Trang 1 trên 1

Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 13:33, 18/11/09
gửi bởi haitvhn
Tuần, triệt đều là đất không vong gây cản trở cho sao và cung mà nó đóng vào, nhưng em không biết sự khác nhau giữa tuần và triệt mong các thầy và các bạn am hiểu giải đáp giúp mình!

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 15:36, 18/11/09
gửi bởi Pegasus
- Tuần ảnh hưởng suốt giai đoạn, Triệt ảnh hưởng mạnh giai đoạn đầu.
- Tuần hỏa, Triệt kim
- Tuần nối lại, Triệt cắt ra
còn nữa để người khác nói tiếp ...

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 14:38, 19/11/09
gửi bởi apollo
TUẦN - Tuần trung không vong an theo tuổi. Khởi từ tuần Giáp tý cứ được 10 năm thì lại thấy lặp lại, thừa ra can Giáp ất. Chỗ đó an Tuần.

Thực ra chính là sự lệch pha giữa 12 chi và 10 can. Chi thuộc "địa", Can thuộc "thiên" cho nên tuần là chỗ thiên không gặp địa, giống như quẻ bĩ, khí nóng - dương thì bốc lên cao, mà khí lạnh- âm thì hạ xuống thấp nên không gặp nhau. Chữ "trung" trong tên Tuần trung phải chăng là "không trung", tức là vì trời không gặp đất nên ở khoảng không trung không có gì cả.

là nói về một Tuần {đơn vị} có 10 ngày và cũng là muốn nói đến chỉ có 10 Thiên can mà lại có đến 12 Địa chi, thành ra sẽ có 2 ngày (địa chi) dư ra không nằm trong phạm vi Tuần đó...

Thế nên, lục thập hoa giáp có 6 Tuần bắt đầu bằng:

-- Tuần GIÁP TÍ... đến Quý Dậu là xong... dư ra Tuất và Hợi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP TUÂT... đến Quý Mùi là xong... dư ra Thân và Dậu; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÂN... đến Quý Tỵ là xong... dư ra Ngọ và Mùi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP NGỌ... đến Quý Mão là xong... dư ra Thìn và Tỵ; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÌN... đến Quý Sửu là xong... dư ra Dần và Mão; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP DẦN... đến Quý Hợi là xong... dư ra Tí và Sửu.


Vì không nằm trong tầm quản hạt của Tuần Giáp, nên 2 cung địa chi Mệnh lâm vào hiển thị sự vô kỷ (kỷ cương, kỷ luật) nói theo kiểu khó nghe, nói dễ nghe thì là dễ thích nghi, hòa nhập vì không bị gò bó bởi cương luật của Tuần Giáp đó nhưng đó cũng có nghĩa là sự bỏ rơi vô trợ nữa. Đã vô trợ mà không dễ thích nghi nữa thì CHẾT thôi!

Cho nên, điểm CĂN BẢN cần phải hiểu - đó là cách sống, lối sinh hoạt của người Mệnh bị Tuần không vong.

Tuy nhiên, Mệnh bị Tuần không vong có chính tinh đơn thủ, đồng thủ hoặc không có thì lại có những tính chất đặc cách ảnh hưởng của chính tinh chi phối lên trên mình đương số; thế nên Tuần không vong - không mang ý nghĩa là làm mất đi tính chất hoặc biến chất v.v.. của chính tinh và các sao tọa lạc trong cung ấy MÀ nên quán ra một bức tranh rộng về cách cục này như là HOÀN CẢNH SỐNG, MÔI TRƯỜNG vô trợ (muốn làm, tính làm) mà hoàn cảnh không thuận tiện cho tính tình, tính toán của cá nhân đó bộc phát thực chất của mình.

Ví dụ: Mệnh có Thái Dương cư Tỵ ngộ Tuần - đâu có nghĩa là người đó không sáng suốt, tính toán dỡ mà cứ gặp hoàn cảnh vô trợ không thuận tiện cho người đó ra tay, thì người đó kẹt cứng rồi - lấy gì mà tiến thoái. Cũng vậy, Mệnh có Hung Tinh ngộ Tuần thì vì hoàn cảnh không cho phát tác nên mới gọi là Hung Tinh Ngộ Chế chứ bản chất vẫn là "Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến v.v..."... con người mà!
TRIỆT - Tính theo cặp thiên can âm dương tương khắc tương hợp: Giáp-Kỷ, Ất-Canh, Bính-Tân, Đinh-Nhâm và Mậu-Quý ở những cung Thân-Dậu, Ngọ-Mùi, Thìn-Tỵ, Dần-Mão và Tí-Sửu.

Giáp khắc Kỷ nhưng lại là tương hợp vì rằng "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" ví như người nam chế phục đặng người nữ làm vợ - chứ như Giáp khắc Mậu là khắc triệt để; thế nên, để ý thì thấy tiếp như sau: Canh khắc Ất nhưng lại là tương hợp , Bính khắc Tân nhưng lại là tương hợp , Nhâm khắc Đinh nhưng lại là tương hợp và Mậu khắc Quý nhưng lại là tương hợp.

TRIỆT - chữ Hán Việt có thể viết theo bộ Sách (bước ngắn) nghĩa là "trừ bỏ, phá hủy, sửa làm" hay bộ Thủ (tay) nghĩa là "bỏ đi, trừ đi, cất đi" VÀ có khi viết với bộ Qua (binh khí: cái mác, đánh nhau: can qua) mà phát âm là TIỆT nghĩa là "cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" thì chữ Hán họ viết theo nghĩa TIỆT cho TRIỆT ở trên.

"cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" là như thế nào?

TRIỆT Triệt lộ không vong an theo can. Khởi từ Giáp. Giáp hợp kỷ hóa Thổ cho nên trong 10 năm đó, can của chi Thìn là Mậu. Từ đó khởi tiếp, Kỷ tỵ, Canh ngọ, Tân mùi thì đến Nhâm thân - Quý Dậu. Triệt của hai người tuổi Giáp và Kỷ an tại Thân Dậu. Tiếp sau đến Ất hợp Canh hóa Kim, thì ta có Nhâm ngọ và Quý mùi. Triệt an ở Ngọ - Mùi. Cứ như thế có 5 cặp Triệt.
Bản chất Triệt không gồm có không hư và ảo tưởng giống như Thiên Địa Không. Nhưng nó còn mang đến những chướng ngại đột nhiên, điểm này mới là chủ yếu; gọi bằng Triệt lộ ví như người đang đi đường mà đường bị sụt xuống hoặc có núi lở ngăn chặn Triệt mất đường đi lối về.được an theo Ngũ Tí Độn cho các cặp Thiên can âm dương tương hợp tương khắc trên ví dụ như:

Giáp-Kỷ : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Giáp Tí đếm đến NhâmThân-QuýDậu thì an TRIỆT giữa 2 cung Thân-Dậu.

Ất-Canh : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Bính Tí đếm đến NhâmNgọ-QuýMùi thì an TRIỆT giữa 2 cung Ngọ-Mùi.

Bính-Tân : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Mậu Tí đếm đến NhâmThìn-QuýTỵ thì an TRIỆT giữa 2 cung Thìn-Tỵ

Đinh-Nhâm : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Canh Tí đếm đến NhâmDần-QuýMão thì an TRIỆT giữa 2 cung Dần Mão.

Mậu-Quý : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Nhâm Tí đếm đến Quý Sửu thì an TRIỆT giữa 2 cung Tí-Sửu.

Cách an của TUẦN thì sau Nhâm- Quý dư 2 địa chi cung lấy đó mà an định cho TUẦN - còn cách an của TRIỆT thì lại TRIỆT hai can cuối Nhâm và Quý vì được đúc kết ra cái lý TRỊ THỦY của vua Đại Vũ thành công nên được thấy thần quy (rùa thần) hiện lên ở sông Lạc trên lưng có một đồ hình nhiều vạch như ta biết đồ hình Lạc Thư ngày nay.

Nhưng nên rõ, đây là TRỊ để YÊN chứ không phải TRỊ để ĐOẠT thành ra người có Mệnh Thân bị TRIỆT là để ngăn ngừa, câu thúc những cái quá đà, đam mê thái quá ví như GIỚI vậy! Điều nữa nên biết về tính chất của THỦY là chảy mãi không ngừng, nên khi bị chặn lại thì nó xung kích trở ngược và dậy sóng nên còn được minh họa là lẩm liệt chi thủy. Nên TRỊ để YÊN khỏi vỡ bờ trôi cuốn chứ không ĐOẠT mất tính chất của nó!



Tuần sức công phá của tính chất “triệt lộ” không bằng Triệt, bởi vậy Thiên Tướng sợ Triệt gây nguy hại hơn Tuần.Triệt phá hoại đột nhiên từ hoàn cảnh. Tuần lại trễ nải tự nơi mình. Cho nên mới có cái cách Thìn Tuất Phá ngộ Tuần Khoa lại nên hay. Nhờ Tuần khiến tự mình sửa lại cho ngay ngắn bản chất xông xáo bừa bãi của Phá Quân. Sự khác biệt căn bản giữa Tuần với Triệt là thế.

Nói tóm lại Tuần công phá nhẹ hơn Triệt chứ không phải Tuần kéo dài sự phá hoại còn Triệt thì sau ba chục tuổi thì hả hơi đi.

(tham khảo nhiều nguồn :D)

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 17:57, 19/11/09
gửi bởi lethanhson
Chà, câu này khó :D ! Cứ tuần với triệt đóng ở đâu thì có sự rắc rối ở đó ! Tuy nhiên, em thì em hiểu tuần ngăn chặn các sao chiếu về các cung mà tuần đứng ở đó, triệt thì làm mất 1/2 tính chất các sao. Sau 30 tuổi triệt sẽ bị suy giảm nhiều !

Anh haivnt có thể xem lại trong topic :"kỳ phùng địch thủ - long tranh hổ đấu" có 1 lá số của bố chị mebeminhduong cung di có thái dương, phượng các, giải thần gặp triệt. Dựa theo tính chất các sao thì vào hạn đó sẽ có sự nổi danh về học vấn văn chương có thể xuất ngoại hoặc hợp tác với người nước ngòai. Nếu triệt sau 30 mà vẫn khỏe như vâm thì làm sao mà bố chị mebeminhduong như vay được ( Năm đó bố chị mebeminhduong tầm gần 70 tuổi ) ! ~~~> Rõ ràng là triệt ở tiểu van đó đã không mạnh nữa ( tất nhiên, năm đó còn có sự trợ lực của lưu thái tuế tại mênh nữa nhưng nó cũng chỉ là 1 phan )

Anh haivhn có thể xem lại thử trường hợp đó xem sao !

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 17:08, 29/11/09
gửi bởi 0KL65J5I
Xin hỏi các bác là tuần triệt đồng cung thì phải luận đoán thế nào ạ?

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 03:04, 02/12/09
gửi bởi neptunelt
Theo ngu ý của mình:
- Giống nhau: đều là không vong tức là dễ mất ví dụ như có cơ hội thì dễ bỏ lỡ, còn chỉ sự ngăn cản, ràng buộc khó thoát
- Khác:
+Tuần chỉ sự vây hãm, triệt là chặn lại, cắt đứt
+ Tuần bên trong, Triệt bên ngoài
+ Tuần đúng, triệt sai: ví dụ Tướng Tuần thì chung tình, Tướng Triệt thì hay bỏ
+ Tuần ẩn, Triệt lộ ra ngoài : vd Tướng Triệt dễ lộ đầu ra cho người ta xử
+ Tuần gom lại, tập trung lại, Triệt trừ bỏ ra : vd Phá Quân ngộ Triệt thì đỡ phá phách
.... còn nhiều nữa

có cả Tuần lẫn Triệt mà an tại mệnh hay Thân chỉ sự phòng bị và loại trừ cao, ví dụ ra đường hay quan sát xem có xe cộ không mới qua đường. Ngoài ra còn chỉ sự phân biệt đúng sai trong sự việc tức là cái nào đúng thì theo, sai thì bỏ nhưng học theo cái xấu cũng rất nhanh

vài ý kiến, thân chào!

TL: Tuần , triệt giống nhau và khác nhau như thế nào

Đã gửi: 05:21, 02/12/09
gửi bởi kecatco
Sao nào có tuần hay triệt thì giảm số liên hợp, liên kết với sao khác hay cung khác không được.

Triệt là dương khí, tác dụng nửa đời, báo số thọ hay không. Tuần là âm sâu nửa đời báo hiệu thọ hay không.
Nếu có tuần và triệt thì coi tác dụng nửa đời trược có triệt, nửa sâu là tuần. Nhưng khi đang nửa đời thì phê là hoà bình lúc âm dương gặp nhau, coi như "equilibrium" hoà binh, "ying yang" nên khong tác dụng nếu có cả hai trong thời gian nửa đời.

Tuần hay triệt củng chỉ sự giảm, kém đi, cả ác và thiện. Đoạn tiệt, cắt đi.

Nếu VCD có tuần hay triệt thì Tuần hay triệt đó trở thành sao chính, thu tập cả âm và dương trở thành sao đặc biệt có sức mạnh coi như là Chính Tinh.

--Ddiạ không điạ kiếp đảo ngược lại con số thành bại nhưng không thành tốt.
--Tuần hay triệt không thể biến hảm thành vượng hay miếu hay đắt điạ, chỉ sự giảm đi hung và caí tốt.
--Tuần hay triệt đặt biệt với phá quân thì làm giàu--phá cách tốt giảm đi sự xấu
--Đối với Thiên phủ hay tướng thì mất đi chất tốt, đem lại xui sẻo.

--Tác dụng như nhâu nhiều