Bàn về La Hầu và Kế Đô.
Đã gửi: 11:57, 06/08/09
I. La Hầu.
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, La Hầu được nhìn nhận như là một a-tu-lahay một con quỷ cố gắng biến bất kỳ lĩnh vực nào mà ông kiểm soát thành hỗn loạn, thần bí và tàn nhẫn. Ông gắn liền với thế giới của biểu lộ vật chất và dục vọng trần tục; và của sự phát triển ngẫu nhiên, không kiểm soát không có hiểu biết. La Hầu là một karaka hay chỉ thị về danh vọng thế giới, sự tham lam, tri thức cao, mánh khóe, hành vi ám ảnh, kẻ ngoại lai, dịch bệnh, mất trí và sức ỳ. Tuy nhiên, nếu sử dụng đúng cách, La Hầu có thể trở thành phương tiện trong củng cố sức mạnh của cá nhân và chuyển hóa ngay cả kẻ thù mạnh nhất thành bạn bè.
La Hầu gắn liền với những điều sau: màu là khói, kim loại là chì và đá quý là hessonit màu vàng mật ong. Nguyên tố của nó là khí và hướng là tây nam.
Trong Phật giáo, La Hầu là một trong krodhadevatas (thần linh cảm khiếp sợ).
II.Kế Đô
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, Kế Đô đại diện cho các tập hợp nghiệp cả tốt lẫn xấu, có các ảnh hưởng tinh thần và siêu nhiên. Kế Đô gắn liền với hóa thân Matsya(hóa thân Cá) của thần Vishnu. Kế Đô biểu hiện cho sự tiến triển tinh thần trong tinh luyện vật chất thành tinh thần và được cho là có cả tác dụng xấu lẫn tốt, do nó gây ra nỗi đau đớn và mất mát, và trong cùng thời gian đó chuyển một con người dần dà thành một vị thần. Nói cách khác, nó gây ra mất mát về vật chất nhằm đạt được một cách nhìn nhận mang tính tinh thần nhiều hơn trong một con người. Kế Đô là một karaka hay chỉ thị về tri thức, sự hiểu biết, không còn sự quyến luyến, khả năng tưởng tượng, cái nhìn xuyên suốt, sự xáo trộn và các khả năng tâm linh. Kế Đô được cho là mang tới sự thành công cho gia đình người mộ đạo, loại bỏ các hiệu ứng của vết rắn cắn và bệnh tật phát sinh ra từ ngộ độc. Vị thần này đảm bảo một sức khỏe tốt, sự giàu có và gia súc cho những người thờ phụng ông. Kế Đô là chúa tể của 3 nakshatra hay ba cung Mặt Trăng: Ashvini, Maghavà Mula.
III. La hầu và Kế đô có thật hay không
Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung Hoa phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác.
Trong chiêm tinh học Trung Hoa, La Hầu (羅喉) và Kế Đô (計都) là hai hư tinh trong thất chánh tứ dư, với thất chánh là Thái Dương, Thái Âm, Thái Bạch, Mộc Đức, Thủy Diệu, Vân Hán, Thổ Tú còn tứ dư bao gồm Nguyệt Bột, Tử Khí, La Hầu và Kế Đô. Thực chất La Hầu và Kế Đô chỉ là hai giao điểm trên hoàng đạo và bạch đạo (tương ứng là giao điểm của các đường di chuyển của Mặt Trời và Mặt Trăng trên thiên cầu).
Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn).
Các chiêm tinh gia khi xưa quan sát nhật thực,nguyệt thực cho rằng tồn tại hai thiên thể, một che lấp mặt trời gọi là La Hầu, một che lấp mặt trăng gọi là Kế Đô. Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói. Theo quan niệm của triết học phương Đông mặt trời biểu tượng cho người nam, mặt trăng biểu tượng cho người nữ cho nên mới có câu "Nam La Hầu, Nữ Kế Đô" ý chỉ sao La Hầu chỉ tác hại đối với nam giới và ngược lại.
(tham khảo Wikipedia và WCAC)
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, La Hầu được nhìn nhận như là một a-tu-lahay một con quỷ cố gắng biến bất kỳ lĩnh vực nào mà ông kiểm soát thành hỗn loạn, thần bí và tàn nhẫn. Ông gắn liền với thế giới của biểu lộ vật chất và dục vọng trần tục; và của sự phát triển ngẫu nhiên, không kiểm soát không có hiểu biết. La Hầu là một karaka hay chỉ thị về danh vọng thế giới, sự tham lam, tri thức cao, mánh khóe, hành vi ám ảnh, kẻ ngoại lai, dịch bệnh, mất trí và sức ỳ. Tuy nhiên, nếu sử dụng đúng cách, La Hầu có thể trở thành phương tiện trong củng cố sức mạnh của cá nhân và chuyển hóa ngay cả kẻ thù mạnh nhất thành bạn bè.
La Hầu gắn liền với những điều sau: màu là khói, kim loại là chì và đá quý là hessonit màu vàng mật ong. Nguyên tố của nó là khí và hướng là tây nam.
Trong Phật giáo, La Hầu là một trong krodhadevatas (thần linh cảm khiếp sợ).
II.Kế Đô
Trong chiêm tinh học Vệ Đà, Kế Đô đại diện cho các tập hợp nghiệp cả tốt lẫn xấu, có các ảnh hưởng tinh thần và siêu nhiên. Kế Đô gắn liền với hóa thân Matsya(hóa thân Cá) của thần Vishnu. Kế Đô biểu hiện cho sự tiến triển tinh thần trong tinh luyện vật chất thành tinh thần và được cho là có cả tác dụng xấu lẫn tốt, do nó gây ra nỗi đau đớn và mất mát, và trong cùng thời gian đó chuyển một con người dần dà thành một vị thần. Nói cách khác, nó gây ra mất mát về vật chất nhằm đạt được một cách nhìn nhận mang tính tinh thần nhiều hơn trong một con người. Kế Đô là một karaka hay chỉ thị về tri thức, sự hiểu biết, không còn sự quyến luyến, khả năng tưởng tượng, cái nhìn xuyên suốt, sự xáo trộn và các khả năng tâm linh. Kế Đô được cho là mang tới sự thành công cho gia đình người mộ đạo, loại bỏ các hiệu ứng của vết rắn cắn và bệnh tật phát sinh ra từ ngộ độc. Vị thần này đảm bảo một sức khỏe tốt, sự giàu có và gia súc cho những người thờ phụng ông. Kế Đô là chúa tể của 3 nakshatra hay ba cung Mặt Trăng: Ashvini, Maghavà Mula.
III. La hầu và Kế đô có thật hay không
Thế kỷ I, Phật giáo từ Ấn Độ vào Trung Hoa, cùng với Phạn lịch, trong đó hai thiên thể che lấp mặt trời, mặt trăng được gọi là Rahu và Kethu. Người Trung Hoa phiên âm là La Hầu và Kế Đô. Hai “Sao” này tối đen, rất lớn và chỉ che lấp mặt trời mặt trăng chứ không che bất cứ thiên thể nào khác.
Trong chiêm tinh học Trung Hoa, La Hầu (羅喉) và Kế Đô (計都) là hai hư tinh trong thất chánh tứ dư, với thất chánh là Thái Dương, Thái Âm, Thái Bạch, Mộc Đức, Thủy Diệu, Vân Hán, Thổ Tú còn tứ dư bao gồm Nguyệt Bột, Tử Khí, La Hầu và Kế Đô. Thực chất La Hầu và Kế Đô chỉ là hai giao điểm trên hoàng đạo và bạch đạo (tương ứng là giao điểm của các đường di chuyển của Mặt Trời và Mặt Trăng trên thiên cầu).
Đây là hai thiên thể không có thực. Trước kia, khi thấy mặt trời, mặt trăng bị che lấp tối đen, người Trung Hoa cho rằng do một giống quái vật khổng lồ ăn mất, tạo ra Nhật thực và Nguyệt thực (quái vật gấu ăn mặt trời, quái vật chó sói ăn trăng – có lẽ do hiện tượng chó sói tru đêm trăng tròn, mà nguyệt thực chỉ xảy ra vào đêm trăng tròn).
Các chiêm tinh gia khi xưa quan sát nhật thực,nguyệt thực cho rằng tồn tại hai thiên thể, một che lấp mặt trời gọi là La Hầu, một che lấp mặt trăng gọi là Kế Đô. Về La Hầu, Kế Đô, một khi đã che được Mặt trăng và Mặt trời, thế nhưng chúng lại không che bất kỳ một thiên thể nào khác, vì vậy người Trung Hoa cho đó là thiên thể kì lạ, là khắc tinh của riêng Mặt trời, mặt trăng. Và vì vậy La Hầu và Kế Đô vẫn có một vị trí nhất định trong hệ thống thiên thể, đặc biệt trong việc xem bói. Theo quan niệm của triết học phương Đông mặt trời biểu tượng cho người nam, mặt trăng biểu tượng cho người nữ cho nên mới có câu "Nam La Hầu, Nữ Kế Đô" ý chỉ sao La Hầu chỉ tác hại đối với nam giới và ngược lại.
(tham khảo Wikipedia và WCAC)