Trang 1 trên 1

Đông A di sự - phân tích

Đã gửi: 17:44, 10/05/13
gửi bởi Ace
Chuyên mục lập ra để thảo luận phân tích về một số mẩu chuyện trong Đông A di sự. Lưu ý là độ chính xác của nguồn không cao. Chúng ta chỉ tập trung vào phần luận đoán kèm lá số là những phần bôi đen, phần truyện có thể bỏ qua.

Phần 1: Huệ Túc Phu Nhân Liệt Truyện

Huệ Túc Phu nhân là con út của Tống triều di thần Hoàng Bính, huý là Thủy Thiên . Khi Hoàng Bính tiên sinh còn làm quan tại triều Tống, thì phu nhân của tiên sinh đã sinh năm người con trai mà chưa có người con gái nào. Phu nhân thường than thở ước ao có được một người con gái . Tiên sinh có nói rằng :
Ta nhất sinh khảo về Tử Vi thấy cung Tử tức có Lương Nhật tại Mão cung ngộ Khoa, được Thái Âm ở thiên môn chiếu sang, Lương Nhật thuộc Nam đẩu tinh tại nội mạnh hơn mạnh hơn Nguyệt ở bên ngoài chiếu, thành ra sinh năm con trai liền . Nhưng Mão là âm cung, thêm Nguyệt chiếu thì thế nào cũng sẽ có một nữ tử quý lắm . Hạn của ta cũng như phu nhân, năm tới đều có số sinh con gái . Như thế thì phu nhân khỏi mong ước lâu .
Một đêm, tiên sinh ngồi đọc sách tại thư phòng ,bỗng thấy một người con gái tú lệ khác phàm xộc đi vào trước sân nhà, tiên sinh bèn hỏi :

Nàng kia là ai mà dám xông vào thư các của ta ?

Nữ nhân quỳ xuống ôm mặt khóc :

Thưa đại quan, tôi bị tác oan . Tôi tên là Thủy, vốn là con của một nho sinh, khi đi qua khúc sông ngoài Tây thành bị tên phú hào tên Ngô Phượng cưỡng bức . Tôi cắn lưỡi tự vẫn để khỏi ô danh thất tiết . Nó bỏ xác tôi xuống đáy sông, cạnh cây phong ba chạc, xin đại quan soi xét .

Tiên sinh phán

Nàng đi cùng ta đến gập quan địa phương .

Nữ tử chạy lại ôm lấy chân của tiên sinh . Tiên sinh giật mình tỉnh giấc mộng, coi lại là giờ Sửu . Tiên sinh bèn gọi kẻ tùy tùng gióng ngựa ra Tây thành . Đi đến khúc sông có cây phong ba chạc, sai tùy tùng xuống mò, qủa nhiên thấy xác chết còn tươi của người con gái tên Thủy trong mộng . Tiên sinh bèn truyền gọi quan địa phương đến giao cho điều tra . Tên Ngô Phượng bị bắt, khảo, xưng hết, bị án trảm . Tiên sinh sai liệm xác Thủy, chôn cất tử tế bên sông . Trên mộ có đặt tấm bia, thủ bút bốn chữ TRINH LIỆT THUẦN CHÍNH .

Đêm đó khi về đến nhà tiên sinh mộng thấy Thủy đến qùy lạy :

Tiểu nữ muôn tạ đại quan, nguyện xin đầu thai để báo đáp công ơn .

Sau đó thì phu nhân của tiên sinh thọ thai .Năm Tân Dậu, tháng ba, giờ Dần, ngày 24phu nhân sinh được một bé gái, tú lệ khác phàm . Đặt tên là Thủy Thiên .

Hình ảnh

Tiên Sinh bấm số than :

Cung số của ta, Thân tại Di cung ngộ Tham, Quyền, Đào, Hồng, Khôi . Sự nghiệp viên thành ngoại xứ . Số phu nhân ta Thân cư Phu Quân, thì đương nhiên bôn ba theo ta rồi . Trong năm con trai, người nào cũng Thân tại Di cung đến Thủy Thiên Thân cư Quan lộc ngộ Nhật, Tả, Khoa, Quyền, Khúc, Việt, quá tốt Như vậy thành danh nhờ ta và chồng nó sau này . Thế thì cả nha ta phải xuất ngoại mới thành danh . Ta trộm xem số của Hoàng thượng cùng chư Vương, Thái tử, Tam công, Cửu khanh, thấy vận cùng cả rồi, chắc là không khỏi vong quốc . Âu là ta mang cả tộc thuộc Nam di để khỏi nhìn thấy quốc phá .

Phu nhân hòi :

Số của đứa gái này tốt chăng ? Lớn lên đẹp chăng ?

Tiên sinh đáp :

Đẹp lắm, “ Nhật Nguyệt, tinh minh hợp chiếu hư không, cư trung Khôi, Hồng, nam tất vi tể tướng, nữ tất đắc quý nhân sủng ái . (*)

Lại hỏi :

Học có giỏi chăng ?

Đáp :

Thông minh gấp mười phu nhân, gấp hai ta . Vì được cả bộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Khôi, Việt, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc .

Hỏi :

Có gì xấu chăng ?

Đáp :

Ngặt vì Cơ, Nguyệt, Hỉ, cư Thiên Di, ngộ Hữu, Xương, Kị, Đà . Cơ, Xương ngộ Kỵ thì văn tài xuất chúng . Có Hữu, Hỷ thì may thêu đều giỏi . Song Đà, Kỵ thì danh không hiển được . (**)

Mùa xuân tháng Giêng, niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 đời Trần Thái Tông (1257) Tiên sinh cùng gia tộc 1200 người tới biên ải xin lập nghiệp tại An Nam . Thái Tông được tin báo, đón về Kinh cho tạm trú tại An ấp . Tháng 6 Thuỷ Tiên tiểu thư tiến cung, được phong Huệ Túc Phu Nhân . Khi phu nhân nhập cung thì từ tư thái, ngôn ngữ, cư xử khác phàm . Từ hoàng hậu đến cung nga, thái giám không ai mà không nể phục . Sau lễ bái kiến hoàng hậu hỏi :
Phu nhân là người phương Bắc, mới tới đất hủ lậu này, sao đã nói được tiếng Nam, lễ nghĩa thông cả .

Phu nhân tâu :

Thiếp thường đọc sách, thấy nàng Hoài Doanh quê ở Tần mà đức thịnh ở Tấn . Nàng Tề khương người đất Tề mà khiến cho Tấn Văn Công thành Bá . Cha con thiếp như đàn chim gặp phong ba, thấy bóng cây lớn thì núp . Tống triều vận số không còn nữa . Mà vượng khí Nam phương đến mấy trăm năm sau mới dứt, nên tìm đến đây nương nhờ uy linh của giòng họ Đông A . Không ngờ lại được Thánh thượng dung nạp để hầu hạ, thật lấy làm hổ thẹn.

Hoàng hậu than :

Ta quả không bằng phu nhân . Trong nội cung đây phi tần, thái giám không mấy người có học . Phu nhân thay ta dậy dỗ họ . Ta mong đức của phu nhân sẽ làm cho hậu cung thêm vượng .

Thái Tông phán :

Phu nhân mới muời sáu tuổi mà lau thông bách gia, Chư tử, Cửu lương, Tam giáo . không biết có lời nào dậy cho quả nhân chăng ?

Phu nhân tâu :

Thánh dậy : Nam tại ngoại, nữ tại nội . Thiếp đã được hầu bệ hạ và hoàng hậu thì xin chỉ bàn chuyện trong nhà mà thôi . Khi thiếp mới đến đất Nam đã nghe thấy chuyện huynh đệ tương tranh .

Thái Tông phán :

Trẫm đang khổ tâm về việc đó đây . Phu nhân có cao kiến gì chăng ?

Thiếp nghe khi An Sinh Vương huynh khi lâm chung có dối lại các con rằng :

Giòng họ Đông A nhà ta trải qua ba đời, ngôi mộ tổ Ngũ đại để vào chỗ đất nóng nên phải qua ba đời Võ cách phát liên Hầu Bá, duy hiềm tử thương trận địa. Từ đời thứ tư đất nguội mới phát đế vương . Ngôi mộ có đặc điểm là XXXXX . Nhờ bà cô nhập cung làm hoàng hậu cho triều Lý nên mới có cơ đoạt quyền . Sau này xẩy ra việc thái sư Thủ Độ cưỡng bệ hạ làm chuyện lỗi đạo . Vì vậy các con của An Sinh Vương huynh phải cướp ngôi trả thù ..
Bệ hạ nhận ngôi trời là do phúc trạch nhiều đời để lại và công lao vào ra sinh tử của Tiên Vương . Phú quý nên để anh em cùng hưởng . Thái Sư đã làm chuyện không đúng . Bệ hạ phải chuộc lại . An Sinh Vương huynh có phẫn hận khi lâm chung cũng không có gì là quá đáng . Xưa kia Ngụy Võ Đế và câu nói “ ta thà phụ người, chớ không để người phụ ta” mà phải tốn không biết bao nhiêu xương máu mà cũng không quang phục nổi . Chiêu Liệt Đế vì câu nói “ Ta thà chịu người phụ, chớ không nỡ phụ người” mà lấy được Tam Xuyên . Nay bệ hạ lấy đó làm gương . Xin bệ hạ hãy quyên đi lời trối của An Sinh Vương huynh, mà trọng dụng các thế tử của người để chuộc lỗi lầm do Thái Sư gây ra . Mai này nếu họ làm chuyện đại nghịch thì ngôi trời cũng vẫn còn trong tay họ Đông A . Còn họ nhất tâm khuôn phò xã tắc thì đó là điều đại phúc nhà ta . Thiếp xem Tử Vi cho các thiếu niên trong Hoàng Tộc thấy họ đều là các vị anh hùng xã tắc mai sau . Sự nghiệp của Quang Khải, Quốc Tuấn mai sau rực rở vô cùng . Số của Quốc Tuấn là số của một vị anh hùng, là bậc thánh nhân chắc không có việc tạo phản đâu . Trong số các vị thái tử, thiếp chỉ lo có số của đệ tử thái tử Trần Ích Tắc thông minh, nhưng sau này hình khắc lục thân, trôi nổi ….”

Thái Tông nghe lời phong cho Quốc Tuấn làm Tiết Chế Tổng Đốc quân mã . Năm sau, tuyển con gái út của An Sinh Vương cho thái tử Quang, và phong cho làm hoàng hậu .

[quote="Ace"]Phần 2: Đoàn Nhữ Hài liệt truyện


http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90o%C3 ... F_H%C3%A0i

Sau đây lÀ một giai thoại về cuộc gặp gỡ giữa ĐoÀn Nhữ HÀi vÀ vua Trần Anh Tôn:

ĐoÀn Nhữ HÀi lÀ học trò trường Quốc Tử Giám. VÀo niên hiệu Hưng Long thứ 6 đời Trần Anh Tôn (1298), tức năm Mậu Tuất, hoặc (1299), Kỷ Sửu. Một hôm ra chùa Một Cột chơi, gặp thầy Tử vi. HÀi xin xem giùm vận mạng.[/-WEBKIT-AUTO]
Thầy hỏi :
- Cậu sinh năm nÀo?
Tôi tuổi Kỷ Mão, tháng 9 ngÀy mồng 1, giờ mão

Hình ảnh

Thầy bấm tay một lúc rồi nói :
Mệnh cậu lập tại mùi, xương, khúc, kình miếu địa thủ mệnh. Lại được Nhật mão, Nguyệt tại hợi tịnh minh chiếu, thêm cách giáp Quang, Quý. Đây lÀ cách của đại thần phò tá Đế Vương.
Năm nay Đại hạn của cậu ớ Tị (chú thích: khởi đại hạn từ huynh đệ?) có hình, tang, cơ, mã được nguyệt chiếu. Tiểu hạn ở thân, ngoại triều có tham vũ, tướng, quyền,lộc,tả,hữu tất thÀnh đại hỉ sự, đại hỉ sự sẽ đến một cách bất ngờ. Khi cậu bị ngựa đá hoặc cắn thì lÀ khi công danh tới đấy.

http://www.informatik.uni-leipzig.de/~d ... ktt11.html


Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quábÀi của HÀi bị đánh trượt vì ngông nghênh quá. HÀi tức lắm, ra chùa Một cột tìm thầy tử vi để đập tráp vì tội nói láo. Nhưng thầy tử vi phân trần:

Tôi chỉ nói năm nay cậu có hỉ sự, tôi đâu có nói cậu thi đậu? Đây tôi cho cậu biết: ngÀy 13-6 nÀy cậu sẽ gần Thiên Tử.
- Nếu đúng như lời thầy thì tôi sẵn sÀng nghe lời dạy bảo
Thế thì tốt quá. NgÀy 13-6 nÀy cậu còn hoạnh phát tÀi nữa. Vậy cậu phát bao nhiêu xin cho tôi một nửa. Sau nÀy ở địa vị cực cao quý, cậu phải thương yêu muôn dân.

HÀi đồng ý, về nhÀ. Đến đúng ngÀy 13- 6 không thấy gần vua như thầy Tử vi nói. HÀi xách gậy đi tìm ông thầy đánh về tội nói láo. Trên đường đi, HÀi bị một người cỡi ngựa đụng vÀo té văng dưới đất. Người đó vội xuống ngựa đỡ HÀi dậy xin lỗi rối rít.
Tôi đi vội quá lỡ đụng tiên sinh. Xin tiên sinh bỏ qua cho.

]HÀi nhìn người đó thấy mặc quần, áo lót đội mũ phía sau ra phía trước. HÀi bên phải sang bên trái, coi vẻ hốt hoảng. HÀi bực mình hỏi :
NhÀ ngươi đi đâu
Tôi đi tìm cha tôi

Nguyên đó lÀ nhÀ vua Trần Anh Tôn. Hôm đó vua uống rượu say mê mệt. Nhân tôn hoÀng thượng bất thần về kinh, thấy con say, giận lắm để cây gậy thiên trượng lên mông nhÀ vua ngụ ý đánh đòn, rồi bảo các quan về Thiên Trường họp.

Lúc tỉnh rượu, Anh Tôn được cung nga, thái giám kể lại, sợ quá chụp mũ đội lên đầu. Trong lúc vội vÀng, mới đội phía sau ra phía trước, quên cả mặc áo ngoÀi, đá chân nọ sang chân kia vÀ đụng phải ĐoÀn Nhữ HÀi. Vua hỏi HÀi

Tiên sinh lÀ ai?

Tôi lÀ ĐoÀn Nhữ HÀi, học trò trường Quốc Tử Giám. Tôi đang buồn vì thi trượt đây.
Tiên sinh biết chữ chăng?

HÀi bực tức :[
- NhÀ ngươi điên chắc? Ta đã chuẩn bị thi Thái học sinh, thì phải thông Bách gia, Chư tử, Cửu lưu, Tam giáo, lẽ nÀo không biết chữ?
Vua Anh Tôn vẫn nhũn nhặn:
- Tiên sinh lÀm dùm ta bÀi biểu tạ tội với phụ hoÀng ta, rồi ta bảo quan Quốc tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậuNăm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?

ĐoÀn Nhữ HÀi vẫn chưa biết lÀ vua, quát lên
NhÀ người điên chắc? Muốn rụng đầu chăng? NhÀ ngươi có biết rằng chỉ có một người được phép lấy trạng nguyên không? NhÀ ngươi lÀ ai?
Vua Anh Tôn đáp :
- Tôi lÀ vua

Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc.
Thượng-hoàng nghe được hỏi:
- Văn ở đâu mà hay như vậy?
Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:
- Đưa vào đây!
Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây
thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:
- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).
Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài,

HÀi than dÀi:
- Không biết thân có ân phước gì mÀ gặp toÀn những bậc Thánh chúa, Thánh tăng chỉ đường, chỉ lối vậy?

Thượng hoÀng nói :
-Chẳng qua lÀ số.Số tiên sinh cung nô có Tham,Hồng,ĐÀo,Quyền,Tả nên gặp may, duyên kỳ ngộ mÀ gặp chúa.

Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.
Vua Anh-tông tâu rằng:
- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?
Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:

“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai
không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..

Thượng-hoàng phán:
- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh. (chú thích: đoạn này chép từ trong 1 dị bản)
Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.


II . Huệ Túc Phu Nhân Cứu Đoàn Nhữ Hài


Đoàn Nhữ Hài may gập được vua Anh Tông phong cho chức Xử Mật Viện .
Nhập cung bái yết thái hậu và hoành hậu .

Khâm Từ thái hậu (là con gái của Hưng Đạo Vương, vợ vua Nhân Tông, là mẹ Anh Tông so vai vế là cháu gọi Huệ Túc Phu Nhân bằng bà) phán rằng :

Ta tuy là thái hậu, nhưng trên còn có Huệ Túc Thái Hoàng Thái Phi, tiên sinh theo ta vào bái kiến người .

Hài đến cung, phu nhân đón ở lầu Tinh các (lầu nghiên cứu thiên văn). Hài xụp xuống khấu đầu , phu nhân phán :

Sáng nay thấy thủy Tiên nở mười cánh, ta bấm độn biết là có đại thần đến viếng, tiếc rằng ta đón trễ, e không đủ lễ với bậc trung lương .

Khâm Từ thái hậu tâu :

Tâu tổ mẫu, tiểu hài nhi (chỉ vua Anh Tông) vì say rượu suýt bị tội . Được Đoàn tiên sinh đây dùng văn tài tạ tội cho mới thoát .

Phu nhân phán :

Thuả hoàng thượng (chỉ vua Anh Tông) mới ra đời, ta tính số thấy Đồng, Lương, Tang, Mã ở Mệnh thêm Hình …ta đã biết có việc này rồi . Đồng, Lương ham chơi có thể gây ra tai họa . Nhưng là phúc tinh thì không bao giờ bị truất ngôi cả . Có Tang, Hình đắc địa thì sau này càng lớn càng nghiêm cẩn, uy nghi tài ba, thái hậu đừng lo .

Thái hậu lại tâu :

Đoàn tiên sinh được Thái thượng Hoàng (Trần Nhân Tông) và Hưng Nhượng Vương xem số cho phê là : văn mô, vũ lược, chí cả, tâm hùng .

Lại quay lại bảo Hài :

Này Đoàn tiên sinh, Thượng hoàng nhà ta và Hưng nhượng Vương đều được Thái hoàng Thái Phi đây truyền dậy về Tử Vi Đẩu Số đấy .

Hài trình lên niên canh : Tuỗi Kỷ Mão, tháng 9, ngày 1, giờ Mão.

Phu nhân nói :

Cái cách của tiên sinh gọi làNhật Nguyệt tịnh minhthì thế nào cũng phò tá đế vương .Bậc cao nhất là tể tương. Lại có Xương, Khúc, Long, Phượng, Kỵ thì văn tài xuất chúng . Có Kình miếu thì vũ lược siêu quần, vì thế mà Thượng Hoàng mới phê là văn mô vũ lược, chí cả tâm hùng .

Thái hậu hỏi :

Thần thấy tiên sinh có cách “Tam hợp minh châu, đa chiết quế” . Ngoại hợp có
Khoa, cư trung Xương, Khúc sao tiên sinh không đậu đại khoa . Không đậu đại khoa làm sao lên tới tể tướng được ?

Phán :

Số trời cả . Có bao giờ vua bị học trò túm áo đâu ? Tại sao Đoàn tiên sinh lại túm áo vua ? Lão Thái Sư (Thủ Độ) có đậu đạt gì đâu mà cũng là tể tướng ? Sự nghiệp tiên sinh đây sau này làm tới Hầu, Bá là đàng khác . Còn tại sao tiên sinh không đậu ? là vì hạn còn xấy quá . Hạn xấu thì làm sao mà đậu được . Trong khí số lại có công danh sớm, nên nay có danh mà không có khoa vậy .

Thái hậu hỏi :

Cung Nô của tiên sinh tại Tý có Tham làPhiếm Thủy Đào Hoa, lại thêm Quyền, Tả, Hồng có gì đáng lo chăng ?

Đáp :

Tham cư Nô tại Tý thì thế nào cũng có ngày tỳ thiếp làm rối kỷ cương (***)
Quyền, Tả chế được . Tham 3 độ, Đào 3 độ, Hồng 3 độ ở cùng chung nhau thành 27 độ xấu . Quyền 3 độ, Tả 3 độ thành 9 độ không đủ chế 27 độ xấu . Nhưng Mệnh có Xương, Khúc, Kình thì bình thường chế được mà gia cang vững . Sợ là khi hạn gập các dâm tinh thì như giặc ngoài đột nhập, trong nhà khó giữ nổi kỷ cương . Sang năm tới đây, đại hạn tiên sinh ở Tỵ(****),(chú thích: khởi đại hạn từ huynh đệ?) có Cơ, Hình, Mã, Đà. Tang . Tiểu hạn tại Dậu có Riêu, Hao, Hỏa, Hư . (chú thích: an Hỏa tinh khác với trình lyso) Lưu Kình nhập Mệnh, lưu Đà nhập đại hạn . Dâm tinh quá mạnh, cung Nô phát dậy thế nào cũng vì má đào mà gây họa nguy khốn . Phải nhờ lưu Thái Tuế gập Thái âm thành Quyền tinh tại cung Hợi giải cho nên thoát nạn .(đoạn này tôi đọc không hiểu lắm)


Hài tâu :

Thượng Hoàng xem số bảo thần vì má đào mà bị trảm, nên xé bìa kinh Kim Cương viết cho mấy chữ : “Tứ đại giai không . Miễn tử .” để khi hữu sự thì dùng đến .

Phu nhân phán :

Thượng Hoàng cũng là Nô cung của tiên sinh đấy, tờ giấy ấy là Tả, Quyền đấy, tiên sinh đưa cho ta giữ cho .

Tháng tư niên hiệu Nguyên Phong thứ 7 (1299) trong nội cung khám phá ra chuyện tình giữa Hài và thứ phi Giao Châu . Triều đình nghị án trảm cả hai


Phu nhân hay được bèn ngự tới sân rồng . Triều đình đồng bái lạy, phu nhân nói :

Xin Hoàng thượng và triều đình cho ta góp vài lời quê mùa nên chăng ?

Vua Anh Tông phán :

Hài nhi kính cẩn xin nghe lời nghiêm huấn của Thái tổ mẫu .

Phán :

Thái Tông nhà ta đức rộng như biển . An Sinh Vương dặn Thượng Phụ (Hưng Đạo Vương) cướp ngôi, ngài biết cả . Thế mà vẫn trọng dụng Thượng Phụ, nên họ Đông A mới làm nên đại nghiệp phá Thát đát . Nay Giao Châu bất quá 16 tuổi, Đoàn tiên sinh bất quá 21 tuổi . Tiên sinh chưa vợ . Giao Châu tiến cung đã 6 tháng không gập thiên tử . Trai tài gái sắc họ cảm nhau là chuyện thường . Nay vì chút ít kỷ cương mà giết một công thần tài đức, làm mất đi đức bao dung của Tiên đế không ? Sao bằng tác hợp cho Đoàn tiên sinh đây và Giao Châu thành phu phụ để tuyên đức bao dung của triều đình . Trọn đời họ là kẻ chịu ơn triều đình, nhất tâm khuôn phò xã tắc, quý thay .

Anh Tông nói :

Hài nhi không chủ trương được việc này . Hình pháp đã định .

Phu nhân phán :

Giao Châu là cung phi, thì để cho nội cung xử . Ta là phu nhân của Thái Tông, bậc cao nhất nội cung, để ta lãnh xử . Còn Đoàn tiên sinh làm Xử Mật Viện là người của họ Đông A hơn của triều đình, xin giao cho Thân Vương xử. Vua Anh Tông và triều đình cúi đầu vâng mệnh . Giao Châu phục xuống ôm chân phu nhân mà khóc. Lệ nhà Trần là các Thân Vương về ấp ở, mỗi tháng có một vị ở triều đại diện mà thôi . Tháng tư đến lượt Trấn bắc đại tướng quân Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản . Hầu kính cẩn thưa :

Thánh đức của Thái Tôn nhà ta nên giữ lấy . Thần xin tác hợp cho Đoàn tiên sinh và Giao Châu .

Triều đình nhất nhất tuấn theo . Bấy giờ, phu nhân mới rút trong tay áo ra tấm bìa kinh Kim Cương có bút tích của Thái Thượng Hoàng : “Tứ đại giai không . Miễn tử .” đưa ra . Anh Tông và cả triều đình tung hô vạn tuế .


Chú thích: Tôi còn tìm được 1 dị bản khác, cùng các nhân vật lịch sử nhưng có những lời giải đoán khác.Tuy nhiên đọc đến phần "Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân." thì tôi biết là viết láo nên không cho vào đây nữa.

TL: Đông A di sự - phân tích

Đã gửi: 19:45, 15/05/13
gửi bởi lethanhnhi
này ace yêu quí, có thể đưa dị bản đó nên không
cái bài dị bản đó

TL: Đông A di sự - phân tích

Đã gửi: 02:54, 16/05/13
gửi bởi Ace
Bản dị bản (vẫn lá số cũ nhưng khác lời giải đoán và năm hạn):

Đoàn Nhữ Hài là học trò trường Quốc-tử giám ở Thăng-long. Năm 20 tuổi, Hài chuẩn bị để thi Thái-học sinh (tiến sĩ), muốn được thi Thái học sinh thì Hài phải qua một kỳ khảo hạch của trường trước, nếu thấy khá thì mới được cử đi thi. Một hôm ra chùa Diên hựu (chùa Một-cột) chơi, thấy vị tăng ngồi nhìn trời, Hài hỏi:
- Bạch hòa thượng, tiểu sinh nghe rằng người tu hành có thể biết được vận số sau này sẽ ra sao, có đúng không?
Hòa thượng hỏi:
- Tiên sinh muốn biết điều gì?
- Tiểu sinh muốn biết mai sau hoạn lộ ra sao. Tiểu sinh mong sư phụ chỉ giáo cho tương lai.

Hòa thượng hỏi ngày, giờ, tháng, năm sinh của Hài rồi nói:
- Số của tiên sinh là số tá cửu trùng ư kim điện, nghĩa là số phò tá vua ở sân rồng, tức là số làm tới tể tướng. Mệnh lập tại Mùi, Tả, Hữu thủ mệnh là người đa tài, đa năng. Tử-vi kinh nói, Tả-phụ, Hữu-bật bình tính khắc khoan, khắc hậu nên tính tình từ tốn, hành sự cẩn trọng. Cái cách Nhật tại Mão, Nguyệt tại Hợi chiếu là cách Nhật, nguyệt tịnh minh, nên thì sớm gặp minh quân. Nhưng tiên sinh lại có một cách rất xấu Đào-hoa, Hồng loan cư nô, lại gặp Hình, thì tất thế nào cũng vì đàn bà mà tan nát sự nghiệp, đến phải vong mạng. Đáng tiếc, đáng tiếc.

Hài mừng lắm trở về lo học hành, tháng sau trong kỳ thi khảo hạch của trường Quốc-tử giám, Hài bị trượt vì văn ngông nghênh, kênh kiệu quá. Hài giận lắm, tìm vị hòa thượng hỏi:
- Hôm trước đại sư đoán rằng sau này tôi sẽ làm Tể-tướng, thế sao tôi thi trượt? Không đậu thì làm sao thi Thái-học sinh được? Không đậu Thái-học sinh thì sao có thể làm Tể-tướng?
Vị Hòa-thượng cười đáp:
- Từ xưa đến giờ có biết bao nhiêu vị Tể-tướng mà không đậu đại khoa? Bần tăng đoán tiên sinh làm Tể-tướng, chứ có đoán tiên sinh thi đậu đâu? Này năm nay tiểu hạn tiên sinh nhập cung Dậu được Thái-dương miếu địa, Hóa-khoa từ Mão chiếu sang thì thanh vân đắc lộ gặp được thiên-nhan. Nhưng đại hạn đóng ở cung Tỵ. Thiên-mã gặp Đà-la tức là ngựa què. Ngựa đã què lại còn đi đến cung Dậu gặp Tuần thì ngựa bị chặt cụt chân. Vậy khi nào tiên sinh gặp ngưạ cắn hoặc đá là lúc gặp vua, nhưng tiên sinh nhớ một điều:
Khi được gặp vua, nếu hoàng-thượng ban thưởng cho bao nhiêu vàng bạc phải nộp cho lão tăng một nữa. Hài mừng lắm, về nhà, đúng ngày mà hòa thượng đoán gặp vua, không thấy linh nghiệm. Hài tìm đến chùa Diên-hựu để hỏi tội hòa-thượng. Nhưng trên đường đi, Hài bị một người cỡi ngựa đụng phải, té lăn vào bụi cỏ. Hài túm lấy dây cương hạch tội:
- Nhà ngươi đi đâu mà có mắt như mù đụng phải ta?
Người cỡi ngựa, mình chỉ mặc áo lót, mũ đội phía sau ra trước, nhảy xuống ngựa tạ lỗi:
- Xin lỗi tiên sinh, tôi đi tìm cha tôi để tạ lỗi. Tiên sinh có biết chữ không? Tôi muốn nhờ tiên sinh một việc đây!
Hài bực mình nói:
- Ta học trường Quốc-tử giám, sắp thi Thái-học sinh, thì Bách-gia, Chư-tử, Cửu-lưu, Tam-giáo đều thông. Sao lại không biết chữ?
Người cỡi ngựa tiếp:
- Vậy tiên sinh làm dùm tôi bài biểu tạ tội với cha tôi, tôi sẽ bảo quan Quốc-tử giám tư nghiệp cho tiên sinh đậu. Năm sau thi Thái-học sinh tôi sẽ lấy tiên sinh đậu Trạng nguyên, được chăng?
- Nhà ngươi điên à? Nhà ngươi có biết, chỉ có một người cho Thái-học sinh đậu Trạng-nguyên, đó là vua. Nhà ngươi là ai mà dám nói lớn lối như vậy?
Người kia đáp:
- Tôi là Vua đây.
Đoàn Nhử Hài nhìn lại mũ người đó, quả là vua, vội thụp xuống đất tạ tội. Người cỡi ngựa chính là vua Trần Anh-tông. Nguyên sau khi chiến thắng Mông-cổ, năm 1293 vua Trần Nhân-tông nhường ngôi cho con là vua Trần Anh-Tông rồi đi tu. Vua Anh-Tông thường hay rượu chè say sưa. Nhân một hôm uống rượu Xương-bồ say quá nằm ngủ, thì Thượng-hoàng từ Thiên-trường về Thăng-long. Các quan trong triều không ai biết cả. Nhân-Tông thong thả xem cung điện từ giờ Thìn đến giờ Tỵ. Thái-giám dâng cơm. Thượng-hoàng không thấy vua đâu hỏi thái-giám. Thái-giám đánh thức vua dậy, nhưng vua say quá không tỉnh được. Thượng-hoàng giận quá bỏ về, lệnh cho các quan về Thiên trường họp, có ý truất phế Anh-tông. Đến giờ Mùi, Anh-tông mới tỉnh dậy, cung nhân đem việc ấy tâu. Vua sợ quá không kịp mặc áo, nhảy lên ngựa chạy tới chùa Từ-phúc, thì đụng phải Đoàn Nhữ Hài. Hai người xuống thuyền về Thiên-trường. Dọc đường Đoàn Nhữ Hài làm tờ biểu dài hai ngàn chữ tạ tội. Nhưng Thượng-hoàng vẫn còn giận, không cho vào. Hai người phải quỳ ở ngoài. Các quan liếc mắt nhìn tờ biểu, thấy văn hay, truyền nhau đọc.
Thượng-hoàng nghe được hỏi:
- Văn ở đâu mà hay như vậy?
Các quan tâu rằng đó là bài biểu tạ tội của vua. Thượng-hoàng truyền:
- Đưa vào đây!
Ý ngài muốn nói rằng đưa bài biểu vào, nhưng các quan hiểu lầm đưa cả Vua và Đoàn Nhử Hài vào. Thượng-hoàng thấy sự đã rồi, đành tiếp biểu xem, thấy lời văn điêu luyện, thống thiết, bèn xá tội cho vua Anh-Tông. Ngài phán rằng:
- Ta đang cần một thiếu niên anh tài phụ tá cho con ta. Nay gặp tiên sinh ở đây
thực là may mắn. Hài trình việc gặp hòa thượng ở chùa Diên-hựu, được hòa thượng đoán trước sự việc. Thượng-hoàng phán:
- Khoa Tử-vi do Hoàng Bính truyền sang Đại-Việt, khoa này đâu có truyền ra ngoài dân dã? Hòa thượng xem Tử-vi cho tiên sinh đó là sư phụ của ta, tức Tuệ-Trung Thượng-sĩ đó (tức Trần Quốc Tung).
Hài nghe xong hoảng sợ, nghĩ hôm trước nếu mình gây với hòa thượng thì bị ốm đòn rồi. Bởi Tuệ-Trung là một võ học danh gia đời Trần. Thượng-hoàng hỏi số của Hài, rồi phán:
- Số của tiên sinh là số của bậc tể thần. Sau này làm nên sự nghiệp hiển hách. Nhưng tiếc rằng Đào, Hồng cư Nô, thì thế nào cũng xảy ra một chuyện bất chính trong tình trường, lại thêm Tham, Hình nữa thì thế nào cũng vì má đào mà sự nghiệp tan vỡ, chết vì nghiệp tình, đáng tiếc thay.
Vua Anh-tông tâu rằng:
- Thần nhi nghe nói căn cứ vào khoa Tử-vi có thể cải được số mạng. Thỉnh cầu phụ hoàng có cách nào cứu được Đoàn tiên sinh không?
Thượng-hoàng bèn xé từ bìa kinh Kim-cương viết mấy chữ Tứ đại giai không, miễn tử trao cho Đoàn Nhữ Hài. Tứ đại Giai không là chữ lấy trong kinh Kim-cương:

“Vô nhân tướng, Vô ngã tướng, Vô chúng sinh tướng, Vô thọ giả tướng, tứ đại giai
không”. Nghĩa là không có hình tượng của người, của ta, của chúng sinh, không có cái gì lâu dài cả. Bốn cái đó đều là hư ảo..

Thượng-hoàng phán:
- Ta xem số thấy cái vạ vì má đào của tiên sinh sắp tới. Nay ta trao cho tiên sinh mảnh giấy này, khi bị nạn, có thể dùng nó để cứu mạng. Muốn giải cái nạn Hồng, Đào, Hình, Tham thì phải dùng đến Quyền. Nay ta viết chữ miễn tử tức là dùng Quyền rồi, phụ với Hóa-quyền đóng chung ở Tham-lang nữa. Muốn giải hạn Thiên-hình thì dùng đến Không-vong. Ta dùng bìa cuốn kinh Kim-cương, tức là dùng cái Không của đạo Phật. Như vậy mong có thể cứu được tiên sinh.
Trở về Thăng-long, vua Anh-Tông phong cho Đoàn Nhữ Hài làm Ngự-sử trung tán, đây là lần đầu tiên một người không đậu đạt gì, mới 20 tuổi được phong làm Ngự-sử trung tán. Người thời đó ghanh ghét làm thơ giễu Hài như sau:
Phong hiến luận đàm truyền cổ ngữ, Khẩu tồn nhũ xú Đoàn trung tán. Có nghĩa là: Ôn câu cổ ngữ tại đài Ngự sử. Miệng của Trung-tán Đoàn Nhữ Hài còn hôi sữa.

Ba năm sau hạn của Đoàn Nhữ Hài qua cung Tý gặp Đào, Tham, Quyền, Hồng và Thiên-thương, triều đình khám phá ra mối tình của Đoàn Nhữ Hài với một cung nữ của vua Anh-Tông. Luật triều Trần rất khắt khe với tội ngoại tình. Ngay với thường dân khi ngoại tình xảy ra, gian phu bị tử hình, dâm phụ tùy người chồng tha hay không. Nay tội đó xảy ra giữa một đại thần với một cung nữ. Nên cả hai bị khép tội chém đầu. May nhờ có thủ bút của Thượng hoàng, viết trên bìa cuốn kinh Kim-cương nên cả hai được miễn tử. Vua Anh- Tông truyền gả cung nữ cho Đoàn Nhữ Hài.

TL: Đông A di sự - phân tích

Đã gửi: 20:55, 16/05/13
gửi bởi lethanhnhi
này ace, người này quả là làm quan
nhưng sách này e rằng là phịa, hạn kia thì gặp vua là đúng
nhưng sao xem ra ngựa què thì chịu