ đã viết kinh Coran trong 23 năm dưới dạng thi ca như David thuở xưa viết Psalm (Thánh Vịnh) ca ngợi Thiên Chúa. Nhưng ông ta khôn khéo không nhận mình là tác giả mà chỉ nhận mình là anh thư ký ghi chép lại các lời của Thiên Chúa do thiên thần Gabriel (Ga-bơ-ri-en) đọc cho ông ta viết mà thôi.


Trong kinh Coran, có đoạn Mahomét viết về thiên thần Gabriel như sau: "Khi tôi đang trên đường lên núi thì bỗng nghe có tiếng nói từ trời xuống " Ôi Mahomet, con là vị tông đồ của Chúa, ta là Gabriel đây". Tôi ngẩng đầu lên để xem ai đang nói. Tôi thấy Gabriel là một người đàn ông với những bàn chân chắn ngang chân trời" (When I was midway on the mountain, I heard a voice from heaven saying : "Oh! Muhammad ! You are the Apostle of God and I am Gabriel". I raised my head toward heaven to see who was speaking and Gabriel in the form of a man with feet astride the horizon - A History of God p. 138) Trong niềm tin của đạo Hồi thì thiên thần Gabriel là Thánh Linh Thiên Chúa (The Spirit of God) mà Ki Tô Giáo gọi là Đức Chúa Thánh Thần (The Holy Spirit). Đạo Hồi là Đạo Thiên Chúa đúng nghĩa vì họ tin Thiên Chúa là Đấng chỉ có Một Ngôi Duy Nhất (The God of Islam is Unity God). Trái lại Ki Tô Giáo là đa thần giáo trá hình vì Thiên Chúa của Ki Tô Giáo là Thiên Chúa Ba Ngôi (The Christian God is Trinity God).


Về Abraham, trong Kinh Coran Mahomét viết như sau: "Thiên thần Gabriel nâng tôi lên cao trong không khí. Trước hết ngài đưa tôi đến viếng Jerusalem, sau đó ngài đưa tôi qua 6 tầng trời. Đến tầng trời thứ 7 tôi gặp Adam tổ phụ loài người, thánh Gioan Baotixita (giáo chủ Essenes kiêm thầy dạy giáo lý cho Jesus) Enoch, Aaron, Moises, Jesus và Abraham. Cuối cùng tôi được gặp Thiên Chúa (God / Allah) và nói chuyện trực tiếp với Ngài. Chúa phán "Ôi Mohamét! Ta đón tiếp con như một người bạn cũng như trước đây ta đã đón tiếp Abraham như một người bạn vậy. Ta nói chuyện với con mặt đối mặt cũng như trước đây ta nói chuyện mặt đối mặt với Moises vậy." (Oh Muhammad! I take you as a friend, just as I took Abraham as a friend. I am speaking to you, just as I spoke face to face with Moises).
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 13:55, 11/01/12 với 1 lần sửa.
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Tiếng Ả Rập KORAN có nghĩa là sự kể chuyện (Recitation). Những người Hồi Giáo coi kinh KORAN là những lời cuối cùng của Thiên Chúa dành cho loài người (Koran is the final words of God to mankind), là cuốn sách MẸ của mọi cuốn sách (The Mother of Books). Cũng như các đạo thờ Chúa khác, người Hồi Giáo tin Kinh Thánh của họ là chân lý tuyệt đối. Các kinh thánh ngoài đạo của họ đều là đồ giả mạo cần phải hủy diệt bằng bạo lực. Cũng như các tòa án dị giáo của Công Giáo La Mã chủ trương giết hết, đốt hết, phá hết tất cả những gì khác với giáo lý Công Giáo vậy.

Hình ảnh
Độc Thần Giáo, tức các đạo thờ Chúa (Monotheist religions /Abrahamic religions) bành trướng thế lực tôn giáo bằng chiến tranh máu lửa. Số tín đồ tăng lên theo nhịp độ phát triển của các chủ nghĩa đế quốc và thực dân cũ mới. Trải qua nhiều thế kỷ, ngày nay tổng số tín đồ của Độc Thần Giáo đã lên tới 3 tỷ 200 triệu trên tổng dân số nhân loại là 5 tỷ 804 triệu (The World Almanach and Books of Facts 1998). Hai tôn giáo lớn nhất của hệ thống Độc Thần Giáo hiện nay là Công Giáo La Mã với gần 1 tỷ tín đồ, kế đến là giáo phái Hồi Giáo Sunny với 936 triệu tín đồ. Các con số tín đồ đông đảo không nói lên giá trị của các tôn giáo này vì họ là những khối người khổng lồ luôn luôn dốc phần lớn sinh lực của họ để tìm cách tiêu diệt lẫn nhau và phá hoại hòa bình thế giới. Năm 383, triều đại con cháu của Constantine đã đổi tên Kitô Giáo thành Công Giáo (Cattolica) có nghĩa là tôn giáo toàn cầu (universal church). Danh từ "Công Giáo" nói lên ý đồ nham hiểm thâm độc của Đế quốc La Mã nhắm tới sự nô lệ hóa toàn cầu dưới chiêu bài tôn giáo. Vì vậy nếu hiểu Công Giáo chỉ đơn giản là quốc giáo "state religion" hoặc đạo công cộng "public religion" là chưa đánh giá đúng mức tim đen của đế quốc. Những danh từ phiên âm như đạo Gia tô hay đạo Ca Tô Rô Ma đều làm chúng ta quên đi ý đồ nham hiểm của đạo Công Giáo Vatican.


Với thời gian, do sự mâu thuẫn trong việc giải thích Kinh Thánh và tranh chấp quyền lợi vật chất giữa các giới lãnh đạo chóp bu, đạo Công Giáo đã bị phân hóa thành nhiều ngành (lines) :


1. Công Giáo La Mã còn được gọi là Giáo hội Tây Phương (Roman Catholics / Western Church) hiện có 981 triệu tín đồ (the main line of Christianity)
2. Công Giáo Đông Phương (Eastern Church) là Chính Thống Giáo (Greek Catholics or Orthodox) chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã vào năm 876. Số tín đồ hiện nay khoảng 218 triệu, đa số tại nước Nga, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ và Đông Âu (Bulgary, Serbia, Armenia)
3. Công Giáo Anh còn được gọi là Anh Giáo (British Catholics or Anglicanism) có khoảng 69 triệu tín đồ tại Anh, Úc, Tân Tây Lan, Canada và Mỹ. Chính thức tách rời khỏi Công Giáo La Mã năm 1539.
4. Các giáo phái Tin Lành : Danh xưng chính thức của Tín Đồ Tin Lành là "Những Kẻ Chống Công Giáo La Mã" (Protestants). Đạo Tin Lành là "Đạo Chống Công Giáo La Mã" (Protestantism). Việt Nam là nước duy nhất trên thế giới chẳng giống ai gọi họ là Tin Lành (Good News), nhưng thực tế chẳng có gì lành. Khoảng đầu thế kỷ 20, nhiều người Công Giáo Việt Nam gọi họ là những kẻ theo "Đạo Thệ Phản". Sau này không thấy ai xử dụng danh từ "Đạo Thệ Phản" nữa, có lẽ vì danh từ này mang tính kỳ thị tôn giáo

Công Giáo La Mã, Chính Thống Giáo và Anh Giáo có thể được gọi chung là Công Giáo (Catholicism) vì các lý do sau đây:
Hình ảnh
1. Giáo lý của 3 tôn giáo này rất tương đồng
2. Cả 3 tôn giáo đều thờ ảnh tượng Chúa và các thánh. Bước chân vào giáo đường của 3 tôn giáo này ta rất khó phân biệt. Khác hẳn với các giáo phái "Tin Lành" tuyệt đối không thờ ảnh tượng. Họ chỉ xử dụng cây thánh giá trơn (không có tượng Chúa) làm biểu tượng mà thôi.
3. Cả 3 đạo Công Giáo này đều thờ Bà Maria và tin bà còn đồng trinh (virgin) sau khi sinh Chúa Jesus. Người theo đạo Tinh Lành tin Chúa Jesus là Thiên Chúa hóa thân nhưng không tin bà Maria đồng trinh vì ngoài Chúa ra, bà Maria còn sinh 3 trai và 3 gái với ông Joseph. Người Hồi Giáo cũng tin bà Maria đồng trinh nhưng phủ nhận bản tính Thiên Chúa của Jesus, họ chỉ coi Jesus là tiên tri đứng sau tiên tri Mahomét.
4. Ba đạo Công Giáo nói trên đều có giáo đô riêng. Công Giáo La Mã có giáo đô tại Vatican (một lãnh địa tự trị tách ra khỏi thủ đô La Mã của nước Ý). Giáo đô của Chính Thống Giáo đặt tại Constantinophe (nay là Istambul, Thổ Nhĩ Kỳ). Giáo đô Anh Giáo đặt tại Canterburry Anh quốc. Các giáo phái Tin Lành không có giáo đô.
5. Các đạo Công Giáo có hàng giáo phẩm được truyền chức để làm lễ (mass) biến bánh và rượu thành máu và thịt của Chúa Jesus. Hàng giáo phẩm Công Giáo La Mã và Công Giáo Hy Lạp (Chính Thống Giáo) đều là nam giới. Riêng Công Giáo Anh có nữ linh mục, cũng làm lễ như nam linh mục và có chồng con. Con số nữ linh mục Anh Giáo tại Anh, Úc, Canada và Mỹ hiện nay lên tới khoảng 2000 người.
Tất cả các người theo đạo Kitô (Christians) không thuộc 3 giáo hội Công Giáo nói trên đều được gọi chung là Tin Lành (protestants). Số tín đồ Tin Lành hiện nay lên tới 686 triệu. Các mục sư không làm lễ, chỉ giảng thánh kinh mà thôi.
Trong những thế kỷ trước, người Việt Nam gọi đạo Công Giáo La Mã là Đạo Da-Tô hay Gia Tô. Da-Tô là tiếng chữ Hán phiên âm chữ Jesus. Đạo Da-Tô có nghĩa là đạo thờ Jesus. Trong Kinh Cảm Tạ Cầu Hồn viết bằng Hán tự mà các giáo dân Bùi Chu Phát Diệm và Thái Bình ngày nay vẫn còn đọc trong các đám giỗ, có câu: "Thần Chúa Da-Tô thục tội thi ân chỉ đại" nghĩa là "Lạy Chúa Jê-Su chuộc tội và ban ơn rất lớn".

III. ĐẠO HỒI


Đạo Hồi là đạo thứ ba trong hệ thống Nhất Thần Giáo. Thiên Chúa của đạo Hồi là Thiên Chúa của đạo Do Thái và đạo Kitô. Người Hồi Giáo cũng giống như Do Thái Giáo, phủ nhận ngôi thứ hai tức Jesus và ngôi thứ ba là Chúa Thánh Thần của đạo Kitô nên Thiên Chúa của Hồi Giáo và Do Thái Giáo là Thiên Chúa Duy Nhất (Unity God). Đạo Hồi chịu ảnh hưởng sâu đậm giáo lý của đạo Do Thái và đạo Kitô, do Mohammed sáng lập vào thế kỷ thứ 7. Đạo Hồi được truyền bá và phát triển phần lớn dựa vào bạo lực và chiến tranh. Đạo Công Giáo La Mã là một đế quốc tinh thần, luôn luôn bước song hành với các chủ nghĩa thực dân đế quốc (vấn đề này xin qua trang LSVN mục bài bản chất của thiên chua giáo do Mr Tèo khởi xướng các bạn sẽ hiểu thêm về lịch sử tôn giáo của mình ). Đạo Hồi và Công Giáo La Mã là hai kẻ thù lớn nhất của hòa bình thế giới. Cả hai đạo này đều là con đẻ của Do Thái nhưng đều đã quay ngược lại tiêu diệt Do Thái đến gần tuyệt chủng. Hai đạo này được ví như hai cái boomeranges của Do Thái vậy!


Số tín đồ đạo Hồi hiện nay là 1 tỷ 128 triệu, đứng thứ nhì sau đạo Kitô (1 tỷ 955 triệu). Công Giáo La Mã là giáo phái có đông tín đồ nhất của đạo Kitô, Nó là con đẻ của chủ nghĩa đế quốc La Mã và cả chủ nghĩa thực dân cũ mới của Âu Châu. Ngày nay, các chủ nghĩa đế quốc và thực dân đã suy tàn, đạo Công Giáo tất nhiên phải gánh chịu những hệ lụy của các chủ nghĩa thực dân đế quốc mà suy tàn theo. Đó là một thực tế của tiến trình tiến hóa tất yếu của lịch sử.


Nói tóm lạiHình ảnhii, Thiên Chúa Giáo là một hệ thống gồm 3 tôn giáo chính yếu: Do Thái Giáo, Kitô Giáo* và Hồi Giáo. Cả 3 tôn giáo này đều bắt nguồn từ đạo Do Thái Nguyên Thủy (Pre-Mosaic Judaism) của các tổ phụ lập quốc Do thái là Abraham, Isaac và Jacob. Đạo Do Thái Nguyên Thủy thờ Thiên Chúa mang tên Elohim với hình tượng của ngài là con bò vàng. Đạo thờ bò đã tồn tại trong hơn 8 thế kỷ đầu của lịch sử nước Do Thái. Các đạo thờ Thiên Chúa hiện nay chỉ là hậu thân cỉa đạo Do Thái Nguyên Thủy. Nói dúng hơn, những đạo này chỉ là những biến dạng khác nhau của đạo thờ bò.
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 13:51, 11/01/12 với 1 lần sửa.
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

NHỮNG CHUYỆN BÍ MẬT Ở NÚI SỌ
Tiếng Do Thái "Golgotha" có nghĩa là Sọ Người (Skull). Tại vùng ngoại ô phía tây bắc Jerusalem có một ngọn đồi cao 11 mét, trông xa giống như cái sọ người nên từ xa xưa người Do Thái đã đặt tên cho nó là "Đồi Sọ" (Golgotha Hill). Nhưng từ khi đế quốc La Mã thống trị chọn ngọn đồi này làm nơi hành hình các tử tội, phần đa số là những người yêu nước chống đế quốc, nên dân thành Jerusalem gọi ngọn đồi ấy là Núi Sọ Người (Mount of Golgotha).
Chính tại nơi đây, Jesus và hai người khác đã bị lính La Mã xử tử bằng cách đóng đinh vào thập giá. Ngọn đồi Golgotha đã trở thành thánh địa trong trái tim của các tín đồ Kitô Giáo trên khắp thế giới. Tuy nhiên, họ chỉ biết chuyện Chúa chết theo sự mô tả với đầy dẫy những điều xuyên tạc bóp méo lịch sử của những kẻ chủ mưu lập đạo Ki Tô qua các sách phúc âm mà thôi. Còn chuyện gì thật sự đã xảy ra cho Chúa, chúng ta cần phải đợi sự xác minh của các sử liệu và các bằng chứng có giá trị khách quan sau khi đã được kiểm chứng bởi các chuyên gia khả tín của các ngành khoa học hiện đại.
Năm 1994, hai học gia Đức là Holger Kersten và Elma R. Gruber đã cho xuất bản tác phẩm để đời : The Jesus Conspiracy - The Turin Shroud & The Truth about the Resurrection (337 trang, Element Co. Hoa Kỳ in lại hai lần trong cùng năm 1994), làm chấn động dư luận quốc tế. Đề tựa của cuốn sách khá dài vì nó đề cập tới bốn vấn đề chủ yếu của nội dung sách này:
Hình ảnh
1. Tất cả những câu chuyện của Thánh kinh nói về cái chết của Jesus để "chuộc tội cứu thế" chỉ là một Âm Mưu Xảo Trá của Jesus (The Jesus Conspiracy).
2. Tất cả các thánh tích (relics) mà Vatican nói là đồ thật hầu rao bán từ xưa đến nay để hốt bạc, thực sự tất cả chỉ là đồ giả, không có một cái nào là thật cả.Trái lại, thánh tích có một không hai của toàn bộ hệ thống Ki Tô Giáo là tấm khăn liệm xác Jesus hiện lưu trữ tại nhà thờ lớn thành phố Turin (Ý) là di vật duy nhất thật của chính Jesus ( The Turin Shroud).
3. Cuộc giảo nghịệm của giới khoa học quốc tế vào tháng 10 - 1978 tại Turin đã xác nhận tấm vải liệm ở Turin là thật. Những chứng tích của sự thật còn in dấu vết trên tấm vải liệm đó đã tố cáo âm mưu bịp bợm của những kẻ lập đạo Ki Tô. Các nhà khoa học đã chứng minh: khi "được liệm xác" Jesus vẫn còn sống chứ không chết. Jesus đã thoát chết là nhờ có rất nhiều tín đồ tay trong bí mật cứu giúp từ trước đến sau vụ đóng đinh. Thậm chí viên sĩ quan La Mã, trưởng toán hành hình Jesus, cũng là một tín đồ bí mật nên y đã không đập gẫy chân Jesus. Sau đó, Jesus đã được các tu sĩ đồng đạo thuộc giáo phái Essenes của giáo chủ Jean Baptist (sư phụ của Jesus) dùng khối lượng 100 pounds dược thảo để cứu sống Jesus thành công. Vậy Jesus đã chẳng những "không chết để chuộc tội thiên hạ" và cũng chẳng bao giờ là "Đấng từ kẻ chết sống lại hiển vinh.
Di vật thứ thiệt của Jesus là tấm vải liệm ở Turin và kết quả giảo nghịêm quốc tế tháng 10 - 1978 là hố chôn toàn hệ thống Ki Tô Giáo (gồm Công Giáo La Mã, Chính Thống Giáo, Anh Giáo và tất cả các giáo phái Tin Lành). Đó cũng là tất cả sự thật về cái gọi là sự Phục Sinh của Chúa Kitô (The Truth of the Resurrection of Christ).
4. Vì thấy kết quả cuộc giảo nghiệm quốc tế gây nguy hại cho sự tồn vong của Công Giáo La Mã nên Tòa thánh Vatican đã đơn phương ngụy tạo một cuộc giảo nghiệm khác bằng thử nghiệm radiocarbon tests nhằm đánh lạc sự chú ý của thế giới về những kết quả xác đáng của giới khoa học quốc tế đã được công bố trước đây về những bí mật của Tấm Vải Liệm xác Jesus hiện lưu trữ tại Turin.
Nguyên bản tác phẩm này được viết bằng tiếng Đức và được chính các tác giả chuyển ngữ sang tiếng Anh vì cả hai đều tốt nghiệp Đại Học ở Đức và Hoa Kỳ. Nguyên bản Đức Ngữ đã được dịch sang nhiều thứ tiếng, riêng bản Anh ngữ của hai tác giả này đã được dịch ra 7 thứ tiếng khác cũng trong năm 1994. Từ đó đến nay, có thể tác phẩm này đã được tái bản và dịch thêm ra nhiều ngoại ngữ khác nữa.
Sau trên 10 năm nghiên cứu lịch sử và tiếp xúc với rất nhiều nhà khoa học đã từng tham dự vào các cuộc điều tra khoa học và giảo nghiệm liên quan đến các chứng tích lịch sử Kitô Giáo, các tác giả mới có đủ các dữ kiện hoàn thành tác phẩm độc đáo này. Bài viết của Elma. R. Gruber trong tác phẩm The Jesus Conspiracy mang tựa đề "Những chuyện bí mật ở Núi Sọ Người" (The Secrets of Golgotha) đã tố cáo trước dư luận quốc tế rất nhiều bằng cớ về những âm mưu bí hiểm chung quanh cái chết của Jesus như sau:


Khoảng cuối thập niên 20 đầu Công nguyên, Jesus 33 tuổi, nguyên là thợ mộc ở Galilee, đã bị quan toàn quyền La Mã Pilate kết án tử hình về một tội phạm chính trị: "Âm mưu gây bạo loạn chống chính quyền". (Ghi chú: Tên thật của Pilate theo tiếng La Tinh là PONTIUS PILATUS). Nguyên nhân vì trong dịp cả nước Do Thái kỷ niệm đại lễ Vượt Qua (Passover) dân chúng tứ phương đổ về Jerusalem rất đông. Để đề phòng một cuộc bạo loạn chính trị có thể xảy ra trong dịp có quá đông dân chúng hỗn tạp tập trung tại Jerusalem, quan toàn quyên Pilate đã điều động nhiều đơn vị quân đội từ nhiều nơi về bố trí tăng cường bảo vệ an ninh cho thủ đô Do Thái trong dịp đại lễ này.Việc du kích và nhân dân Do Thái lợi dụng cơ hội này nổi loạn chống chính quyền là điều rất dễ xảy ra trong hoàn cảnh tình thế rất hỗn tạp này. Chính vì chuẩn bị đối phó với mọi bất trắc có thể xảy ra nên Pilate đã điều động nhiều đơn vị quân đội từ nhiều nơi về Jerusalem để tăng cường bảo vệ an ninh.
Cũng trong dịp đại lễ Passover này, Jesus đã ngang nhiên phá rối trật tự an ninh tại trung tâm của buổi lễ là Đền Thánh Jerusalem của giáo phái thù địch là Phrisees. Bởi lẽ Jesus là đệ tử của Jean Baptist, giáo chủ giáo phái Essenes, vốn rất căm ghét giáo phái Pharisees từ lâu nên đã nhân dịp này xâm nhập Đền Thánh la lối phá phách, đánh đuổi những người bán lễ vật cho khách hành hương tham quan Đền Thánh hoặc đổi tiền cho những khách ngoại quốc về dự lễ.

Hình ảnh
Trong tác phẩm "The Historical Jesus", linh mục John Dominic Crossan đã viết : " Những gì đã xảy ra cho Jesus cũng là những điều đã xảy ra trước đó cho John. Đó là hình phạt tử hình mang tính chất chính trị và tôn giáo. Chỉ một hành vi phá phách Đền Thánh như vậy, nhất là trong dịp đại lễ quốc khánh trong tình hình dễ xảy ra bạo loạn này, đã hoan toàn hội đủ yếu tố đưa đến hình phạt bị đóng đinh trên thập giá vì lý do hỗn hợp tôn giáo chính trị. (What would happen to Jesus was probably as predictable as what had happened already to John. It seems clear that Jesus confronted with The Temple 's rich magnificence . Such an act, if performed in the volatile atmosphere of Passover, a feast that celebrated Jewish liberation from inaugural imperial oppression, would have been quite enough to entail crucification by religiopolitical agreement. - The Historical Jesus, p. XII)
Toán lính La Mã thi hành bản án tử hình Jesus, do Đại Úy Longinus cầm đầu, đã dẫn Jesus lên đồi Golgotha xử tử bằng cách đóng đinh Jesus vào thập giá cùng với hai tử tội khác. Lúc đó là buổi chiều ngày thứ sáu. Ngày hôm sau là ngày Đại Lễ Vượt Qua (Passover) kỷ niệm Thánh Moses đã dẫn dân tộc Do Thái vượt qua Hồng Hải trốn thoát ách nô lệ Ai Cập trong nhiều thế kỷ trước. Lễ này luôn luôn nhằm vào ngày rằm vì người Do Thái thời đó xử dụng Âm Lịch. Kỳ lễ năm ấy lại trùng vào ngày thứ bảy (Sabbath). Theo tục lệ Do Thái thì mọi tử tội đều phải được chôn cất trước ngày Sabbath. Đạo Do Thái là đạo của Luật (The Religion of Law) vì thế, nói đến luật, mọi người sẽ hiểu là luật của đạo Do Thái. Luật đạo Do Thái dạy rằng: "Không được để ánh sáng mặt trời chiếu trên xác tử tội vào ngày Sabbath". Do đó thân xác của tử tội Jesus sẽ được tháo xuống trong buổi chiều trước ngày Sabbath theo đúng với luật lệ tôn giáo của Do Thái.



Hình ảnh


Jesus có hai người bạn thân là Joseph Arimathea và Nicodemus, cả hai đều rất giàu và có quyền thế vì họ đều có chân trong Hội Đồng Tối Cao Do Thái (Sanherin). Hội đồng này có 70 nghị viên là đại diện cho đạo Do Thái, đồng thời cũng là cơ quan chính quyền bản xứ do La Mã lập ra để phụ trách trông coi việc thi hành các luật pháp và tục lệ của xứ thuộc địa này.
Joseph và Nicodemus, với tư cách là những nghị viên Viện Sanherin Do Thái đã có dịp tiếp xúc và quen thân với Pilate. Do đó, cả hai người được biết chính quyền La Mã đã quyết định tìm bắt và xử tử Jesus vì lý do những hoạt động gây bạo loạn vừa xúc phạm Đạo Do Thái vừa gây nguy hại đến an ninh và công cuộc trị an của La Mã.
Mặc dầu đã biết trước mọi việc sẽ xảy ra cho Jesus nhưng Joseph và Nicodemus tự biết không thể cứu Jesus thoát khỏi án tử hình, do đó Joseph và Nicodemus tìm cách hối lộ và thuyết phục Pilate cho phép họ được tháo xác Jesus xuống khỏi thập giá càng sớm càng tốt để kịp thời cứu sống ngài.
Đây là một biệt lệ vì luật pháp La Mã tuyệt đối cấm thân nhân mang xác tử tội về nhà chôn, các xác tử tội đều bị vứt vào hang hoặc bãi hoang cho kên kên, thú dữ hoặc chó hoang ăn thịt. May mắn thay, đề nghị của Joseph và Nicodemus đã được Pilate chấp thuận. Joseph liền bỏ tiền mua một khu vườn có cây cối rập rạp nằm sát chân đồi GolGotha và xây tại đây một ngôi mộ lớn có nhiều phòng.
Nicodemus mua một số thuốc cứu thương rất lớn. Phúc âm của John cho biết: "Nicodemus đến với Chúa vào ban đêm, mang theo dầu Myrrh và Aloe nặng 100 stones" (John 19:30). Stone là đơn vị đo lường của Do Thái thời đó, mỗi stone tương đương với một pound.
Aloe là chất thuốc có khả năng gây mê (coma) tẩy uế đờm dãi, tống khứ chất độc trong người và làm các vết thương mau lành.
Khi Jesus bị treo lên thập giá, Ngài kêu khát nước, sĩ quan chỉ huy toán hành hình đã lấy miếng bọt biển, (sponge) thấm "dấm" rồi lấy cây giáo đưa miếng bọt biển đó lên miệng Jesus để Ngài uống giải khát. Viên sĩ quan đó là thuộc hạ thân tín của Pilate nhưng đồng thời cũng là một tín đồ bí mật của Chúa. Phúc âm của Mark ghi rõ (15: 39, 27: 54): "Viên sĩ quan này là người đã từng ngợi khen Chúa là con Đức Chúa Trời". Và "Sau khi uống dấm xong, Chúa phán "Công việc đã hoàn thành" rồi Ngài cúi đầu xuống và trút linh hồn".
Thánh kinh nói chất nước Jesus uống lúc còn bị treo trên thập giá là dấm, nhưng có phải là dấm thật không? Tại sao vừa uống dấm xong thì Ngài chết liền? Căn cứ vào những chất thuốc mà Nicodemus đã mang đến núi Sọ là dầu myrrh và aloe, người ta có thể suy đoán nước dấm Jesus uống có pha hai chất thuốc này để gây mê. Các nhà khoa học phân chất aloe đã tìm thấy chất phenol có tác dụng gây mê (coma). Dầu myrrh được lấy từ cây commiphora đã được người Hy Lạp xử dụng từ lâu để trị vết thương và tẩy uế (sát trùng). Ông tổ y khoa Tây phương là Hippocrate đã ca ngợi dầu myrrh là một thần dược, chẳng những chữa trị vết thương mau lành mà còn ngăn ngừa được các bệnh dịch. Ngoài ra, ở Palestine vào thời đó, người ta đã biết xử dụng thuốc phiện để làm thuốc giảm đau.
Do đó, chất dấm mà viên sĩ quan "tín đồ bí mật của Chúa" đã cho Ngài uống có thể là một chất tổng hợp các thứ thuốc nói trên khiến cho Ngài vừa mới uống xong thì bất tỉnh liền. Cũng người sĩ quan đó lấy cây giáo "quệt sơ" vào cạnh sườn của Chúa để cho những tên lính La Mã khác thấy Chúa không giật mình cựa quậy nên tưởng Ngài đã chết rồi và tha cho Ngài cái cực hình bị đập gẫy hai chân. Vì đã được phép của Pilate, Joseph và Nicodemus vội vàng tháo xác Jesus xuống và đưa ngay vào nhà mồ kín đáo trong khu vườn của Joseph ở ngay sát chân đồi.
Tại nhà mồ này, Josep và Nicodemus đã để sẵn một phiến đá dài bằng phẳng dùng làm ghế nằm, trên đó trải sẵn một tấm vải trắng thuộc loại đắt tiền, dài 4m36, rộng 1m10. Vì tấm vải rất dài nên chỉ cần một nửa tấm vải cũng đủ phủ lên mặt ghế đá. Nicodemus cẩn thận rắc các thứ thuốc và dầu myrrh lên tấm vải trước khi đặt xác của Jesus lên đó. Toàn thân của Jesus lúc ấy bê bết máu đã in lên tấm vải trắng những vết roi trên lưng, mông, đùi và chân. Cũng nhờ những dấu máu trên tấm vải này, người ta đã đo được chiều dài của Jesus từ đầu xuống gót chân là 1 mét 82 và ước lượng ngài nặng 79 kilô.
Phân nửa tấm vải còn lại đã được Joseph và Nicodemus trùm qua đầu, qua ngực, xuống tới chân của Chúa. Lúc ấy, hai tay của Chúa được để vắt chéo lên bụng. Cái mão gai trên đầu của Ngài vừa mới được tháo ra đã tạo nên những dòng máu tươi chảy tràn lên trán làm ướt hết khuôn mặt của Ngài. Máu của Ngài pha lẫn với các thứ dầu thuốc đã được thoa khắp cơ thể tạo thành một hỗn hợp màu nâu. Hỗn hợp màu nâu này đã in lên tấm vải phủ phía trên thân xác Ngài hình ảnh khuôn mặt với những vết gai đâm trên trán, hai ống chân còn nguyên (không bị đập gẫy) với hai lỗ đinh trên hai bàn chân và hai cánh tay vắt chéo với hai lỗ đinh trên hai bàn tay.
Lúc ấy là đêm thứ sáu, hôm sau là lễ Vượt Qua. Toàn dân thành Jerusalem lo mừng cuộc lễ nên chẳng có ai để ý đến kẻ tử tội bị đóng đinh chiều qua. Người tử tội được bạn bè tận tình cứu giúp đã từ từ hồi tỉnh sau cơn mê vài giờ. Vả lại, chất thuốc mê đến lúc đó cũng đã hết tác dụng vì Ngài đã được uống thuốc xổ.

Hình ảnh
Đêm đó lại là đêm trăng rằm, Nicodemus và Jopseph được sự trợ giúp của các "thiên thần áo trắng", đã di chuyển Jesus tới một nơi an toàn và bí mật hơn để tiếp tục chữa trị. Do sự khám phá ra những cuộn sách cổ ở Vùng Biển Chết (The Dead Sea Scrolls), người ta mới biết các "thiên thần áo trắng" là các tu sĩ thuộc giáo phái Essenes của John the Baptist. Mọi tu sĩ của giáo phái này đều mặc áo dài trắng (white long tunic) và đều biết chữa bệnh. Họ đi lang thang khắp nước Do Thái để giảng đạo và chữa bệnh miễn phí cho dân nghèo. Jesus là bạn đồng đạo của họ nên được họ tận tình săn sóc trong dịp này. Lúc di chuyển Jesus rời khỏi ngôi mộ trong vườn của Joseph, họ đã để quên tấm vải trắng liệm xác Jesus tại đó. Sáng hôm sau là ngày Chủ nhật, người Do Thái gọi là ngày đầu tuần, bà Magdelene, vợ Jesus đến mộ thăm chồng. Kinh Thánh của John (12:1-18) kể chi tiết như sau: Magdelene đến thăm mộ Chúa trong buổi sáng ngày đầu tuần lúc ấy trời hãy còn tối: Bà thấy hòn đá chắn cửa mộ đã bị dời đi chỗ khác. Bà vô cùng hoảng hốt bèn vội vàng chạy đi tìm Peter (Phêrô) và John (Gioan tông đồ) than khóc với hai người rằng: "không biết ai đã mang xác Chúa ra khỏi mộ rồi". Nghe nói vậy, Peter và John chạy đến ngôi mộ của Chúa. John còn trẻ, chạy nhanh tới trước, nhưng John chỉ đứng ở cửa hang ngó vào nhìn thấy tấm vải trắng chứ không dám vào hang mộ. Peter chạy chậm tới sau bước thẳng vào hang. Peter nhặt tấm vải lúc ấy đã được cuộn lại, khi gỡ ra, Peter thấy trong đó có chiếc khăn che mặt của Chúa nữa.
Kinh Thánh của John thuật đoạn chuyện trên với các động từ thì hiện tại (present tense) muốn chứng tỏ những sự việc này do tác giả chứng kiến trực tiếp. Sách Kinh Thánh Tân Ước được viết bằng tiếng Hy Lạp. Khi mô tả vết thương cạnh sườn của Chúa (the side wound), tác giả gọi đó là vết trầy nhẹ (nyssein = a light scratch). Saint Jerome (340-420) là người đầu tiên dịch các sách Kinh Thánh Tân Ước từ tiếng Hy lạp ra tiếng La Tinh. Bộ sách Kinh Thánh do Jerôme dịch ra được gọi là Vulgate (Sách Phổ Thông) đã trở thành bản Kinh Thánh chính thức của đạo Kitô. Trong bản dịch Vulgate, Jerôme đã xuyên tạc nhiều điều của nguyên bản Hy Lạp. Vết thương cạnh sườn của Jesus từ một vết trầy theo đúng chữ Hy Lạp NYSSEIN có nghĩa là vết trầy nhẹ (a light scratch) trong nguyên bản, Jerôme đã biến nó thành APERIRE có nghĩa là "một vết thương mở toang" (an open wound) với máu và nước trong người của Chúa chảy ra. Mọi người đọc bản dịch Kinh Thánh của Jerôme có cảm tưởng vết thương cạnh sườn của Jesus là một nhát đâm dứt điểm, tương tự như "coup de grâce". Người La Mã không hề dự liệu thủ tục "coup de grâce". Thủ tục này do người Pháp lập ra vì lý do nhân đạo nhằm giúp các tử tội không phải chịu đựng sự đau đớn lâu dài. Người Pháp định nghĩa coup de grâce như sau: "a deathblow delivered to end the misery of a mortally wounded victim". Mục đích nhân đạo của "coup de grâce" hoàn toàn ngược lại với chủ đích của người La Mã. Khi xử dụng hình phạt đóng đinh trên thập tự, họ muốn tử tội phải bị đau đớn lâu dài, dầm mưa dãi nắng, bị lột trần truồng và bị bêu xấu ở những nơi có nhiều người trông thấy, nhằm mục đích khủng bố tinh thần của đám nô lệ hay dân các nước thuộc địa. Luật La Mã qui định thủ tục xác nhận cái chết của tử tội (confirmation of the death) bằng cách đập gẫy chân tử tội. Với thể thức này, tội nhân không còn đủ sức để gượng nâng thân mình lên, toàn thân sẽ rũ xuống, đầu tội nhân cúi gằm xuống ngực khiến tội nhân chết vì ngộp thở. Luật La Mã không hề qui định việc lấy giáo đâm vào tim tử tội cho chết hẳn tương tự như "phát súng ân huệ" của người Pháp.
Người Pháp khủng bố tinh thần bằng phương pháp khác như chặt đầu chụp hình làm stamp (tem thơ, tem cò), để đàn áp tinh thần dân thuộc địa. Vụ đầu độc Hà Thành các liệt sĩ VN đã bị Pháp chụp hình đầu lâu làm tem thơ là một ví dụ.
Mọi điều vừa nêu hãy còn sờ sờ ra đó trên các văn bản của Luật La Mã và nguyên bản Kinh Thánh Hy Lạp. Bản địch Kinh Thánh Vaulgate của Jerôme đã để lộ nguyên hình là một sự gian trá cố tình. Phải chăng chính vì vậy mà Jerôme đã được ghi công và được phong thánh? Ngày nay, chúng ta hiểu tại sao giáo hội La Mã đã cấm không cho ai được phép dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp mà phải dịch ra từ bản Vulgate của Jerôme. Mọi mưu toan dịch Kinh Thánh từ tiếng Hy Lạp đều bị trả giá bằng cái chết trên dàn hỏa. Nhưng không một sức mạnh nào có thể vượt qua được sức mạnh của sự thật. Sự thật là sức mạnh vô địch và tối hậu sẽ tiêu diệt mọi thủ đoạn dối trá nhằm che mờ lý trí và lương
tri con người.
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 14:03, 11/01/12 với 1 lần sửa.
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

CÁI KHỐ CỦA JESUS TRÊN THẬP GIÁ
Thập giá là một dụng cụ giết người hết sức dã man, thường được các đế quốc cổ Hy Lạp và cổ La Mã sử dụng. Đây là một loại cực hình đặc biệt mà người La Mã và Hy Lạp chỉ dùng riêng cho các nô lệ hoặc dân các nước thuộc địa nổi loạn chứ không áp dụng cho các công dân của họ. Trước khi bị đóng đinh, các tội nhân không phân biệt nam nữ, đều bị lột trần truồng, tuyệt đối không có một mảnh vải nhỏ nào che thân. Khi bị treo trên thập giá, sức nặng của cơ thể làm cho các vết đinh đóng trên tay chân bị căng xé khiến tội nhân bị đau nhức cùng cực nhưng không chết. Tội nhân phải sống để chịu những cơn đau buốt liên tục hành hạ trong một thời gian dài. Chỉ khi nào tội nhân kiệt sức không thể nâng đầu lên được nữa thì đầu sẽ cúi gằm xuống khiến cằm đụng vào ngực. Lúc đó tội nhân sẽ từ từ bị nghẹt cổ họng và chết vì ngộp thở (air-suffocation) chứ không chết vì bị chảy hết máu.
Trong trường hợp muốn cho tội nhân chết sớm hơn, bọn lính hành hình dùng cán giáo đập gẫy xương ống chân của tội nhân khiến cho tội nhân không thể nâng thân mình lên, toàn thân sẽ rũ xuống và sẽ chết ngộp trong giây lát. Chúng ta cũng nên nhớ rằng trong ba người cùng bị đóng đinh một lượt với Jesus, chỉ một mình Jesus đã không bị lính La Mã đập gẫy ống xương chân. Nếu Jesus bị đập gãy ống xương chân thì lịch sử nhân loại đã đổi khác và khá hơn bây giờ nhiều. Sở dĩ Jesus may mắn thoát chết vì có nội tuyến cứu bồ là Đại úy La mã chỉ huy toán lính hành hình hôm ấy tên Longinus. Y nguyên là một tín đồ bí mật của Jesus. (Mark 15: 39 và 27 :54, Luke 23 : 47). Theo học giả Gregory of Nyssa thì Nicodemus, Joseph of Arimathia và Đại úy Longenus đều là những tín đồ bí mật của Jesus (secret followers of Jesus). Riêng Đại úy Longenus về sau làm Giám mục tại thành Capadocian. Nicodemus là nghị viên quốc hội Do Thái (Jewish Councellor - John 3 : 1- 22) Khi còn ở Ephram, Nicodemus bí mật viết thư cho vợ của Jesus là Magdalena báo cho biết Jesus sắp bị quốc hội Do Thái bắt để giao cho quân La mã xử tội (John 11 : 53) .
Địa điểm hành hình tội nhân bằng thập giá thường ở những nơi công cộng như dọc đường lộ hoặc trên đồi cao để công chúng dễ thấy. Hình phạt xử tử bằng thập giá vừa là một hình phạt về thể hình giống như lăng trì (rất đau đớn và chết chậm) nhằm mục đích khủng bố tinh thần đám dân nô lệ và vừa là một nhục hình nhằm sỉ nhục tội nhân vì suốt trong một thời gian dài tội nhân bị phơi thân trần truồng trên thập giá truớc mặt công chúng.
Sau khi chết, xác nạn nhân không được đem đi chôn mà đều bị vứt ra các bãi hoang cho chó rừng hoặc kên kên ăn thịt. Cho nên, nếu không có đàn em tay trong đến cứu, Jesus chỉ có thể ở một trong hai trường hợp : Hoặc thoát chết và bỏ lỡ cơ hội chịu chết chuộc tội cứu thế, hoặc đã bị quân La mã vứt xác cho chó rừng ăn thịt chứ không còn nguyên thân xác sống lại đàng hoàng đụợc. Nếu sống lại với thân hình không nguyên vẹn thì Jesus đã trở thành quỉ nhập tràng chứ không phải Ngôi Lời Nhập Thể! Giả sử do một phép thần thông nào đó, Jesus đã sống lại và bay lên trời đúng như Thánh Kinh Tân ước mô tả thì ngày nay Jesus cũng mới bay được 2/3 đoạn đường từ trái đất đến sao Bắc Đẩu mà thôi,vì sao này cách chúng ta 3000 năm ánh sáng!
Lịch sử Tây phương ghi nhận nhiều vụ hành hình bằng thập giá. Vào thế kỷ thứ 4 trước Công Nguyên, hoàng đế Alexander the Great của Hy Lạp đã xua quân tiến chiếm thành Tyre. Vì bị dân thành chống cự, Alexander đã ra lệnh đóng đinh 2000 dân của thành này. Vụ thứ hai rất nổi tiếng xảy ra năm 71 trước Công Nguyên, đó là vụ viên tướng La Mã Marcius Crassus ra lệnh đóng đinh 6000 nô lệ có liên quan trong cuộc nổi loạn của nô lệ Spartacus( cái này trong phim 300 đây mà ). Sáu ngàn cây thập giá mang xác người đã được dựng lên dọc theo con đường vài chục dặm từ Cupua đến Rome!
Đến thế kỷ thứ 4 sau Công nguyên, triều đại Constantine ra luật hủy bỏ lệnh cấm đạo Ki Tô và bỏ luôn hình phạt dã man này.
Hiển nhiên, Jesus là một trong số những nạn nhân đã bị người La Mã xử tội bằng cách đóng đinh trên thập giá. Thế nhưng, người La Mã sau này lại không nhận tội giết Chúa mà lại đổ cho dân tộc Do Thái đã giết Ngài! Đó là nguyên nhân chính yếu gây nên họa diệt chủng Do Thái triền miên trong gần hai ngàn năm qua.
Dưới thời bị La Mã đô hộ, người Do Thái không có quyền xử tử bất cứ tội nhân nào mà không có phép của chính quyền La mã. Khi Do Thái còn độc lập thì theo tục lệ và luật pháp cổ truyền, tử tội bị dân chúng ném đá cho đến khi thấy tội nhân không nhúc nhích cựa quậy gì nữa. Dân tộc Do Thái chưa bao giờ giết người bằng cách đóng đinh nạn nhân vào thập giá. Dân Do Thái quả đã không giết Jesus và kẻ thật sự giết Ngài là đế quốc La Mã
Học giả Do Thái Leonard C. Yasseen, tác giả cuốn "The Jesus Connection to triumph over Anti-Semistism"- (154 pages, Crossroad NY 1985) đã viết: " Từ nhiều thế hệ , danh từ Messiah (Ki Tô) đã truyền đời trong dân Do Thái , theo tiếng Hebrew, có nghĩa là vị vua được Thiên Chúa xức dầu chúc phúc sẽ cứu dân Do Thái khỏi bị áp bức. Trong thời của Jesus, dân Do Thái mong chờ Chúa Cứu Thế sẽ đập tan quyền lực của đế quốc La mã và phế bỏ vị vua hiện hữu đang cai trị Do Thái để thay thế bằng hậu duệ của minh quân David" For generations, the word that had been passed down among Jews that through the intervention of the Messiah (Greek word: Christos) which in Hebrew means the annointed King, God would redeem Israel from oppression. The Messiah was expected in Jesus' day to destroy the power of Rome over Palestine to replace the existing king with a descendant of David - page 30). "Sau khi Jesus chết, niềm tin Ngài là Chúa Cứu Thế bị lung lay vì theo truyền thống Đạo Do Thái không có Chúa Cứu Thế Chết. (After his death that their belief in Jesus as their Messiah was shakenened, for Judaism had no tradition of a dying Messhiah - page 31)
Bốn thế kỷ sau cái chết của Ngài trên thập giá, hoàng đế La Mã Constantine đã dùng cây thập giá giết Ngài để làm huy hiệu cao quý cho cả đế quốc. Constanine tuyên bố: "Dưới dấu hiệu thập giá, ta sẽ chinh phục thế giới". (In Hoc Signo Vinces) Constantine xua quân đi chinh phục tới đâu truyền đạo Kitô tới đó. Chẳng bao lâu, toàn đế quốc La Mã trở thành các nước có đa số dân theo đạo Kitô. Ai theo đạo thì được các quân lính mang huy hiệu chữ thập bảo vệ, ai kháng cự tất nhiên sẽ phải chịu hình phạt. Dần dần các dân theo đạo cảm thấy cây thập giá như một thứ bùa hộ mạng và hoàn toàn quên mất thực chất của nó là một dụng cụ giết người cực kỳ hiểm ác. Họ bắt đầu nhìn cây thập giá như biểu hiện cho tình yêu đau khổ của Chúa Jesus (the symbol of Christ's suffering love) và cũng từ đó họ gọi cây thập giá là THÁNH GIÁ (The Holy Cross).
Tại các nhà thờ, những bài kinh ca ngợi Thánh Giá xuất hiện: "Chúng tôi kính mừng Cây Thánh Giá là cây đã chuộc tội chúng tôi, là cây lành thánh sang trọng, là đơn linh nghiệm, là tàu vượt biển, là chìa khóa mở cửa thiên đàng, là cành cây đầy búp bông hoa quả, là cây đã chở mình Chúa tôi. Chúng tôi trông cậy cây thánh giá đưa chúng tôi qua khỏi gian nan tới nước thiên đàng bên cạnh Chúa!".
Trong các nhà thờ hồi đó không có ảnh tượng của Chúa và các thánh. Thực sự vào thời đó chưa có nhà thờ (church) hay đại thánh đường (cathedral) mà chỉ là những phòng hội (synagogue) không có bàn thờ hay một ảnh tượng nào. Các tín đồ đến nhà hội nghe những tín đồ khác thuyết trình một đề tài nào đó về đạo, rồi họ cùng nhau cầu nguyện chung. Lúc đó chưa có ai biết hành nghề linh mục, làm lễ xong cho bổn đạo ăn chút bánh dính răng rồi thu tiền khán giả xem lễ như bây giờ.
Từ thế kỷ 5 sau Công Nguyên, các họa sĩ của nhà thờ bắt đầu vẽ hình cây thánh giá trơn tru, nhưng dưới chân thánh giá có hình một con chiên màu trắng. Con chiên đó tượng trưng cho Chúa Jesus vì trong thánh kinh Chúa Jesus được gọi là Con Chiên của Thiên Chúa (The Lamb of God).
Theo cổ tục đạo Do Thái, mỗi khi muốn tạ lỗi với Thiên Chúa, người ta giết một con chiên (cừu non) hay dê làm vật hy sinh thay cho mình để xin Thiên Chúa tha tội. Bản thân Chúa Jesus được tín đồ coi như là "một con chiên của Thiên Chúa" đã chịu chết trên thập giá làm "của lễ hy sinh cao quí vô cùng" để chuộc tội cho toàn thể loài người (The Redeemer of the whole mankind !).
Sang thế kỷ thứ 6, các họa sĩ nhà thờ tiến thêm một bước là vẽ hình Jesus mặc áo dài trắng (long tunic), hai tay dang ra trên thanh gỗ ngang, hai chân chụm lại và "đứng" lơ lửng trên thánh giá. Hai tay hai chân của Ngài để lộ những dấu đinh rướm máu. Cũng trong thế kỷ thứ 6, Chúa Jesus bắt đầu được tôn xưng là Vua và gọi ngài là "Chúa Jesus - Vua" (Le Christ-Roi).
Cây thập giá khổ hình ngày xưa bỗng nhiên biến thành cái ngai cao quí hơn bất cứ cái ngai vàng nào khác của các vua chúa thế gian. Chúa Jesus đã nghiễm nhiên trở thành "vua của các vua" (King of kings) trong toàn đế quốc La Mã. Họa sĩ nhà thờ vẽ ảnh Chúa đứng dựa vào thánh giá, nét mặt nghiêm nghị oai phong như không còn một chút đau đớn nào trên cơ thể. Nét mặt Ngài tỏa ánh hào quang của kẻ đã chiến thắng cái chết và đã sống lại hiển vinh để cai trị toàn thế giới cho đến muôn đời! Hình ảnh này của Chúa Jesus đã tồn tại qua nhiều thế kỷ trong các nhà thờ tại Âu Châu.
Sau khi giáo hội Công Giáo Hy Lạp tách rời khỏi Công Giáo La Mã vào thế kỷ 11 để trở thành Chính Thống Giáo, các họa sĩ Hy Lạp có sáng kiến vẽ hình Chúa bị đóng đinh vào thánh giá. Đầu của Chúa đội mão gai, máu chảy đầm đìa trên trán và trên khuôn mặt đau khổ. Những dòng máu chảy dài từ hai bàn tay xuống tới hai bên nách. Nhát giáo đâm cạnh sườn đã tạo thành một vết thương mở toang, máu từ tim ngài chảy xuống thành một dòng chảy lớn trên những xương sườn. Khắp thân thể Chúa còn in hằn lên rất nhiều vết roi bầm tím. Các họa sĩ nhà thờ đua nhau đem hết tài năng của mình để lột tả mọi sự đau đớn mà Chúa phải gánh chịu vì tội lỗi loài người trên thập giá.
Nhưng mọi tài năng và mọi sự tưởng tượng phong phú của các họa sĩ cuối cùng đã phải dừng lại ở... CÁI KHỐ ! (the loin-cloth) Không một họa sĩ nào dám đi xa hơn cái khố của Chúa Jesus trên thập giá. Trải qua nhiều thế kỷ, tới nay vẫn không có một ai dám đủ can đảm khắc họa đúng sự thật hình ảnh của Chúa trên thập giá. Sự thật là bọn lính La Mã đã lột hết quần áo của Ngài. Chúng đóng đinh treo Ngài lên thập giá với một thân xác trần truồng. Cái khố ta thấy trên tượng Chúa hiện nay là một sản phẩm hoàn toàn ngụy tạo. Cái khố đó tuy nhỏ xíu nhưng lại là một tấm màn vĩ đại che đậy toàn bộ bí mật của đạo Kitô.
Gần hai ngàn năm qua, giáo hội Kitô không dám vén cái khố của Chúa lên vì sợ để lộ cái vết cắt da qui đầu của Chúa. Bởi Chúa là công dân Do Thái trăm phần trăm, là tín đồ của Moises trăm phần trăm, là đệ tử của John Baptist trăm phần trăm và là nạn nhân của đế quốc La Mã trăm phần trăm! Ngài là một con người bình thường như mọi người chúng ta. Ngài chỉ khác chúng ta ở chỗ Ngài được bọn đế quốc thần thánh hóa bằng huyền thoại Ki Tô (Jesus was Chisted) để chúng núp đằng sau trục lợi. Bản thân Ngài chẳng được lợi lộc gì trong việc ngài được chúng tôn lên làm Thiên Chúa, chỉ có bọn đế quốc được hưởng lợi mà thôi. Đạo của Chúa được bọn đế quốc truyền đi bằng gươm giáo của những đoàn quân lê-dương( muốn biết rõ về mối quan hệ của thiên chúa và thực dân pháp xâm lược VN mời qua LSVN topic ngài Mr tèo có tên là bản chất thiên chúa ), bằng dàn hỏa, bằng tàu bè súng đạn của chủ nghĩa thực dân cũ mới và với đủ thứ mưu chước bịp bợm tinh vi.
Người ta vẫn tiếp tục đóng khố cho Chúa để che dấu mọi sự thật về Ngài, bởi lẽ nếu mọi người biết rõ sự thật về Chúa thì đạo Kitô sẽ không còn nữa!
(Phỏng theo THE GREAT COVER-UP của cựu linh mục Dòng Tên Peter de Rosa. Tác giả viết bài này để thay lời nói đầu cho tác phẩm VICARS OF CHRIST).
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Đến đây tôi xin phép nghĩ , không viết thêm bài nữa , mọi chuyện sắp tới trong năm 2012 cứ để nó xảy ra xem như thế nào .... Cảm ơn mọi người đã xem bài viết của tôi . Chân thành !
Đầu trang

anhchang00005
Nhị đẳng
Nhị đẳng
Bài viết: 417
Tham gia: 01:00, 06/01/12

TL: có hay không thế chiến 3 21_12_2012

Gửi bài gửi bởi anhchang00005 »

Vì sao có thứ 6 ngày 13 bắn zombie trên crossfire , vì sao phương tây kị số 6 và số 13 . Tất cả là vì cái khải huyền của Kito mà ra .
Hình ảnh

Chương 13 , khải huyền.

Con Mãng Xà ban quyền cho Con Thú

1 Bấy giờ tôi thấy một Con Thú từ dưới biển đi lên; nó có mười sừng và bảy đầu; trên mười sừng đều có vương miện, và trên các đầu có danh hiệu xúc phạm đến Thiên Chúa.

2 Con Thú tôi trông thấy thì giống như con báo, chân nó như chân gấu, mõm như mõm sư tử. Con Mãng Xà ban cho nó quyền năng và ngai báu của mình cũng như một quyền hành lớn lao.

3 Một trong các đầu của nó dường như đã bị giết chết, nhưng vết tử thương của nó đã được chữa lành. Bấy giờ toàn thể cõi đất thán phục đi theo Con Thú.

4 Họ thờ lạy Con Mãng Xà vì nó đã ban quyền hành cho Con Thú, và họ cũng thờ lạy Con Thú mà rằng: "Ai sánh được với Con Thú và ai có thể giao chiến với Con Thú? "

5 Nó đã được ban cho một cái mồm ăn nói huênh hoang và phạm thượng, và được ban cho quyền hành động trong vòng bốn mươi hai tháng.

6 Nó mở miệng nói phạm đến Thiên Chúa, đến danh Người, đến lều thánh của Người, và những đấng ở trên trời.

7 Nó được phép giao chiến với dân thánh và thắng họ, và nó được ban quyền trên mọi chi tộc, mọi nước, mọi ngôn ngữ và mọi dân.

8 Mọi người sống trên mặt đất sẽ thờ lạy nó; đó là những người từ thuở tạo thiên lập địa không được ghi tên trong Sổ Trường Sinh của Con Chiên đã bị giết.

9 Ai có tai thì hãy nghe.


10 Ai phải đi đày thì đi đày, ai phải chết vì gươm thì sẽ chết vì gươm. Đây là lúc dân thánh cần phải có lòng kiên nhẫn và đức tin.

Ngôn sứ giả phục vụ Con Thú



Hình ảnh

11 Tôi thấy một Con Thú khác từ đất đi lên. Nó có hai sừng giống như sừng chiên, và nói năng như một Con Mãng Xà.

12 Nó thi hành tất cả quyền bính của Con Thú thứ nhất, trước mặt Con Thú ấy, và làm cho đất, cũng như những người sống trên mặt đất, thờ lạy Con Thú thứ nhất, mà vết tử thương đã được chữa lành.

13 Nó làm những dấu lạ lớn lao, khiến cho ngay cả lửa từ trời cũng rơi xuống đất trước mặt người ta.

14 Nhờ các dấu lạ mà nó được quyền làm trước mặt Con Thú, nó mê hoặc những người sống trên mặt đất, bảo họ tạc tượng thờ Con Thú mang vết thương gươm đâm mà nay đã hồi sinh.

15 Nó được quyền thổi thần khí vào tượng Con Thú, khiến tượng Con Thú cũng nói được và ra lệnh giết những ai không thờ lạy mình.

16 Nó bắt mọi người, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, tự do hay nô lệ, phải thích dấu trên tay hữu hoặc trên trán.

17 Không ai có thể mua bán, nếu không mang dấu thích đó, tức là tên Con Thú hoặc con số tương đương với tên nó.

18 Đây là lúc cần phải có sự khôn ngoan. Ai có trí thông minh hãy tính ra số của tên Con Thú, vì đó là số của tên một người, và số của tên người ấy là :

666


Hình ảnh



Chương 13 của khải huyền đề cập đến hàng loạt các con thú , chúng được quỷ SATAN ban cho sức mạnh ko ai địch nổi , chúng rất trung thành với SATAN và SATAN được nhắc đến với cái tên sáu trăm sáu mươi sáu .
Sửa lần cuối bởi anhchang00005 vào lúc 22:40, 11/01/12 với 3 lần sửa.
Đầu trang

Trả lời bài viết

Quay về “Văn hóa - Cổ học”