TUẦN - Tuần trung không vong an theo tuổi. Khởi từ tuần Giáp tý cứ được 10 năm thì lại thấy lặp lại, thừa ra can Giáp ất. Chỗ đó an Tuần.
Thực ra chính là sự lệch pha giữa 12 chi và 10 can. Chi thuộc "địa", Can thuộc "thiên" cho nên tuần là chỗ thiên không gặp địa, giống như quẻ bĩ, khí nóng - dương thì bốc lên cao, mà khí lạnh- âm thì hạ xuống thấp nên không gặp nhau. Chữ "trung" trong tên Tuần trung phải chăng là "không trung", tức là vì trời không gặp đất nên ở khoảng không trung không có gì cả.
là nói về một Tuần {
đơn vị} có 10 ngày và cũng là muốn nói đến chỉ có 10 Thiên can mà lại có đến 12 Địa chi, thành ra sẽ có 2 ngày (địa chi) dư ra không nằm trong phạm vi Tuần đó...
Thế nên, lục thập hoa giáp có 6 Tuần bắt đầu bằng:
-- Tuần GIÁP TÍ... đến Quý Dậu là xong... dư ra Tuất và Hợi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP TUÂT... đến Quý Mùi là xong... dư ra Thân và Dậu; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÂN... đến Quý Tỵ là xong... dư ra Ngọ và Mùi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP NGỌ... đến Quý Mão là xong... dư ra Thìn và Tỵ; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÌN... đến Quý Sửu là xong... dư ra Dần và Mão; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP DẦN... đến Quý Hợi là xong... dư ra Tí và Sửu.
Vì không nằm trong tầm quản hạt của Tuần Giáp, nên 2 cung địa chi Mệnh lâm vào hiển thị sự vô kỷ (kỷ cương, kỷ luật) nói theo kiểu khó nghe, nói dễ nghe thì là dễ thích nghi, hòa nhập vì không bị gò bó bởi cương luật của Tuần Giáp đó nhưng đó cũng có nghĩa là sự bỏ rơi vô trợ nữa. Đã vô trợ mà không dễ thích nghi nữa thì CHẾT thôi!
Cho nên, điểm CĂN BẢN cần phải hiểu - đó là cách sống, lối sinh hoạt của người Mệnh bị Tuần không vong.
Tuy nhiên, Mệnh bị Tuần không vong có chính tinh đơn thủ, đồng thủ hoặc không có thì lại có những tính chất đặc cách ảnh hưởng của chính tinh chi phối lên trên mình đương số; thế nên Tuần không vong - không mang ý nghĩa là làm mất đi tính chất hoặc biến chất v.v.. của chính tinh và các sao tọa lạc trong cung ấy MÀ nên quán ra một bức tranh rộng về cách cục này như là
HOÀN CẢNH SỐNG, MÔI TRƯỜNG vô trợ (muốn làm, tính làm) mà hoàn cảnh không thuận tiện cho tính tình, tính toán của cá nhân đó bộc phát thực chất của mình.
Ví dụ: Mệnh có Thái Dương cư Tỵ ngộ Tuần - đâu có nghĩa là người đó không sáng suốt, tính toán dỡ mà cứ gặp hoàn cảnh vô trợ không thuận tiện cho người đó ra tay, thì người đó kẹt cứng rồi - lấy gì mà tiến thoái. Cũng vậy, Mệnh có Hung Tinh ngộ Tuần thì vì hoàn cảnh không cho phát tác nên mới gọi là
Hung Tinh Ngộ Chế chứ bản chất vẫn là "Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến v.v..."... con người mà!
TRIỆT - Tính theo cặp thiên can âm dương tương khắc tương hợp: Giáp-Kỷ, Ất-Canh, Bính-Tân, Đinh-Nhâm và Mậu-Quý ở những cung Thân-Dậu, Ngọ-Mùi, Thìn-Tỵ, Dần-Mão và Tí-Sửu.
Giáp khắc Kỷ nhưng lại là tương hợp vì rằng "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" ví như người nam chế phục đặng người nữ làm vợ - chứ như Giáp khắc Mậu là khắc triệt để; thế nên, để ý thì thấy tiếp như sau: Canh khắc Ất nhưng lại là tương hợp , Bính khắc Tân nhưng lại là tương hợp , Nhâm khắc Đinh nhưng lại là tương hợp và Mậu khắc Quý nhưng lại là tương hợp.
TRIỆT - chữ Hán Việt có thể viết theo bộ Sách (bước ngắn) nghĩa là "
trừ bỏ, phá hủy, sửa làm" hay bộ Thủ (tay) nghĩa là "
bỏ đi, trừ đi, cất đi" VÀ có khi viết với bộ Qua (binh khí: cái mác, đánh nhau: can qua) mà phát âm là
TIỆT nghĩa là "
cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" thì chữ Hán họ viết theo nghĩa
TIỆT cho
TRIỆT ở trên.
"
cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" là như thế nào?
TRIỆT Triệt lộ không vong an theo can. Khởi từ Giáp. Giáp hợp kỷ hóa Thổ cho nên trong 10 năm đó, can của chi Thìn là Mậu. Từ đó khởi tiếp, Kỷ tỵ, Canh ngọ, Tân mùi thì đến Nhâm thân - Quý Dậu. Triệt của hai người tuổi Giáp và Kỷ an tại Thân Dậu. Tiếp sau đến Ất hợp Canh hóa Kim, thì ta có Nhâm ngọ và Quý mùi. Triệt an ở Ngọ - Mùi. Cứ như thế có 5 cặp Triệt.
Bản chất Triệt không gồm có không hư và ảo tưởng giống như Thiên Địa Không. Nhưng nó còn mang đến những chướng ngại đột nhiên, điểm này mới là chủ yếu; gọi bằng Triệt lộ ví như người đang đi đường mà đường bị sụt xuống hoặc có núi lở ngăn chặn Triệt mất đường đi lối về.được an theo Ngũ Tí Độn cho các cặp Thiên can âm dương tương hợp tương khắc trên ví dụ như:
Giáp-Kỷ : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Giáp Tí đếm đến NhâmThân-QuýDậu thì an TRIỆT giữa 2 cung Thân-Dậu.
Ất-Canh : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Bính Tí đếm đến NhâmNgọ-QuýMùi thì an TRIỆT giữa 2 cung Ngọ-Mùi.
Bính-Tân : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Mậu Tí đếm đến NhâmThìn-QuýTỵ thì an TRIỆT giữa 2 cung Thìn-Tỵ
Đinh-Nhâm : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Canh Tí đếm đến NhâmDần-QuýMão thì an TRIỆT giữa 2 cung Dần Mão.
Mậu-Quý : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Nhâm Tí đếm đến Quý Sửu thì an TRIỆT giữa 2 cung Tí-Sửu.
Cách an của TUẦN thì sau Nhâm- Quý dư 2 địa chi cung lấy đó mà an định cho TUẦN - còn cách an của TRIỆT thì lại TRIỆT hai can cuối Nhâm và Quý vì được đúc kết ra cái lý
TRỊ THỦY của vua Đại Vũ thành công nên được thấy thần quy (rùa thần) hiện lên ở sông Lạc trên lưng có một đồ hình nhiều vạch như ta biết đồ hình Lạc Thư ngày nay.
Nhưng nên rõ, đây là TRỊ để YÊN chứ không phải TRỊ để ĐOẠT thành ra người có Mệnh Thân bị TRIỆT là để ngăn ngừa, câu thúc những cái quá đà, đam mê thái quá ví như GIỚI vậy! Điều nữa nên biết về tính chất của THỦY là chảy mãi không ngừng, nên khi bị chặn lại thì nó xung kích trở ngược và dậy sóng nên còn được minh họa là lẩm liệt chi thủy. Nên TRỊ để YÊN khỏi vỡ bờ trôi cuốn chứ không ĐOẠT mất tính chất của nó!
Tuần sức công phá của tính chất “triệt lộ” không bằng Triệt, bởi vậy Thiên Tướng sợ Triệt gây nguy hại hơn Tuần.Triệt phá hoại đột nhiên từ hoàn cảnh. Tuần lại trễ nải tự nơi mình. Cho nên mới có cái cách Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa lại nên hay. Nhờ Tuần khiến tự mình sửa lại cho ngay ngắn bản chất xông xáo bừa bãi của Phá Quân. Sự khác biệt căn bản giữa Tuần với Triệt là thế.
Nói tóm lại Tuần công phá nhẹ hơn Triệt chứ không phải Tuần kéo dài sự phá hoại còn Triệt thì sau ba chục tuổi thì hả hơi đi.
(tham khảo nhiều nguồn

)