Bảng an Tứ Hóa
Đã gửi: 21:46, 30/06/12
Hiện nay, như nhiều người biết, có nhiều cách an Tứ Hóa khác nhau, cho hỏi các bác hiện đang dùng cách an nào (ví dụ Canh đồng âm hay âm đồng) và có giải thích tại sao hay ko?
Ace up bài tóm lược lập luận của bác VDTT về cách an tứ hóa (lược bỏ nhiều phần chính, chỉ giữ lại những phần có conflict về cách an, vd can Canh), hy vọng sẽ có phản biện của các bác về lập luận này:
Tác giả: VDTT
Vấn nạn Mậu Canh Nhâm Quý
Giáp Liêm Phá Vũ Dương
Ất Cơ Lương Tử Nguyệt
Bính Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ
Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Nhật Vũ Âm Đồng
Tân Cự Nhật Khúc Xương
Nhâm Lương Tử Phụ Vũ
Quý Phá Cự Âm Tham
Mọi trường phái đều đồng ý cách an Lộc Quyền như bảng trên là đúng, KHoa Kỵ can Canh là đề tài tranh luận sôi nổi nhất, có nhiều thuyết khác nhau:
_Âm Đồng: đa số theo
_Phủ Đồng: một số nhỏ theo
_Phủ Tướng: một số rất nhỏ theo
_Đồng Âm: một số rât nhỏ theo
_Đồng Tướng: một số rất nhỏ theo
Chỉ có Tướng hóa Kỵ khác truyền thống, cách này ít người theo, nhung trong đó có vài nhân vật kiệt liệt, như Phan Tử Ngư tiên sinh của Đài Loan.
Về các can khác ta thấy có:
Ông Vương ĐÌnh Chi, Trung Châu phái Hồng Kong, chủ trương Mậu Thái Dương Hóa Khoa (thay vì Hữu Bật), can Nhâm Thiên Phủ hóa Khoa (thay vì Tả phụ)
Ông Tạ Phồn Trị (một dịch lý gia Đài Loan) chủ trương can Quý Thiên Đồng Hóa Khoa (thay vì Thái Âm)
...
Bởi thế rất cần truy nguyên cách định tứ hóa bằng phương pháp khoa học.
...
Ý nghĩa của Hóa
"Hóa" ứng với lý "cùng tắc biến" của dịch. Cảnh chết chóc mùa đông kéo dài mãi đến lúc "cùng", "biến" ra sự phôi thai của mùa xuân, ứng với Hóa Lộc. Sự phôi thai mùa xuân kéo dài mãi phải đến lúc "cùng", "biến" ra cái cường tráng của mùa hạ, ứng với Hóa Quyền. Cái cường tráng mãi "cùng tắc biến" thành sự ngưng bước nhàn thu (điều chỉnh) của mùa thu, Hóa Khoa. Ngừng bước nhàn thu mãi "cùng tắc biến" thành cảnh chết chóc mùa đông, Hóa Kỵ.
Phủ Tướng Sát không hóa
Tóm lại, hóa có nghĩa là "vì gặp cảnh cùng mà biến hóa". Nhưng muốn biến hóa thì phải có khả năng biến hóa. Trong 14 chính tinh có 3 chính tinh đặc biệt là Phủ Tướng Sát không hóa.
Từ cách hình thành, ta biết Phủ là sao phụ của Tử Vi.
Thiên Tướng Phá Quân vĩnh viễn xung chiếu, Phá Quân tự có bản sắc, đại diện tính thuần thủy cung Tý. Tướng là sao mượn chỗ, ngay cả hành Thùy cũng mượn của Phá Quân. Nên Tướng căn bản âm dương là sao phụ của Phá Quân.
Thất Sát Thiên Phủ vĩnh viễn xung chiếu,. Thiên Phủ là đế tinh không thể là sao phụ của Thất Sát,nên suy ra Thất Sát là sao phụ của Thiên Phủ.
Đã là sao phụ, tất tùy biến theo người, làm gì có bản sắc mà biến hóa? Bởi vậy Phủ Tướng Sát ko hóa.
Lập luận này (của ông Tạ Phồn Trị) giúp ta biết rằng các thuyết Phủ hóa Khoa, Tướng hóa Kỵ.. là sai, tối thiểu trên căn bản thuyết âm dương.
.....
(Phần giải thích cách an hóa Lộc, Quyền, Kỵ, rất dài)
Vấn nạn hóa Kỵ
Can Canh Thái Âm hóa kỵ?
Chủ trương này có lẽ xuất phát từ niềm tin Thiên Đồng không thể hóa kỵ. Vì Thái Âm thuộc chùm Thiên Phủ, cách an này khiến Canh là can Dương duy nhất hóa kỵ trong chùm Thiên Phủ, điều này phản lại nguyên lý tổng quát (can Dương phải hóa kỵ trong chùm Tử vi).
Tử Vi, Thiên Lương, Phá Quân ko hóa Kỵ:
"Hóa" có nghĩa là biến tính, nên sao ko hóa kỵ phải ứng vs 1 trong 2 trường hợp:
1. Hoàn toàn ko có cái nhân "Kỵ" tiềm ẩn trong bản chất, nên bất luận hoàn cảnh ko thể hóa kỵ.
2. Tính "Kỵ" đã thể hiện ra bên ngoài, nên ko có lý do để hóa kỵ nữa.
_Tử Vi: vì là đế tinh cao quý ko có lý do để đố kị, ứng với TH1.
_Thiên Lương: luôn tam hợp Thái Âm, như kẻ mưu sĩ có chốn dung thân, ko có lý do để đố kị, ứng với TH1.
_Phá Quân: thủ lĩnh phe chống đối lại truyền thống, ứng với TH2.
Do ko mang tính Kỵ, lại là đế tinh cao quý, Tử Vi có khả năng tạo phúc, phù hợp với quan điểm để lại nghìn xưa rằng "Tử Vi ở cung nào ban phúc cho cung đó"
Suy luận tương tự, Thiên Lương cũng có khả năng ban phúc, nhưng Lương là 1 thường tinh, nếu ở đâu tốt đó như Tử Vi thì ko hợp lý, nên Lương tạo phúc là giải họa cho cung đó. Vì lẽ bù trừ (âm dương) Lương có đặc tính trái khoáy là ở đâu thì nơi đó có họa, nhưng họa xảy ra rồi thì Lương ra tay cứu giải. Cứu đc hay ko phụ thuộc nhiều yếu tố khác.
Phá Quân căn bản đã mang tính Kỵ nên ko tiện đóng ở những cung liên hệ như huynh đệ, phu thê, phụ mẫu, phúc đức. Đây là đặc tính giới chiêm nghiệm tử vi biết là đúng, giờ thì ta hiểu tại sao.
Vấn nạn hóa Khoa
...
Có hai trường phái chống lại truyền thống: phái thứ nhất cho Hóa Khoa là Thiên Đồng, phái thứ hai cho Hóa Khoa Thiên Phủ.
Có nhiều lý do chống lại truyền thống an Khoa tại Canh, nhưng dễ hiểu nhất thì Thái Âm hóa Khoa 2 lượt ở Canh & Quý. Coi toàn bảng ta ko thấy sao nào cũng hóa 2 can, nên có thể hồ nghi Khoa ở Canh hoặc Quý sai. Cộng với niềm tin Thiên Đồng là phúc tinh ko hóa kỵ nên đảo thứ tự thành Đồng Âm.
Phái thứ hai cũng quan điểm Thái Âm hóa khoa 1 lần. Người ta tin Thái Âm ko hóa khoa ở Canh vì đó là trọng tâm các bàn cãi trước đó, nên thay Thái Âm bằng một sao có nhiều tương đồng là Thiên Phủ, vì cùng là đế tinh & tài tinh.
Nhưng nếu Thiên Phủ chỉ hóa khoa ở Canh thì lẻ loi quá, vì như vậy nó chỉ xuất hiện đúng 1 lần trong bảng tứ hóa,. Suy luận này dẫn đến phái thứ ba là Trung Châu Phái, Phủ hóa khoa 2 lần ở Canh và Nhâm. Nhưng bỏ Tả phụ ra khỏi bảng hóa khoa rồi thì ko có lý do gì giữ Hữu Bật, nên thay Thái Dương Hóa Khoa tại Mậu.
(phần giải thích cách an Hóa Khoa, phần này rất dài)
Chưa thấy ai giải thích nguyên lý bảng tứ hóa Trung Châu Phái, nhưng ta có thể tin rằng những thay đổi này là kết quả của cảm ứng cá nhân hơn là lý luận chặt chẽ. Riêng trường hợp thay Tả Phụ bằng thiên Phủ thì có thể như sau: chữ "Phủ" và "Phụ" đọc ko khác nhau bao nhiêu, nên sai lệch là do truyền khẩu, rồi ghi chép lại.
Tính hóa và không hóa của chính tinh
Mượn ngôn ngữ toán học để diễn tả tính hóa:
_ Giả sử thực thể X có tính {L} tiềm ẩn bên trong, một khi L lộ diện ra ngoài, ta nói X hóa L.
_ Nếu X hoàn toàn ko có bản sắc riêng, như một người máy chỉ đâu đánh đó, thì dù X biểu hiện tính L chưng nữa, chỉ là giật dây mà thôi, nên X ko thể hóa L. => X ko hóa L (1)
_ Nếu X đã luôn biểu hiện tính L thì cũng ko có lý do để X hóa L. => X ko hóa L (2)
_ Nếu X ko biểu lộ tính L, cũng ko có tính {L} tiềm ẩn, thì X ko hóa L => X ko hóa L (3)
Phủ Tướng Sát ko hóa:
Phủ là phó tinh của Tử Vi, đối xứng trục Dần Thân => (1)
Tướng dựa vào Phá Quân, xung chiếu => (1)
Sát dựa vào Phủ, xung chiếu => (1)
Không hóa Lộc:
Tử trong phạm vi mùa xuân cùng Thái Âm, nhưng Nguyệt hóa lộc ở ĐInh nên Tử Vi mang tính lộc nguyên thủy (2)
Không hóa quyền:
Liêm trong phạm vi mùa hạ cùng Cự Môn, nhưng Cự hóa quyền ở Quý nên Liêm luôn hóa quyền (2)
Không hóa Khoa:
Đồng trong phạm vi mùa thu, có tính khoa nguyên thủy (2)
Nhật, Cự, Phá, Tham, Liêm hoàn toàn ko có tính Khoa, vì thiếu khả năng trung dung, tức là cực đoan (3)
Không hóa Kỵ:
Lương hoàn toàn ko có tính kỵ (3)
Tử hoàn toàn ko có tính kỵ (3)
Phá trong phạm vi mùa đông cùng Thái Dương, nhưng Nhật hóa kỵ ở Giáp nên Phá hóa kỵ nguyên thủy (2)
Tính "hoàn toàn hóa" của Cơ Nguyệt Vũ:
3 sao này hóa đủ tứ hóa vì có đủ loại khuynh hướng, từ cực đoan đến trung dung.
Kết luận của bác VDTT là: bảng tứ hóa nguyên thủy đúng.
Ace up bài tóm lược lập luận của bác VDTT về cách an tứ hóa (lược bỏ nhiều phần chính, chỉ giữ lại những phần có conflict về cách an, vd can Canh), hy vọng sẽ có phản biện của các bác về lập luận này:
Tác giả: VDTT
Vấn nạn Mậu Canh Nhâm Quý
Giáp Liêm Phá Vũ Dương
Ất Cơ Lương Tử Nguyệt
Bính Đồng Cơ Xương Liêm
Đinh Nguyệt Đồng Cơ Cự
Mậu Tham Nguyệt Hữu Cơ
Kỷ Vũ Tham Lương Khúc
Canh Nhật Vũ Âm Đồng
Tân Cự Nhật Khúc Xương
Nhâm Lương Tử Phụ Vũ
Quý Phá Cự Âm Tham
Mọi trường phái đều đồng ý cách an Lộc Quyền như bảng trên là đúng, KHoa Kỵ can Canh là đề tài tranh luận sôi nổi nhất, có nhiều thuyết khác nhau:
_Âm Đồng: đa số theo
_Phủ Đồng: một số nhỏ theo
_Phủ Tướng: một số rất nhỏ theo
_Đồng Âm: một số rât nhỏ theo
_Đồng Tướng: một số rất nhỏ theo
Chỉ có Tướng hóa Kỵ khác truyền thống, cách này ít người theo, nhung trong đó có vài nhân vật kiệt liệt, như Phan Tử Ngư tiên sinh của Đài Loan.
Về các can khác ta thấy có:
Ông Vương ĐÌnh Chi, Trung Châu phái Hồng Kong, chủ trương Mậu Thái Dương Hóa Khoa (thay vì Hữu Bật), can Nhâm Thiên Phủ hóa Khoa (thay vì Tả phụ)
Ông Tạ Phồn Trị (một dịch lý gia Đài Loan) chủ trương can Quý Thiên Đồng Hóa Khoa (thay vì Thái Âm)
...
Bởi thế rất cần truy nguyên cách định tứ hóa bằng phương pháp khoa học.
...
Ý nghĩa của Hóa
"Hóa" ứng với lý "cùng tắc biến" của dịch. Cảnh chết chóc mùa đông kéo dài mãi đến lúc "cùng", "biến" ra sự phôi thai của mùa xuân, ứng với Hóa Lộc. Sự phôi thai mùa xuân kéo dài mãi phải đến lúc "cùng", "biến" ra cái cường tráng của mùa hạ, ứng với Hóa Quyền. Cái cường tráng mãi "cùng tắc biến" thành sự ngưng bước nhàn thu (điều chỉnh) của mùa thu, Hóa Khoa. Ngừng bước nhàn thu mãi "cùng tắc biến" thành cảnh chết chóc mùa đông, Hóa Kỵ.
Phủ Tướng Sát không hóa
Tóm lại, hóa có nghĩa là "vì gặp cảnh cùng mà biến hóa". Nhưng muốn biến hóa thì phải có khả năng biến hóa. Trong 14 chính tinh có 3 chính tinh đặc biệt là Phủ Tướng Sát không hóa.
Từ cách hình thành, ta biết Phủ là sao phụ của Tử Vi.
Thiên Tướng Phá Quân vĩnh viễn xung chiếu, Phá Quân tự có bản sắc, đại diện tính thuần thủy cung Tý. Tướng là sao mượn chỗ, ngay cả hành Thùy cũng mượn của Phá Quân. Nên Tướng căn bản âm dương là sao phụ của Phá Quân.
Thất Sát Thiên Phủ vĩnh viễn xung chiếu,. Thiên Phủ là đế tinh không thể là sao phụ của Thất Sát,nên suy ra Thất Sát là sao phụ của Thiên Phủ.
Đã là sao phụ, tất tùy biến theo người, làm gì có bản sắc mà biến hóa? Bởi vậy Phủ Tướng Sát ko hóa.
Lập luận này (của ông Tạ Phồn Trị) giúp ta biết rằng các thuyết Phủ hóa Khoa, Tướng hóa Kỵ.. là sai, tối thiểu trên căn bản thuyết âm dương.
.....
(Phần giải thích cách an hóa Lộc, Quyền, Kỵ, rất dài)
Vấn nạn hóa Kỵ
Can Canh Thái Âm hóa kỵ?
Chủ trương này có lẽ xuất phát từ niềm tin Thiên Đồng không thể hóa kỵ. Vì Thái Âm thuộc chùm Thiên Phủ, cách an này khiến Canh là can Dương duy nhất hóa kỵ trong chùm Thiên Phủ, điều này phản lại nguyên lý tổng quát (can Dương phải hóa kỵ trong chùm Tử vi).
Tử Vi, Thiên Lương, Phá Quân ko hóa Kỵ:
"Hóa" có nghĩa là biến tính, nên sao ko hóa kỵ phải ứng vs 1 trong 2 trường hợp:
1. Hoàn toàn ko có cái nhân "Kỵ" tiềm ẩn trong bản chất, nên bất luận hoàn cảnh ko thể hóa kỵ.
2. Tính "Kỵ" đã thể hiện ra bên ngoài, nên ko có lý do để hóa kỵ nữa.
_Tử Vi: vì là đế tinh cao quý ko có lý do để đố kị, ứng với TH1.
_Thiên Lương: luôn tam hợp Thái Âm, như kẻ mưu sĩ có chốn dung thân, ko có lý do để đố kị, ứng với TH1.
_Phá Quân: thủ lĩnh phe chống đối lại truyền thống, ứng với TH2.
Do ko mang tính Kỵ, lại là đế tinh cao quý, Tử Vi có khả năng tạo phúc, phù hợp với quan điểm để lại nghìn xưa rằng "Tử Vi ở cung nào ban phúc cho cung đó"
Suy luận tương tự, Thiên Lương cũng có khả năng ban phúc, nhưng Lương là 1 thường tinh, nếu ở đâu tốt đó như Tử Vi thì ko hợp lý, nên Lương tạo phúc là giải họa cho cung đó. Vì lẽ bù trừ (âm dương) Lương có đặc tính trái khoáy là ở đâu thì nơi đó có họa, nhưng họa xảy ra rồi thì Lương ra tay cứu giải. Cứu đc hay ko phụ thuộc nhiều yếu tố khác.
Phá Quân căn bản đã mang tính Kỵ nên ko tiện đóng ở những cung liên hệ như huynh đệ, phu thê, phụ mẫu, phúc đức. Đây là đặc tính giới chiêm nghiệm tử vi biết là đúng, giờ thì ta hiểu tại sao.
Vấn nạn hóa Khoa
...
Có hai trường phái chống lại truyền thống: phái thứ nhất cho Hóa Khoa là Thiên Đồng, phái thứ hai cho Hóa Khoa Thiên Phủ.
Có nhiều lý do chống lại truyền thống an Khoa tại Canh, nhưng dễ hiểu nhất thì Thái Âm hóa Khoa 2 lượt ở Canh & Quý. Coi toàn bảng ta ko thấy sao nào cũng hóa 2 can, nên có thể hồ nghi Khoa ở Canh hoặc Quý sai. Cộng với niềm tin Thiên Đồng là phúc tinh ko hóa kỵ nên đảo thứ tự thành Đồng Âm.
Phái thứ hai cũng quan điểm Thái Âm hóa khoa 1 lần. Người ta tin Thái Âm ko hóa khoa ở Canh vì đó là trọng tâm các bàn cãi trước đó, nên thay Thái Âm bằng một sao có nhiều tương đồng là Thiên Phủ, vì cùng là đế tinh & tài tinh.
Nhưng nếu Thiên Phủ chỉ hóa khoa ở Canh thì lẻ loi quá, vì như vậy nó chỉ xuất hiện đúng 1 lần trong bảng tứ hóa,. Suy luận này dẫn đến phái thứ ba là Trung Châu Phái, Phủ hóa khoa 2 lần ở Canh và Nhâm. Nhưng bỏ Tả phụ ra khỏi bảng hóa khoa rồi thì ko có lý do gì giữ Hữu Bật, nên thay Thái Dương Hóa Khoa tại Mậu.
(phần giải thích cách an Hóa Khoa, phần này rất dài)
Chưa thấy ai giải thích nguyên lý bảng tứ hóa Trung Châu Phái, nhưng ta có thể tin rằng những thay đổi này là kết quả của cảm ứng cá nhân hơn là lý luận chặt chẽ. Riêng trường hợp thay Tả Phụ bằng thiên Phủ thì có thể như sau: chữ "Phủ" và "Phụ" đọc ko khác nhau bao nhiêu, nên sai lệch là do truyền khẩu, rồi ghi chép lại.
Tính hóa và không hóa của chính tinh
Mượn ngôn ngữ toán học để diễn tả tính hóa:
_ Giả sử thực thể X có tính {L} tiềm ẩn bên trong, một khi L lộ diện ra ngoài, ta nói X hóa L.
_ Nếu X hoàn toàn ko có bản sắc riêng, như một người máy chỉ đâu đánh đó, thì dù X biểu hiện tính L chưng nữa, chỉ là giật dây mà thôi, nên X ko thể hóa L. => X ko hóa L (1)
_ Nếu X đã luôn biểu hiện tính L thì cũng ko có lý do để X hóa L. => X ko hóa L (2)
_ Nếu X ko biểu lộ tính L, cũng ko có tính {L} tiềm ẩn, thì X ko hóa L => X ko hóa L (3)
Phủ Tướng Sát ko hóa:
Phủ là phó tinh của Tử Vi, đối xứng trục Dần Thân => (1)
Tướng dựa vào Phá Quân, xung chiếu => (1)
Sát dựa vào Phủ, xung chiếu => (1)
Không hóa Lộc:
Tử trong phạm vi mùa xuân cùng Thái Âm, nhưng Nguyệt hóa lộc ở ĐInh nên Tử Vi mang tính lộc nguyên thủy (2)
Không hóa quyền:
Liêm trong phạm vi mùa hạ cùng Cự Môn, nhưng Cự hóa quyền ở Quý nên Liêm luôn hóa quyền (2)
Không hóa Khoa:
Đồng trong phạm vi mùa thu, có tính khoa nguyên thủy (2)
Nhật, Cự, Phá, Tham, Liêm hoàn toàn ko có tính Khoa, vì thiếu khả năng trung dung, tức là cực đoan (3)
Không hóa Kỵ:
Lương hoàn toàn ko có tính kỵ (3)
Tử hoàn toàn ko có tính kỵ (3)
Phá trong phạm vi mùa đông cùng Thái Dương, nhưng Nhật hóa kỵ ở Giáp nên Phá hóa kỵ nguyên thủy (2)
Tính "hoàn toàn hóa" của Cơ Nguyệt Vũ:
3 sao này hóa đủ tứ hóa vì có đủ loại khuynh hướng, từ cực đoan đến trung dung.
Kết luận của bác VDTT là: bảng tứ hóa nguyên thủy đúng.