Trang 1 trên 1

[Phần 1] Truyền kỳ về Hác Kim Dương

Đã gửi: 09:45, 31/10/24
gửi bởi mars_mars
Tiên sư Hác Kim Dương sinh năm 1930, vào giờ Dần ngày mùng 3 tháng 6 nhuận, xuất thân từ một gia đình nông dân bình thường ở vùng núi huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây. Do gia cảnh nghèo khó, dù thông minh từ nhỏ, ông không có nhiều điều kiện học hành. Năm 17 tuổi, khi Nhật Bản đầu hàng và Thái Nguyên được giải phóng, ông được tuyển dụng vào làm công nhân tại nhà máy quân sự ở Thái Nguyên. Vào mùa thu năm 1948, có một thầy bói đến từ nơi khác, người ta nói rằng thầy bói này bói rất chính xác. Thời đó, chiến tranh diễn ra khắp nơi, ai ai cũng lo lắng cho tương lai và số phận của mình. Vì còn trẻ, ông Hác khi ấy không tin vào việc xem bói, nhưng vì nghe người khác nói rằng thầy bói rất chuẩn mà chi phí cũng không cao, nên ông quyết định thử một quẻ.

Thầy bói (dùng tiền đồng để lập quẻ, có thể là lục hào) gieo cho ông một quẻ và đưa ra lời phán đoán sau: “Trước cửa nhà anh có ba cây, nhưng quẻ cho thấy năm nay chúng sẽ bị chặt.” Ông Hác xác nhận rằng có ba cây thật, nhưng khi ấy không rõ chúng đã bị chặt hay chưa, sau đó ông mới biết rằng đúng là chúng đã bị chặt.

“Năm sau, vào mùa xuân, anh sẽ gặp một đại nạn, là tai họa sinh tử!” Nghe vậy, ông Hác sững sờ, liệu tai họa đó có lấy mạng mình không? Ông liền hỏi thêm: “Đó là loại tai họa gì? Có nguy hiểm đến tính mạng không?” “Tôi nghĩ rằng, chắc anh không chết đâu, nhưng nếu sống thì e rằng chỉ sống lay lắt thôi.”
Lúc đó, ông Hác không hiểu “sống lay lắt” có nghĩa là gì, nên ông tiếp tục hỏi chuyện sau này sẽ ra sao. “Khi anh 35 tuổi, anh sẽ tự tử một lần, nhưng có thể lần đó cũng không chết. Nếu qua được, sẽ có người mang đến cho anh một bát cơm, từ đó về sau anh sẽ sống nhờ vào bát cơm đó.”

Lời phán đoán đã dự báo cả cuộc đời của ông, không cần hỏi thêm gì nữa. Nhưng còn tai họa của năm sau thì sao? Có cách nào giải trừ không? Thầy bói nói: “Có một cách, có lẽ sẽ hiệu quả. Đó là vào ngày mùng 1 Tết năm sau, anh cần làm lễ tế Thái Tuế. Tôi có thể chỉ cho anh cách làm, nhưng cần một loại thuốc đặc biệt, tôi sẽ về chuẩn bị, chi phí là ba đồng bạc.”

Lúc này, ông Hác phân vân. Ba đồng bạc khi đó là tiền lương của một công nhân học việc trong cả tháng! Một phần là vì tiếc tiền, một phần là không biết cách của thầy bói có hiệu quả không, và ông cũng lo rằng thầy bói chỉ đang giăng bẫy, dọa nạt để kiếm tiền.

Sang mùa xuân năm sau, đúng vào lúc thành phố Thái Nguyên được giải phóng, pháo đạn nổ liên tục. Lời dự báo về tai họa luôn ám ảnh ông Hác, nên ông quyết định trở về quê. Ngay trước khi chuẩn bị lên đường, nhà máy bị pháo kích, gây ra hỏa hoạn và nổ lớn. Không may, ông Hác đang trực ca và bị thương ở mắt, từ đó ông mất đi thị lực và trở thành người mù.

Lúc đó, chính phủ Quốc Dân Đảng đã bồi thường cho ông một khoản tiền và đưa ông về quê. Không lâu sau, Thái Nguyên được giải phóng, chính quyền Quốc Dân Đảng sụp đổ, và ông không còn nhận được bất kỳ khoản trợ cấp nào nữa. Bản thân lại mất khả năng lao động, ông phải sống nhờ vào sự nuôi dưỡng của cha mẹ.
Vài năm sau, cha ông lâm bệnh qua đời, khiến cuộc sống vốn khó khăn lại càng thêm túng quẫn. May mắn là mẹ ông vẫn còn, lo cho ông ăn uống. Nhưng đến năm 35 tuổi, người mẹ yêu thương của ông cũng qua đời. Cuộc sống sau này của ông sẽ ra sao? Ông nghĩ rằng sống đến mức này, đi đâu cũng chỉ là gánh nặng cho người khác, chi bằng kết thúc cuộc đời. Ông chuẩn bị dây để treo cổ tự tử, nhưng đúng lúc đó, có người phát hiện và cứu sống ông. Ngay cả việc chết cũng không thành. Lúc này, ông nhớ đến lời thầy bói mười mấy năm trước: Ông sẽ không chết và có người mang đến cho ông một bát cơm. Nghĩ rằng còn cơ hội sống, ông quyết định chờ xem ai sẽ mang đến bát cơm cho mình.

Năm đó, trong làng có một tú tài về hưu. Ông là người duy nhất có học trong làng, vì từng học tư thục nên biết chút ít về thuật số. Ông ấy mang đến cho ông Hác một cuốn sách cổ Uyên Hải Tử Bình, và nói: “Giờ anh cũng cần học một nghề để kiếm sống, đừng nghĩ quẩn mà tự tìm cái chết. Ông trời có mắt, chắc chắn sẽ cho anh một con đường sống. Nghe nói người mù thường học thuật số từ cuốn sách này. Nhà tôi có cuốn sách này, tôi tặng anh để học, xem anh có học được không.”

Khi ấy, cách mạng văn hóa vẫn chưa kết thúc, việc có một người dám mang đến cho ông một thứ bị coi là “mê tín phong kiến” quả là điều hiếm có, hơn cả việc trời rơi xuống bánh. Nghe những lời đó, lòng ông Hác trở nên ấm áp, có người vẫn quan tâm đến ông trong hoàn cảnh này, đúng là việc mà ông mong muốn. Nhưng ông lại nghĩ, mình mù thì làm sao học được?

Lúc này, tú tài già lên tiếng: “Tôi cũng không giỏi việc xem mệnh này, nên không thể dạy anh. Nhưng giờ tôi có thời gian, tôi sẽ đọc nội dung trong sách cho anh nghe, anh chỉ cần ghi nhớ. Có học được hay không là do số mệnh của anh.”

Đây quả là một cách tốt, nhưng người mù xem mệnh mà không biết lập Bát tự thì không được, vậy phải học ở đâu? Có lẽ tú tài già đã sắp xếp sẵn, ông tiếp tục nói: “Ở làng bên cạnh, có một người mù biết phép ‘Lưu Tinh Cảm Nguyệt’. Một ngày nào đó, tôi sẽ mời ông ấy đến đây, để ông ấy dạy anh cách lập Bát tự, thế là xong.”

Quả nhiên, hôm sau, vị tú tài già đã mời người mù biết "Lưu Tinh Cảm Nguyệt" từ làng bên sang. Ông ấy tiếp đãi chu đáo, và người mù ấy vui vẻ đồng ý dạy. "Lưu Tinh Cảm Nguyệt" là bí quyết lập Bát tự của người mù, chia thành hai phần: một phần lập nhật can chi, một phần liên quan đến tiết lệnh. Mỗi năm có hai câu khẩu quyết để định can chi, và hai câu để nói về giao tiết. Người ta phải học thuộc 400 câu khẩu quyết, bao gồm chu kỳ 100 năm. Dĩ nhiên, việc học thuộc 400 câu này không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, nhưng có tú tài giúp ghi lại trên giấy, gần như chỉ trong một ngày là đã truyền hết khẩu quyết.
Ông Hác Kim Dương vốn thông minh, lại có trí nhớ rất tốt. Chỉ sau nửa năm, ông đã học thuộc hết các khẩu quyết trong cuốn Uyên Hải Tử Bình, và có thể sử dụng thành thạo phương pháp "Lưu Tinh Cảm Nguyệt". Dù chưa có sư phụ chính thức, ông đã dùng những khẩu quyết này để xem mệnh cho người dân trong làng. Tuy nhiên, việc ứng dụng còn sai lệch nhiều, và do chưa hiểu thấu đáo các khẩu quyết của Tử Bình, ông không thể kiếm sống nhờ vào việc này.

Lúc này, tú tài già nói với ông: "Anh đã học được rất nhiều, tôi cũng đã dạy hết những gì có thể. Nhưng để thực sự học được cách xem mệnh, anh cần phải bái sư để học. Tôi từng nghe những người lớn tuổi nói rằng, trước đây ở huyện ta có một người mù tên là Lưu Khai Thành, ông ấy có trình độ cao nhất, nhưng giờ ông ấy đã qua đời. Để tôi tìm hiểu xem truyền nhân của ông ấy còn sống hay không, và ở đâu. Nếu tìm được, anh có thể bái sư học hỏi. Anh thấy thế nào?"

Gặp được một quý nhân như vậy, ông Hác vô cùng cảm động. Nhưng làm sao để tìm được sư phụ? Người mù Lưu Khai Thành là một cao nhân trong dân gian vào thời dân quốc, là một bậc thầy trong phái Mù, nổi tiếng khắp Ngũ Đài, Đại Huyện và Nguyên Bình. Ông từng xem mệnh cho thiếu niên Nghiêm Tích Sơn và Từ Hướng Tiền. Lưu Khai Thành tính phí xem mệnh tùy theo mức độ giàu nghèo của khách hàng: người nghèo trả phí thấp, người giàu trả phí cao. Ông thường yêu cầu khách hàng cung cấp Bát tự trước, sau đó ông sẽ đưa ra một vài phán đoán ban đầu. Sau khi phán đoán chính xác, ông mới tính phí theo mức độ giàu có của khách. Nếu khách muốn biết chi tiết, ông sẽ hẹn vài ngày sau đến lấy mệnh thư tại nhà. Ông Lưu mời một người sáng mắt viết mệnh thư cho mình, mệnh thư được ghi chép rất cẩn thận và đúng quy cách, tùy theo yêu cầu của khách hàng mà có độ chi tiết khác nhau.

Vào cuối đời, ông Lưu bắt đầu truyền dạy kiến thức của mình, nhưng chỉ nhận người mù làm đệ tử. Đến hẹn mỗi năm, các đệ tử của ông lại tụ họp trong lễ hội miếu, được gọi là "Tam Hoàng Hội". Các đệ tử mang theo học trò của mình đến giao lưu và tham gia kỳ thi do chính ông Lưu tổ chức. Chỉ những người thi đỗ mới được phép rời sư môn. Do đó, kỹ thuật xem mệnh của ông Lưu được truyền bá rộng rãi vào thời bấy giờ.
Ông Hác từ nhỏ đã nghe về câu chuyện của Lưu Khai Thành, nhưng sau khi ông Lưu qua đời vào những năm đầu giải phóng, "Tam Hoàng Hội" không còn tồn tại nữa. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa, xem mệnh bị coi là mê tín phong kiến và bị cấm đoán nghiêm ngặt. Tuy nhiên, ở nông thôn, người ta vẫn cần những thầy thông hiểu âm dương để xem ngày cưới hỏi, ma chay, dù bị cấm nhưng không thể hoàn toàn dứt bỏ. Hơn nữa, người mù không có nghề nghiệp nào khác, nên vẫn phải sống dựa vào việc này.

Vị tú tài già đã tìm ra được một truyền nhân của Lưu Khai Thành, là một người mù họ Trương ở làng Nam Bạch, huyện Nguyên Bình. Thế là ông Hác cùng người cháu đi tìm ông Trương mù để bái sư học nghề.
Khi gặp ông Trương, ông Hác trình bày ý định, nhưng không ngờ ông Trương không muốn nhận thêm đệ tử. Sau khi thuyết phục mãi, ông Trương mới đồng ý nhưng ra giá rất cao, ba trăm đồng bạc học phí, với ý rằng nếu không có tiền thì đừng học. Nghe giá này, ông Hác dĩ nhiên không có đủ tiền. Vậy phải làm sao? Chuyến đi này liệu có uổng công?

Công sức không phụ lòng người. Cuối cùng, ông Trương mù đồng ý nhận ông Hác làm đệ tử, và học phí sẽ được trả bằng cách viết giấy nợ, hẹn trả trong vòng ba năm. Việc học bình thường mất ba năm, nhưng vì ông Hác đã có nền tảng, chủ yếu chỉ cần học các khẩu quyết từ sư phụ, nên ông chỉ mất chưa đầy một tháng để hoàn thành việc học.

Có một chi tiết đáng chú ý: Lúc ấy, có quá nhiều khẩu quyết, và ông Hác không thể nhớ hết ngay được. Cách duy nhất là ghi lại trên giấy để sau này học thuộc dần. Nhưng ngay cả tiền mua giấy, ông cũng không có. Cuối cùng, ông phải mượn sư phụ ba hào để mua ba tờ giấy trắng khổ 1K, rồi nhờ người chép các khẩu quyết lên. Ba tờ giấy đầy ắp chữ, chứa đựng các khẩu quyết xem mệnh mà tổ sư Lưu Khai Thành truyền lại, là những bí quyết không thể tiết lộ ra ngoài. Cũng giống như các đệ tử khác, ông Hác đã thề độc rằng chỉ truyền cho người mù, không được truyền cho người sáng mắt.

Tài năng xuất chúng của ông Hác cũng phải được công nhận. Vào ngày hôm sau khi nhận được các khẩu quyết, có người đến xem mệnh. Ông để sư phụ nghe và tự mình xem mệnh, kết quả là khách hàng rất hài lòng và trả ba hào tiền quẻ. Đây là lần đầu tiên trong đời ông kiếm được tiền nhờ xem mệnh, và cũng tiện thể trả luôn ba hào đã mượn của sư phụ.

Sư phụ Trương nghe xong lời đoán mệnh của ông Hác Kim Dương, vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, nhưng cũng lo lắng. Ngạc nhiên vì ông Hác có khả năng tiếp thu vượt trội, là đệ tử giỏi nhất mà ông từng dạy; vui mừng vì với năng lực này, học phí ba trăm đồng bạc chắc chắn không thành vấn đề. Tuy nhiên, lo lắng rằng đệ tử này quá giỏi, liệu sau này có vượt qua mình và trở thành đối thủ cạnh tranh không?

Thời gian trôi qua, kỹ năng xem mệnh của ông Hác càng ngày càng tiến bộ. Quả thật, ba năm sau, ông đã trở thành một thầy xem mệnh nổi tiếng trong vùng. Khi đó, thu nhập của một người xem mệnh như ông có thể tương đương với thu nhập của mười mấy lao động. Dù chỉ tính mỗi lần xem mệnh là ba hoặc bốn hào, nhưng vào thời điểm đó, thu nhập của một người lao động chỉ khoảng một đồng mỗi ngày. Ông Hác có thể xem mệnh cho mười đến hai mươi người một ngày, điều này là bình thường. Ông thường mang theo một người sáng mắt để dẫn đường, đi qua các làng mạc ở Nguyên Bình và Ngũ Đài, và để lại nhiều câu chuyện xem mệnh truyền kỳ. Sau này, danh tiếng của sư phụ ông không còn nổi bật như ông nữa, và trình độ thực sự của ông Hác cũng đã vượt qua sư phụ Trương. Khi một người đã từng đến xem mệnh với sư phụ ông, sau đó tìm đến ông Hác để xem, người đó đánh giá rằng ông Hác đoán mệnh chính xác và chi tiết hơn. Vì thế, mọi người đều nghĩ rằng họ là sư huynh đệ chứ không phải là thầy trò.

Một ngày nọ, những lời đồn đoán này vô tình đến tai sư phụ Trương, và ông nghĩ rằng chắc chắn Hác Kim Dương đã nói điều này với người ngoài. Ông Trương vô cùng tức giận và nói những lời khó chịu, từ đó giữa thầy và trò nảy sinh khoảng cách, nhiều năm không qua lại với nhau.

Thực ra, chuyện đệ tử vượt qua thầy là điều bình thường. Có câu nói rằng "có đệ tử đạt trạng nguyên, nhưng không có thầy đạt trạng nguyên". Tài năng thiên bẩm của ông Hác thật sự vượt trội so với người bình thường, cùng một câu khẩu quyết nhưng ông lại hiểu theo cách riêng và vận dụng linh hoạt, từ đó tạo ra sự khác biệt về trình độ. Giống như việc chúng ta đọc Hoàng Đế Nội Kinh, việc hiểu nội dung sách đến đâu phụ thuộc vào trình độ y học của mỗi người, đó chính là sức hấp dẫn của những tác phẩm kinh điển.

Ngoài những khẩu quyết được cha truyền lại, ông Hác còn học từ nhiều thầy khác, trong đó có một người mà ông kính trọng nhất là Lý Bát Lai – một người sáng mắt giỏi nhất ở Ngũ Đài. Ông Lý không chỉ thông thạo mệnh lý mà còn giỏi về Kỳ Môn, Lục Nhâm và phong thủy. Người ta nói rằng ông Hác đã học được nhiều thứ từ ông Lý. Những câu chuyện kỳ diệu về Lý Bát Lai sẽ được đề cập trong các bài viết sau.

TL: [Phần 1] Truyền kỳ về Hác Kim Dương

Đã gửi: 21:50, 22/11/24
gửi bởi mars_mars
Phiền ban điều hành chuyển bài này về mục Kiến Thức Tứ Trụ