Trang 1 trên 3

Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 04:47, 16/03/11
gửi bởi VULONG
Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269
(Số thứ tự của các ví dụ do tôi thêm vào cho thuận tiện khi nghiên cứu).

Phần I

Thông Thần Luận

Chương 1: Thiên Đạo

Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công

Nguyên chú:Trời có âm dương ; cho nên mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy, tứ quý thổ vậy; tùy theo thời lệnh mà hiển hiện sinh sát; trong mệnh có trời đất người tức lý tam nguyên, mọi thứ căn bản đều như thế cả.

Nhâm thị viết: Can là thiên nguyên, chi là địa nguyên, trong chi tàng chứa nhân nguyên. Con người thụ mệnh, các khí không đồng đều, chung quy không vượt khỏi cái lý tam nguyên, nó chính là phương pháp tông vậy. Âm dương vốn là thái cực, mệnh danh vua nâng đỡ, ngũ hành đi khắp bốn mùa, là thần sinh sát, thống quản hệ tam tài, vạn vật bắt nguồn từ đó . “trích thiên tủy” chương thiên đạo tỏ rỏ như thế.

Lời người dịch:
Lời nói của người xưa thường ngắn gọn, súc tích đôi khi khó hiểu. Chương thiên đạo này, cổ nhân muốn bàn đến cái nguồn gốc âm dương mà kinh dịch đã nói đến. Hai khí âm dương này cọ xát nhau mà có bốn mùa, mùa xuân mộc, mùa hạ hỏa, mùa thu kim, mùa đông thủy và bốn tháng cuối của bốn mùa là thổ khí (tháng 3, 6, 9, 12). Năm cái khí này tư lệnh bốn mùa, thuận thì sinh nghịch thì sát.
Con người bẩm thụ cái thiên khí âm dương, ngũ hành mà thành hình tượng. Tuy thụ mệnh không đồng như nhau, nhưng tựu trung lại thì không vượt ra khỏi lý tam nguyên thiên địa nhân vậy. Mệnh bẩm thụ khác nhau thì cát hung cũng không giống nhau, thế gian có vạn vật tất có vạn sự.
Thế cho nên người học đoán mệnh cái cần yếu nhất là hiểu được cái cơ động tịnh của âm dương, cái sinh vượng của ngũ hành trong tứ trụ có trong thiên can và địa chi được mệnh danh là tam tài thiên địa nhân. Cứ theo cái lẻ ấy mà luận đoán cát hung, đó là phương pháp chính tông vậy. Vì vậy mà cổ nhân mới khuyên chúng ta: muốn biết được lý tam nguyên thí trước phải xem sự động tịnh của âm dương sau đó mới xét đến cái lý của ngũ hành (Dục thức tam nguyên vạn pháp tông, tiên quan đế tái dữ thần công) là như thế đó.

Chương2 : Địa Đạo

Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung

Nguyên chú:
Đất có cương nhu, mà ngũ hành sinh ở đông nam tây bắc và trung ương, trời đất giao cảm nhau mà sinh ra cái khí diệu dụng. Con người do bẩm thụ cái thiên khí không đồng đều nhau , cũng vì vậy mà cát hung theo đó cũng khác nhau như thế.


Nhâm thị viết: “cao lớn thay đức của kiền, vạn vật từ đó”, “cao lớn thay đức của khôn, vạn vật được sinh”, kiền chủ cương cứng, khôn chủ chủ nhu thuận. Cương nhu theo nhau, mạnh yếu trợ nhau; đắp đổi nhau, qua lại đóng mở. Chỉ do cái khí ngũ hành thiên lệch, mà cát hung của mệnh nhân đó mới phát sinh vậy.

Lời người dịch:
Âm dương cọ sát nhau mà sinh ra tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Đứng đầu quẻ dương là kiền, đứng đầu quẻ âm là khôn. Kiền chủ cương kiện là cái tượng ban đầu của sự vật, nên thánh nhân mới bảo “đại tai kiền nguyên”. Khôn chủ nhu thuận là cái hình của sự vật, nên thánh nhân mới bảo”chí tai khôn nguyên”.
Hai khí kiền khôn này một cái cương một cái nhu cùng theo nhau, tương trợ nhau, cùng giao cảm nhau mà sinh ra sáu quẻ chấn tốn ly khảm cấn đoài. Vạn vật cũng từ đó mà tương sinh tương diệt.Thông cũng tượng cho quẻ Thái là thời mà âm dương tương giao tư sinh vạn vật. Giam cũng tượng cho quẻ Bĩ là thời mà hai khí âm dương bất tương giao vạn vật tất tương diệt.
Nhân sinh bẩm thụ mệnh, khí ngũ hành thiên lệch bất toàn mà họa phúc, cát hung cũng từ đó mà sinh ra. Vì thế cho nên, thánh nhân khuyên người học đoán mệnh cần hết sức quan tâm sự thông thuận của hai khí âm dương, sự lệch lạc của ngũ hành mà quyết định cát hay hung, thành hay bại, thọ yểu cùng thôn g(Khôn nguyên hợp đức cơ giam thông, ngũ khí thiên toàn định cát hung) ý là như vậy đó.

chương 3 : Nhân Đạo

Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc

Nguyên chú:Vạn vật sinh ra trong trời đất không có giống nào mà chẳng thụ cái khí ngũ hành, duy chỉ con người thụ được cái khí ngũ hành toàn mà quý vậy. Nhưng cát hung chẳng đồng nhau là do ngũ hành đi thuận hay nghịch đó vậy.

Nhâm thị viết: Con người sống giửa trời đất, đầu tiếp giáp trời chân tiếp giáp đất, bát tự cần nhất là thiên can và địa chi thông thuận chớ nên nghịch thường. Thuận thì được tương sinh, nghịch thì bị khắc hại, thế cho nên cát hung cũng từ đó mà phân rẻ vậy.

Như thiên can khí nhược, được địa chi sinh, địa chi khí suy, được thiên can trợ chi, tức can chi thông thuận tất cát; giả như thiên can suy nhược mà còn bị địa chi ức chế, địa chi khí nhược mà còn bị thiên can khắc chế, tức can chi nghịch thường hung nguy vậy.
Thí như thiên can mộc rất sợ hành kim khắc thiên can mộc, địa chi có tý hợi hóa kim sinh can; nếu địa chi không có tý hợi, mà thiên can có nhâm quý có thể hóa kim sinh mộc; còn như thiên can không có nhâm quý mà địa chi có dần mão mộc, tức thiên can thông gốc (thông căn); bằng như địa chi không có dần mão mộc, thiên can có bính đinh hỏa khắc chế kim, thiên can mộc có sinh cơ, sự cát có thể biết được.

Nhược bằng thiên can không có nhâm quý, mà trái lại trên can còn hiển lộ can mậu kỷ; còn địa chi không có hợi tý dần mão, mà trái lại còn thấy xuất hiện thìn tuất sửu mùi thân dậu, thổ kim trùng trùng sinh trợ kim, thiên can mộc bị khắc vô sinh trợ, hung nguy có thể biết được vậy. Dư lại các loại cứ thế mà suy.

Đại phàm vạn vật không vật nào mà chẳng mang thuộc tính ngũ hành, trên tiếp giáp với trời dưới tiếp giáp với đất, như loài chim bay trên trời cá bơi dưới nước, cỏ cây muôn thú chạy trên bờ đều mang thuộc tính ngũ hành khí chuyên sinh của nó, như loài mang bộ lông vũ thuộc hỏa, loài cỏ cây thuộc mộc, loài cá bơi lội dưới nước thuộc kim, duy con người thụ đắc khí thuộc thổ, cư trung ương gồm nắm cả kim mộc thủy hỏa, kim mộc thủy hỏa thành từ thổ, vì vậy tuy ngũ hành nhất khí nhưng rất tôn quý. Thế cho nên bát tự tối cần tứ trụ lưu thông, ngũ hành sinh hóa hữu tình, đại kỵ tứ trụ khuyết hãm, ngũ hành thiên khô. Ngụy thư vọng ngôn cho rằng tứ trụ tứ mậu ngọ là mệnh thánh đế, tứ quý hợi là mệnh của hầu bá, nghiên cứu cận lý mới biết hậu nhân ngoa truyền.

Ta trong quá trình hành đạo, đã xem qua những tứ trụ có tứ mậu ngọ, tứ đinh mùi, tứ quý hợi, tứ ất dậu, tứ tân mão, tứ canh thìn, tứ giáp tuất và nhiếu hơn thế nửa, đều luận mệnh theo lẻ thiên khô, chẳng cái nào mà không ứng nghiệm.

Thí như Càn tạo mệnh tứ trụ tứ nhâm dần, địa chi dần tàng chứa hỏa thổ trường sinh, thực thần lộc vượng, trên có nhâm thủy sinh cho, mặc dù thê tài tử tôn ngộ lộc, nhưng chẳng toàn mỹ, nguyên nhân là do hỏa thố trong dần không có chi dẫn xuất, cho nên tuổi thơ cô khổ, trung vận cơ hàn, mãi quá 30 tuổi, hạn hành phương nam dẫn xuất hỏa trong dần, kinh doanh phát tài, tuổi già không con, gia nghiệp bị phân chia tranh đoạt, có thể biết được như vậy nhờ luận theo cách cục thiên khô. Do vậy nghiệm ra rằng, mệnh cục quý trung hòa, thiên khô chung quy có tổn hại; mệnh cục cần ngũ hành cân bằng đầy đủ, mệnh cục kỳ dị bất túc lấy chi nương tựa vậy.

Lời người dịch:
Trời đất có âm dương ngũ hành, nhị khí giao cảm nhau mà sinh ra vạn vật. Thế cho nên, dưới thế gian không có giống loài nào mà không thụ đắc cái khí âm dương ngũ hành của trời đất.
Con người là động vật chí linh, do bẩm thụ khí âm dương ngũ hành toàn vẹn. Nhưng do sự thụ khí bất đồng và sự lưu hành của khí âm dương ngũ hành thuận nghịch mà cát hung họa phúc không đồng nhau vậy.
Âm dương ngũ hành trong bản mệnh chính là can chi, cần nhất là trung hòa, bất túc, khiếm khuyết dù có phú quý chăng nữa cũng bất toàn. Thế cho nên, thánh nhân khảo mệnh cần sự trung hòa đầy đủ theo thường lý, chớ nên kỳ dị khác lạ nghịch thường chung cuộc hung hại (Đới thiên phúc địa nhân vi quý, thuận tắc cát hề hung tắc bội).

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 05:49, 16/03/11
gửi bởi VULONG
Chương 4: Tri Mệnh

Yếu dữ nhân gian khai lung hội, thuận nghịch chi cơ tu lý hội

Nguyên chú: bất tri mệnh giả như lung hội, tri mệnh vu thuận nghịch chi cơ năng lý hội chi, thứ khả dĩ khai thiên hạ chi lung hội.

Nguyên chú:?

Nhâm thị viết: Câu nói trên thật chí lý, chỉ sợ người học mệnh sau này chẳng nghiên cứu tường tận cái cơ thuận nghịch. Vội vàng đàm luận nhân mệnh, làm mê hoặc không ít, xem tạp cách hay cục lạ, hết thảy thần sát đem ra dùng một cách rất hoang đường, đào hoa hàm trì chuyên luận nữ mệnh tà dâm, cầu thọ quỷ thần, kim xà thiết tỏa sai lầm tiểu nhi quan sát, làm rối lòng cha mẹ; chẳng cần biết nhật chủ cường nhược đều cho ấn thực là phúc, kiêu kiếp là tai ương, mà không biết rằng tài quan ngang nhau, lấy lục thần ngang nhau, lại cho rằng nguồn tài có thể dưởng mệnh, quan có thể vinh thân thật là ngu muội quá thay!

Ví như nguồn tài có thể dưởng mệnh mà tài nhiều thân nhược chẳng là nhà giàu có ma bần tiện đó sao, quan có thể vinh thân mà thân suy quan vượng chỉ lá quý hiển mà chết yểu, đê tiện đó. Ta từng khảo xét cổ thư, phương phương pháp tử bình, họa phúc cát hung thọ yểu toàn tại tứ trụ ngũ hành. Xem xét sự suy vượng, nghiên cứu sự thuận nghịch, xét đoán sự tiến thoái mà luận hỉ kỵ, ấy thế mà lỉnh hội được. đến như cách hay cục lạ, lấy đó làm chính lý tất sai lầm lớn, ngoa dĩ truyền ngoa, nhân đó làm lý cho sự cát hung, thật là hôm muội khó sáng vậy. thư vân:” dụng thần tài tinh không nên gặp kiếp tài, dụng thần quan tinh không nên gặp thương quan, dụng thần ấn tinh không nên gặp tài, dụng thần thương thực không nên gặp kiêu”, bốn câu trên thật chí lý, cốt yếu ở một chử “dụng”. Người học mệnh không hiểu biết, không nghiên cứu căn nguyên cho tường tận, chuyên lấy tài quan làm trọng, mà không biết rắng:”chẳng dụng tài tinh có thể dụng kiếp, chẳng dụng quan tinh có thể dụng thương quan, chẳng dụng ấn tinh có thể dụng tài, chẳng dụng thương thực có thể dụng kiêu" . Cái cơ thuận nghịch không lĩnh hội được, mômg muội đến thế làm sao có thể luận cát hung, biện hiền ngu, làm mê hoặc kẻ hậu học như thế thật quá lắm vậy!

VD 1- Càn tạo mệnh:

Tân mão đinh dậu canh ngọ bính tý
Đại vận: bính thân ất mùi quý tỵ nhâm thìn canh dần kỷ sửu mậu tý đinh hợi

Thiên can canh tân bính đinh, chính phối hỏa luyện thu kim; địa chi tý ngọ mão dậu, cư ở bốn cung khảm ly chấn đoài. Cả bốn chi đều ở tứ chính, khí quán tám phương, nhưng ngũ hành thiếu thổ, tuy sinh vào mùa thu đương lệnh, chẳng luận vượng. rất cần tý ngọ gặp xung , thủy khắc hỏa, khiến cho ngọ hỏa chẳng khắc phá dậu kim, mà sinh phù nhật chủ; đổi lại mão dậu gặp xung, kim khắc mộc, tắc mão mộc không thể sinh trợ ngọ hỏa, chế phục đắc cách, sinh hóa hữu tình. Mão dậu tức chấn đoài chủ nhân nghĩa hơn người; tý ngọ tức khảm ly, là khí đứng đầu trong trời đất. Với lại khảm ly đắc nhật nguyệt chi chính thể, vô tiêu vô diệt, một tươi nhuận một ấm áp, tọa tại đoan môn, thủy hỏa ký tế. Cho nên tám phương qui phục, bốn biển cùng về, thiên hạ thái bình thịnh thế vậy(Thanh cao tông-càn long. Trích trong ái tân giác la mệnh phổ).

VD 2 - Đổng trung đường tạo mệnh:

Canh thân canh thin mậu thin mậu ngọ

Đại vận: tân tỵ mậu ngọ quy mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu ty

Nhật can mậu thổ, sinh vào tiết quư xuân vào giờ ngọ, tựa như vượng tướng, tháng mùa xuân thổ hư khí, không như thổ tháng 6, 9 là thực thổ. Vả lại hai chi thin thấp thổ mộ khố của thủy, có thể tiết khí hỏa sinh kim, can thấu lưởng canh, chi hội thân th́n, nhật chủ bị tiết chế quá độ, nên chọn dụng thần là đinh hỏa tàng trong chi ngọ sinh phù. Rất cần không thấy thủy mộc, nhật chủ ấn thụ không bị thương, tinh thần sung túc, thuần túy trung ha. Một đời chẳng gặp hoạn nạn, hơn ba mươi năm hưởng thái b́nh sự nghiệp, măi đến vận mậu tư hội thân tý thìn thủy cục vượng thất lộc, hưởng thọ 80 tuổi vậy.

VD3 - Càn tạo mệnh:

Tân dậu tân sửu kỷ dậu bính dần
Đại vận: nhâm dần quư măo giáp th́n ất tỵ bính ngọ đinh mùi mậu thân kỷ dậu

Giống như cách tạo mệnh trên tuy có khác nhau về tiểu tiết nhưng đại loại th́ cũng như thế, nhật can kỷ thổ, tuy sinh vào tháng sửu thổ vượng, nhưng thổ mùa đông hàn thấp, sao bằng thổ tháng 6, 9 ôn táo. Với lại, nguyệt lệnh sửu hàm chứa kim thủy, can thấu hai tân, chi bán hội sửu dậu kim cục, nhật can bị tiết chế quá độ, dụng thần tất chọn bính hỏa. Rất may thời trụ dần mộc, hàn cực sinh dương, bính hỏa hữu căn. Tướng người nhân đức, tuấn tú, hành vận nhâm quư thủy thi hương trắc trở, sang vận tỵ ngọ mùi hỏa địa, tiền tŕnh tốt đẹp không thể nói hết (Tân Tăng).

VD 4 - Càn tạo mệnh:

Nhâm thin nhâm dần giáp dần canh ngọ
Đại vận: quy măo giáp thần ất tị bính ngọ đinh vị mậu thân kỷ dậu canh tuất


Họ vương tạo mệnh, luận theo lẻ thường cho rằng thân cường sát thiển, lấy canh kim thất sát làm dụng thần, mùa xuân mộc vượng gặp kim, tất là khí lương đóng, cố gắng độc thư tất sau nên danh; măi quá ba mươi không thấy ứng nghiệm, gia nghiệp tiêu hết dần, nên nhờ ta suy đoán. Ta thấy rằng chi tọa lưỡng dần, nguyệt lệnh đương quyền, can thấu hai nhâm, sinh trợ vượng thần, chi năm th́n thổ là thủy khố, chứa thủy dưởng mộc, không thể sinh kim, một canh kim vừa hưu tù vô khí, vừa bị ngọ hỏa chế khắc, nhâm thủy tiết khí, không chỉ vô dụng mà c̣n trở lại sinh thủy. Đại phàm vượng cực, nên tiết khí không nên bị khắc, nên thuận theo thế thịnh, chẳng nên nghịch thế. Lấy ngọ hỏa làm dụng thần, tương lai vận hành hỏa địa, tuy chẳng hiển quư, nhất định giàu có, bằng như chờ đợi vận hội, tất có ngày như thỏa nguyện. Rời bỏ nho học chuyển sang kinh doanh, tới vận bính ngọ, khắc mất canh kim, không quá mười năm, phát tài hơn mười vạn, cho nên canh kim là khắc thần vậy.

VD 5 - Càn tạo mệnh:

quy dậu giáp tư quy hợi tân dậu
đại vận: quy hợi nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n

Một người ở phúc kiến không tính danh, mùa đông năm canh ngọ, ta suy luận, đại loại lấy kim thủy làm dụng thần, chẳnng nên lấy hỏa thổ làm dụng. người ấy nói: kim thủy vượng cực, cớ ǵ lấy kim thủy làm dụng thần? Hay sách mệnh có thiếu sót gi chăng? Sách xưa thường viết:”vượng nên tiết nên thương”, kim vượng đầy tức cục kim thủy, trái lại lấy kim thủy làm dụng thần, tức mệnh thư không có khiếm khuyết hay sao? Ta nói: sách xưa không sai. Bởi do người học mệnh không thể hiểu hết cái ngũ hành ảo diệu trong mệnh cục. Thử tạo thủy vượng gặp kim, tất thành thế thủy thịnh, khô mộc bị trôi dạt, không tiết được thủy sinh mộc thủy vượng không nơi phát tiết tất thành thủy lưu, phản thành họa thủy, chẳng là điềm xấu hay sao. Sơ vận quư hợi, quư thủy sinh trợ dụng thần thủy vượng, sinh trợ có thừa; bước sang đại vận nhâm tuất thủy bất thông căn, khí thế nghịch hành, thủy bị h́nh phạt hao tán; tân dậu canh thân, đinh tài lưỡng vượng; kỷ mùi mậu ngọ nghịch khắc dụng thần, sự nghiệp trôi theo dòng nước chảy, h́nh thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Ví như “ nước sông Côn Lôn, thuận chảy xuôi dòng, không nên nghịch dòng mà gây họa”. Thế cho nên, cái cơ thuận nghịch không nên không biết tường tận vậy.

VD 6 - Càn tạo mệnh:

Quy dậu quư hợi quy hợi tân dậu
Đại vận: nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ bính th́n ất măo

Theo “trích thiên thủy” chép cách tạo mệnh trên như quư dậu/giáp tư/quư hợi/tân dậu, căn cứ vào sự suy tính, tựa hồ sau ngày giáp tư mới là ngày giao tiết, những chi tiết nhỏ ấy nên suy ứng tựu chung ngày quư hợi, bát tự như trên. Ta so sánh, cả hai cách tạo mệnh trên đại khái thủy cục đều vượng, cách cục tương đồng, đại vận sai lệch không quá mười ngày, nhân đó mà sách luận mệnh luận đoán chính xác. Với lại, họ nhâm thiết tiều sở đắc học mệnh, chẳng lẻ không biết được những điều ấy sao, về phương diện văn tự mà thấy đựơc, mệnh chủ vốn người thông hiểu mệnh lư, đại khái bát tự thuộc loại hinh dự báo tự nhiên, chẳng cần phải dụng tâm nhiều mới thấu hiểu được. Cách hành văn cao siêu, ư tứ sâu xa vựơt thời đại, chẳng kiềm hăm cái tâm sáng thần minh, làm nghiêng ngữa lòng người vậy.

Lời người dịch:
Âm dương thuận nghịch luân chuyển không ngừng, thuận tiến tức khí vượng, nghịch thoái tức khí suy. Ví như hỏa mùa hạ sinh vượng khí tức hành khí thuận tiến, cũng là khí tử tuyệt nghịch thoái của mùa đông vậy. Thế cho nên người học mệnh cần nên lĩnh hội được cái cơ ảo diệu thuận nghịch tiến thoái của âm dương ngũ hành. Thế cho nên thánh nhân mới bảo “thuận nghịch chi cơ tu lư hội” vậy.

Chương 5: Lư Khí

Lư thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương

Nguyên chú:
Cái khí đóng mở qua lại, lưu hành trong khoảng trời đất. Cái khí đó khi ban đầu thì nó tiến, tiến măi cùng cực thì nó thoái, như giáp mộc vào tháng 3; một khi cái khí này tiến đến cực thịnh thì nó thoái, như giáp mộc sinh vào tháng 9 vậy. Người học mệnh nên bình lặng mà xét nông sâu, ấy có thể là ngôn mệnh vậy.

Nhâm thị viết: Cái cơ tiến thoái, không thể không biết. Trường sinh thì sinh vượng tử tuyệt thì suy, cần nên biện rỏ cái lý tiến thoái, sau đến xem xét cái chân suy vượng vậy. Đại phàm ngũ hành vượng tướng hưu tù, dựa theo tứ quý mà định. Tương lai giả tiến, tức vượng tướng; tiến mà đương lệnh nắm quyền tức vượng cực; sau khi khí vượng cực tức hưu; thoái mãi vô khí tức tù. Cho nên, cần biện rỏ hưu tù vượng tướng, biết được cái cơ tiến thoái vậy. Là nhật chủ, là dụng thần tối cần vượng tướng, chẳng nên hưu tù vô khí; là hung sát, là kỵ thần chẳng nên vượng tướng, mà nên hưu tù tử tuyệt. Như cái khí ban đầu hành vượng, khí vượng vật tất thịnh, vượng thịnh khí chậm thoái, tướng là phương hướng khí trường sinh, hành khí cấp mạnh mẽ vô cùng tận. Hưu quá tức tù khí, khí tù là cái khí đã cực vượng, nên khí sinh chậm; cư nơi phương vị thoái khí, đang tiềm ẩn chưa hiển lộ. Vì vậy luận khí tiến thoái là phương pháp luận chính mà học giả cần phải chú tâm vậy.

VD 7 - Viên cử lượng tạo mệnh:

Đinh hợi canh tuất giáp thìn nhâm thân

Đại vận: kỷ dậu mậu thân đinh mùi bính ngọ ất tỵ giáp thìn quý mão nhâm dần

Giáp mộc cực hưu tù, canh kim lộc vượng chắc can giáp mộc, can năm đinh hỏa khả dĩ chế sát hộ thân, tối hiềm thìn tuất hai chi tài sinh sát khắc thân, mệnh cục tựa chừng như sát trọng thân khinh, người thường không biết rằng giáp mộc sinh tháng 3 khí đang tiến, nhâm thủy cùng với thân kim tương sinh nhật chủ, bất thương đinh hỏa. Đinh hỏa tuy nhược nhưng thộng căn tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, mộc thuộc dư khí. Thiên can nhật chủ nhất sinh nhất chế, địa chi gặp trường sinh, tứ trụ sinh hóa hữu tình, ngũ hành bất tranh bất kị. hạn hành đinh hỏa vận khoa giáp liên đăng, dụng thần hỏa chế sát quá tỏ rỏ.

VD 8 - Ất hợi canh thìn giáp tuất nhâm thân

Đại vận: kỷ mão mậu dần đinh sửu bính tý ất hợi giáp tuất quý dậu nhâm thân

Cũng như cách tạo mệnh trên có khác đôi chút nhưng không lớn. Người thường luận”giáp là anh trai của ất, ất lấy canh làm chồng, biến hung thành cát”, tham hợp quên xung, tức canh kim làm cách cục tốt đẹp, văn chương quý hiển, cớ sao mệnh gặp cơ hàn? Do không biết rằng ất canh hợp hóa kim trở lại phù trợ khắc thần. Trên nhật chủ giáp thìn(tức mệnh của họ Viên trên-ND), thìn thuộc thấp thổ có thể sinh mộc, còn mệnh này nhật chủ giáp tuất, tuất thuộc táo thổ không thể sinh giáp mộc; trên thân thìn củng hóa, còn tạo mệnh dưới thân tuất bán hội kim cục sinh sát khắc thân. Trên giáp mộc đang tiến khí, tức canh kim thoái khí, còn dưới canh kim tiến khí, giáp mộc thoái khí. Chọn lấy hai cách tạo mệnh trên , cách cục tự nhiên, cái cơ tiến thoái, không thể không biết vậy.

Lời người dịch:
Ở chương tri mệnh này, thánh nhân muốn nói đến cái dụng của tạo mệnh. Con người sống giửa trời đất, không hiểu mệnh như người lạc lối không phương hướng, hiểu biết và vận dụng được nó không những có thể giúp cho mình sang suốt không lầm lạc mà còn giúp cho mọi người hay cho cả thiên hạ thoát khỏi mông muội vậy. Đồng thời người cũng nhấn mạnh đến cái lý tiến thoái của âm dương ngũ hành, tiến tức sinh vượng, thoái tức hưu tù. Thế cho nên,” Lý thừa hành khởi hữu thường, tiến hề thoái hề nghi ức dương” vậy.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:11, 16/03/11
gửi bởi VULONG
Chương6:Phối Hợp

Phối hợp chi cơ tử tế tường, đinh nhân phúc họa dữ tai tường

Nguyên chú
: Thiên can địa chi tương phối tương hợp, người học mệnh cần phải tế tâm suy tường cái cơ tiến thoái, mà có thể đoán định được họa phúc tai ương vậy.

Nhâm thị viết:
chương này cốt làm sáng tỏ những sai lầm ngụy tạo. Phối hợp can chi, cần sưu tầm nghiệm suy chính lý, cùng vượng suy hỉ kị của ngũ hành, không thể không luận can chi tứ trụ, chuyên lấy kỳ cách dị cục, thần sát các loậi mà vọng đàm, mới biết họa phúc lấy chi làm bằng cớ, cát hung không nghiệm. cái lý của mệnh, tồn đọng ở dụng thần, chẳng nên phân biệt câu nệ tài, quan, ấn thụ, kiêu kiếp, thương thực, mà điều có thể làm dụng thần, cho rằng đẹp thì tốt cát lợi, ác tức xấu, tăng đạo. Nên cần nhất xem xét nhật chủ cường vượng, dụng thần hỉ kị, cần đè nén, ức chế thì đè nén ức chế, cần sinh phù thì sinh phù, do cái sự phối hợp qua lại mà xác định nên bỏ hay nên lấy, từ đó biết được vận đồ bỉ thái, họa phúc tai ương, chẳng không ứng nghiệm vậy.


VD 9 - Càn tạo mệnh:

Giáp tý mậu thìn canh thân nhâm ngọ
Đại vận: kỷ tỵ canh ngọ tân mùi nhâm thân quý dậu giáp tuất ất hợi bính tý

Luận theo thói thường, thiên can thấu tam kỳ thì cát, địa chi quý nhân củng hợp là vinh, vả lại, thân tý thìn tam hợp hội cục không gặp xung, quan tinh đắc dụng, chủ danh lợi song toàn. Tuy nhiên canh kim sinh vào trọng xuân, thủy vốn hưu tù, nguyên có thể lấy quan tinh làm dụng thần, hiềm vì chi hội thủy cục, tất khảm thủy khí thế cường vượng, tức ly hỏa khí thế suy nhược, quan tinh thụ thương, không thể dùng làm dụng thần được. muốn lấy nhâm thủy vượng cực đối địch khắc thần, chỉ hiềm canh kim đắc tam kỳ thấu mậu, kiêu vượng đoạt thực, cũng không thể lấy làm dụng thần. giáp mộc tài tinh vốn có thể phù trợ dụng thần, làm thông thổ bảo vệ thủy, tiết thương sinh quan, tứ trụ dường như hữu tình, mà không biết rằng giáp mộc thoái khí, mậu thổ đưong quyền, không thể thông thổ. Lấy giáp mộc làm dụng thần, cũng là giả dụng thần, chẳng qua cũng chỉ là người bình thường mà thôi. Huống chi đại vận hành phương tây nam, giáp mộc ở đất hưu tù, tuy được của cải tổ nghiệp truyền lại, cũng bằng không, còn hình thê khắc tử, cô khổ bần hàn. Lấy cách tam kỳ củng quý nhân luận mệnh, chẳng xem dụng thần sinh vượng, thật hư ngụy quá lắm.

VD 10 - Càn tạo mệnh:

Bính tý kỷ hợi ất sửu nhâm ngọ
Đại vận: canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ bính ngọ đinh mùi

Thiên can nhâm thủy khắc bính hỏa, địa chi tý thủy xung khắc ngọ hỏa, hàn mộc hỉ dương, chính ngọ hỏa thủy thế vượng thịnh, tất hỏa khí bị khắc tuyệt, tựa hồ danh lợi không thành. Ta suy nghĩ, ba thủy hai thổ hai hỏa, thủy thế tuy vượng, không có nguồn; hỏa vốn hưu tù cần thổ bảo vệ che chở, nhân đó mà dược cứu; huống chi thiên can nhâm thủy sinh ất mộc, bính hỏa sinh kỷ thổ, đều lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình, không có cái ý tương tranh tương khắc. Địa chi tuy cư bắc phương, nhưng hỉ kỷ thổ nguyên thần thấu xuất, thông căn lộc vượng, hổ tương che chở giúp đở, cần nên ngăn thủy bảo vệ hỏa, chính là có bệnh mà được cứu vậy. Với lại khí nhất dương vạn vật bắt đầu sinh sôi, mộc hỏa tiến khí, do đó thương quan dụng thần tú khí. Trung niên vận tẩu đông nam, dụng thần sinh vượng, tuổi trung niên thi đậu. Giao vận dần, hỏa sinh mộc vựơng, đăng khoa giáp bản, nhập cung vua, thanh vân đắc lộ vận trình tiến tới. Từ hai cách tạo mệnh trên cho thấy, phối hợp can chi có lý, có thể xem xét qua loa được ư?

Chương 7: Thiên Can

Ngũ dương giai dương bính vi tối, ngũ âm giai âm quý vi chí

Nguyên chú: Giáp, bính, mậu, canh, nhâm thuộc dương, duy chỉ bính hỏa mang khí thuần dương, dương trong dương; ất, đinh, kỷ, tân, quý thuộc âm, duy chỉ quý thủy mang khí thuần âm, âm trong âm.

Nhâm thị viết: Bính thuộc hỏa khí thuần dương, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà phát triển, thu liễm; quý thuộc thủy khí thuần âm, vạn vật không thứ nào mà chẳng do nó mà sinh ra, tươi tốt. Dương cực thì âm sinh, do vậy bính tân hợp hóa thủy; âm cực thì dương sinh, do vậy mậu quý hợp hóa hỏa. Âm dương tương giao, vạn vật khéo sinh sôi vậy. Đến như khí của mười can, theo tiên thiên mà nói thì khí đó đồng nhất khí (tức là do âm dương nhị khí sinh ra vậy-ND), theo hậu thiên mà luận thì khí đó cũng do hai khí tương hợp nhau mà thành. Giáp ất thuộc mộc, bính đinh thuộc hỏa, mậu kỷ thuộc thổ, canh tân thuộc kim, nhâm quý thuộc thủy cũng do phân biệt thể dụng mà ra, nhưng cũng không ngoài cái khí âm nhu thuận, cái dương khí cương kiện đó. Các mệnh gia nông cạn, làm ra các bài phú tạo mệnh, với cách nghĩ sai lệch, cho rằng giáp mộc làm lương đóng, ất mộc làm hoa quả; bính hỏa thuộc thái dương, đinh hỏa thuộc đèn đuốc; mậu thổ làm thành quách, kỷ thổ tức điền viên; canh kim thuộc sắt cứng, tận kim thuộc châu ngọc; nhâm thủy thuộc sông ngòi, quý thủy thuộc mưa móc. Luận theo đó đã lâu, bền chắc không thể phá được. Ví như giáp dương mộc không gốc rể gọi là tử mộc, ất âm mộc có gốc rể gọi là hoạt mộc, cũng đồng một thứ mộc mà phân ra sinh tử, chẳng là dương mộc chỉ thụ khí tử tuyệt, còn âm mộc chỉ độc thụ khí sinh vượng hay sao? Luận đoán thiên can các loại thiếu sót, bất nhất,xa vời thực tế như thế, làm sai lầm cho người sau vậy.

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Nguyên chú:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.


Nhâm thị viết: Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.

Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.

Nguyên chú: Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.

Nhâm thị viết: Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.

Nguyên chú:Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.

Nhâm thị viết: Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.

Ngũ dương tòng khí bất tòng thế, ngũ âm tòng thế vô tình nghĩa

Nguyên chú:
Ngũ dương do thụ cái khí dương, mà thành thế dương cương, chẳng sợ tài sát; ngũ âm do thụ cái khí âm, mà thành thế âm thuận, thế cho nên mộc thịnh thì tòng mộc, hỏa thịnh thì tòng hỏa, thổ thịnh thì tòng thổ, kim thịnh thì tòng kim, thủy thịnh thì tòng thủy. Do theo tình nghĩa mà nương náu, gặp thế suy yếu thời hung kị, như người con gái theo chồng vậy. Thế cho nên, khi đặng cái khí thuận chính, mà tòng thế bỏ nghĩa, tuy tòng nhưng cũng thuận chính đó.


Nhâm thị viết: Ngũ dương khí tán, có cái tượng sáng sủa hanh thông; ngũ âm khí hợp, bao hàm ẩn dấu khó lường. Khí ngũ dương tính cương kiện, chẳng sợ tài sát nên có lóng trắc ẩn, xử thế không cẩu thả; khí ngũ âm tính nhu thuận, theo lợi quên nghĩa, nên có cái lòng bỉ lận, xử thế nhiều kiêu căng nịnh nọt. Cái khí âm nhu này có thể khắc chế cái khí dương cương, chứ cái khí dương cương đó không thể khắc chế cái khí âm nhu được. Nói chung lệ là: “âm khí là hạng người thấy lợi quên nghĩa; còn dương khí là hạng người hào hiệp khẳng khái”. Như trên trong dương có âm, trong âm có dương, lại có ngoài dương mà trong âm, ngoài âm mà trong dương, theo đó mà luận bàn. Như ngoài thì dương mà bên trong thì âm tức hạng người ngoài thì nhân nghĩa mà lòng thì gian trá, tất có cái họa ần chứa bên trong; còn ngoài thì âm nhu mà trong thì dương cương tức hạng người ngoài thì trông có vẻ gian trá nhưng lòng thì nhân nghĩa bao dung cương trực. Cứ theo đó chẳng lẻ nào mà không biết được nhân phẩm đoan chính hay gian tà sao? Cho nên không thể không biện biệt cho tường tận vậy. Thiết yếu tại khí thế thuận chính, tứ trụ ngũ hành bình hòa, không nên thiên lệch không có chổ nương tựa, không làm lợi mình hại người. Phàm con người muốn giử được cái đạo thiệp thế, xu cát tỵ hung trước hết phải biết người, xưa có câu”nên phân biệt được cái thiện để mà theo”, là như vậy đó.

Giáp mộc sâm thiên, thoát thai yếu hỏa. xuân bất dung kim, thu bất dung thổ. Hỏa sí thừa long, thủy đãng kị hổ. Địa nhuận thiên hòa, thực lập thiên cổ.

Nguyên chú: Giáp vốn là mộc thuần dương, [trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất ư hùng tráng. Hỏa nhiều mộc bị chết cháy, vượng mộc mà đắc hỏa càng phú quý trọn đầy. Sinh vào mùa xuân mộc vượng kim suy mà không thể dung kim được; sinh vào mùa thu mộc suy kim vượng đi trợ kim không thể dung thổ được. Thấy dần ngọ tuất, bính đinh nhiều nhật chủ tọa chi thìn thổ có thể quy về; thấy thân tý thìn, nhâm quý nhiều nhật chủ tọa dần có thể thu nạp. Gía khiến không có thiên can khí thổ, cái thủy khí không nơi nào tiêu đi, tức năng trường sinh vậy.

Nhâm thị viết: Giáp mộc thuộc khí thuần dương, thế vốn kiên cố, [ trên trời thuộc địa phận sao Sâm] khí thế rất hùng tráng. Sinh vào tháng sơ xuân (tháng dần-ND), khí mộc còn non yếu hàn lạnh, đắc hỏa mà phát quý; sinh vào tháng trọng xuân (tháng mão-ND), mộc khí vượng cực, cần nên tiết khí vượng đắc dụng. Sở dĩ mộc vượng đắc hỏa, mà kim trở nên cứng dòn. Kim khí hưu tù khắc mộc sinh vượng, mộc cứng kim bị khuyết, lý lẻ đương nhiên là thế, cho nên mới nói mộc mùa xuân không dung kim được vậy. Sinh vào mùa thu, giáp mộc khí suy, cành khô lá rụng, nguyên khí thu tàng thông suốt, mà khắc chế được thổ khí. Thổ mùa thu sinh kim tiết khí nhiều nên rất bạc nhược. do cái thổ khí hư nhược mà còn bị khí mộc ở dưới công phá, chẳng những không thể tài bồi cho khí mộc suy được, mà còn trở lại che lấp cái mộc khí suy đó nữa, cho nên giáp mộc mùa thu không thể dung thổ vậy. trong trụ dần ngọ tuất đầy đủ, trên can lại thấu bính đinh, chẳng là do mộc tiết khí thái quá, nên mộc bị cháy khô, như nhật chủ tọa thìn, thìn thuộc thủy khố, khí thuộc thấp thổ, mà có khả năng sinh mộc tiết khí hỏa vượng nên mộc được cứu, thế nên hỏa khí thừa long là vậy. thân tý thìn đầy đủ trên can lại thấu nhâm quý, thủy nhiều mộc bị trôi dạt, như nhật chủ tọa dần, địa chi dần tàng chứa can hỏa thổ là đất trường sinh, giáp lộc tại dần, nên có thể dung nạp được thủy dư, mà mộc không còn phù phiếm nữa, thế nên thủy đãng kị hổ là vậy. ví như kim không bén nhọn, thổ không khô cứng, hỏa không mãnh liệt, thủy không cuồng thịnh, thì cái vốn có nghìn năm không thể lâu dài được!

Ất mộc tuy nhu, khuê dương giải ngưu. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu. hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu. Đằng la hệ giáp, khả xuân khả thu.


Nguyên chú: Can ất thuộc mộc, sinh vào mùa thu như đào lý, mùa hạ như lúa mạ, mùa thu như cây đồng cây quế, mùa đông như hoa thơm cỏ lạ. Tọa sửu mùi có thể chế khắc nhu thổ, dể như giết dê mổ trâu, chủ yếu là có can bính đinh, tức tuy sinh vào tháng thân dậu, cũng chẳng lo chi; sinh vào tháng tý mà trên can lại thấu xuất nhâm quý thủy, mặc dù nhật chủ tọa ngọ cũng không có thể phát sinh được. Cho nên biết rằng tọa tháng sửu mùi thật là tốt đẹp vậy. Can giáp cùng chi dần xuất hiện nhiều trong trụ, thuận tòng theo huynh đệ, lấy dây cột vào cây cầu mà làm thí dụ, chẳng sợ bị chặt vậy.

Nhâm thị viết: Can ất thuộc mộc, là chất của giáp, do khí của giáp mà thành. Mùa xuân như đào lý, gặp kim được điêu khắc; mùa hạ như lúa mạ, gặp thủy tức được sinh; mùa thu như cây đồng cây quế, kim vượng được hỏa chế mộc được cứu; mùa đông như hoa thơm cỏ lạ, hỏa thấp thổ bồi. Sinh vào mùa xuân gặp hỏa, tức phát quý vinh; sinh vào mùa hạ gặp thủy, đất được tươi nhuận khô ráo; sinh vào mùa thu gặp hỏa, khiến hỏa chế khắc kim khí mà không khắc mộc; sinh vào mùa đông gặp hỏa, giải bớt khí hàn lạnh. Cát dương giải ngưu, sinh vào tháng sửu mùi (tháng 12, 6-ND), hoặc ngày ất sửu ất mùi, mùi thuộc mộc khố, ất mộc có gốc, sửu thuộc thấp thổ, có thể nuôi dưỡng khí mộc. Hoài đinh bão bính, khóa phượng thừa hầu, như sinh vào tháng thân dậu(tháng 7, 8-ND), hoặc ngày ất dậu, mà trên can thấu xuất bính đinh, có thủy cũng không tương tranh, chế khắc đắc nghi, chẳng sợ kim cứng. Hư thấp chi địa, kị mã diệc ưu, như sinh vào tháng hợi tý(tháng 10, 11-ND), tứ trụ không bính đinh, lại chẳng có chi tuất mùi táo thổ, ngay khiến như chi năm có chi ngọ, cũng không phát sinh được. Thiên can thấu giáp, địa chi tàng dần, gọi là mộc rừng cây tùng cây bách, mùa xuân được trợ giúp, mùa thu được hợp phù, cho nên nói xuân thu không sợ, bốn mùa chẳng kiêng vậy.

Bính hỏa mãnh liệt, khi sương vũ tuyết. năng đoán canh kim, phùng tân phản khiếp. thổ chúng thành từ, thủy xương hiển tiết. hổ mã khiển hương, giáp mộc nhược lai, tất đương phần diệt (nhất bản tác hổ mã khuyển hương, giáp lai thành diệt).


Nguyên chú:
Bính hỏa thuộc khí dương trong suốt, sáng tỏ, có cái khí thế mãnh liệt, không sợ khí sát của mùa thu và chẳng sợ tiết sương giáng, chẳng sợ khí mùa đông và vũ tuyết. Canh kim tuy cứng, nhưng không khắc chế bính hỏa được, tân kim vốn mền yếu, nhưng Bính hỏa hợp mà thành nhu nhược. Thổ là con của bính, nên tứ trụ thấy nhiều mậu kỷ mà trở nên đức từ ái; thủy là vua của vạn vật, gặp nhâm quý vượng mà hiển hiện trung nghĩa tiết tháo vậy. Bính hỏa có tính cháy lớn mãnh liệt bốc lên cao, lại thêm địa chi gặp dần ngọ tuất, mà trên thiên can lộ giáp mộc tức mộc bị đốt cháy vậy.


Nhâm thị viết: Bính thuộc hỏa khí thuần dương, khí thế mãnh liệt, không sợ khí sương giáng vũ tuyết, có công năng trừ hàn sưởi ấm. Có thể khắc chế canh kim, giống như gặp cường bạo mà ra tay trừ diệt, gặp tân kim lại trở nên nhu hòa, bính tân hợp hóa nhu thuận có ý hòa hợp vậy. Thổ nhiều trở nên từ ái, mà không đè xuống dưới; thủy cuồng vượng hiển hiện, mà không vượt lên trên. Dần ngọ tuất là nơi hỏa địa, địa chi trong tứ trụ có dần ngọ tuất tức khí hỏa mãnh liệt, trong trụ còn có giáp mộc tư sinh tức mộc bị hỏa khí vượng thịnh đốt cháy vậy. Theo đó mà luận, để tiết chế bớt khí hỏa thịnh thì cần dụng thổ; để ngăn cản khí hỏa mãnh liệt thì cần dụng thủy; để làm cho khí hỏa nhu thuận thì cần dụng tân kim hợp hóa. Kỷ thổ khí thế ti thấp, có thể thu nguyên khí tư sinh của bính hỏa; mậu thổ khí thế khô táo, gặp bính hỏa mà trở nên khô cứng nứt nẻ vậy. Nhâm thủy có cái đức trung chính cương kiện, có thể chế khắc hỏa mãnh liệt; quý thủy âm nhu, gặp bính hỏa mãnh liệt mà bị cạn kiệt. Tân kim thể tính nhu nhuyễn, hợp hóa bính hỏa tương thân hóa thành thủy mà thành việc; canh kim cương cứng, cương gặp cương đều không thể toàn vẹn. Thế nên tuy đơn cứ mà luận mọi thế sự nhân tình, há chẳng phải là như vậy hay sao!

Đinh hỏa nhu trung, nội tính chiêu dung. Bảo ất nhi hiếu, hợp nhâm nhi trung. Vựơng nhi bất liệt, suy nhi bất cùng, như hữu đích mẫu, khả thu khả đông.


Nguyên chú:
Đinh thuộc can âm, hỏa tính tuy âm nhu nhưng được khí trung chính. Bên ngoài tuy nhu thuận nhưng bên trong rất sáng đẹp, cái tính bên trong há chẳng sáng rỏ hay sao? ất mộc không sinh được đinh hỏa, ất mộc tối úy tân kim nhờ có đinh hỏa khắc chế tân kim mà cứu ất, không giống như bính hỏa khắc chế canh kim bảo vệ giáp mộc mà còn trở lại đốt cháy mộc, cũng như ất mộc bảo vệ đinh hỏa mà trở ngược lại làm cho đinh hỏa mờ ám tối tăm, đó chẳng phải là trái với đạo hiếu thường sao. Nhâm là vua của đinh, nhâm thủy rất sợ mậu thổ mà đi hợp với đinh, cái đinh hỏa này bề ngoài có vẻ như sinh trợ mậu thổ, nhưng bên trong ngầm hợp với nhâm thủy hóa mộc khắc chế thổ, khiến cho thổ không thể khắc thủy được, điều đó chẳng là trái với cái đạo trung quân sao. Sinh vào mùa thu mùa đông, thiên can trong tứ trụ có một giáp mộc, tức hỏa có nguồn nên sáng đẹp vô cùng không lo sợ phải bị tắt ngấm, cho nên mới nói khả thu khả đông. Đó là cái đạo nhu vậy.


Nhâm thị viết: Đinh chẳng phải là đèn đuốc, so với bính đinh hỏa thuộc khí nhu thuận trung chính vậy. Bên trong sáng đẹp, có cái tượng văn minh. Khắc chế tân kim bảo vệ ất mộc, tân kim không thể khắc ất mộc do đó mà ất mộc được cứu; hợp nhâm thủy hóa mộc bảo vệ thủy, mậu thổ không thể khắc được nhâm thủy cho nên nhâm thủy được cứu. Do tính nhu thuận trung chính, mà không đi đến thái quá hay bất cập, tuy thời khí đang thừa vượng cũng không cháy rực; gặp lúc thất thời khí suy cũng không tận diệt. Thiên can trong tứ trụ thấu giáp ất mộc, sinh mùa thu chẳng sợ kim cường, địa chi trong tứ trụ tang chứa dần mão mộc, sinh vào mùa đông giá rét không sợ thủy vượng.

Mậu thổ cố trọng, ký trung thả chính.Tĩnh hấp đông tích, vạn vật ty mệnh. Thủy nhuận vật sinh, hỏa táo vật bệnh. Nhược tại cấn khôn, phạ trùng nghi tĩnh.


Nguyên chú:
Mậu thổ chẳng là tường vách, so với kỷ thổ mậu thổ có tính chất khô cứng cao hậu, cùng kỷ thổ là nơi phát nguyên đại địa, nên đắc được cái khí trung chính to lớn vậy. Mùa xuân mùa hạ thì khí phát tích mà sinh vạn vật, mùa thu mùa đông thì khí thu vào mà thành vạn vật, do vậy mà làm chủ vạn vật. Mậu thổ có tính khí thuộc dương, nên ưa thích nhuận trạch không thích khô táo, tọa dần sợ thân xung, tọa thân sợ dần xung. Nếu bị xung tức căn gốc bị động, chẳng là mất đi cái khí trung chính cho nên cần tĩnh không nên động vậy.


Nhâm thị viết: Mậu thuộc dương thổ, khí thế cố trọng, cư nơi trung chính. Mùa xuân mùa hạ khí động nên phát ra, tức khí phát sinh, mùa thu mùa đông khí tĩnh nên thu vào, tức khí thu tàng, do vậy mà làm chủ vạn vật. Có cái khí cao hậu, nên sinh vào mùa xuân mùa hạ hỏa khí thời vượng cần có thủy làm nhuận thổ, tắc vạn vật sinh sôi, khô táo tắc vạn vật chết khô; sinh vào mùa thu mùa đông, thủy nhiều cần hỏa sưởi ấm, tắc vạn vật hóa thành, thấp tắc vạn vật thụ bệnh. Sinh vào tháng dần nguyệt tọa cung cấn sinh vào tháng thân nguyệt tọa cung khôn. Thổ mùa xuân bị mộc khắc khí chất hư nhược cần nên tĩnh; thổ mùa thu bị tiết khí nhiều quá thể chất bạc nhược không nên gặp xung. Tứ trụ, nhật chủ tọa dần thân ưa thích yên tĩnh tối kỵ gặp xung. Như sinh vào bốn tháng tứ quý (thìn, tuất, sửu, mùi), tối hỷ nhật chủ canh thân tân dậu khí kim, tú khí lưu hành bất tận tắc đoán định quý cách, kỷ thổ cũng đồng như thế. Bằng như tứ trụ gặp mộc hỏa, hay vận hành hỏa mộc tắc phá cách vậy.

Kỷ thổ ty thấp, trung chính súc tàng. Bất sấu mộc thịnh, bất úy thủy cuồng. hỏa thiểu hỏa hối, kim đa kim quang. Nhược yếu vật vượng, nghi trợ nghi bang.


Nguyên chú: Kỷ thổ khí chất ẩm thấp mỏng manh, cùng mậu thổ là chổ phát nguyên đại địa, cũng có tính trung chính mà có khả năng nuôi dưỡng vạn vật. Nhu thổ có khả năng sinh mộc, chứ mộc không thể khắc được nhu thổ, do đó mà không lo mộc vượng; thổ sâu có thể chứa thủy, thủy không thể nhiều đồng đãng, do vậy mà không sợ thủy cuồng. Hỏa yếu không gốc chẳng những không thể sinh thấp thổ, mà ngược lại còn bị thổ làm cho mất sáng; thấp thổ có thể làm tươi nhuận khí kim, cho nên kim nhiều kim sáng, mà trở nên trong suốt ưa nhìn. Đó là vô vi lấy hữu vi làm diệu dụng vậy. Nhược bằng vạn vật sung thịnh cường vượng, chỉ có thổ thế thâm sâu, được hỏa khí sưởi ấm tắc bốn phương thuận hòa vậy.

Nhâm thị viết: Kỷ thổ thuộc đất ẩm ướt, khí thế trung chính tàng chứa, khí quán tám phương mà vượng bốn mùa, có cái công tư sinh diệu dụng không ngừng nghĩ vậy. Chẳng lo mộc thịnh, có tính nhu thuận cho nên tài bồi dưỡng mộc mà không bị mộc khắc. Chẳng sợ thủy cuồng, có tính chất ngưng đọng cho nên thủy có thể được dung nạp mà không xung khắc vậy. Thủy ít hỏa tối, đinh hỏa chẳng sinh âm thổ mà còn bị thấp thổ làm cho che lấp mất sáng. Kim nhiều kim sáng, thấp thổ có thể sinh kim, làm nhuận kim. Trong trụ thổ nhiều tức thổ dầy, lại còn được bính hỏa xua đẩy khí ẩm ướt, đủ để tư sinh vạn vật. Cho nên nói nghi trợ nghi bang là như thế.

Canh kim Đới sát, cương kiện vi tối. đắc thủy nhi thanh, đắc hỏa nhi duệ. Thổ thuận tắc sinh, thổ can tắc thúy. Năng doanh giáp huynh, thâu vu ất muội.


Nguyên chú:
Canh kim trên trời là thái bạch kim tinh, tính cương kiện lại hay sát, kim vượng gặp thủy, tắc kim bạch thủy thanh dòng chảy không ngừng; kim cứng gặp hỏa, tắc khí tinh thuần mà sắc bén. Có thổ có thủy có thể tương sinh liên tục; có thổ có hỏa làm cho kim trở nên giòn yếu. Giáp mộc tuy cứng, nhưng có đủ sức khắc phạt; ất mộc tuy nhu nhưng hợp canh, canh kim trở nên nhu nhược.


Nhâm thị viết: Canh kim thuộc khí túc sát mùa thu, tính rất cương kiện. thủy được kim thì xanh trong, nhâm thủy có thể dẫn xuất canh kim sinh xuất thủy tinh anh. Canh kim được hỏa thì trở nên sắc bén, đinh hỏa khí âm nhu, không cùng với canh kim thù địch, mà còn đi trợ kim biến thành lò luyện nung nấu kiếm kích bén nhọn. sinh vào mùa xuân mùa hạ khí thế còn non yếu, gặp được chi sửu thìn thấp thổ tức được sinh, gặp chi mùi tuất táo thổ bị giòn yếu. canh kim đích thị là cừu địch của giáp mộc, có thể khắc phạt giáp mộc; cùng với ất mộc tương hợp mà trở nên hữu tình. Ất mộc không cùng canh hợp hóa đi trợ bạo, canh kim cũng chẳng phải cùng ất hợp hóa thành nhu nhược, cần nên tỏ tường biện bạch cho rỏ ràng vậy.

Tân kim nhuyễn nhược, ôn nhuận nhi thanh. úy thổ chi diệp, nhạc thủy chi doanh. Năng phù xã tắc, năng cứu sinh linh. Nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh.

Nguyên chú:
Tân thuộc âm kim, chẳng phải là châu ngọc. Đại phàm vật nhu nhuyễn thanh nhuận điều thuộc tân kim. Mậu kỷ thổ nhiều có thể bị chôn lấp, cho nên cũng không hay; nhâm quý thủy nhiều thì đẹp đẻ, cho nên mừng gặp. Tân kim lấy bính hỏa làm thần, hợp bính hỏa hóa thủy, khiến bính hỏa đi thần phục nhâm thủy mà phò trợ xã tắc; tân kim lấy bính hỏa làm vua, hợp bính hỏa hóa thành thủy sinh giáp, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc mà cứu giúp sinh linh. Sinh vào cuối hạ còn gặp thổ tức có thể làm cho hỏa yếu tối mà bảo tồn tân kim; sinh vào cuối đông còn gặp đinh hỏa tức đinh hỏa có thể xua hàn sưởi ấm tân kim. Cho nên tân kim sinh vào tháng mùa đông gặp bính hỏa tắc nam mệnh không hiển quý, dù có hiển quý cũng không bền; nữ mệnh khắc phu, không thì cũng bất hòa. Gặp đinh hỏa nam nữ mệnh thải điều quý hiển vậy.


Nhâm thị viết: Tân thuộc khí kim ở chốn nhân gian, cho nên thanh nhuận dễ nhìn. Sợ thổ nhiều, thổ trọng mà thủy cạn kiệt kim bị chôn lấp; thủy đẹp đủ đầy, nhâm thủy có dư thừa mà có thể nhuận thổ dưỡng kim. Tân kim lấy giáp làm vua, bính hỏa có thể đốt cháy giáp mộc, may nhờ tân hợp bính hóa thủy khắc hỏa, khiến cho bính hỏa không thể đốt cháy giáp mộc, trở nên tương sinh; tân lấy bính làm thần, bính hỏa có thể sinh mậu thổ, tân hợp bính hóa thủy, khiến cho không thể sinh mậu thổ, trở nên tương trợ. Há không phải phò trợ xã tắc cứu sinh linh sao? Sinh vào mùa hạ mà gặp nhiều hỏa, tứ trụ có kỷ thổ tức hỏa yếu tối kỷ thổ có thể sinh kim; sinh vào mùa đông gặp lúc thủy vượng, gặp hỏa tức hỏa làm ấm thủy mà dưỡng kim. Vì vậy mà nói nhiệt tắc hỷ mẫu, hàn tắc hỷ đinh là như thế.

Nhâm thủy thông hà, năng tiết kim khí, cương trung chi đức, chu lưu bất trệ. Thông căn thấu quý, xung thiên bôn địa. hóa tắc hữu tình, tòng tắc tương tể.


Nguyên chú:
Nhâm thủy tức là phát nguyên của quý thủy, là nước song côn lôn; quý thủy tức là nới quy về của nhâm thủy, là nước biển đông. Có phân có hợp, lưu chảy không ngừng, cho nên gọi là nước của trăm song, cũng là nước mưa móc thật khó mà phân biệt. Thân thuộc thiên quan, là nơi cửa sông thiên hà, vị trường sinh của nhâm thủy, có thể tiết chế khí kim túc sát tây phương. Có tính lưu chuyển chuyển động không ngừng, có đức tính cương trung tư nhiên vậy. Như trong tứ trụ có đủ thân tý thìn mà trên can còn thấu quý thủy, tức khí thế xung động mạnh, không thể ngăn cản nổi. Giống như nước biển đông vốn phát khởi ở thiên hà, trở thành họa thủy, trong tứ trụ bằng như gặp phải mà trong mệnh không có tài quan, tất gách lấy tai họa vậy thai! Nhâm hợp đinh hóa mộc mà sinh hỏa, có thể nói là hữu tình; nhâm thủy có thể chế bính hỏa chẳng khiến


Nhâm thị viết: Nhâm thuộc dương thủy. Là nước sông dài tức thiên hà, trường sinh tại thân, thân tức là cửa sông thiên hà, vị trí tại cung khôn, có thể tiết khí tây phương kim túc sát, cho nên gọi là cương trung chi đức vậy. Là nguồn phát nguyên của trăm sông, lưu chuyển không ngừng, di chuyển tiến tới không thoái lui. Như trong trụ tam hợp thân tý thìn đầy đủ, như lại còn thấu quý thủy, tất khí thế phiếm lạm, dù có mậu kỷ thổ cũng không có thể ngăn nổi dòng chảy, giống như lấy cương chế cương phản thành xung kích mà thành họa thủy, tất cần dụng mộc tiết chế bớt khí thế nhâm thủy, thuận theo khí thế chẳng nên xung động. Nhâm hợp đinh hóa mộc có thể sinh hỏa, diệu dụng vô cùng hợp hóa thật hữu tình. Sinh vào các tháng tư năm sáu, trong trụ hỏa thổ thịnh vượng, chẳng hề có kim thủy tương trợ. Hỏa vượng thấu can tắc tòng hỏa, thổ vượng thấu can tắc tòng thổ, điều hòa nhuận trạch, nhân đó mà có cái công tương trợ vậy.

Quý thủy chí nhược, đạt vu thiên tân. Đắc long nhi vận, công hóa tư thần. Bất sầu hỏa thổ, bất luận canh tân. Hợp mậu kiến hỏa, hóa tượng tư chân.

Nguyên chú:
Quý thủy thuộc khí thuần âm mà khí thế cực nhược, nên gọi là nước biển phù tang. Thông đến bến trời, tùy theo thời hành vận, gặp long mà hóa vân vũ, có công năng làm nhuận trạch muôn loài, làm cho vạn vật sinh sôi nảy nở. Phàm trong trụ có giáp ất dần mão mộc, lại còn gặp thủy vận, thủy vừa chế hỏa vừa sinh mộc lại nhuận thổ dưỡng kim, cho là quý cách, dù cho có hỏa thổ nhiều cũng không lo sợ. Đến như canh kim, chẳng sinh được quý thủy nhưng cũng không sợ kim nhiều. Duy quý thủy hợp mậu thổ hóa hỏa, mậu trường sinh tại dần, quý trường sinh tại mão, đều thuộc mộc phương đông, cho nên nói mậu quý hợp hóa hỏa vậy. Có thuyết nói: “Nhiều người không biết rằng đất phương đông nam bốn bề khuyết hãm, mậu thổ vị ở cực cao, tức quý thủy vị ở cực thấp, là nơi vầng dương bắt đấu ló dạng, cho nên mậu quý hợp hóa hỏa vậy”. Phàm mậu quý gặp bính đinh thấu can, chẳng cần luận vượng suy, sinh vào mùa thu mùa đông đều luận hóa hỏa, thật là chân lý luận vậy.


Nhâm thị viết: Quý thủy thuộc mưa mốc, là thủy thuần âm. Phát nguyên tuy trường nhưng tính lại nhược, khí thế cực tĩnh lặng, có thể nhuận thổ dưỡng kim, sinh sôi và phát triển vạn vật, gặp long vận biến hóa khó lường. Sở dĩ gặp long mà hóa là do long là thìn, chẳng phải chân long (tức thìn) thì không thể hóa. Gặp thìn thì hóa, hóa thần là nguyên thần phát lộ, phàm thập can gặp chi thìn, tức can thấu thần, cái luận lý ấy bất di bất dịch vậy. Bất sầu hỏa thổ, quý thủy khí thế cực nhược, gặp hỏa thổ nhiều tức tòng hóa; bất luận canh kim, quý thủy không thể tiết khí được canh kim, thế cho nên kim nhiều thủy trở nên đục. Quý thủy hợp mậu hóa hỏa, âm cực tức dương sinh, mậu thổ khí khô dày, trong trụ trên can thấu lộ bính hỏa thấu lộ, dẫn xuất hóa thần, đều là lý luận chân chính vậy. Sinh vào mùa thu mùa đông kim thủy vượng địa, trong tứ trụ địa chi có chi thìn thổ, thiên can thấu bính đinh cũng không thể hóa được, cho nên cần phải tế phân cho tường tận vậy.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:17, 16/03/11
gửi bởi VULONG
Chương 8. Địa Chi

Dương chi động thả cường, tốc đạt hiển tai tường; âm chi tĩnh thả chuyên, phủ thái mỗi kinh niên.


Nguyên chú:
Địa chi tý, dần, thìn, ngọ, thân
, tuất thuộc dương tính động, khí thế cương mãnh lại phát cực nhanh, họa phúc hiển hiện rỏ ràng; địa chi sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm tính tĩnh, khí chất chuyên nhất lại phát chậm, việc bỉ thái hiển hiện không rỏ ràng, thường trong năm sau mỗi chí mới thấy hiển hiện.

Nhâm thị viết: Địa chi từ tý đến tỵ thuộc dương, từ ngọ đến hợi thuộc âm, do luận theo đông chí khí dương sinh, hạ chí khí âm sinh; địa chi từ dần đến mùi thuộc dương, thân đến sửu thuộc âm, do phép phân chia theo mộc hỏa thuộc dương, kim thủy thuộc âm vậy. Các mệnh gia lấy tý, dần, thìn, ngọ, thân, tuất thuộc dương, sửu, mão, tỵ, mùi, dậu, hợi thuộc âm. Như tý tàng quý, ngọ tàng đinh, như thế thể dương lấy âm làm dụng; tỵ tàng bính, hợi tàng nhâm, như thế âm lấy dương làm dụng. Việc phân biệt thủ dụng cũng giống như cái lý cương kiện nhu thuận cùng với thiên can thật không khác, các việc sinh khắc chế hóa, sự lý thật đa đoan, điều quan trọng là địa chi sở tàng hoặc hai can, hoặc ba can đó vậy. Tất nhiên lấy trong các can tàng đó lấy can bản khí làm chính, địa chi dần tất trước tiên lấy giáp sau đó mới tới bính, địa chi thân tất trước tiên lấy can canh sau đó mới tới nhâm, dư các địa chi tàng can điều luận như thế cả. Địa chi thuộc dương tính động mà cứng mạnh, cát hung hiển hiện rỏ ràng nhanh chóng; địa chi thuộc âm tính tĩnh mà mền yếu, họa phúc hiển hiện không rỏ ràng chậm chạp. Trong mệnh cục hay tại vận trình, cần sự quân bình ý cầu tiêu tức vậy.

Sinh phương phạ động nghi khai, bại địa phùng xung tử tế suy.

Nguyên chú: Địa chi dần, thân, tỵ, hợi thuộc phương trường sinh, kỵ xung động; thìn, tuất, sửu, mùi thuộc phương mộ địa, cần nên xung khai. Tý, ngọ, mão, dậu thuộc phương tứ bại, gặp hợp tối hỷ nên xung, cho nên phương trường sinh không thể gặp xung; nếu bị xung cần gặp hợp phù, cũng như thế phương mộ địa thì không thể không gặp xung [vì mộ không xung không phát]. Cần nên biện bạch cho rỏ ràng.

Nhâm thị viết: Thuyết xưa nói: kim thủy có thể xung khắc mộc hỏa, mộc hỏa không có thể xung khắc kim thủy, ấy là có thể luận theo thiên can như thế thì được, chứ còn luận theo địa chi thì không thể được. Bởi vì cái địa chi trong mang nhiều hành khí sở tàng không đơn nhất như thiên can. Cần nên xem xét đến cả cái thừa khí đương quyền đắc dụng, như vậy mộc hỏa cũng không thể xung khắc kim thủy được hay sao? Còn như phương trường sinh gặp xung động, tức lưỡng bại câu thương. Ví như dần thân gặp xung, trong thân tàng chứa canh kim, khắc giáp mộc trong dần, trong địa chi dần tàng chứa bính hỏa, vị thường chẳng khắc canh kim trong thân; nhâm thủy tàng trong thân, khắc bính hỏa trong chi dần, mậu thổ trong dần vị thường chẳng khắc nhâm thủy trong thân. Cho nên gặp xung khắc thì không thể yên tĩnh được. Địa chi tứ khố thì cần nên xung khai, tuy nhiên cũng có khi cần nên xung khai cũng có lúc thì không nên gặp xung, rỏ là do tạp khí tàng chứa trong nó cả. Tứ bại địa gặp xung cần nên suy tường cẩn trọng, địa chi tý, ngọ, mão, dậu tàng chứa duy chỉ có nhất khí, cho nên dụng kim thủy có thể bị xung, dụng mộc hỏa không thể bị xung. Tuy nhiên cũng cần nên linh hoạt mà luận đoán, không nên cứng nhất. Thảng như sinh vào mùa xuân mùa hạ lấy kim thủy làm dụng thần, tức kim thủy thuộc khí hưu tù tử tuyệt, mộc hỏa khí thế vượng tướng, kim thủy không thể thươg khắc ngược trở lại hay sao? Cần nên tham cứu cho tường tận.

VD 11 -
Giáp dần nhâm thân quý tỵ quý hợi
Đại vận: quý dậu giáp tuất kỷ hợi bính tý đinh sửu mậu dần kỷ mão canh thìn


Quý thủy sinh vào mùa thu kim đương lịnh, nên kim thủy thông nguyên, thủy nhiều mà vượng, mộc gặp xung không thể dùng làm dụng thần. Hỏa tuy hưu tù nhưng đứng cạnh nhật nguyên, huống hồ mới bắt đầu vào thu hỏa khí còn đầy đủ, dụng thần tất là tại tỵ hỏa. Tỵ hợi phùng xung, quần kiếp phân tranh, cho nên ba lần khắc vợ không con. Lại còn hành vận liên tục bắc phương tý hợi thủy khắc thần vượng địa, nhân đó mà phá hoại hao tán khác thường; đến đại vận mậu dần kỷ mão vận chuyển đông phương, hỷ dụng thần hợp đắc cách tứ trụ trở nên ấm áp; canh vận chế thương quan sinh kiếp tài, lại còn gặp lưu niên dậu, hỷ dụng thần bị thương khắc liên tiếp nên thất lộc.


VD 12 -
Quý tỵ quý hợi giáp dần nhâm thân
Đại vận: Nhâm tuất tân dậu canh thân kỷ mùi mậu ngọ đinh tỵ

Nhật nguyên giáp dần mộc sinh vào mùa đông, hàn tất cần lấy hỏa làm dụng thần. Tứ trụ lại còn gặp hai can quý thủy thương khắc dụng thần, không có ngũ hành thổ chế thủy dưỡng mộc, tứ trụ tựa như không được đẹp, cái hay ở đây là địa chi dần hợi hợp hóa mộc, tị hỏa tuyệt xứ phùng sinh, ấy là động cơ làm hưng phát tứ trụ vậy. Tuy nhiên hành đại vận ban đầu tây phương kim vượng thương khắc dụng thần phù trợ khắc thần, là bại vận nên cuộc sống thấp hèn phong sương ngày đây mai đó; nhân tuổi ngoài 40 vận chuyển nam phương hỏa thổ vận vượng, phù trợ dùng thần, ấn tinh gặp tài phát tài hơn vạn, cưới vợ sinh con liên tiếp 4 đứa. Do đó mà thấy rằng:”ấn thụ tác dụng, phùng tài vi họa không ít, không như tựu tài tinh, phát phúc thật lớn”.


VD 13 -
Tân mão đinh dậu mậu tý mậu ngọ
Đại vận: Bính thân ất mùi giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão.

Thương quan dụng ấn cách, tất lấy quan tinh làm dụng thần, không như tục luận thổ kim thương quan kỵ quan tinh. Địa chi mão dậu gặp xung, tức ấn thụ là thần vô sinh trợ; địa chi tý ngọ gặp xung khiến thương quan được tứ sinh. Địa chi kim vượng sinh thủy, mộc hỏa xung khắc mà hết lực, thiên can hỏa thổ hư khí còn bị thoát khí, nhân thế mà đọc sách chưa toại chí, kinh doanh bình thường. Tuy nhiên mừng khắc thần thủy không thấu ra, nên là văn nhân văn chương phong lưu, tinh tường thư pháp. Canh kim trung vận thiên can kim thủy, dù có chí nhưng không thành thân. Phàm thương quan bội ấn hỷ dụng thần tại mộc hỏa, tối kỵ xuất hiện kim thủy vậy.


VD 14 - Tân mùi tân sửu mậu thìn nhâm tuất
Đại vận: Canh tý kỷ hợi mậu tuất đinh dậu bính thân ất mùi.

Tứ trụ địa chi toàn tứ khố, mừng lấy tân kim tiết khí thồ mà làm cho thổ trở nên tú khí, địa chi nguyên thần sửu thổ trong trụ tinh anh, với lại cái hay là mộc hỏa phục mà không thấu xuất, thuần thanh mà không hổn tạp. đến đại vận dậu, tân kim đắc địa, đậu hương bảng; nhân vận hành nam phương mộc hỏa tịnh vựơng, dụng thần tân kim thụ thương, mặc dù được tiến cử nhưng không được tuyển dụng.


VD 15 -
Mậu thìn nhâm tuất tân mùi kỷ sửu
Đại vận: Quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão mậu thìn.

Tứ trụ toàn cục ấn thụ, thổ nhiều kim bị chôn lấp, nhâm thủy dụng thần bị thổ vượng khắc hết, nếu như địa chi mùi tàng can ất mộc không bị xung phá có thể lấy làm dụng thần, mà chờ vận đến mà dẫn xuất phò trợ nhật nguyên, tuy nhiên địa chi mùi bị sửu tuất xung phá, tuy tứ khố tất cần nên xung khai, nhưng chớ chấp nhất theo đó mà luận, mà còn cần nên xem xét cái được mất của thiên can nữa, dụng thần hữu lực, tuế vận phò trợ, kế đến là tứ trụ không được thiên khô vậy.


Chi thần chích dĩ xung vi trọng, hình dữ xuyên hề động bất động


Nguyên chú: Xung tức tương khắc, cùng tứ khố huynh đệ gặp xung, do đó mà động; đến như tương hình tương hại, là do có tương sinh tương hợp mà tồn tại, vì vậy mà nói xung động và xung bất động có cái lý lẽ khác nhau.

Nhâm thị viết: Địa chi bị xung khắc là do thiên can tàng chứa trong chi xung khắc, tuy vậy cũng cần nên biết rỏ cường nhược hỷ kỵ mà luận cho tường. Đến như tứ khố bị xung cũng có cái nên và cái không nên, như tháng 3 thuộc thìn, ất mộc đương lệnh, gặp tuất xung tức tuất tàng chứa tân kim mà có thể xung khắc ất mộc vậy; như tháng 6 thuộc mùi, đinh hỏa đương lệnh, gặp sửu xung tức sửu tàng chứa quý thủy mà có thể thương khắc đinh hỏa. Cứ như tam nguyệt chứa ất, lục nguyệt chứa đinh tuy thuộc thối khí, bằng như đắc lệnh có thể trọn lấy làm dụng thần, bị xung tức thụ thương không thể lấy làm dụng thần được. Người sau làm ra ngụy thuyết cho rằng mộ khố phùng xung tức phát. Ý cho rằng mộ tức là phần mộ; khố thuộc tứ khố là nơi quy về của kim mộc thủy hỏa, thí như đắc khí cao vượng gặp xung khai mộ khố tất phát phúc lớn. Như thiên can thuộc hành mộc hỏa kim thủy, địa chi không có dần, mão, tỵ, ngọ, thân, dậu, hợi, tý lộc vượng, mà tứ trụ toàn địa chi thìn tuất sửu mùi gốc thuộc tứ khố nên thông căn, gặp xung tất gốc bị đánh bật, thế cho nên không khi nào có chuyện gặp xung động mà cường vượng được. Bằng như không dùng làm dụng thần, mà đi lấy hành thổ làm hỷ thần gặp xung động thìn hữu ích không có tổn hại, cái thổ xung động là nguyên thần đi sinh trợ dụng thần vậy. Cái nghĩa của việc tương hình thật không lấy chi làm nhất định, như hợi hình hợi, thìn hình thìn, dậu hình dậu, ngọ hình ngọ, gọi là tự hình, vốn là địa chi gặp địa chi, cùng đồng khí cớ sao lại tương hình? Tý hình mão mão hình tý, vốn là tương sinh, dần thân tương hình tất gặp xung sao còn lại đi tương hình? Tuất hình mùi, mùi hình sửu đều ngũ hành thuộc thổ khí thì không thể nào tương hình được. Dần hình tỵ cũng là tương sinh, dần thân tương hình, tất gặp xung hà tất lại còn tương hình hay sao? Lại còn nói tý mão nhất hình, dần tỵ thân nhị hình, sửu tuất mùi tam hình, gọi là tam hình, lại còn có tự hình, đều là ngụy luận hẵng nên vứt bỏ. Xuyên tức là hại, lục hại là do lục hợp mà có, tức xung thần hợp với ta, gọi là lục hại, như tý hợp sửu mà gặp mùi xung, sửu hợp tý mà gặp ngọ xung. Cho nên nói tý mùi tương hại, chẳng không tương khắc, sửu ngọ dần hợi tương hại, đều là tương sinh, cớ sao lại tương hại? vả lại tương hình, tương hại vốn đã không lấy chi đủ làm bằng chứng, thật lầm lỗi lớn, đến như tương phá cũng như thế cả, không tương hại tức tương hình, lỗi lầm do không thuộc ở kinh, nên tước bỏ vậy.

VD 16 - Bính tý tân mão nhâm tý quý mão

Nhâm thìn quý tỵ giáp ngọ ất mùi bính thân đinh dậu.

Nhật nguyên nhâm tý, địa chi phùng lưỡng nhận, thiên can thấu xuất quý thủy tân kim, ngũ hành không có thổ, niên can bính hỏa lâm tuyệt địa, bính hợp tân hóa thủy, tối hỷ trụ tháng địa chi mão vượng, tiết cái khí nhật nguyên nhâm thủy, có thể hóa tỷ kiên dương nhận sinh vượng. Tú khì lưu hành, là người cung kính thủ lể, tính tình hòa ái mà trung nghĩa tiết tháo. Đến đại vận giáp mộc nguyên thần phát lộ, liên tiếp trúng cao khoa; ngọ vận đắc mão mộc tiết khí thủy sinh hỏa, cùng ất mùi bính bính vận, quan đến quận thú, đường sĩ hoạn thuận lợi. Theo lối tục luận, tý mão thuộc hình phạt vô lể, với lại thương quan và dương nhận gặp hình tất tính tình ngạo mạn vô lể, hung ác không nói hết.

VD 17 -
Tân mùi ất mùi canh thìn đinh hợi
Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

Nhật nguyên canh thìn, sinh vào tháng quý hạ, kim đang tiến khí thổ đương quyền, hỷ kỳ đinh hỏa ty lệnh, nguyên thần phát lộ mà làm dụng thần, có thể khắc chế tân kim tỷ kiếp trợ thân. Địa chi mùi tàng đinh hỏa thuộc dư khí, thìn tàng chứa mộc dư khí, tài quan thong căn mà có khí, cái hay là hợi thủy nhuận thổ dưỡng kim mà sinh mộc, tứ trụ đầy đủ không khuyết hãm. Vận đến đông nam, kim thủy hư nhược mộc hỏa thực vượng, nhất sinh không gặp hung gặp hiểm. Đại vận thìn lưu niên ngọ, tài ấn đều được sinh phù, trung niên đăng khoa bảng, quan thăng đến tư mã. Thọ đến đại vận sửu.


Nhận xét của tác giả:
Như nghiệm xét, cái kiền tạo trên xuất sinh thời thần khớp với năm tân mùi tiết tiểu thử, người xưa luận mệnh, phàm tứ trụ người sinh gặp lúc giao tiết, đại vận lấy 10 năm, tự ngàn xưa lịch thư lấy giờ khắc giao tiết có sai sót thiếu chuẩn xác, không có phương pháp nào xác định rỏ ràng sinh trước hoặc sau giao tiết. Thiên vân lịch pháp ngày nay phân chia thời khắc giao tiết sau trước thật chính xác rỏ ràng, vì thế mà biết được hành vận sớm muộn, phép tắc ngày nay so với phép người xưa có nhiều bất đồng. Như tạo mệnh trên, nếu luận sau tiết tiểu thử thì một tuổi đã bắt đầu hành đại vận, tức năm bính ngọ là năm 36 tuổi ứng vào đại vận mão. Thọ đến sửu vận, tức theo phương pháp xưa thì sau 66 tuổi, nhưng theo phương pháp ngày nay thì sửu vận thì chỉ gần sau 56 tuổi, tức không thể nói là thọ được. Còn sau năm 66 tuổi phải là đại vận tý thủy, địa chi tý thìn hợp thành thủy cục hóa thương quan, mới chung cuộc. Tuy như vậy, mệnh học lý rất tinh vi, nên phương pháp xưa cũng không nên coi thường mà nên tham tầm nghiên cứu cho tường tận chân cơ diệu lý vậy.
“Đoạn văn này cháu thấy có nhiều điểm khó hiểu. Mong rằng các bác các chú trên diễn đàn có thời gian sưu tầm nghiên cứu làm sang tỏ vấn đề. Cháu chỉ dịch theo ý mà thôi”.

VD 18 -
Tân sửu ất mùi canh thìn đinh sửu
Giáp ngọ quý tỵ nhâm thìn tân mão canh dần kỷ sửu.

So với tứ trụ trên đại đồng mà tiểu dị, tài quan cũng thong căn hữu khí, trên tức đinh hỏa tư lệnh đương quyền, còn tứ trụ dưới tức kỷ thổ đắc lệnh. Chỉ hiềm trụ giờ sửu thổ, đinh hỏa tức diệt, tất niên can tân kim gặp nhiều kim nên rất cường vượng, xung khử địa chi mùi thổ tàng thiên can mộc hỏa, tài quan tuy hư nhược. Sơ vận giáp ngọ, mộc hỏa tịnh vượng, ấm tí có thừa; nhất giao quý tỵ khắc thiên can đinh hỏa mà củng phò địa chi sửu thổ, thương quan tỷ kiếp tịnh vượng, hình thương hoa tán; nhâm thìn vận, thê tử cả hai đều bị thương tổn, gia nghiệp tiêu tán, xuống tóc mà làm tăng đạo. Theo tục thư mà luận, địa chi sửu mùi xung khai tài quan lưỡng khố, danh lợi lưỡng toàn vậy.


Ám xung ám hội vưu vi hỷ, bỉ xung ngã hề giai xung khởi

Nguyên chú:
Như tứ trụ cách cục không bị khuyết hãm, nhân đấy chọn ám xung ám hội, xung khởi ám thần mà lại hội hợp ám thần, người minh xung với ta minh hợp với ta đều như thế, như địa chi tý thủy đến xung khắc địa chi ngọ hỏa, địa chi dần mộc cùng với tuất thổ tam hợp hóa hỏa cục. Ấy thế nhật chủ là ta, lệnh tháng là người; đề cương là ta năm là người; tứ trụ là ta lưu niên đại vận là người; vận đồ là ta năm tháng là người. Như ta thuộc địa chi dần mộc người thuộc địa chi thân kim, thân kim có thể xung khắc dần mộc, tức là người đến xung ta; như ta thuộc địa chi tý thủy người thuộc địa chi ngọ, tý thủy có thể xung khắc địa chi ngọ hỏa, tức là ta đến xung người. Đó đều là xung khởi vậy.


Nhâm thị viết : Địa chi gặp xung vốn chẳng là điều tốt đẹp, điều đó tất nhiên dẫn đến bát tự khuyết hãm cùng cực, tứ trụ mất cân bằng. Mộc hỏa vượng, kim thủy tất không đủ; kim thủy vượng tất mộc hỏa không đủ. Bằng như nhật chủ vượng mà còn thừa lệnh thì cần nên xung mất đi bớt, nhật chủ suy nhược mà còn thiếu thì cần nên hội hợp mà sinh phù nhật chủ. Nếu như tứ trụ không gặp hợp xung, gặp tuế vận đến ám xung ám hợp lại càng hay. Tứ trụ có bệnh mà được cứu thì tốt. Tuy nhiên cần nên phân biệt cái ta xung và cái xung ta, cái lý của hội hợp cũng có đến có đi vậy. Người và ta bất tất phân chia năm tháng là người ngày giờ là ta , cũng chẳng nên phân chia tứ trụ là mình, tuế vận là người, tóm lại làkhi luận đoán cần nên biết hỷ thần thuộc về ta, kỵ thần thuộc về người. Như hỷ thần là địa chi ngọ hỏa, gặp tý xung tức là người đến xung ta, rất mừng cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục phù trợ dụng thần; lại như dụng thần là địa tý thủy, gặp ngọ xung tức là ta đến xung người, tối kỵ cùng với địa chi dần tuất tam hợp hỏa cục khắc chế dụng thần. Như hỷ thần là địa chi tý thủy có địa chi thân cùng với địa chi thìn đến tam hợp hóa thủy cục trợ giúp dụng thần tất mệnh số gặp nhiều may mắn tốt đẹp; hỷ thần thuộc địa chi hợi có đại chi mão mùi đến tam hợp hóa mộc tiết khí dụng thần tất tứ trụ có nhiều thương tổn tất gặp nhiều hung hiểm. Khá nên ta đến xung người chớ nên người đến xung ta. Ta đến xung người tất xung khởi; người đến xung ta tất xung không khởi lên được. Thủy hỏa tương xung tương hợp đều như thế, dư các loại đều suy luận như thế cả.

VD 19 -
Canh tuất ất dậu giáp dần canh ngọ
Bính tuất đinh hợi mậu tý kỷ sửu canh dần tân mão.

Tứ trụ can thấu lưỡng canh, mùa thu kim đương lịnh, địa chi hội hỏa cục, tuy chế sát có công, mà khắc tiết nhật chủ không nên có. Với lại canh kim khí uy mãnh một phương, lấy hỏa khí khắc chế cái uy của nó, sao bằng tiết khí nó mà sinh phù nhật chủ. Hóa khí đó có cộng năng làm ích lợi cho nhật chủ; còn lấy hỏa chế khắc kim khí thì nhật chủ bị tiết khí sinh hỏa. Do đó mà suy luận, không nên hội hỏa cục, nếu hội hỏa cục trở lại làm kỵ thần. đại vận tý lưu niên thìn đại khôi thiên hạ. tý vận xung phá hỏa cục, xung khứ ngọ vượng thần dẫn thông canh kim, làm lợi ích nhật chủ; thìn niên thuộc thấp thổ có thể tiết khí hỏa, củng phò tý thủy đủ sức sinh bồi nhật chủ vậy.


VD 20 -
Đinh tỵ quý sửu đinh mão bính ngọ
Nhâm tý tân hợi canh tuất kỷ dậu mậu thân đinh mùi.

Nhật nguyên đinh hỏa tuy sinh vào quý động, tỷ kiếp trùng trùng, quý thủy thoái khí không đủ lực chế kiếp, do đó không thể lấy làm dụng thần. Cho nên lấy tân kim tàng trong địa chi sửu làm dụng thần, tiết khí tỷ kiên sinh tài, là hỷ thần phụ cho dụng thần. Ngại hiềm ở đây là địa chi mão mộc sinh kiếp đoạt thực, do đấy mà tuổi niên thiếu hình thê khắc tử. Sơ vận nhâm tý tân hợi, ám xung tỵ ngọ hỏa, ấm tí có thừa. Đại vận canh tuất trở lại ám hợp ngọ hỏa, dẫn đến hình thương tai kiếp; đến đại vận kỷ dậu hội kim cục xung khứ mão mộc khắc thần, phát tài thập vạn. Từ đó cho thấy, ám xung kỵ thần, ám hội kỵ thần, phát phúc không ít; ám xung hỷ thần, ám hội kỵ thần tai họa khôn lường. Cái lý ám xung ám hội, khá nên sao nhãng ư?


VD 21 -
Canh dần tân tỵ bính dần tân mão
Nhâm ngọ quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi.

Nhật nguyên bính hỏa sinh vào mạnh hạ, địa chi hai dần một mão, tỵ hỏa đương quyền, dẫn xuất bính hỏa trong dần, thiên can tuy gặp canh tân, nhưng canh tân hư nhược không căn gốc. Sơ vận nhâm ngọ quý mùi thủy không có nguồn, không thể tiết kim khí, địa chi ngọ mùi nam phương hỏa địa lại phù trợ vượng hỏa, tài tinh bị khắc tiết đến cạn kiệt, tuy tổ nghiệp sung túc, mà sớm tiêu tan. Đại vận giáp lâm địa chi thân vốn không có đại nạn, nhưng do lưu niên mộc hỏa tương sinh mà hình thê khắc tử gia kế tiêu điều. Giao vận thân ám xung dần mộc đang vượng, thiên can phù trợ tài tinh thông căn ví như cỏ cây lâu ngày bị hạn mà gặp mưa, đột nhiên hưng phát. Cặp đại vận ất dậu mười lăm năm phát tài gấp bội hơn trước, thân vận dịch mã gặp tài tinh, xuất ngoại đại lợi, kinh doanh phát tài hơn thập vạn. Đến đại vận bính tuất lưu niên bính tý, hung nhiều cát ít, bị bệnh phong mà không trỗi dậy được, đó là do tỷ kiên tranh tài, tài còn lâm tuyệt địa, tý thủy một mình đơn độc chẳng những không thể nào khắc chế bính hỏa vượng, mà ngược lại còn sinh dần mão mộc trợ hỏa vậy.


Vượng giả xung suy suy giả bạt, suy thần xung vượng vượng thần phát


Nguyên chú:
Tý thủy vượng ngọ hỏa suy, vượng mà đi xung khắc suy tất suy càng suy cùng cực; tý thủy suy ngọ hỏa vượng, suy mà đi xung khắc vượng tất vượng càng vượng hóa thành phúc. Dư các chi còn lại đều suy như thế cả.


Nhâm thị viết: Thập nhị chi tương xung tương khắc, nguyên là do các thiên can tàng trong địa chi tương xung tương khắc nhau vậy, tứ trụ năm, tháng, ngày, giờ tương xung tương khắc gọi là minh xung, tứ trụ bị lưu niên đại vận tương xung tương khắc gọi là ám xung. Địa chi đắc lệnh đương quyền mà đi xung khắc các địa chi thất lệnh bất đương quyền tất suy càng suy cùng cực bị thương tổn, ngược lại địa chi thất lệnh mất quyền mà lại đi xung khắc địa chi đắc lệnh đương quyền tất chi vượng càng vượng không bị thương tổn. Cái địa chi mà có lực thì có thể xung khử cái địa chi vô lực, tuy nhiên nếu hung thần bị xung khử thì tốt, còn nếu hỷ thần bị xung khởi tất mang họa; bằng ngược lại, cái địa chi vô lực mà đi xung khắc có lực chẳng những không thể xung khử được mà trái lại còn bị xung khắc ngược trở lại nữa, nếu như cái địa chi vô lực ấy mà đi xung khử hung thần tất mang họa, còn đi xung khử cát thần tuy không mang họa nhưng cũng không mang lại lợi ích to lớn gì. Ví như nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần là ngọ hỏa, trong trụ có dần, mão, tỵ, mùi, tuất các loại, gặp địa chi tý thủy xung tức suy thần xung vượng thần nhật chủ không bị thương tổn; ngược lại, nhật chủ địa chi ngọ hỏa, hay hỷ thần thuộc địa chi ngọ hỏa, trong tứ trụ có thân, dậu, hợi, tý, sửu, thìn các loại, gặp địa chi tý thủy vượng xung tất ngọ hỏa suy lại càng suy. Dư các chi còn lại đều suy như vậy. Tuy nhiên tý ngọ mão dậu, dần thân tỵ hợi tương xung nhau đáng nên xem trọng, còn thìn tuất sửu mùi tương xung nhau thì cũng không quan trọng lắm. như tý ngọ tương xung, địa chi tý thủy tàng chứa quý thủy đi xung khắc đinh hỏa tàng trong địa ngọ hỏa, nếu như ngọ lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ không có hành kim mà có hành mộc tất hỏa quá vượng tý thủy không những không thể xung khắc ngọ hỏa mà trái lại còn bị ngọ hỏa khắc ngược trở lại nữa; mão dậu tương xung, địa chi dậu kim tàng chứa tân kim, đi xung khắc ất mộc tàng chứa trong chi mão, nếu như mão mộc lâm nguyệt lệnh hay cùng hành với lệnh tháng, tứ trụ có hành hỏa mà không có hành thổ tất mộc quá vượng dậu kim không những không thể xung khắc mão mộc mà trái lại còn bị mão mộc khắc ngược trở lại nữa; dần thân tương xung, địa chi dần tàng chứa giáp mộc bính hỏa, bị địa chi thân tàng chứa canh kim nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên dần mộc vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có bính đinh tị ngọ hỏa, tắc chi dần cũng có thể xung khắc chi thân; tị hợi tương xung, địa chi tị tàng chứa bính hỏa mậu thổ, bị địa chi hợi tàng chứa giáp mộc nhâm thủy tương khắc, tuy nhiên tị hỏa vượng hay là nguyệt lệnh trong trụ, tứ trụ có giáp ất dần mão mộc, tắc chi tị hỏa cũng có thể xung khắc chi hợi thủy. Bởi thế cho nên xét sự vượng suy của tứ trụ trước cần phải xem xét sự suy vượng, có hay không có giải cứu, hoặc ức xung, hoặc trợ tiết, xét cái đại thể, nghiệm cái hỷ kỵ, từ đó mà biết đựợc cát hung vậy. Đến như tứ khố huynh đệ tương xung, mộ khố tàng chứa nhiều thiên can, cần nên xem xét bốn thiên can trên năm tháng ngày giờ có dẫn xuất hay không có dẫn xuất. Nếu như tứ trụ can chi không có dẫn xuất, hay là nguyệt lệnh là đề cương, thì không cần phải lo sợ xung khắc, dẫu có bị xung khắc cũng không hại gì, gặp hợp lại càng hay. Nguyên cục cùng đại vận lưu niên đều luận như vậy.

VD 22 -
Mậu thìn tân dậu bính ngọ quý tỵ
Nhâm tuất quý hợi giáp tý ất sửu bính dần đinh mão.

Tứ trụ tài tinh đang lệnh, mà lại còn được thực thần trên trụ năm sinh trợ tài tinh, nhật trụ gặp tỵ hỏa lộc ở trụ giờ tương trợ, cho nên nhật trụ hữu thông căn có khí, cho nên xuất thân từ nhà giáu có. Trụ giờ thấu xuất quý thủy, chi giờ tỵ hỏa thất thế, gặp dậu kim tất củng hợp dậu kim vậy. Ngũ hành thiếu mộc, toàn nhờ ngọ hỏa phò trợ nhật chủ, từ đó cho thấy quý thủy là kỵ thần vậy. Đại vận tý thủy, quý thủy đắc lộc vượng địa, chi tý thủy cùng chi thìn thổ bán hợp hóa thủy, địa chi dậu kim củng phò chi tý thủy mà xung khử địa chi ngọ hỏa, tứ trụ không có thần giải cứu, thế cho nên mới nói
vượng giả xung suy suy giả bạt”, vì vậy mà nhà cửa tan nát mạng vong. Nếu như đại vận đến đông nam mộc hỏa vượng địa, lý nào mà không đạt được danh lợi ư?

VD 23 -
Canh dần nhâm ngọ đinh mão quý mão
Quý mùi giáp thân ất dậu bính tuất đinh hợi mậu tý.

Tứ trụ tài quan hư nhược vô căn, kiêu tỷ đang quyền đắc thế, theo đấy mà luận tất là mệnh bần yểu. Tứ trụ trước thân tài đều vượng, trở lại phá bại chết yểu, nếu như tài quan hưu tù có lẻ mạng số trường thọ, mà không biết rằng hỏa không có mộc gặp thủy vượng xung khắc tắc tán, còn tứ trụ này có thủy, gặp hỏa tỉ kiên phò trợ tất có cứu thần. Đại vận giáp thân ất dậu, canh kim lộc vượng, nhâm quý thủy phùng sinh, trở lại xung khắc dần mão mộc, thế cho nên mới nói “suy thần xung vượng vượng thần phát
”, đột nhiên phát tài cự vạn. cổ ca vân: “mệnh hảo bất như vận hảo”, câu nói ấy thật đáng nên tin vậy!

Chương 9: can chi tổng luận

Âm dương thuận nghịch chi thuyết, “lạc thư” lưu hành chi dụng, kỳ lý tín hữu chi dã, kỳ pháp bất khả chấp nhất.


Nguyên chú:
Âm dương sinh tử, dương thuận âm nghịch, lý ấy phát xuất từ “lạc thư”. Ngũ hành lưu hành trong trời đất lấy đó mà làm dụng, tất nhiên cái lý ấy có thể tin được, còn như giáp mộc tử ở chi ngọ, ngọ hỏa tiết khí giáp mộc, lý lẻ tất nhiên là như thế, nhưng ất mộc tử ở chi hợi, hợi tàng nhâm thủy sinh ất mộc tức con được mẹ sinh, hà cớ vì sao lại tử? Thế cho nên đại phàm luận đoán tứ trụ trước tiên phải nên am tường cái can chi khinh trọng, cái sinh ta và cái ta sinh ra sao, lý lẻ âm dương tiêu tức như thế nào sau đó mới có thể dự đoán họa phúc cát hung vận số. Bằng như cứ chấp nê vào cái thuyết sinh tử bại tuyệt, tất suy đoán sai lầm lớn vậy.


Nhâm thị viết: Cái thuyết âm dương thuận nghịch, lý phát xuất từ “lạc thư”, hai cái khí này lưu hành trong trời đất làm dụng, chẳng qua dương khí tính hay tụ, nên lấy tiến làm thối, âm khí tính hay tán, nên lấy thối làm tiến. Thế cho nên người học dự đoán cát hung mệnh vận bất tất chuyên lấy thuận nghịch làm luận lý, mà cần nên quan sát xem nhật chủ suy vượng, nghiệm xem căn gốc nông sâu ra sao, xét xem tứ trụ dụng thần hữu lực hay vô lực, từ đó mà biết được cát hung vậy. Đến như trường sinh mộc dục các loại, cũng chỉ là mượn danh gọi để chỉ cho hậu học hình dung mà thôi. Nó nói lên giai đoạn thành, thịnh suy hủy của kiếp người hay sự vật. Trường sinh chỉ con người mới bắt đấu sinh; do con người mới sinh cần sự tắm sạch nên gọi là mộc dục, hình thể dần dần lớn mạnh gọi là quan đới, lâm quan là giai đoạn con người xuất sĩ ra làm quan, đế vượng là giai đoạn cực thịnh của con người và thịnh cực tắc suy cho nên thời kỳ này gọi là suy, suy lâu thời tắc bệnh, bệnh lâu thời phải chết hai giai đoạn này gọi là bệnh tử, tạo hóa ra muon loài cũng từ đất và cũng là nơi mộ địa của muôn loài, vạn vật bị chôn vùi trong mộ địa khí suy cùng cực cho nên hai giai đoạn này gọi là mộ tuyệt của sự vật; sự vật trong trời đất không thể nào suy tuyệt mãi cho nên vật cực tất sinh thời kỳ này gọi thai dưỡng, và cứ như thế mà tuần hoàn lưu chuyển không ngừng vậy.
Đến như nhật chủ bất tất sinh phùng lộc vượng, tức nguyệt lệnh hưu tù, mà trong trụ năm ngày giờ đắc trường sinh lộc vượng, nhân đó được xem là cường vượng, hay như tứ trụ còn địa chi có khố cũng được coi như là có căn gốc. Nên mới có cái thuyết là đầu mộ cần nên xung động, tục thư thật sai lầm quá vậy. Cổ pháp duy chỉ có tứ trường sinh, chứ không bao giờ có cái thuyết rằng tý, ngọ, mão, dậu là âm trường sinh bao giờ cả. Thủy sinh mộc, thân là cung vị thiên quan, hợi là thiên môn, thiên nhất sinh thủy, tức sinh sinh không ngừng, thế cho nên mộc trường sinh tại hợi là thế. Cung vị ngọ hỏa là nơi tử địa của mộc, do mộc sinh hỏa liệt hỏa thiêu cháy mộc mà ra. Các loại ngũ hành khác cứ thế mà suy.
Như ngũ hành can dương sinh ra ở nơi sinh phương, thịnh ở bản phương, suy ở tiết phương, tuyệt nơi khắc phương, lý ấy tất nhiên là như vậy; còn ngũ hành can âm sinh ra ở tiết phương, tử ở sinh phương, lý ấy thật trái với tự nhiên vậy. Lại còn nói là “Đất tý ngọ cung không thể sinh kim sinh mộc; Đất hợi dần không thể diệt hỏa diệt mộc”. Cổ nhân thủ cách, đinh gặp dậu lấy tài luận, ất gặp ngọ, kỷ gặp dậu, tn6 gặp tý, quý gặp mão lấy thực thần tiết khí luận, toàn không lấy trường sinh luận. Ất gặp hợi, quý gặp thân lấy ấn luận, không nên luận tử. Lại như kỷ gặp dần tàng can bính hỏa, tân gặp tỵ tàng can mậu thổ, cũng đồng ấn luận, không nên luận tử. Từ đó cho thấy, âm dương đông sinh đồng tử là điều dể hiểu, bằng như cố chấp âm dương thuận nghịch, dương sinh âm tử, âm sinh dương tử lấy đó mà luận mệnh, rất có thể sai lầm lớn vậy. Cho nên, “chương Tri Mệnh” có nói “thuận nghịch chi cơ tu lý hội” là như vậy đó.

VD 24 -
Bính tý kỷ hợi ất hợi bính tý
Canh tý tân sửu nhâm dần quý mão giáp thìn ất tỵ.

Nhật nguyên ất hợi sinh vào tháng hợi, rất mừng lưỡng bính hỏa thấu can, không sợ mất đi cái vẻ đẹp của mùa xuân. Hàn mộc hướng dương, thanh thuần không tạp, tiếc rằng bính hỏa không có căn gốc, thủy mộc lại thái quá, văn nghiệp không thành tựu; với lại trung vận nhất lộ thủy mộc sinh phù thái quá, hỏa thồ trong trụ bị tổn thương, đọc sách không thành nhưng tài vận thì rất tốt đẹp. Tứ trụ mừng không thấy kim tất sự nghiệp thanh cao. Nếu như cứ cố chấp theo luận thuyết cho rằng ất mộc bệnh ở trụ năm trụ giờ tý thủy, tử ở trụ tháng hợi, từ đó suy ra rằng nhật nguyên suy kiệt cùng cực, rất nên lấy dụng thần sinh phù nhật chủ, rồi chọn lấy hợi tý thủy làm dụng thần sinh trợ nhật thần, từ đấy không nên tái kiến thủy mộc vậy.

VD 25 -
Mậu ngọ ất mão quý mão quý hợi
Bính thìn đinh tị mậu ngọ kỷ mùi canh thân tân dậu.


Tứ trụ quý thủy sinh vào mùa xuân trong trụ ất mộc xuất hiện quá nhiều, nhật nguyên tiết khí thái quá, ngũ hành vô kim tư phù, chỉ dựa vào quý hợi thủy trụ giờ bang trợ. Hiềm vì hợi mão bán hợp mộc cục, thiên can lại xuất hiện mậu thổ khắc tiết cùng cực, đại vận mậu ngọ hỏa thổ đồng lâm khắc tiết quý thủy nhật nguyên mạng vong. Nếu như cứ cố chấp theo ngụy thư cho rằng quý thủy trường sinh ở trụ thán và trụ ngày, trụ giờ cư kình dương vượng địa, hà cớ vì sao mà đoản mệnh? Lại còn nói “thực thần hữu thọ đa thê tử, thực thần sinh vượng thắng tài quan”, lấy tứ tụ trên mà nói danh lợi lưỡng toàn, nhiều con cháu chăng. Nói cho cùng thì cái thuyết âm dương thật không lấy chi làm bằng chứng thật.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 07:09, 16/03/11
gửi bởi VULONG
Sau đây là đoạn được dịch tiếp bởi Phiêu Diêu (bên tuvilyso.net):
Nguyên chú: Bất luận hữu căn vô căn, đều cần thiên phúc địa tái.
Nhâm thị viết: Phương pháp dụng can chi, thiên can vượng suy do địa chi sanh phù hay khắc hại, địa chi vượng suy cũng do thiên can sanh phù, khắc hại vậy. Như can giáp ất gặp dần, mão, hợi, tý tức được sinh trợ; gặp thân dậu tức bị khắc hại. Can bính, đinh gặp hợi, tý bị chế, gặp tị ngọ dần mão tất được sanh. Như địa chi dần, mão mà gặp can giáp, ất, nhâm, quý tức được sanh trợ; gặp canh, tân tức bị khắc bại; địa chi tị, ngọ không nên gặp nhâm, quý tức bị chế phục; mừng gặp giáp, ất, bính đinh. Can chi tương thông, can được chi sinh tức can vượng, can bị chi khắc tức can suy. Chi được can sinh, tức chi mạnh lên, chi bị can khắc tức chi suy vậy. Phàm mệnh tứ trụ có cát thần mà không xem là cát, có hung thần mà không xem là hung đều do nguyên nhân này.
VD 26 - Càn tạo:
Kỷ hợi đinh mão canh thân canh thìn
Bính dần/ ất sửu/ giáp tý/ quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu
Canh kim tuy sanh trọng xuân, nhờ chi thân mà lộc vượng, trên can thấu kỷ tức ấn thụ, có thể dụng đinh làm dụng thần. Địa chi mão mộc tài tinh, thêm được hợi thủy sanh trợ hữu tình, đinh hỏa có gốc vững mạnh ở chi. Vận trình nhâm quý hợi tý, can thấu kỷ bảo vệ đinh hỏa, chi vận hợi tý sinh trợ mão mộc mà không khắc đinh hỏa quan tinh, địa chi đắc tài cục hóa thương quan, cuộc đời thật hanh thông, không có bất trắc nào đáng ngại, thiếu niên khoa giáp, làm quan đến tướng soái. Kinh vân “Nhật chủ nên vượng, dụng thần không nên bị khắc hại” lời đáng xem trọng vậy.
VD 27 - Càn tạo:
Kỷ dậu đinh mão canh thìn giáp thân
Bính dần/ ất sửu/ giáp tý/ quý hợi/ nhâm tuất/ tân dậu
Trụ này có thể dụng quan tinh đinh hỏa, địa chi mão mộc tài tinh. So với mệnh ở trên tuy đại đồng mà tiểu dị. Do mão dậu xung nhau, khắc phá mão mộc khiến cho đinh hỏa vô căn, tứ trụ thiếu thủy nên tài tinh bị khắc mạnh, mà không được sinh phù. Trên can tuy thấu giáp mộc nhưng giáp tọa thân kim, bị khắc vô sanh nên giáp mộc không thể sanh trợ cho đinh hỏa. Xuất thân thế gia, học hành thi cử kém cõi, hình thương hao tán, giao vận nhâm tuất, địa chi vượng kim, nghèo khổ không kể xiết.
VD 28 - Càn tạo:
Canh thân nhâm ngọ tân dậu quý tị
Quý mùi/ giáp thân/ ất dậu/ bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý
Mệnh này canh tân nhâm quý, kim thủy tương sinh, địa chi thân dậu tị ngọ, ngọ hỏa làm dụng đắc thế, cầu được danh lợi (hỏa khí luyện kim). Tứ trụ ngũ hành vô mộc, kim tuy thất lệnh nhưng nhiều, hỏa tuy đương lệnh nhưng không có trợ. Canh tân sinh trợ nhâm quý, canh tân lâm trường sinh hữu lực nên sinh nhâm thủy cuồn cuộn. Tuy có tị hỏa trợ ngọ, nhưng tị dậu bán hợp kim cục thành ngọ hỏa thế cô. Hai vận giáp thân, ất dậu, hao tán cùng cực. Đến vận bính tuất, phò trợ dụng thần ngọ hỏa, đại thành đắc thế. Giao hợi vận, nhâm thủy đắc lộc, quý thủy lâm vượng, hỏa khí bị khắc tuyệt, vong mạng.
VD 29 - Càn tạo:
Canh thân nhâm ngọ tân dậu giáp ngọ
Quý mùi/ giáp thân/ ất dậu/ bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý
Mệnh này chọn sát đinh hỏa trong ngọ làm dụng thần, nhâm thủy trên can được canh kim sinh trợ. Mừng được ngọ hỏa trụ giờ tương trợ, thật đẹp khi trên can thấu giáp mộc, tất ngọ hỏa hữu lực có thừa. Nhâm thủy sinh giáp mộc mà không khắc đinh hỏa, tứ trụ hữu tình tương sinh vô khắc, đăng khoa hương bảng, công thành danh toại.
Nguyên chú: 4 giáp 4 ất mà ngộ dần thân mão dậu là địa chi không trợ thiên can.
Nhâm thị viết: Thiên can nhất khí, như 4 giáp, 4 ất, 4 bính, 4 đinh, 4 mậu, 4 kỷ, 4 canh, 4 tân, 4 nhâm, 4 quý; Địa chi không trợ, địa chi và thiên can không sanh hóa. Đặc biệt 4 giáp, 4 ất mà ngộ thân dậu thì không được trợ, tức toàn bị địa chi khắc. Hoặc phản khắc địa chi, hoặc không tương thông địa chi, hoặc địa chi không tương thông thiên can đều là không tương trợ. Như 4 trụ đều là ất dậu, tức chi khắc can, như 4 trụ tân mão phản lại can khắc chi; chi sanh can, can sinh chi tắc lưu thông sinh hóa hữu tình, không bị thiên khô, với lại đắc tuế vận sẽ được phú quý vậy. Bằng như không tương sinh mà lại xung khắc, ngũ hành thiên khô mà bần tiện vậy. Nên nghiên cứu kỹ càng.
VD 30 - Càn tạo:
Giáp thân giáp tuất giáp dần giáp tuất
Ất hợi/ bính tý/ đinh sửu/ mậu dần/ kỷ mão/ canh thìn
Chi năm thân kim, xung dần mộc nhật chủ, tuất thổ đương quyền sinh kim trợ sát, địa chi không khắc chế nhật chủ do thiếu dẫn xuất trên can. Trụ có 4 giáp, một dần tựa hồ cuờng vượng, nhưng mộc mùa thu hưu tù, xung dần vô lộc, không luận vượng được. Đại vận dần mão hợi tý, cơm no áo ấm sung túc có thừa; vận canh thìn, canh kim thấu xuất, tứ giáp thụ thương khắc, tán gia bại sản. Trụ nhiều thiên can, không bằng được địa chi có gốc sinh phò, lý đó thật đúng vậy.
VD 31 - Càn tạo:
Mậu tý mậu ngọ mậu tuất mậu ngọ
Kỷ mùi/ canh thân/ tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý
Trụ này toàn cục hỏa thổ, tý suy ngọ vượng, xung ắt ngọ phát mãnh liệt, thủy càng suy nhược, nhật chủ cực vượng. Sơ vận, cơ khổ cùng cực, đến vận canh thân tân dậu, tiết khí mậu thổ, đại thành, thành gia lập nghiệp. Giao vận nhâm tuất, thủy bất thông căn, ám hội hỏa cục, gặp đại biến, một nhà năm mạng đều mất. Nếu như thiên can thấu một canh tân, hoặc địa chi tàng một thân dậu, kết cục đâu đến nỗi.
VD 32 - Càn tạo:
Mậu thân mậu ngọ mậu tuất mậu ngọ
Kỷ mùi/ canh thân/ tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý
Mệnh này khác mệnh trên nhờ chi thân ở năm, mà thiên can được tiết khí, địa chi tàng thủy có gốc, ngọ hỏa tuy mãnh liệt nhưng không khắc hại thân kim, dụng thần là kim vậy. Giao vận canh thân, năm mậu thìn, tháng tư nhập học, tháng chín đăng khoa, do đắc thái tuế chi thìn, ám hội thủy cục mà diệu dụng. Đến vận nhâm tuất, thiên can tỉ kiếp đoạt tài, địa chi ám hội hỏa cục, không thấy cát lợi hĩ.
VD 33 - Càn tạo:
Tân mão tân mão tân mão tân mão
Canh dần/ kỷ sửu/ mậu tý/ đinh hợi/ bính tuất/ kỷ dậu
Mệnh này tứ mão mộc nắm lệnh đương quyền, 4 can tân lâm tuyệt địa, tuy khắc địa chi nhưng vô lực. Nếu thiên can tân kim vượng khắc mão mộc có thể dụng tài, tất sẽ phát phú. Sống với cha mẹ được mấy năm thì cha mẹ đều mất, theo đạo sĩ làm đồ đệ. Vận kỷ sửu, mậu tý ấn thụ sinh phù, tân kim vượng, áo cơm đầy đủ, giao vận đinh hợi, chi hợi sinh mão, mão mộc sinh trợ đinh hỏa khắc kim, tán gia bại sản mà chết.
Tóm lại: Trụ có 4 can đồng một khí, nếu can vượng cần nên gặp vận tiết khí thiên can, nếu thiên can suy nhược mừng gặp vận trình sinh phò, tất là đại phúc.
Tam hội cục
Nguyên chú: Dần mão thìn, hợi mão mùi mà ngộ giáp canh ất tân, ắt thiên can không dụng được. Nhưng mà không chỉ toàn nhất khí cùng tam hội cục, bất luận hữu căn vô căn, đều cần thuận theo khí thế, can chi không bội phản là tuyệt diệu.
Nhâm thị viết: Điạ chi tam hội cục, như dần mão thìn, tị ngọ mùi, thân dậu tuất, hợi tí sửu. Như dần mão thìn: Nhật chủ thuộc mộc cần phải có thiên can nhiều hỏa, nhật chủ thuộc hỏa cần phải có thiên can kim vượng, nhật chủ thuộc kim cần phải có thiên can thổ vượng. Hầu hết tam hội cục thì khí thế rất vượng. Gặp nhật chủ vượng thần tại đề cương tháng, thiên can phải thuận theo khí thế, nên tiết khí nhật chủ. Nhưng nếu thiên can hữu lực, vượng tại đề cương tháng thì khắc chế nhật chủ vậy, có thể làm dụng thần. Như tam hội mộc cục, đề cương tháng là dần mão, nên canh tân kim suy tuyệt không thể làm dụng; như đề cương tháng là thìn, tứ trụ lại có canh tân được thìn thổ sinh trợ, có thể làm dụng được vậy. Mộc phương như thế, còn lại mà suy ra.
VD 34 - Càn tạo:
Tân mão canh dần giáp thìn bính dần
Kỷ sửu/ mậu tý/ đinh hợi/ bính tuất/ ất dậu/ giáp thân
Trụ có dần mão thìn tam hội mộc cục, thêm chi dần nên mộc cực vượng. Trên can thấu canh tân kim lâm tuyệt địa tại lệnh tháng, kim suy không khắc được giáp mộc. Hơn nữa, can thấu bính hỏa, nên mộc hỏa tương sinh, bính hỏa cực vượng khắc hại canh tân, lấy bính hỏa làm dụng thần. Vận trình kỷ sửu, mậu tý, thổ vận sinh kim, phá tán dị thường, đinh hợi vận tiến kinh nhập bộ, đến bính tuất vận, lập được đại công, thăng tri huyện. Vận khắc hại canh tân là vận cát vậy. Đến vận ất dậu, canh tân đắc địa, không lộc.
VD 35 - Càn tạo:
Canh dần canh thìn giáp dần đinh mão
Tân tị/ nhâm ngọ/ quý mùi/ giáp thân/ ất dậu/ bính tuất
Tam hội mộc cục dần mão thìn. Tuy nhiên đề cương tháng chi thìn thổ đương quyền, canh kim được sinh phò đủ sức khắc mộc, đinh hỏa tuy thấu, không khắc hại canh kim, vậy dụng canh kim, lấy sát làm dụng thần. Vận giáp thân, canh kim lộc vượng ám xung dần mộc, khoa giáp liên đăng, làm đến tri phủ; giao vận bính tuất, bính hỏa khắc chế canh kim, hàng chức quy điền.
Nguyên chú: Trong 6 địa chi dương, chỉ duy nhất dần thìn là dương phương, là thuần dương vị. Địa chi dương, nếu như là vượng thần, cần nhất hành vận âm thuận.
Nhâm thị viết: Trong 6 địa chi dương thì có dần, thìn, ngọ là thuần dương (dương noãn), cần phân biệt dương hàn dương noãn mà luận; còn mùi, thân, tuất, là dương hàn. Phương tây bắc là hàn, phương đông nam là noãn. Nếu tứ trụ toàn chi dương tây bắc: thân, tuất, tý tức dương hàn tối cần gặp hành vận chi âm noãn là mão, tị, mùi (phương đông nam); nếu như tứ trụ toàn chi dương đông nam là dần, thìn, ngọ tức dương noãn tối cần gập hành vận chi âm hàn dậu, hợi, sửu. Luận theo đại cục nếu nhật chủ thuộc mộc, hoặc hỏa, hoặc thổ mà tứ trụ toàn chi dương noãn (phương đông nam), nên gặp hành vận tây bắc chi âm hàn (âm thủy, âm mộc, âm hỏa) là nơi có thể sinh trợ dụng thần mà đắc dụng. Nếu gặp hành vận tây bắc chi dương hàn (dương thủy, dương mộc, dương hỏa) tất là dương cô không sanh, cho dù sanh trợ hỉ thần, cũng vô cùng gian nan. Luận về dương noãn dương hàn : “Dương thịnh cương kiện, có thể phối với âm thịnh nhu thuận chi địa” là vậy. Nếu không nghiên cứu thâm sâu, dụng tinh vi thì sao đắc yếu huyền cơ được?
VD 36 - Càn tạo:
Quý tị bính thìn bính ngọ canh dần
Ất mão/ giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất
Trụ này địa chi dương lại thuộc phương đông nam. Tựa hồ kim thủy vô căn, mừng là chi tháng thìn thổ, tiết hỏa sinh kim, canh kim được sinh có lực nên có thể làm dụng thần. Canh kim là nguyên thần của quý thủy. Sơ vận, ất mão giáp dần, kim lâm tuyệt địa, hỏa vượng, mà thủy bị tiết chế quá nhiều, cơ khổ cùng cực, giao vận quý sửu, kim thuỷ thông căn, thêm tị dậu bán hợp kim cục, xuất ngoại buôn bán hanh thông, phát tài thập vạn. Dương noãn gặp hàn khí, tương phối thật đẹp vậy.
VD 37 - Càn tạo:
Mậu dần ất sửu bính dần canh dần
Bính dần/ đinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi
Ngày bính dần, tuy địa chi có 3 dần, may mắn là sửu thổ đương quyền, tài tinh quy khố. Nếu vận hành tây bắc thổ kim, tài nghiệp sẽ tạo lập thành công, chỉ tiếc hành vận đông nam mộc hỏa vượng, tổ nghiệp phá tán, bôn ba vất vả, đến ngọ vận ám hội hỏa cục tỷ kiếp sinh vượng, mà mất mạng. Nhất sự vô thành, chẳng phải do vận đó sao.
Hy vọng các hội viên có bản dịch tiếng Việt cuốn Trích Tiên Tủy sẽ đưa lên đây tiếp các phần còn lại cho hết để mọi người cùng nghiên cứu và thảo luận (tôi biết có rất nhiều hội viên đã có bản dịch tiếng Việt của Phiêu Diêu - Nếu ngại hãy gửi fine tới E-mail của tôi : vulongpuplisher@yahoo.de sau đó tôi sẽ đăng lên đây).

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 05:51, 28/01/14
gửi bởi VULONG
Sau đây tôi đăng tiếp một số chương do một người tốt bụng gửi tặng tôi. Hy vọng rằng người tốt bụng này đồng ý với quyết định của tôi.
.
Một lần nữa tôi xin chân thành cám ơn người tốt bụng này
..................................................................................................
Chú thích: Sáu chi âm, dậu hợi sửu thuộc thuần âm. Cư 5 chi âm, nếu như nhật chủ vượng cần gặp hành vận đất dương thuận, tất gặp quang vinh hanh thông.
Nhâm thị viết: Trong sáu chi âm, thì dậu hợi sửu là chi âm hàn (thuần âm). Phương tây bắc là âm hàn, nếu trụ toàn dậu hợi sửu tức âm hàn, tối cần gặp hành vận đông nam dần thìn ngọ là dương nhiệt. Nếu như trụ toàn mão, tị, mùi tức âm nhiệt, tối cần gặp hành vận tây bắc thân tuất tý là dương hàn vậy. Nói theo đại cục, nếu nhật chủ thuộc kim, hoặc thủy, hoặc thổ có tứ trụ lại gặp địa chi hoặc kim, hoặc thủy, hoặc thổ phương tây bắc âm hàn, nên gặp vận trình có địa chi thuộc đông nam dương kim, dương hỏa, dương thổ, là phương có thể trợ giúp dụng thần, mà phúc lực gia tăng. Nếu gặp vận trình có địa chi thuộc đông nam âm kim, âm hỏa, âm thổ, sẽ rất gian nan nhưng về sau được phúc. Luận về âm hàn âm noãn chi cục cũng đều như thế “Âm thịnh chứa khí mềm mại, nhu nhuyễn, cần gặp nơi dương thịnh quang xương cương kiện”.
38 - Bính tý kỷ hợi ất dậu nhâm ngọ
Canh tý/ tân sửu/ nhâm dần/ quý mão/ giáp thìn/ kỷ tị
Trụ toàn dậu, hợi, tý tức khí âm hàn. Ất mộc lạnh cần sưởi ấm, có bính hỏa có thể làm dụng thần, nhâm thủy chính là khắc thần. Mừng nhờ nhâm thủy xa bính hỏa, nhâm thủy sinh trợ ất mộc, ất mộc vốn suy nhược mừng được sinh phò. Lại có kỷ thổ thấu can, có thể ngăn thủy bảo vệ bính hỏa. Thật đẹp khi can thủy mộc hỏa thổ lập nên môn hộ, tương sinh hữu tình. Địa chi ngọ hỏa chế sát tân kim tàng trong dậu, năm tháng hỏa thổ thông căn lộc vượng. Vận đông nam đều là vận tốt, tứ trụ hữu tình, hành vận hanh thông vinh quang, làm quan đến chức tổng đốc, liên đăng giáp đệ, âm dương phối hợp thật vi diệu vậy.
.
39 - Kỷ hợi bính tý ất sửu nhâm ngọ
Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ
Nguyên chú: Trụ này khác trụ trên ở chi dậu tý. Nói về chi, sửu thay dậu tất là đẹp hơn, dậu là thất sát, khắc ta còn sửu là thiên tài, ta khắc, có thể chứa thủy, thật đẹp vậy. Chẳng biết rằng sửu thuộc thấp thổ có thể tiết hỏa, ngăn thủy, dậu tuy là thất sát, bị ngọ hỏa khắc, không tiết ngọ hỏa, trụ ở trên bính hỏa tại can năm, can nhâm ở trụ giờ cách xa, thêm được kỷ thổ bảo hộ; trụ này bính hỏa can tháng, nhâm thủy cận kề, kỷ thổ không có lực hộ bính hỏa, lại gặp tý thủy. Hơn nữa, vận hành tây bắc, là nơi âm hàn, bính hỏa vô sanh, ất mộc phát sinh được sao? Thập can giống như thân thế: “hư thấp chi địa, kỵ mã diệc ưu” (tức nhật chủ ất, thiên can không thấu xuất bính đinh hữu lực, hoặc tàng chi tuất thì không thể phát được), lời riêng không sai lầm vậy. Cho nên, thất chí vân song, nghèo xác sơ, khắc vợ không con, đến vận nhâm thân, bính hỏa lâm tuyệt địa mà chết.
Nhâm thị viết : Chi sinh can như giáp tý, bính dần, đinh mão, mậu ngọ, nhâm thân, quý dậu, ất hợi, canh thìn, tân sửu. Nhật chủ không đắc lệnh tháng, thêm nữa trong trụ lại không có sinh phù nhật chủ, tức dụng thần ấn tinh ở trụ ngày, bị xung rất xấu, tai hoạ rất nặng. Nếu nhật chủ đắc thời đương lệnh, hoặc trụ năm trụ giờ nhật chủ phùng lộc vượng, hoặc thiên can tỷ kiếp trùng điệp, hoặc quan tinh suy nhược, phản lại rất kỵ ấn tinh tiết khí quan, tất không sợ xung phá. Tóm lại, nhật chủ khí thế thịnh vượng, mừng gặp xung; nhật chủ suy nhược rất sợ gặp xung. Tuy luận về nhật chủ, mà về hành vận cũng tương tự như thế.
40 - Giáp dần mậu thìn bính dần bính thân
Ất tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất
Can bính toạ dần ấn thụ, sinh vào tháng quý xuân, khí hỏa có thừa, với lại gặp năm giáp dần, tất nhật chủ quá vượng. Thổ tuy đương lệnh, mà bị mộc vượng khắc, mừng gặp thân xung dần, tài tinh đắc dụng, hiềm vì can bính hỏa khắc chi thân, nên xung vô lực. Hành vận phương nam, khó khăn dị thường, đến nhâm thân, quý dậu vận trình hai mươi năm, thân kim xung dần mộc, khắc tỷ kiếp, sang nghiệp hưng gia. Trụ này tài tinh làm dụng thần.
41 - Nhâm thân giáp thìn bính dần bính thân
Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất
Nhật chủ toạ dần ấn thụ, cũng sinh vào tháng quý xuân, mộc còn dư khí. Can năm nhâm sát sinh ấn hữu tình, không phải ngại vậy. hiềm lưỡng thân kim xung dần, giáp mộc vô căn. Mừng gặp nhâm thủy hóa thân kim, sinh mộc. Vận bính ngọ khắc thân kim, nhập học đăng khoa giáp bảng. Vận đinh mùi, đinh hỏa hợp mất nhâm thủy, gặp tai hoạ. Vận mậu thân, mậu thổ khắc hại nhâm thủy, tại vận ba thân xung một dần mà mất mạng. Mệnh này nhâm thủy sinh trợ giáp mộc, giáp là dụng thần, không nên thụ thương. Nhâm thủy bị khắc thụ thương, giáp mộc không được tương trợ. Phàm dụng một sát tương sinh ấn thụ, rất kỵ sát bị thụ thương.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:14, 28/01/14
gửi bởi VULONG
Nguyên chú: Như đinh hợi, mậu tý, giáp ngọ, tân tị, nhâm ngọ, quý tị; can tàng trong chi cùng thiên can tương hợp. Nhật chủ tọa chi tài quan, nếu tài quan vượng, tất nên tĩnh không nên xung.
Nhâm thị viết: Mười can chi tương hợp, do âm dương tương phối. Năm dương hợp năm âm làm tài; năm âm hợp năm dương làm quan. Âm vượng không tòng dương, dương vượng không tòng âm, tuy hợp không hóa, có tranh hợp, kỵ hợp cần nên phân biệt tỏ tường. Nếu can lộ hợp với can tàng trong chi, tất luôn hợp thành, không có sự tranh hợp vậy. Thiên can cùng địa chi cần phải linh động xem xét, quan trọng tại bốn chữ “địa vượng mừng gặp tĩnh”; địa chi vượng nhất định thiên can phải suy, nên cần tĩnh, bốn chi không xung khắc tất có công sanh trợ chi thần. Thiên can suy mà không có sanh trợ, địa chi vượng lại được sanh, thiên can có ý tòng theo, nếu địa chi có nguyên thần thấu xuất, theo đó thượng thiên hạ địa, lên xuống hữu tình; hợp tài tự tòng tài, hợp quan tự tòng quan. Cho nên tĩnh tất yên ổn, động tất nguy nan. Chỉ có mậu tý, tân tị, đinh hợi, nhâm ngọ bốn ngày là có thể thiên địa tương hợp. Nếu ngày giáp ngọ, trong ngọ trước tàng đinh, rồi sau đó mới tàng kỷ, kỷ thổ há có thể chuyên quyền mà hợp giáp, giáp há có thể xuất mà hợp kỷ? Ngày quý tị, tị trước tàng bính sau đó mới tàng mậu, mậu há có thể lướt quyền bính mà hợp quý được sao? Chỗ này không luận tam nhật, còn như thập can, ứng hợp mà hóa, biến thành hoá cách.
42 - Kỷ tị tân mùi nhâm ngọ ất tị
Canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão/ bính dần/ ất sửu
Chi thuộc phương nam, hỏa đương lệnh thừa quyền, hỏa cực vượng; hỏa vượng thổ khô táo nên không sanh cho kim, tân kim suy nên khó sinh nhâm thuỷ nhật chủ, nhật chủ cực suy. Không lấy tân kim làm dụng, nhâm thủy hợp đinh hỏa tàng trong ngọ vậy (tòng hỏa). Vận kỷ tị, mậu thìn, sinh kim tiết hỏa, hao tán hình thương; vận đinh mão, bính dần, mộc hỏa thịnh vượng khắc tuyệt tân kim, kinh doanh phát tài bạc vạn.
43 - Kỷ sửu bính tý đinh hợi canh tý
Ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ
Trụ toàn chi thuộc phương bắc, thủy hàn cực vượng; thiên can hỏa hư nhược, không có mộc sanh phù; lại có kỷ sửu thấp thổ tiết hỏa, nhật chủ cực suy. Luận về sát vượng thân nhược. Năm mậu dần, kim tuyệt hỏa sanh, thêm nữa hợp mất hợi thủy, tất có đại hung. Trụ này quan tinh thừa vượng, hơn nữa quan tinh trùng điệp, thiên can vô ấn, kỷ thổ tiết khí bính hỏa, nhật nguyên không được nâng đỡ. Do vậy, thiên can địa chi hợp mà tòng quan vậy, thành cách tòng sát. Giáp tuất vận, sanh hỏa khắc thủy, hình thương hao tán, cha mẹ mất; vận quý dậu, nhâm thân khắc bính hỏa, trợ khởi tài quan, thu lợi năm vạn; cùng vận năm bính tý mất lộc, mất hai vạn. Thường cho rằng được hỏa thổ tương trợ thân, nên vận ngọ mùi sẽ đẹp, chẳng biết là sai lệch do kiếp đoạt tài, không biết là đại hung.
Nguyên chú: Hai thần sát ấn. Canh kim gặp dần, dần tàng chứa hỏa thổ, nhưng lại đa giáp mộc, mà nói về tài; quý thủy gặp sửu thổ, tàng chứa thổ kim, nhưng lại đa quý thủy, tắc bang thân; không bằng giáp mộc kiến thân kim, thân tàng chứa nhâm thủy canh kim, mậu thổ kiến dần mộc, dần tàng chứa giáp mộc, bính hỏa là có gốc vậy.
Nhâm thị viết: Chi tọa sát ấn, trừ ba ngày là không phải như ất sửu, tân mùi, nhâm tuất. Quý sửu nhiều tỉ kiếp, mậu dần há có thể không có tỉ kiếp sao? Canh dần nhiều tài tinh, giáp thân há không có tài tinh sao? Duy nhất canh dần, quý sửu không đúng, tức giáp thân, mậu dần cũng không có căn cứ, nếu chỉ duy nhất lấy nhật chủ mà luận, năm tháng giờ có tài, tại sao lý giải yên ổn lý được? Dụng sát cần phải phù, không dụng cần phải ức. Cần phải xem xét khí thế tứ trụ, phân biệt nhật chủ suy vượng, như thân cường sát nhẹ, tất lấy tài tinh sanh sát; thân sát đều vượng, tất lấy thực chế sát; sát cường thân nhược tất lấy ấn tinh hóa sát; luận về cục có sát trọng thân khinh, không bần cũng yểu; chế sát quá mức, tuy học mà không thành. Luận hành vận sát vượng, phục hành sát địa, lập tức gặp tai hoạ nguy hiểm; chế sát lại xuất hiện hành chế hương giả, nhất định gặp bần cùng.
44 - Nhâm ngọ kỷ dậu giáp thân giáp tý (Mậu Tý mới đúng?)
Canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý/ quý sửu/ giáp dần/ ất mão
Nhật nguyên giáp thân, sanh tháng tám, kim nắm lệnh, quan sát đương quyền, mừng ngọ hỏa khắc chế dậu kim, tý thuỷ bán hợp thân kim hóa thủy, bỏ quan lấy sát. Sát ấn tương sanh, mộc suy kim vượng, ấn tinh làm dụng, đăng khoa giáp bảng, từ quan thị lang đến quan tuần phủ, sau thăng quan đến chức tổng đốc.
45 - Nhâm thìn kỷ dậu giáp thân giáp tý
Canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý/ quý sửu/ giáp dần/ ất mão
Trụ này khác trụ trên khác nhau ở chữ thìn. Luận về chi, ở trên chế quan lấy sát, trụ này tất hợp quan lưu sát, công danh quan lộ. Như thìn thổ là tài, tắc sinh kim mà trợ sát; Tuy dậu kim là quan, nhưng vẫn hợp thìn hóa kim mà đồng đãng với sát. Công danh chẳng được, mà còn hình tang hao tán gian nan. Duy vận tân hợi phùng sanh, hoạnh phát, vận nhâm tý giống như phùng mộc, mãn nguyện; vận quý sửu, sửu hợp mất tý khử đi ấn, đa hung thiểu cát, giáp dần vận bị thân kim xung phá, mạng sống thật đáng ngại vậy.
Tóm lại: Thân nhược quan sát vượng không gánh được tài, quan mà còn bị hình thương hao tán.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:17, 28/01/14
gửi bởi VULONG
Nguyên chú: Thiên can tuy không được tương sanh, nên được hữu tình mà không phản khắc.
Nhâm thị viết: Can chi tình hiệp, bảo hộ nhau, can chi không phản khắc nhau. Như quan suy được tài vượng tương sinh mà đắc cục, quan vượng nhiều tài khắc kiếp; sát tương sinh ấn, kỵ tài lâm kiếp địa; thân cường sát thiển, mừng tài vượng; tài suy kiếp vượng, cần có quan tinh chế kiếp, nếu không có quan cần có thực thương hóa tỉ kiếp, đó là hữu tình. Như quan suy nhược gặp thương quan, tài tinh không hiện; quan vượng không có ấn, tài tinh đắc cục; sát sinh ấn, tài tinh tọa thực thương (can là tài, chi là thực thương); thân vượng sát khinh, tài tọa kiếp địa; tài khinh kiếp trọng, không có thực thương mà quan thất lệnh, có thực thương mà ấn đương quyền, đều là không hiệp.

46 - Kỷ tị quý dậu bính dần canh dần
Nhâm thân/ tân mùi/ canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão
Nhật chủ bính hỏa toạ lưỡng dần tức được trường sinh, lại được lộc ở chi năm, có thể lấy quan làm dụng. Quý thủy quan tinh bị kỷ thổ thương quan sát bên khắc chế, mừng quan tinh toạ dậu kim tài tinh. Vi diệu tị dậu bán hợp kim cục, nên kỷ thổ bị tiết khí, nhờ đó quan tinh có căn gốc được sinh trợ. Cho nên cả đời không gặp hung hiểm, danh lợi đều có vậy.
47 - Quý hợi quý hợi bính thìn giáp ngọ
Nhâm tuất/ tân dậu/ canh thân/ kỷ mùi/ mậu ngọ/ đinh tị
Trụ này quan sát thừa vượng, thật đáng ngại vậy, tuy nhiên mừng chi giờ ngọ hỏa sinh thực chế sát, thiên can thấu giáp, sanh hỏa tiết thủy. Sát vượng hóa ấn, giáp mộc ngộ trường sinh tại hợi thủy, nên mộc có căn gốc, can chi tương hiệp hữu tình. Bạch thủ thành gia, phát tài mấy vạn (tốt từ vận kỷ mùi nam phương hỏa địa).
48 - Giáp dần canh ngọ ất mão bính tý
Tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất/ ất hợi/ bính tý
Can ất tọa mão ngày chủ gặp lộc, tý thuỷ sinh mão mộc, can năm giáp mộc cũng tọa dần lộc vượng, hỏa vượng không thổ nên canh kim suy không thể dụng canh, dụng bính hỏa bị tý thủy khắc và xung mất ngọ hỏa, cũng không gặp vận hỏa, cho nên một đời thất bại như vôi, vận ất hợi thủy mộc cùng đến, trở thành ăn mày.
49 - Ất sửu kỷ mão ất hợi nhâm ngọ
Mậu dần/ đinh sửu/ bính tý/ ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu
Trụ có kỷ thổ tài tinh, thông căn tại sửu, đắc lộc tại ngọ, tựa hồ thân vượng tài vượng, chẳng biết kỷ thổ bị ất mộc tỷ kiếp đoạt mất, sửu thổ chi tài bị mão mộc khắc phá, ngọ hỏa thực thần bị hợi thủy khắc chi. Thiên can thấu nhâm thủy, không thể nào dẫn hỏa, trên dưới vô tình vậy. Sơ vận mậu dần, đinh sửu, kỷ thổ tài tinh được sinh trợ, sản nghiệp thịnh vượng, nhất giao vận bính tý, xung mất ngọ hỏa, bại vận như vôi, ất hợi vận thê tử ruồng bỏ, cắt tóc đi tu, lại thêm không giữ thanh quy, cô độc mà chết.
Nguyên chú: Trên dưới, hai bên tuy không được đồng một khí, cần nên sinh hóa hữu tình.
Nhâm thị viết : Tả hữu hai bên đồng thuận, nên chế hóa phù hợp, tả hữu hai bên sinh phù, không phân tranh vậy. Như sát vượng thân nhược, có dương nhận hợp nhật chủ, hoặc ấn thụ hóa sát; thân vượng sát nhược, có tài tinh sanh sát, hoặc quan tinh trợ sát; thân sát đều vượng, có thực thần chế sát, hoặc thương quan khắc, là cùng đồng thuận. Nếu thân nhược mà sát được tài sinh trợ, tài là khắc thần vậy; thân vượng mà kiếp hợp quan, tài quan vô lực vậy. Tóm lại, nhật chủ tuỳ theo suy vượng mà theo đó mà dụng thần cho hợp lý vậy, nếu sát là dụng thì mừng sát được tài sinh, kỵ sát thì mừng có thực chế sát, nếu ấn là dụng thì mừng ấn được quan sinh, kỵ ấn thì mừng ấn bị tài khắc chế, nếu tài là dụng thì mừng tài gặp thực, kỵ tài thì mừng tài gặp kiếp. Nên nghiên cứu tường tận vậy.
50 - Nhâm thân bính ngọ canh ngọ canh thìn
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Trụ này bính hỏa sát tinh tuy vượng, nhâm thủy có căn gốc ở thân kim, nhật chủ được canh kim tương trợ, được chi thìn thổ tương sinh. Dụng nhâm thủy chế sát, thiên can đồng thuận; địa chi đồng thuận, nhất chế nhất hóa, thật là hữu tình. Vận kim thủy thật đẹp, quan lộ hiển hách, làm quan đến chức tổng đốc.
51 - Nhâm ngọ bính ngọ canh thân mậu dần
Ðinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Mệnh này với mệnh trên, đại đồng mà tiểu dị, nhật chủ tọa lộc thân kim, nhâm thủy cũng khẩn chế sát, cớ sao danh lợi đều không, mệnh này chung thân không phát được sao? Cái khác nhau là mệnh trên nhâm thủy tọa thân kim, thực thần vượng có thể chế sát, mệnh này nhâm thủy tọa ngọ tức lâm tuyệt địa, không có lực chế sát vậy; mệnh trên thiên can thấu canh có thể trợ nhật chủ lại có thể sinh nhâm thủy, mệnh này thiên can thấu mậu thổ khắc thủy, không thể sanh thực thần. Tả hữu không tình hiệp vậy.
Nhâm thị viết: Cái lý ngũ hành tương sinh, cầu can chi phải lưu thông, tứ trụ sinh hóa không ngừng vậy. Ngũ hành đầy đủ, tức không thiên lệch khuyết hãm, hoặc có hợp hóa, bảo hộ cho nhau, dụng thần cần đắc địa, kỵ thần cần bị khắc chế vô căn. Nhàn thần không trợ giúp kỵ thần, Kỵ thần bị hợp, tứ trụ can chi, dẫu cho có thực, thương, kiêu, kiếp, cũng cần phụ cách tương trợ dụng thần. Mừng dụng thần hữu tình, nhật nguyên đắc khí, thì không thiếu phú quý phúc thọ vậy.

52 - Nhâm dần giáp thìn đinh hợi kỷ dậu
Ất tị/ bính ngọ/ đinh mùi/ mậu thân/ kỷ dậu/ canh tuất/ tân hợi/ nhâm tý
Can năm nhâm thủy, có chi hợi thủy là vượng. Quan sinh ấn, ấn sinh nhật chủ, dụng thực thần kỷ thổ, tài tinh có thực là phúc, quan được tài tinh sanh phò. Thương quan tuy đương lệnh, được ấn tinh (giáp mộc) khắc chế hữu tình, năm tháng không phản bối, ngày giờ không đố kỵ, thủy chung sở đắc. Quan nhị phẩm phú quý vô đặng, tài bạch trăm vạn, con cái đẹp đẽ, thọ tám chục tuổi.
53 - Mậu tuất canh thân quý hợi ất mão
Tân dậu/ nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu/ bính dần/ đinh mão/ mậu thìn
Mệnh này có thổ sanh kim, kim sinh thủy, thủy sanh mộc, can chi đều như chế. Nhưng có tương sanh, mà không tranh đố, mậu tuất tàng tài tinh quy khố, quan tinh ấn tinh đều rõ ràng, thực thần sinh vượng. Xuất thân hương bảng, nhập cung vua, một thê hai thiếp, con cái mười ba người, khoa giáp liên đăng, tài hơn trăm vạn, thọ hơn chín chục tuổi.
54 - Giáp tý bính dần kỷ tị tân mùi
Ðinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu/ giáp tuất
Mệnh này có mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, địa chi thủy sanh mộc, mộc sanh hỏa, hỏa sanh thổ, thổ sanh kim. Tất cả đều do chi sanh can, theo địa chi từ chi năm tý thủy sanh dần mộc đến can tân kim là kết, theo thiên can cũng chi năm tý thủy sanh giáp mộc đến can tân thì kết. Thiên địa đồng lưu. Khoa giáp liên đăng, quan lộ cực phẩm, gia đạo tề mỹ, khoa giáp liên đăng, thọ chín chục tuổi.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:22, 28/01/14
gửi bởi VULONG
Chương 10 - Hình tượng
Nguyên chú: Thiên can thuộc mộc, địa chi thuộc hỏa, thiên can thuộc hỏa, địa chi thuộc mộc, hai khí thành một tượng. Nếu gặp kim thủy tắc bị phá, còn lại đều như thế.
Nhâm thị viết: Hai khí song thanh, trừ hỏa mộc hai hình, như thổ kim, kim thủy, thủy mộc, mộc hỏa, hỏa thổ là năm cục tương sanh. Năm cục tương khắc như mộc thổ, thổ thuỷ, thủy hỏa, hỏa kim, kim mộc. Tương khắc cục, rất kỵ bên trọng bên khinh. Nếu dụng kim thủy, tất hỏa thổ không nên gặp vì là tạp khí; bằng như dụng thủy mộc, tắc hỏa kim không nên giao tranh. Mộc hỏa thành tượng thành cục, sợ nhất kim thủy phá cục; thủy hỏa thành cục, kỵ gặp thổ mà thổ ngăn thủy. Các cục khác đồng như thế. Hành vận đắc khí không phá cục tất danh cao, lộc trọng; vận trình tạp khí hỗn loạn, danh lợi không thành mà khuynh gia bại sản. Cho nên cách cục hình tượng rất khó toàn mỹ. Nếu nhật chủ được sanh mà đắc cách thì chính là lưu thông chi diệu, nhưng nhật chủ bị khắc mà gặp vận trình tiết hóa nhật chủ cũng là hòa hợp hữu tình.
55 - Giáp ngọ đinh mão giáp ngọ đinh mão
Mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu
Mệnh này mộc hỏa hai khí thành tượng, dụng đinh hỏa thương quan, tú khí diệu dụng. Tứ trụ không có kim thủy. Kỷ tị vận, đinh hỏa lâm quan, nhập cung vua, danh cao chức trọng; canh ngọ vận quan sát hỗn cục, từ chức hồi cố hương. Hậu vận toàn nhâm quý thủy vượng, thật khó mà tốt được vậy.
56 - Đinh mão ất tị đinh mão ất tị
Giáp thìn/ quý mão/ nhâm dần/ tân sửu/ canh tý/ kỷ hợi
Mệnh này cũng mộc hỏa hai khí thành tượng, chỉ khác trên (không) có thương quan (mậu) thấu xuất. Nhật chủ thuộc hỏa, sinh tháng hạ, hỏa vượng nên mộc tòng hỏa thế, tạo thành cách viêm thượng, không nên gặp vận canh kim. Vận đông phương (thìn, mão, dần), hỏa được sanh trợ. Làm quan đến chức tuần phủ Chiết Giang; đến vận tân sửu, năm thủy mộc hỏa thụ thương, không thể tránh được hoạ vậy. Nhị khí thành tượng, chỉ có thể thuận theo mà không thể nghịch phản vậy.
57 - Bính ngọ mậu tuất bính ngọ mậu tuất
Kỷ hợi/ canh tý/ tân sửu/ nhâm dần / quý mão/ giáp thìn
Mệnh này hỏa thổ hai khí thành tượng, dụng tuất thổ thực thần, tú khí diệu dụng. Tân sửu vận thấp thổ tiết hỏa, tú khí lưu hành, đăng khoa hương bảng; vận (sát) nhâm dần năm nhâm (thìn), dự phó hội, bất ngờ chết. Nhâm thủy kích bính hỏa, tất hỏa diệt vậy. Nếu như hai tuất thổ được hoán đổi bằng hai thìn thổ, là đất ướt không phải đất khô táo, tuy phùng thủy vận, cũng không gặp đại hung vậy.
58 - Mậu tuất tân dậu mậu tuất tân dậu
Nhâm tuất/ quý hợi/ giáp tý/ ất sửu/ bính dần/ đinh mão
Mệnh này thổ kim hai khí thành tượng, dụng tân kim thương quan diệu dụng. Mừng gặp vận phương bắc, tú khí lưu hành, thiếu niên đăng khoa giáp, sĩ chí hoàng triều. Giao vận bính dần, bính hỏa phá dụng thần tân kim, mất lộc. Phàm hai khí thành tượng, cần phải nhật chủ không được sanh, dụng thần hoặc thực hoặc thương quan. Gọi là tinh anh tú khí, thông tuệ phú quý đều có; vận khắc dụng thần, phá cục thì không tránh gặp họa. Như kim thủy, thuỷ mộc thành ấn thụ cách, không dụng được thực thương, cho nên không phú quý, cần nghiệm vậy.
59 - Mậu tuất quý hợi mậu tuất quý hợi
Giáp tý/ ất sửu/ bính dần/ đinh mão/ mậu thìn/ kỷ tị
Mệnh này thủy thổ hai khí thành tượng, mừng táo thổ được thông căn, tài mệnh hiếm có. Tuy nhiên, tháng hợi khí hàn, nên đến vận bính dần được khí hỏa sưởi ấm, vận đăng khoa giáp, thật vi diệu giáp mộc tàng trong hợi thủy ám sanh hỏa, làm quan đến chức quận thủ, quan lộ an bình.
Mùa đông khí hàn, thường dụng hỏa mới đẹp. Trừ một số trường hợp đặc biệt thuộc tòng cách.
60 - Quý hợi kỷ mùi quý hợi kỷ mùi
Mậu ngọ/ đinh tị/ bính thìn/ ất mão/ giáp dần/ quý sửu
Mệnh này thủy thổ tương khắc, hai khí thành tượng, sát không bị chế, nhật chủ thụ thương khắc. Sơ vận hỏa thổ, sanh trợ thất sát, tài cao chí lớn mà không gặp cơ hội, ngao du sơn thủy, thiếu người tri âm vậy. Giao vận ất mão, vận chuyển phương đông, chế sát hóa quyền, cơ hội bất ngờ, thăng tri huyện lệnh. Bởi vậy xem mệnh, gặp vận thực thương lại tốt đẹp, gặp ấn cục lại không hay, không đủ cát lợi. Tài cục, nhật chủ bổn khí không thụ thương, lại đắc vận trình, tất là toàn mỹ, ngộ nhỡ cục bị phá, tất sanh họa vậy.
Nguyên chú: Mộc tất đắc thủy sanh, hỏa (tiết mộc) hành mộc , thổ (khắc thủy, sinh kim) bồi mộc , kim (khắc mộc) thành mộc. Thành hình tượng cốt yếu không được quá vượng hoặc quá khuyết, tất có hại. Còn lại đều suy ra.
Nhâm thị viết: Nhật chủ thuộc mộc thành tượng, thực thương tiết khí nhật chủ, gặp thủy tức ấn tinh có thể sanh nhật chủ; quan sát quá vượng, có thể dụng hỏa khắc chế quan sát bảo hộ nhật chủ; ấn thụ thủy trùng điệp làm cho nhật chủ quá vượng, có thể dụng tài thổ khắc chế ấn bồi nhật chủ; tài suy kiếp vượng, có thể dụng kim tức quan sát khắc chế kiếp. Thành hình tượng sẽ đắc dụng (ý nói ngũ hành trong tứ trụ cần phải cân bằng mới đắc dụng), kế đến không bị thiên khô, danh lợi sao không toại nguyện được? Đơn cử luận về mộc như thế, ngũ hành đều có thể thành hình, chẳng qua là thay đổi hành khí mà thôi. Nếu tứ trụ không thành hình (không cân bằng), lại thêm gặp vận trình không tạo nên cân bình, tất chung thân lục đục, dữ nhiều lành ít, có chí mà vất vả gian nan lắm.
61 - Nhâm tuất nhâm tý giáp tý mậu thìn
Quý sửu/ giáp dần/ ất mão/ bính thìn/ đinh tị/ mậu ngọ/ kỷ mùi
Mệnh này thủy thế cường bạo, chỉ có mậu thổ tài tinh có thể làm dụng, không biết chỉ là phù phiếm. Tuy nhiên, mậu thổ cũng có căn gốc tại tuất thổ, nếu có thìn thổ mà không có tuất thổ, thìn thuộc thấp thổ, gặp thủy tất thành đồng đãng, nên mậu thổ không có căn mà hư nhược. Nếu không có chi thổ, há có thể phát phú vinh nổi danh được sao? Cho nên mệnh này trọng ở chi tuất táo thổ vậy. Nhưng hàn mộc không có hỏa sưởi ấm, phải có hỏa làm ấm, thì mộc mới phát phú vinh được, đến vận phương nam hỏa vượng, phát tài mấy vạn, danh khí lẫy lừng.
62 - Mậu dần ất mão giáp thìn tân mùi
Bính thìn/ đinh tị/ mậu ngọ/ kỷ mùi/ canh thân/ tân dậu
Mệnh này chi tam hội mộc cục, tỉ kiếp quá vượng, chỉ có một tân kim thấu xuất, chi mùi thổ sinh tân kim không đủ, sơ vận hỏa thổ vượng, không thiếu sinh hóa hữu tình, tiền tài hưng thịnh, dư dật; đến vận canh thân tân dậu, tân kim đắc địa mà tứ trụ cân bằng hữu dụng, làm quan đến chức châu mục; đến vận quý sanh mộc tiết kim, thất lộc.
Nhận xét: Trụ này dụng hỏa, kim đều được chẳng qua trong trụ can thấu tân kim, chi mùi tàng đinh hỏa. Nếu đổi lại không phải là tân mùi mà là tân sửu, khi đó không có đinh hỏa; gặp vận đinh tị rất hại vì đinh khắc tân quá nặng.
63 - Quý mùi ất mão giáp tuất ất hợi
Giáp dần/ quý sửu/ nhâm tý/ tân hợi/ canh tuất/ kỷ dậu
Mệnh này có tuất thổ, tuất chứa mậu thực thổ, xem ra tài bạch có thể phong phú dư dật. Chỉ vì tứ trụ không có kim, không có hỏa; lại có chi hợi thủy nâng đỡ, quý thủy thông căn sanh tỉ kiếp, hợi mão mùi hợp mộc cục, trợ tỉ kiếp càn rỡ. Xem qua các vận trình, toàn tỉ kiếp kiêu ấn, mới biết tổ nghiệp tiêu ma, khắc vợ không con. Bởi vậy xem mệnh quan trọng ở vận trình, lời xưa xem xét về vận há có thể qua loa : “Đắc vận tất đắc chí, vô vận bất tự thành”
Nhật chủ vượng, trong trụ có tài cần phải có thực thương hóa kiếp bảo hộ tài, hoặc có quan khắc kiếp bảo hộ tài. Nếu không có thực thương quan sát lại có kiêu ấn, tất gặp vận kiêu ấn tỉ kiếp khắc chế tài tinh, khắc vợ con, bần cùng.

TL: Trích Thiên Tủy - 9 chương đầu được dịnh bởi vnn1269

Đã gửi: 06:28, 28/01/14
gửi bởi VULONG
Nhâm thị viết : Độc tượng tức vượng cách, khúc trực viêm thượng. Hóa giả tức thực thương vậy, cục có thực thương cường vượng, hành vận thực thương, danh lợi đều toại nguyện. Tứ trụ ngũ hành đầy đủ, cần nên hợp mà được hợp, duy nhất hành khí thừa quyền, cũng chủ hanh thông tốt đẹp.
Ngày mộc, hoặc tam hội hoặc tam hợp toàn mộc cục, không có tạp khí kim khắc mộc là khúc trực cách; ngày hỏa, hoặc tam hội hoặc tam hợp toàn hỏa cục, không có hỗn tạp thủy khắc hỏa là viêm thượng cách; ngày thổ, tứ trụ toàn tứ khố thìn tuất sửu mùi, không có hỗn tạp mộc khắc thổ là giá sắc cách; ngày kim, hoặc tam hội hoặc tam hợp toàn kim cục, không có hỗn tạp hỏa khắc kim là tòng cách; ngày thủy, hoặc tam hội hoặc tam hợp toàn thủy cục, không có hỗn tạp thổ khắc thủy là nhuận hạ cách. Tòng một phương chi sẽ tú khí cát lợi, không giống sáu cách thường tình, cần phải đắc lệnh tháng, vượng lại được sanh. Vượng thế được dẫn thông thì đẹp nhất, cần nên xem xét kỹ càng.
Như cách Mộc độc vượng:
a - Gặp vận thổ (tài), cho dù tài là nguồn của cải nuôi dưỡng mệnh, trước tiên tứ trụ phải có thực thương làm dụng thần thông quan để không có tương tranh.
b - Gặp hỏa vận (thực thương), tinh hoa khởi phát, cần xem nguyên cục hữu tài vô ấn (tức có thổ mà không có thủy), phương không phản khắc, danh lợi có thể toại ý.
c - Gặp kim vận, phá cục, dữ nhiều lành ít.
d - Gặp thủy vận, mà cục không có hỏa, sanh trợ mộc vượng, cũng khá hanh thông (nhật chủ vượng, gặp ấn vận, tứ trụ không nên thấy thực thương).

Cho nên trước đây đã có thuyết về tòng vượng, gặp hành sanh vượng thì tốt; nếu trong cục lại có thực thương thì rất hung họa đến tính mạng. Như nguyên cục đã phục tàng phá thần, gặp vận hợp xung phá thần thì đẹp. Nếu nhật chủ không đắc lệnh, nếu gặp vận sanh trợ nhật chủ, công danh cũng khá; nếu như hành vận ngẫu nhiên gặp sát địa, lập tức gặp ngay hung họa, nếu trong cục có thực thương tất có khả năng phản khắc, phương sát địa cũng không đáng ngại. Tóm lại, can đứng đầu chi thần, dương khí thì cường, âm khí thì nhược; địa chi có hội hợp thành phương cục, lực hội tương đối mạnh hơn lực hợp. Độc tượng tuy đẹp, chỉ sợ vận trình phá cục; hợp tuy không hay, lại mừng chế hóa thành công.
64 - Giáp dần đinh mão giáp thìn bính dần
Mậu thìn/ kỷ tị/ canh ngọ/ tân mùi/ nhâm thân/ quý dậu
Chi toàn dần mão thìn, tam hội mộc cục, hóa thần bính đinh vậy. Phát tiết tinh hoa, thông minh tú khí, thiếu niên khoa giáp, tiền đồ sáng lạng; vận mậu thìn, kỷ tị tài địa, đắc bính đinh tiết mộc sinh thổ; vận canh ngọ, tân mùi có ngọ mùi tàng bính đinh có thể khắc canh tân kim; giao vận nhâm thân khắc chế bính đinh phá cục tổn hại tú khí, hàng chức về nhà mất lộc.
65 - Kỷ mùi đinh sửu mậu tý kỷ mùi
Bính tý/ ất hợi/ giáp tuất/ quý dậu/ nhâm thân/ tân mùi
Mệnh Phí trung đường, thiên can mậu thổ gặp đinh hỏa. Tý sửu hợp hóa thổ, thành giá sắc cách. Thổ trọng cần kim vượng, sửu tàng tân kim không thể dẫn xuất, với lại cục thấu tàng 3 đinh hỏa, tân kim bị thương khắc, không được sanh hóa hữu tình, cho nên gian nan khốn đốn. Nếu thiên can thấu một canh tân, địa chi tàng một thân dậu, tất đẹp lắm thay.
Thổ vượng, nhật chủ lại thuộc thổ thì dụng kim là đẹp nhất, tú khí lưu hành. Cần nhất dụng thần kim phải có lực, có gốc mới tốt.
66 - Bính dần giáp ngọ bính tuất ất mùi
Ất mùi/ bính thân/ đinh dậu/ mậu tuất/ kỷ hợi/ canh tý
Chi toàn hỏa cục, mộc tòng hoả thế, thành cách viêm thượng. Tiếc là mộc vượng khắc thổ, tú khí bị thương khắc, thi hương khó thành, xuất thân nhà võ, làm quan đến chức phó tướng. Hành vận thân dậu, vận cũng có tuất mùi hóa, nên yên ổn; vận ất hợi bán hợp dần mộc, hàng chức; giao vận canh tý, thiên can không thấu mậu kỷ, chi phùng xung kích, chết ở trung quân.
Tứ trụ có chi hội hỏa cục nên hỏa cực vượng, nhật chủ thuộc hỏa nên dụng thổ đẹp nhất, tú khí lưu hành. Nếu đã dụng thổ thì kỵ nhất trụ có mộc, tất khắc thổ tổn thương. Hành vận có chi thuộc kim, tất bị chi hỏa khắc nhưng nhờ tứ trụ có chi thổ tuất mùi hóa hỏa bảo hộ kim nên an ổn (hoặc nếu chi thủykhắcchi hỏa bảo hộ chi kim cũng tốt).
Hành vận có can thuộc kim tất sẽ bị can hỏa trong trụ khắc, nhưng nếu có can thổ mậu kỷ thì đỡ xấu do hóa hỏa bảo hộ kim (hoặc nếu can thủy khắc can hỏa bảo hộ can kim cũng tốt). Trụ này không có can thuộc thổ nên xấu. Lại có tý thủy xung ngọ hỏa, tức phá cách viêm thượng nên càng xấu, nhất định gặp họa.
67 - Canh thân ất dậu canh tuất canh thìn
Bính tuất/ đinh hợi/ mậu tý/ kỷ sửu/ canh dần/ tân mão
Mệnh này thiên can ất hợp hóa canh hóa kim, địa chi hội kim cục thân dậu tuất, thành cách tòng kim, trụ vô thủy, chẳng những thi hương bất lợi mà còn chết không được yên lành. Xuất thân quân ngũ, quan tham tướng, giao dần vận, tử trận. Cục không có thực thương, lại có dần tuất bán hợp hỏa cục khắc kim cục.
Kim vượng, nhật chủ thuộc kim. Thuận theo vượng thế, tiết hóa kim thật đẹp, tinh hoa phát tiết, tú khí lưu hành, công thành danh toại. Trụ có kim vượng lại không có thủy thì không nên gặp hỏa vận, tất sẽ chế khắc kim phá cục, gặp tai họa.
68 - Nhâm tý tân hợi quý sửu nhâm tý
Nhâm tý/ quý sửu/ giáp dần/ ất mão/ bính thìn/ đinh tị
Địa chi hợi tý sửu, can thấu nhâm quý tân, thành nhuận hạ cách. Mừng hành vận không gặp thổ; giáp dần vận mộc vượng khí lưu hành, đăng khoa giáp bảng; ất mão vận được thăng châu mục; vận bính thìn nguyên cục không có thực thương chi hóa, tỷ kiếp tranh tài, mất lộc.
Thủy vượng, nhật chủ thuộc thủy, trụ không có mộc (thực thương) không nên gặp hỏa vận (tài vận). Vì thủy khắc hỏa, kiếp tài. Nếu trụ có mộc thì mộc sẽ hóa thủy bảo hộ hỏa, là vận yên ổn.
Nhâm thị viết : Tam hội hợp cục, chuyên luận về thương quan cùng tài tinh.
a - Nhật chủ vượng, thương quan sinh tài, do đó nên gặp vận tài, nhưng tứ trụ nhiều tỉ kiếp, tài tinh bị kiếp đoạt, gặp vận quan lại cát lợi, thương quan vận cũng đẹp.
b - Nhật chủ vượng, thương quan khinh, có ấn thụ, mừng gặp tài vận, gặp vận quan xấu.
c - Nhật chủ vượng, tài khinh, trụ có tỉ kiếp, mừng gặp quan vận, tài vận không đẹp.
d - Nhật chủ vượng, tài quan đều có, mừng gặp tài mà không mừng gặp quan.
e - Nhật chủ hưu tù suy nhược, quan ấn tương sinh, mừng gặp ấn vận mà không mừng gặp tỉ kiếp.
Phần nhiều luận mệnh, không thể cố chấp, cần phải xem xét toàn cục, tình huống hỉ kỵ mà luận.
69 - Mậu thân bính thìn đinh mão giáp thìn
Ðinh tị/ mậu ngọ/ kỷ mùi/ canh thân/ tân dậu/ nhâm tuất
Nhật nguyên đinh mão, sinh tháng quý xuân. Thương quan sanh tài, hiềm mộc vượng thổ suy nhược, thi hương khó thành. Nhờ có thổ thương quan hóa kiếp, nên bính hỏa không đoạt tài, đến vận canh thân, tân dậu, thừa tổ nghiệp tuy suy vi, mà tự thân trùng chấn cơ nghiệp, tài phát hơn mười vạn.
70 - Kỷ tị tân mùi bính ngọ đinh dậu
Canh ngọ/ kỷ tị/ mậu thìn/ đinh mão/ bính dần/ ất sửu/ giáp tý/ quý hợi
Mệnh này tạo hỏa cục, chi thuộc phương nam hỏa địa, hỏa thổ thương quan sanh tài. Đinh hỏa cực vượng thấu can, cục không có khí thủy, kình dương tỉ kiếp, tổ nghiệp không bền, cha mẹ mất sớm, tuổi thơ cơ khổ, trung niên cơ hàn. Vận đông nam, là nơi mộc hỏa vượng địa, vợ con tiền bạc một chữ “không”. Đến vận sửu, phương bắc thấp thổ, tiết hỏa, ám hội kim cục, từ đây trở đi đắc tế ngộ, lập nghiệp phát tài, đến bảy mươi tuổi lập thiếp, sanh hai quý tử. Đến vận giáp quý hợi, phương bắc thủy địa, hoạch lợi mấy vạn, thọ đến chín mươi tuổi. Ngạn ngữ: “Hữu kỳ vận, tất đắc kỳ phúc”,
Trụ này tam hội hỏa cục, hỏa cực vượng, nhật chủ thuộc hỏa. Mừng nhất trụ có can thấu kỷ thổ, chi tàng mùi thổ, thực thương tú khí lưu hành. Nếu gặp vận thực thương thổ tiết hóa hỏa tất sẽ phát tiết tinh hoa rất đẹp. Hoặc gặp tài vận kim cũng tốt do trụ đã có thổ tiết hóa hỏa bảo hộ kim. Vì trụ đã có thực thương, nhật chủ lại vượng nên gặp ấn vận khắc chế thực thương rất xấu. Đồng thời trong trụ đã có tài tinh, nhật chủ lại vượng nên gặp vận tỉ kiếp cũng xấu. Gặp thủy vận (quan vận) cũng khá, do trong trụ đã có can chi thổ khắc thủy bảo hộ hỏa.