TL: SÁCH TĂNG SAN BỐC DỊCH . Dã Hạc lão nhân
Đã gửi: 20:50, 03/08/12
TĂNG SAN BỐC DỊCH
Trứ tác: Dã-Hạc lão nhơn
Tăng san: Lý-văn-Huy Giác-tử
Nguyễn-Minh-Thiện dịch
CUỐN THỨ NHỨT:
1: Bát quái
2: Bát quái đồ
3: Bát cung
4: Hỗn-thiên giáp-tý
5: Lục thân ca
6: Thế Ứng
7: Động b iến
8: Dụng-thần
9: Dụng-thần, Nguyên-thần, Kỵ-thần, Cừu-thần
10: Nguyên-thần, Kị-thần suy vượng
11: Ngũ hành tương sanh
12: Ngũ hành tương khắc
13: Khắc xứ phùng sinh
14: Động tịnh, sinh khắc
15a: Động biến, sinh khắc, xung hạp
15b: Tứ thời vượng tướng
16: Nguyệt tướng
17: Nhựt thần
18: Lục thần
19: Lục hạp
20: Lục xung
21: Tam hình
22: Ám động
23: Động tán
25: Phản phục
26a: Tuần không
26b: Sanh, Vượng, Mộ, Tuyệt
26c: Các môn loài đề-đầu tổng chú
26d: Các môn loại ứng-kỳ tổng chú
26e: Quy-hồn, Du-hồn
CUỐN THỨ NHÌ
27: Nguyệt-phá
28: Phi, Phục thần
29: Tấn-thần, Thối-thần
30: Tùy quỉ nhập mộ
31: Độc phát
32: Lưỡng hiện
33: Tinh sát
34: Tăng san Huỳnh-kim Sách, Thiên-kim Phú
TỰA
Thánh Dã Hạc nói: Đạo bói quẻ Dịch là Tâm pháp của bốn vị Thánh lớn: Phục Hi, Văn
Vương, Chu Công, và Khổng Tử.
Ai học cho tinh vi thì có thể biết việc Trời Đất. Còn học lý chút ít, cũng có thể hiểu việc cát
hung.
Phàm học bói có thể học đến chỗ cao xa, mà cũng có thể học những điều sơ cạn, thì trước
cần học trang quẻ, biết chỗ động biến, cùng là những quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hay
những quẻ lục hợp cùng là quẻ biến lục hợp. Hãy coi kỹ trong chương "Dụng Thần": chiếm
cho người nào? Chiếm về việc gì? Rồi mới biết lấy hào nào làm Dụng Thần.
Lại nên xem coi: Thế nào là Tuần Không? Thế nào là Nguyệt Phá? Thế nào là bốn mùa
Xuân Hạ Thu Đông, suy vượng? Thế nào là sinh khắc, là xung hình, thì sẽ tự biết quyết
đoán họa phúc.
CẦU CÔNG DANH: Nếu đặng vượng quan trì Thế hoặc ngày, tháng, hào động làm Quan
Tinh (lâm hào Quan Quỷ) sinh hợp với Thế hào, thì cầu danh như là lấy đồ trong túi. Nếu
gặp Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, thì cầu thi đậu hay cầu thăng chức,
đều là như mò trăng đáy nước.
CHIẾM CẦU TÀI: Nếu đặng Tài Tinh trì Thế, hoặc ngày, tháng, hào động lâm Tử Tôn, sinh
hợp Thế hào, hoặc Quan Quỷ trì Thế được Tài động sinh ra nó, hoặc Phụ Mẫu trì Thế, Tài
động khắc Thế đều là hứa chắc cầu tài, dễ như bực trưởng giả gải ngứa mà thôi. Nếu gặp
Huynh Đệ trì Thế, hoặc hào Huynh Đệ động ở trong quẻ, hoặc Thế trúng Tuần Không,
Nguyệt Phá, thì chẳng khác nào leo cây bắt cá.
CHIẾM VẬN HẠN NĂM, THÁNG: Nếu là người hiện đang nhiệm chức quan thì phải Quan
Tinh trì Thế, Tài động sinh ra nó, đều là hứa chắc cát khánh. Nếu gặp Quan Quỷ tương
khắc hay ngày, tháng, hào động, lâm Tử tôn xung khắc Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế),
hoặc lâm Quan Quỷ xung khắc Thế hào (tức Huynh Đệ trì Thế), hoặc Thế lâm Tuần Không,
Thế bị Nguyệt Phá, hay Quan bị Nguyệt phá hoặc lâm Tuần Không, hoặc Thế động hóa ra
hồi đầu khắc, hoặc Tử Tôn trì Thế đều là điềm Hung.
Thường dân chiếm Vận Hạn một tháng, mừng được hào Tài hay Tử Tôn trì Thế, hứa chắc
một năm hanh thông. Nếu gặp Quan Quỷ trì Thế mà đặng ngày tháng, hào động làm Tài
Tinh, sinh hợp Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế) thì sẽ có cát lợi. Nếu không có Tài động
sinh hợp Thế hào mà Quan Quỷ trì Thế phải gặp tai nạn, thị phi (hoặc không có công việc
làm, hoặc bị mất viêc...). Nếu Thế bị Nguyệt Phá hay hồi đầu khắc phá, Thế lâm Tuần
Không, cùng Quỷ động khắc Thế, hay Thế suy nhược lại bị hình, xung, khắc; hoặc Huynh
động khắc Thế, sẽ gặp khẩu thiệt, phá tài, hoặc bệnh tật.
Thường Dân chiếm lưu niên (đoán Vận mỗi năm), tháng hợp với Thế hào thì kiết, tháng
xung với Thế hào thì hung. Không nên có Thế hào biến Quỷ và hóa ra hồi đầu khắc, định
có hung nguy. Lại cũng không nên Tài động hóa Phụ, Phụ động hóa Tài, hoặc Quỷ động
hóa Phụ Mẫu, phải có tai nạn cho cha mẹ (người bề trên), hoặc bệnh tật nặng nề. Còn
Huynh Đệ động hóa Quỷ, Quỷ biến Huynh Đệ, phòng anh em có tai ách và mình. Tài hóa
Quỷ, Quỷ hoá Tài, Tài hóa Huynh, Huynh hóa Tài, chắc có thương khắc vợ hầu, tôi tớ,
người làm công. Tử hoá Quỷ, Quỷ hóa Tử, Phụ hóa Tử Tôn, Tử Tôn hóa Phụ, thì trẻ nhỏ sẽ
thọ hại.
Thanh Long, Thiên Hỉ (Dụng Thần) trì Thế, sinh Thế, thì có điềm vui, hể Quỷ phá động sẽ
có hiếu phục (có tang tóc). Phi Xà, Chu Tước gia ngay hào Huynh trì Thế, Quỷ động khắc
Thế tu phòng khẩu thiệt, miệng tiếng thị phi, kiện tụng. Huyền Vũ gia ngay hào Huynh trì
Thế, Quỷ động khắc Thế tu phòng đạo tặc (bị cướp), hoặc kẻ xấu hãm hại. (Theo tôi kiểm
nghiệm thấy, dù Huynh Đệ trì Thế mà hóa Quỷ thì mình bị khẩu thiệt nhiều hơn, hoặc anh
em gặp nạn, còn thân mình chẳng sao. Nếu mình không có anh em thì mới ứng vào mình.
Trường hợp Quan trì Thế suy nhược lại động hoá khắc, hóa mộ thì chắc chết, thêm Phi Xà
hay Bạch Hổ thì chắc nhập hoàng tuyền, được truy tặng mộ bia. Chắc hơn nữa, nên xủ lại
nhiều lần, nếu quẻ đều hiện thế mà không lo tu hành chắc phải chết).
CHIẾM TRÁNH TỤNG SỰ, PHÒNG THỊ PHI, TAI HỌA: như cừu nhân làm hại, và đi sông
biển, vào hiểm địa, (ngủ đêm lữ điếm, tá túc chùa miểu), hoặc kinh doanh mậu dịch, mua
lầm vật trộm, hoặc thấy nhà gần lửa cháy, hoặc hỏi về ôn dịch lưu hành, phòng hổ lang,
phòng trộm cướp, hoặc đi gấp trong đêm, hoặc đã vào trường thị phi, lòng lo hoạn họa,
hoặc muốn ngăn ngừa việc chi mà e sinh tai phi, hoặc vào nhà người bệnh, đề phòng
truyền nhiểm, hoặc ăn lầm đồ độc e phải chết, hoặc mang trọng tội cầu mong ân xá, hoặc
vương bệnh hiểm mà muốn phong nguy, hoặc hỏi xem món vật này hoặc món thuốc kia có
nên dùng không, hoặc hỏi về người lạ thú dữ có hại đến mình không, phàm gặp các việc
đề phòng mà đặng Tử Tôn trì Thế hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, hoặc Thế động biến ra
Tử Tôn, hoặc Thế động hóa hồi đầu tương sinh, hoặc Quan Quỷ động để tương sinh, thì
dù thân mình ở trong miệng cọp, hứa chắc được yên ổn như ngồi trong núi Thái Sơn. Duy
kỵ Quan Quỷ trì Thế ngờ vực lo lắng khó giải. Quỷ khắc Thế, tai họa sẽ xâm. Thế động hóa
Quỷ và hoá hồi đầu khắc, họa đã đến mình, không thể trốn khỏi. Duy Thế hào lâm Tuần
Không, không lo. Thế hào bị phá thì không lợi.
CHIẾM BỆNH: Như mình chiếm bệnh cho mình, nếu đặng hào Thế vượng tướng, hoặc ngày
tháng, hào động sinh hợp với Thế hào, hoặc Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong
quẻ, chẳng luận bệnh lâu, bệnh mới, hoặc cầu thần, hoặc uống thuốc, tức khắc sẽ an
khang.
Bệnh mới hào Thế gặp Tuần Không, hoặc Thế động hóa Không, hoặc quẻ gặp lục xung hay
biến lục xung, chẳng cần uống thuốc mà hứa chắc sẽ lành mạnh.
Bệnh lâu quan Quỷ trì Thế hưu tu, hoặc ngày, tháng, hào động khắc hào Thế, hoặc Thế
gặp Tuần Không, Nguyệt Phá, Thế động hóa Không, hóa khắc phá, hoặc gặp quẻ lục xung,
hoặc quẻ biến lục xung thì dù cho Biển Thước cũng khó chữa.
Như có người bị bệnh khá nặng mà không biết, đến khi phát hiện bác sĩ cho hay có thể bị
ung thư, chờ khám nghiệm trong khi hiện tại lại thấy còn đang rất khỏe. Gia đình rất sợ,
gọi hỏi tôi xem sống chết thế nào? Chính đương sự xủ được quẻ Bát Thuần Khôn, ngày
Quý Mão tháng Đinh Mùi.
Khôn vi Địa
▬ ▬ Tử Dậu Thế (ám động)
▬ ▬ Tài Tý
▬ ▬ Huynh Sửu
▬ ▬ Quan Mão Ứng
▬ ▬ Phụ Tỵ
▬ ▬ Huynh Mũi
Xem quẻ Thấy Tử Tôn trì Thế lẽ ra phải đoán là bình an vô sự, nhưng vì là quẻ lục xung,
mà bệnh trì trệ không biết lâu mau, vì người này đã bị bệnh ì ạch lâu rồi mà không biết,
nên tôi đoán rằng: "Nếu là mới bệnh thì nhất định mạnh, còn bệnh lâu thì chắc là chết, tuỳ
theo lâu mau thôi. Mong rằng chị ấy mới bệnh thì tháng 7 Âm Lịch Thế lâm vượng địa Hỏa
của mùa hè không khắc được nữa thì lành. Còn bệnh lâu thì ngược lại vì Tử Tôn lâm Bạch
Hổ". Quả nhiên, chết ngày Đinh Sửu tháng Mậu Thân (7) năm Nhâm Ngọ.]
CHIẾM CHA MẸ BỆNH: Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Nếu gặp hào Phụ Mẫu vượng
tướng, hoặc ngày, tháng, hào động sinh Phụ Mẫu, hoặc Phụ Động hóa vượng, chẳng luận
bệnh đau lâu hay mới bệnh, uống thuốc lập tức bình an.
Bệnh mới đau, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Phụ động hoá Không, hoặc gặp quẻ lục xung,
chẳng uống thuốc mà mạnh. Bệnh đau lâu, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Nguyệt phá,
hoặc phụ động hóa Không, hóa phá, Phụ động hóa Tài, Tài hoá Phụ Mẫu, gặp quẻ lục
xung, hoặc hào Phụ hưu tù, lại bị ngày, tháng, hào động xung khắc, làm con phải gấp lo
chạy thuốc men, bản thân săn sóc, chớ khá rời xa.
CHIẾM ANH EM BỆNH: Nếu đặng hào Huynh Đệ vượng tướng, hoặc đồng với ngày, tháng,
hoặc ngày, tháng hào động tương sinh, hoặc Huynh Đệ động hóa vượng, hóa sinh, chẳng
luận bệnh củ hay mới, hứa sẽ bình an.
Bệnh mới đau, hào Huynh gặp Tuần Không và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ
biến lục xung, uống thuốc thì mạnh. Bệnh đau lâu, hào Huynh gặp Tuần Không, Nguyệt
phá, và động mà hóa Không hóa phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Huynh động
hóa quỷ, quỷ hóa Huynh hào, hoặc hào Huynh hưu tù, bị ngày tháng, hào động xung khắc,
mau gấp uống thuốc, cầu phước. Bằng trể thì khó mà trị lành (chết nhiều hơn sống).
CHIẾM CON CHÁU BỆNH: Hào Tử Tôn vượng tướng, hoặc đồng cung với ngày, tháng, hào
động, sinh hợp, hoặc hào Tử Tôn hồi đầu hóa sinh, hóa vượng, chẳng luận bệnh đau lâu
hay mới đau, uống thuốc, cầu phước thì mạnh.
Bệnh mới đau, Tử Tôn lại gặp Tuần Không, và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ
biến lục xung, chẳng uống thuốc, mà mạnh. Bệnh đau lâu, Tử Tôn gặp Tuần Không, và
động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Tử Tôn động mà hóa Quỷ, Quỷ
hóa Tử Tôn, Phụ hóa Tử, Tử hóa Phụ và ngày, tháng, hào động xung khắc, thì phải mau
uống thuốc. Bằng trể thì khó mà sống.
CHIẾM CHO VỢ HẦU ĐAU: Lấy Tài làm Dụng Thần. Hào Tài vượng tướng, hoặc đồng với
ngày, tháng, hào động tương sinh, hoặc hào Tài động hóa Tử Tôn, hoặc động hóa sinh
vượng, chẳng luận lâu mau, trị thì thấy lành.
5
Bệnh mới đau, Tài gặp Tuần Không và động mà hóa Không, hoặc gặp lục xung, quẻ biến
lục xung, chẳng cần uống thuốc, dám hứa nạn qua. Nếu bệnh đau lâu, hào Tài hóa Không,
hóa Phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hoặc Tài động biến Quỷ, Quỷ động hóa Tài,
Huynh Đệ hóa Tài, Tài hóa Huynh Đệ, trên đời dù có lương y cũng khó trị lành (chết nhiều
hơn sống).
Phàm chiếm bệnh cho ba đảng: Phụ Tộc, Mẫu Tộc, Thê Tộc (bà con bên Nội, bà con bên
Ngoại, và bà con phía vợ) cùng là quan trưởng, Thầy trò, tôi tớ, người giúp việc, đều phải
coi chương Dụng Thần mà chọn cho đúng Dụng Thần, thì có thể xem rõ lành bệnh, hoặc
sống chết. Còn chiếm bệnh cho bằng hữu là kẻ ngoại nhân, thì lấy ứng hào làm Dụng
Thần. Đó cũng là lẽ thường, nhưng có khi không ứng nghiệm. Tại sao? Có lẽ vì không phải
ruột rà, nên không hết lòng thành mà ra vậy.
(Theo tôi đã nghiệm thấy, đối với bạn bè mà người có niềm tin, và là bạn bè chí thân, hết
lòng cho nhau, thì quẻ ra vẫn ứng rõ ràng. Ta có thể dùng Ứng hào, hoặc chọn ngay Dụng
Thần là Huynh Đệ, tuỳ theo quẻ, vẫn đoán rất chính xác)
Thánh Dã Hạc nói: Có người hỏi tôi rằng, "Cứ theo lời thầy nói, bói quẻ là một việc rất dễ
dàng. Như chiếm công danh, quan chức, mà đặng vượng Quan trì Thế, sẽ thành danh;
Tử Tôn trì Thế thì thất vọng. Chiếm tật bệnh, bệnh mới đau mà gặp lục xung, gặp Tuần
Không, chẳng uống thuốc cũng hết bệnh. Bệnh đau lâu, mà gặp xung, gặp Tuần Không, dù
có thuốc linh đơn cũng không thể cứu. Như đặng thấy hiển nhiên như vậy thì thật không
phải khó biết. Còn như chiếm tật bệnh mà không gặp lục xung, Dụng Thần chẳng thấy
Tuần Không, vượng chẳng vượng, suy chẳng suy, hung chẳng hung, mà cát chẳng cát. Lại
như chiếm công danh, sự nghiệp, Quan với Tử Tôn không trì Thế, 6 hào Loạn động, Tài
phụ đồng hung, thì mới lấy chi mà nhất quyết?"
- Nếu anh xủ rèm mà làm nghề bói mướn, mỗi ngày xủ nhiều quẻ, thì đâu mà đặng toàn là
những quẻ hiển nhiên dễ thấy. Cũng trong hung mà ẩn cát, trong cát mà ẩn hung, thì phải
ráng tìm áo lý để ý xét suy.
Nếu anh muốn tự biết xu kiết tỵ hung, tất nhiên không có loạn chiếm nhiều quẻ, không có
tạp niệm trong lòng. Mỗi khi gặp một việc gì, thì tức khắc bói liền. Thần chẳng gạt người.
Hễ chiếm danh mà đặng thành, thì có Quan trì Thế. Còn không đặng thành, thì Tử Tôn sẽ
động ở trong quẻ. Hoặc như có quẻ không minh bạch rõ ràng thì mai sớm hết lòng thành
bói lại coi. Nếu còn rối reng nữa, thì bói lại nữa, tự nhiên có tương ứng. Nhưng khi chiếm
trong lòng chẳng nên tưởng nhớ hai việc. Lòng thành nhất niệm, thì sẽ thấy ứng. Nếu một
lần chiếm đôi ba việc thì quẻ không linh.
Lại như chiếm tật bệnh, còn dễ dàng lắm vậy. Một người có bệnh trong nhà ai khác cũng
có thể chiếm thay, tha hồ mà chiếm giùm. Nếu là bệnh mới đau, chỉ có một quẻ, một hào
gặp lục xung, hoặc quẻ biến lục xung, hoặc Dụng Thần gặp Tuần Không, hoặc động mà
hóa Không, đó là bệnh dễ mạnh. Bệnh đau lâu, mà nhằm nó, thì mang tai, vì khó trị. Lại
như phòng tai sợ nạn, chỉ đặng hào Tử Tôn trì Thế thì ở trong chỗ sấm sét, hứa chắc bình
an, không sao cả. Vậy thì có gì là khó đâu.
Khách nói: Chiếm một lần đã phiền nhọc Thần linh, chẳng dám hỏi lần thứ hai thứ ba nữa,
đâu dám bói luôn mấy ngày như vậy.
Thánh Dã Hạc trả lời: Vì một lời nói đó mà hết thả những người bói quẻ phải lầm lạc. Vậy
anh nghe nói: "Ba người chiếm thì do lời hai người bàn" không? Một việc mà đã chiếm ra
ba chỗ, thì tái cầu có hại gì? Cũng có một trường hợp không chiếm lại là, trong một khắc
mà chiếm hoài một việc. Phải chờ mai xem lại mới là tốt.
Lại cũng có trường hợp chiếm liên tiếp mà nhiều ngày cũng không nên, là như chiếm công
danh, đã đặng Tử Tôn trì Thế, trong lòng không thích, muốn chiếm lại sao cho được Quan
trì Thế mới chịu thôi. Đó gọi là làm phiền nhọc Thần linh nhiều lần. Nhưng tôi cũng thấy có
kẻ làm như vậy, mà Thân linh cũng chưa từng không ứng.
Tôi nhân thuở nhỏ lao bề công danh, chiếm đến 7 lần. Sáu lần đặng Tử Tôn trì Thế. Đó là
Thần Linh chẳng phải chán, vì tôi hỏi nhiều lần. Mỗi lần hỏi, thì mỗi lần có báo tin. Mà chán
tôi nhiều là, như tôi hỏi quẻ cầu tài, để chỉ rõ số tiền hiện hữu, lòng tôi đã rõ rồi mà cứ hỏi
hoài, thì Thần không nói nữa. Có nói, là nói về viêc tôi không có hỏi.
Như có một ngày kia, tôi chiếm cầu tài. Vượng Tài trì Thế thì tôi đã rõ ngày Thìn đặng tài.
Ngày kế, tôi chiếm một quẻ coi quả ngày Thìn đặng có Tài không? Quẻ đặng hào Thân
Kim Huynh động, mà không rõ là nói gì. Đến ngày Thìn đặng tài, đến ngày Thân vì việc
khác mà mất tài. Mới biết Thần cho tôi rõ ngày Thìn có tài, mà ngày kế tôi còn hỏi nữa nên
Thần không nói. Thần lại nói, "ngày Thân mất tài", cho nên biết rằng hỏi nhiều lần, Thần
cũng không trách, mà lại báo tin về việc ta không hỏi. Việc như vậy rất nhiều.
Tôi viết cuốn sách này ra, là để truyền bí pháp cho bực hậu hiền. Nhưng không phép nào
khác, chỉ dạy người học bực sơ cạn, phàm gặp quẻ mơ hồ trong lòng chưa biết rõ, thì
chiếm nhiều lần vô ngại. Nếu trong quẻ đã hiện rỏ ràng rồi, thì chớ nên hỏi nữa.
Chí như chiếm bệnh, một người có bệnh, thì cả nhà ai cũng chiếm thế cho được, tự có quẻ
ứng linh. Lại gặp việc, thì chiếm liền, thừa lúc chưa loạn, chẳng khá nghĩ nhiều việc trong
lòng. Việc nhiều tâm loạn, thì không phải là lòng thành nhất niệm nữa.
Còn dạy kẻ học bói đến chỗ sâu xa, sau có chia phép chiếm và nói về chỗ sai lầm ở trong
các sách, chỉ thêm chỗ áo lý, nên nghiền ngẫm mà hiểu cho rõ cái ý nghĩa.
Đó là công trình của tôi trong bốn chục (40) năm, cả ngày ăn rồi chỉ lo một việc đó, chẳng
lìa ra chốc lát nào hết, mới là đặng vậy. Đó là chỗ tiên hiền chưa truyền. Phải ráng từ đầu
đến cuối, tỷ mỉ xét rõ, tự nhiên xảo đoạt thiên công. Muốn tham cứu chỗ hóa dục (sinh
biến) của Trời Đất, suy trắc lý ẩn vi của Quỷ Thần, không phải khó.
Giác Tử cũng có nói: "Nếu gặp việc gấp dù trong một giờ, cũng có thể chiếm năm ba quẻ
liên tiếp".
Cá nhân tôi có kinh nghiệm với một cô em dâu chưa cưới, Cô này đang chuẩn bị vào
trường thuốc để học bác sĩ, và cô chỉ thích làm bác sĩ không học gì khác, nên đã đến nhờ
tôi xem quẻ có được nhận hay không. Từ năm ngoái đến năm nay xủ gần chục quẻ, từ
quẻ đầu cho đến quẻ cuối, không quẻ nào mà không Tử Tôn trì Thế. Nên tôi đã đoán nhất
7
định số cô làm bác sĩ thôi không thể làm gì khác. Và tôi cũng đã có cơ hội xem cho 3 người
bác sĩ đã hành nghề nhiều năm, hễ họ xủ quẻ hỏi về Vận Số là Tử Tôn trì Thế. Còn tôi có
ông bạn làm Cha nhà thờ, xủ khá nhiều quẻ về bản Mệnh mà không hề có quẻ nào là Tử
Tôn trì Thế cả, thật tôi không hiểu lý do, nhưng đó là việc rất lạ. Cũng như số Thánh Dã
Hạc được làm Thầy Thiên Hạ và làm Vĩ Nhân nên 6 lần đều Tử Tôn trì Thế là vậy. Nên nhớ
Thầy thuốc, Tăng đạo, Thầy tướng, trung thần lương tướng, cửu lưu thuật sĩ, con cháu,
phước đức đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần).
Dám chắc với các bạn là sắp tới sẽ có người mặc dù chê bai Bốc Dịch, còn viết ra thành
văn nữa, nhưng sẽ thử áp dụng cách tôi đã viết ra ở trên hoặc sắp tới, để xem có khả
năng làm Thầy không. Và cũng xin thông báo trước nếu khi xủ quẻ bản Mệnh thấy mình
không có Tử Tôn trì Thế mà đoán số càn bậy thì nghiệp không phải ít đâu nhé. À, tôi còn
quên một điều này nữa, có cô bạn làm Đông y sĩ châm cứu, đã xủ quẻ hỏi bản mệnh năm
nay. Cô ta xủ tổng cộng 3-4 quẻ gì đó, đều là Tử Tôn trì Thế!
Từ từ tôi sẽ viết ra cách các bạn có thể xem thử cho mình khi đi gặp bác sĩ khám bệnh,
Thầy coi Tử Vi, coi bói, Thầy dạy học hay thầy dạy Tử Vi, hoặc xem người mình hỏi là
người giỏi hay dỡ hay là bọn nói dốc, hay là người ta đây chỉ nói khoác lác... Các bạn đều
có thể xem biết hết! Khỏi phải sợ ai lường gạt. Lấy vượng suy để đo lường khả năng, tiền
bạc, cũng như học thuật của mình của người.
Đạo Càn là cha thuộc Dương: sinh ra Chấn = trưởng nam, Khảm = trung nam, Cấn = thiếu
nam
Đạo Khôn là mẹ thuộc Âm: sinh ra Tốn = trưởng nữ, Ly = trung nữ, Đoài = thiếu nữ
Chương 2: QUÁI TƯỢNG ĐỒ
CÀN tam liên (3 gạch liền): được 3 hào Dương không có hào bị đứt khúc
KHÔN lục đoạn (6 đoạn): được luôn 3 hào Âm có 6 đọan ngắn
CHẤN ngưỡng bồn (chậu để ngửa): hào đầu dương, hào 2 hào 3 là Âm
CẤN phúc oản (chén để úp): hào 1 hào 2 là Âm, hào 3 Dương
Ly trung hư (giữa ruột trộng): hào 1 và hào 3 Dương, hào 2 ở giữa Âm
KHẢM trung mãn (giữa ruột đầy): hào 1 và hào 2 là Âm, hào 2 Dương
ĐOÀI thượng khuyết (trên khuyết): hào 1 hào 2 Dương, hào 3 là Âm
TỐN hạ đoạn (dưới đứt khúc): hào đầu Âm, hào 2 hào 3 là Dương
Cách Xủ Quẻ (dùng 3 đồng tiền)
1 đồng sấp (head) là Dương, thì gạch 1 gạch dài ( ▬▬▬ )
2 sấp (2 heads) là Âm thì gạch 2 gạch ngắn ( ▬
3 sấp là Lão Dương, thì vẽ 1 vòng tròn ( O )
3 ngữa là Lão Âm, thì vẽ hai đường chéo ( X )
Một gạch dài (▬▬▬) là Thiếu Dương, còn vòng tròn (O) gọi là Lão Dương - tức là hào
Dương động. Hai gạch ngắn (▬ ▬) là Thiếu Âm, còn chữ (X) gọi là Lão Âm - tức là hào
Âm động. Phàm trong quẻ có vòng tròn, dấu chéo, thì gọi là quẻ động.
Muốn hỏi việc chi, thì lòng phải chí thành, bày tỏ tên họ, chỗ ở, cầm 3 đồng tiền gieo vào
trong mâm, hoặc đĩa, hoặc trên bàn, hoặc dưới nền nhà, coi mấy đồng ngữa mấy đồng
sấp. Thấy 1 sấp thì gạch 1 gạch dài (▬▬▬), 2 sấp thì vạch 2 gạch ngắn (▬ ▬), 3 sấp
thì vẽ vòng tròn (0), 3 ngửa thì viết chữ X (X). [Dùng tiền xưa, thì bên không chữ là sấp
Dương (▬▬▬), bên có chữ là ngửa - Âm (▬ ▬). Tại sao thế, vì Dương chủ là Khí, còn
Âm chủ là Thể, như khí của cha truyền qua mẹ tạo thành hình thể của con là vậy, đó là
nguyên lý mà cổ nhân đặt ra như thế.]
Thí dụ gieo tiền 6 lần ta được quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế như sau:
▬▬▬ O
▬ ▬ X (3 hào trên hợp lại là quẻ ngoại, gọi ngoại quái)
▬▬▬ O
▬ ▬X
▬▬▬ O (3 hào dưới hợp lại là quẻ nội, gọi nội quái)
▬ ▬X
Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế, nạp thành 6 hào như sau:
Hỏa Thủy Vị Tế è Ký Tế
Huynh Tỵ Ứng O è Quan Tý
Tử Mùi X è Tử Tuất
Tài Dậu O è Tài Thân
Huynh Ngọ Thế X è Quan Hợi
Tử Thìn O è Tử Sửu
Phụ Dần X è Phụ Mão
Chú Ý: khi vạch quẻ thì vạch từ dưới lên, mà khi đọc quẻ thì đọc từ trên xuống. Như quẻ
trên có Ly trên (Ly trung hư), Khảm dưới (Khảm trung mãn), nên đọc là Hỏa Thủy Vị Tế
(tượng là chưa xong). Khi biến ra thì có quẻ Khảm trên, Ly dưới, nên đọc là Thủy Hỏa Ký
Tế (tượng đã xong).
Trứ tác: Dã-Hạc lão nhơn
Tăng san: Lý-văn-Huy Giác-tử
Nguyễn-Minh-Thiện dịch
CUỐN THỨ NHỨT:
1: Bát quái
2: Bát quái đồ
3: Bát cung
4: Hỗn-thiên giáp-tý
5: Lục thân ca
6: Thế Ứng
7: Động b iến
8: Dụng-thần
9: Dụng-thần, Nguyên-thần, Kỵ-thần, Cừu-thần
10: Nguyên-thần, Kị-thần suy vượng
11: Ngũ hành tương sanh
12: Ngũ hành tương khắc
13: Khắc xứ phùng sinh
14: Động tịnh, sinh khắc
15a: Động biến, sinh khắc, xung hạp
15b: Tứ thời vượng tướng
16: Nguyệt tướng
17: Nhựt thần
18: Lục thần
19: Lục hạp
20: Lục xung
21: Tam hình
22: Ám động
23: Động tán
25: Phản phục
26a: Tuần không
26b: Sanh, Vượng, Mộ, Tuyệt
26c: Các môn loài đề-đầu tổng chú
26d: Các môn loại ứng-kỳ tổng chú
26e: Quy-hồn, Du-hồn
CUỐN THỨ NHÌ
27: Nguyệt-phá
28: Phi, Phục thần
29: Tấn-thần, Thối-thần
30: Tùy quỉ nhập mộ
31: Độc phát
32: Lưỡng hiện
33: Tinh sát
34: Tăng san Huỳnh-kim Sách, Thiên-kim Phú
TỰA
Thánh Dã Hạc nói: Đạo bói quẻ Dịch là Tâm pháp của bốn vị Thánh lớn: Phục Hi, Văn
Vương, Chu Công, và Khổng Tử.
Ai học cho tinh vi thì có thể biết việc Trời Đất. Còn học lý chút ít, cũng có thể hiểu việc cát
hung.
Phàm học bói có thể học đến chỗ cao xa, mà cũng có thể học những điều sơ cạn, thì trước
cần học trang quẻ, biết chỗ động biến, cùng là những quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hay
những quẻ lục hợp cùng là quẻ biến lục hợp. Hãy coi kỹ trong chương "Dụng Thần": chiếm
cho người nào? Chiếm về việc gì? Rồi mới biết lấy hào nào làm Dụng Thần.
Lại nên xem coi: Thế nào là Tuần Không? Thế nào là Nguyệt Phá? Thế nào là bốn mùa
Xuân Hạ Thu Đông, suy vượng? Thế nào là sinh khắc, là xung hình, thì sẽ tự biết quyết
đoán họa phúc.
CẦU CÔNG DANH: Nếu đặng vượng quan trì Thế hoặc ngày, tháng, hào động làm Quan
Tinh (lâm hào Quan Quỷ) sinh hợp với Thế hào, thì cầu danh như là lấy đồ trong túi. Nếu
gặp Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, thì cầu thi đậu hay cầu thăng chức,
đều là như mò trăng đáy nước.
CHIẾM CẦU TÀI: Nếu đặng Tài Tinh trì Thế, hoặc ngày, tháng, hào động lâm Tử Tôn, sinh
hợp Thế hào, hoặc Quan Quỷ trì Thế được Tài động sinh ra nó, hoặc Phụ Mẫu trì Thế, Tài
động khắc Thế đều là hứa chắc cầu tài, dễ như bực trưởng giả gải ngứa mà thôi. Nếu gặp
Huynh Đệ trì Thế, hoặc hào Huynh Đệ động ở trong quẻ, hoặc Thế trúng Tuần Không,
Nguyệt Phá, thì chẳng khác nào leo cây bắt cá.
CHIẾM VẬN HẠN NĂM, THÁNG: Nếu là người hiện đang nhiệm chức quan thì phải Quan
Tinh trì Thế, Tài động sinh ra nó, đều là hứa chắc cát khánh. Nếu gặp Quan Quỷ tương
khắc hay ngày, tháng, hào động, lâm Tử tôn xung khắc Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế),
hoặc lâm Quan Quỷ xung khắc Thế hào (tức Huynh Đệ trì Thế), hoặc Thế lâm Tuần Không,
Thế bị Nguyệt Phá, hay Quan bị Nguyệt phá hoặc lâm Tuần Không, hoặc Thế động hóa ra
hồi đầu khắc, hoặc Tử Tôn trì Thế đều là điềm Hung.
Thường dân chiếm Vận Hạn một tháng, mừng được hào Tài hay Tử Tôn trì Thế, hứa chắc
một năm hanh thông. Nếu gặp Quan Quỷ trì Thế mà đặng ngày tháng, hào động làm Tài
Tinh, sinh hợp Thế hào (tức Quan Quỷ trì Thế) thì sẽ có cát lợi. Nếu không có Tài động
sinh hợp Thế hào mà Quan Quỷ trì Thế phải gặp tai nạn, thị phi (hoặc không có công việc
làm, hoặc bị mất viêc...). Nếu Thế bị Nguyệt Phá hay hồi đầu khắc phá, Thế lâm Tuần
Không, cùng Quỷ động khắc Thế, hay Thế suy nhược lại bị hình, xung, khắc; hoặc Huynh
động khắc Thế, sẽ gặp khẩu thiệt, phá tài, hoặc bệnh tật.
Thường Dân chiếm lưu niên (đoán Vận mỗi năm), tháng hợp với Thế hào thì kiết, tháng
xung với Thế hào thì hung. Không nên có Thế hào biến Quỷ và hóa ra hồi đầu khắc, định
có hung nguy. Lại cũng không nên Tài động hóa Phụ, Phụ động hóa Tài, hoặc Quỷ động
hóa Phụ Mẫu, phải có tai nạn cho cha mẹ (người bề trên), hoặc bệnh tật nặng nề. Còn
Huynh Đệ động hóa Quỷ, Quỷ biến Huynh Đệ, phòng anh em có tai ách và mình. Tài hóa
Quỷ, Quỷ hoá Tài, Tài hóa Huynh, Huynh hóa Tài, chắc có thương khắc vợ hầu, tôi tớ,
người làm công. Tử hoá Quỷ, Quỷ hóa Tử, Phụ hóa Tử Tôn, Tử Tôn hóa Phụ, thì trẻ nhỏ sẽ
thọ hại.
Thanh Long, Thiên Hỉ (Dụng Thần) trì Thế, sinh Thế, thì có điềm vui, hể Quỷ phá động sẽ
có hiếu phục (có tang tóc). Phi Xà, Chu Tước gia ngay hào Huynh trì Thế, Quỷ động khắc
Thế tu phòng khẩu thiệt, miệng tiếng thị phi, kiện tụng. Huyền Vũ gia ngay hào Huynh trì
Thế, Quỷ động khắc Thế tu phòng đạo tặc (bị cướp), hoặc kẻ xấu hãm hại. (Theo tôi kiểm
nghiệm thấy, dù Huynh Đệ trì Thế mà hóa Quỷ thì mình bị khẩu thiệt nhiều hơn, hoặc anh
em gặp nạn, còn thân mình chẳng sao. Nếu mình không có anh em thì mới ứng vào mình.
Trường hợp Quan trì Thế suy nhược lại động hoá khắc, hóa mộ thì chắc chết, thêm Phi Xà
hay Bạch Hổ thì chắc nhập hoàng tuyền, được truy tặng mộ bia. Chắc hơn nữa, nên xủ lại
nhiều lần, nếu quẻ đều hiện thế mà không lo tu hành chắc phải chết).
CHIẾM TRÁNH TỤNG SỰ, PHÒNG THỊ PHI, TAI HỌA: như cừu nhân làm hại, và đi sông
biển, vào hiểm địa, (ngủ đêm lữ điếm, tá túc chùa miểu), hoặc kinh doanh mậu dịch, mua
lầm vật trộm, hoặc thấy nhà gần lửa cháy, hoặc hỏi về ôn dịch lưu hành, phòng hổ lang,
phòng trộm cướp, hoặc đi gấp trong đêm, hoặc đã vào trường thị phi, lòng lo hoạn họa,
hoặc muốn ngăn ngừa việc chi mà e sinh tai phi, hoặc vào nhà người bệnh, đề phòng
truyền nhiểm, hoặc ăn lầm đồ độc e phải chết, hoặc mang trọng tội cầu mong ân xá, hoặc
vương bệnh hiểm mà muốn phong nguy, hoặc hỏi xem món vật này hoặc món thuốc kia có
nên dùng không, hoặc hỏi về người lạ thú dữ có hại đến mình không, phàm gặp các việc
đề phòng mà đặng Tử Tôn trì Thế hoặc Tử Tôn động ở trong quẻ, hoặc Thế động biến ra
Tử Tôn, hoặc Thế động hóa hồi đầu tương sinh, hoặc Quan Quỷ động để tương sinh, thì
dù thân mình ở trong miệng cọp, hứa chắc được yên ổn như ngồi trong núi Thái Sơn. Duy
kỵ Quan Quỷ trì Thế ngờ vực lo lắng khó giải. Quỷ khắc Thế, tai họa sẽ xâm. Thế động hóa
Quỷ và hoá hồi đầu khắc, họa đã đến mình, không thể trốn khỏi. Duy Thế hào lâm Tuần
Không, không lo. Thế hào bị phá thì không lợi.
CHIẾM BỆNH: Như mình chiếm bệnh cho mình, nếu đặng hào Thế vượng tướng, hoặc ngày
tháng, hào động sinh hợp với Thế hào, hoặc Tử Tôn trì Thế, hoặc Tử Tôn động ở trong
quẻ, chẳng luận bệnh lâu, bệnh mới, hoặc cầu thần, hoặc uống thuốc, tức khắc sẽ an
khang.
Bệnh mới hào Thế gặp Tuần Không, hoặc Thế động hóa Không, hoặc quẻ gặp lục xung hay
biến lục xung, chẳng cần uống thuốc mà hứa chắc sẽ lành mạnh.
Bệnh lâu quan Quỷ trì Thế hưu tu, hoặc ngày, tháng, hào động khắc hào Thế, hoặc Thế
gặp Tuần Không, Nguyệt Phá, Thế động hóa Không, hóa khắc phá, hoặc gặp quẻ lục xung,
hoặc quẻ biến lục xung thì dù cho Biển Thước cũng khó chữa.
Như có người bị bệnh khá nặng mà không biết, đến khi phát hiện bác sĩ cho hay có thể bị
ung thư, chờ khám nghiệm trong khi hiện tại lại thấy còn đang rất khỏe. Gia đình rất sợ,
gọi hỏi tôi xem sống chết thế nào? Chính đương sự xủ được quẻ Bát Thuần Khôn, ngày
Quý Mão tháng Đinh Mùi.
Khôn vi Địa
▬ ▬ Tử Dậu Thế (ám động)
▬ ▬ Tài Tý
▬ ▬ Huynh Sửu
▬ ▬ Quan Mão Ứng
▬ ▬ Phụ Tỵ
▬ ▬ Huynh Mũi
Xem quẻ Thấy Tử Tôn trì Thế lẽ ra phải đoán là bình an vô sự, nhưng vì là quẻ lục xung,
mà bệnh trì trệ không biết lâu mau, vì người này đã bị bệnh ì ạch lâu rồi mà không biết,
nên tôi đoán rằng: "Nếu là mới bệnh thì nhất định mạnh, còn bệnh lâu thì chắc là chết, tuỳ
theo lâu mau thôi. Mong rằng chị ấy mới bệnh thì tháng 7 Âm Lịch Thế lâm vượng địa Hỏa
của mùa hè không khắc được nữa thì lành. Còn bệnh lâu thì ngược lại vì Tử Tôn lâm Bạch
Hổ". Quả nhiên, chết ngày Đinh Sửu tháng Mậu Thân (7) năm Nhâm Ngọ.]
CHIẾM CHA MẸ BỆNH: Lấy hào Phụ Mẫu làm Dụng Thần. Nếu gặp hào Phụ Mẫu vượng
tướng, hoặc ngày, tháng, hào động sinh Phụ Mẫu, hoặc Phụ Động hóa vượng, chẳng luận
bệnh đau lâu hay mới bệnh, uống thuốc lập tức bình an.
Bệnh mới đau, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Phụ động hoá Không, hoặc gặp quẻ lục xung,
chẳng uống thuốc mà mạnh. Bệnh đau lâu, mà hào Phụ gặp Tuần Không, Nguyệt phá,
hoặc phụ động hóa Không, hóa phá, Phụ động hóa Tài, Tài hoá Phụ Mẫu, gặp quẻ lục
xung, hoặc hào Phụ hưu tù, lại bị ngày, tháng, hào động xung khắc, làm con phải gấp lo
chạy thuốc men, bản thân săn sóc, chớ khá rời xa.
CHIẾM ANH EM BỆNH: Nếu đặng hào Huynh Đệ vượng tướng, hoặc đồng với ngày, tháng,
hoặc ngày, tháng hào động tương sinh, hoặc Huynh Đệ động hóa vượng, hóa sinh, chẳng
luận bệnh củ hay mới, hứa sẽ bình an.
Bệnh mới đau, hào Huynh gặp Tuần Không và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ
biến lục xung, uống thuốc thì mạnh. Bệnh đau lâu, hào Huynh gặp Tuần Không, Nguyệt
phá, và động mà hóa Không hóa phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Huynh động
hóa quỷ, quỷ hóa Huynh hào, hoặc hào Huynh hưu tù, bị ngày tháng, hào động xung khắc,
mau gấp uống thuốc, cầu phước. Bằng trể thì khó mà trị lành (chết nhiều hơn sống).
CHIẾM CON CHÁU BỆNH: Hào Tử Tôn vượng tướng, hoặc đồng cung với ngày, tháng, hào
động, sinh hợp, hoặc hào Tử Tôn hồi đầu hóa sinh, hóa vượng, chẳng luận bệnh đau lâu
hay mới đau, uống thuốc, cầu phước thì mạnh.
Bệnh mới đau, Tử Tôn lại gặp Tuần Không, và động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ
biến lục xung, chẳng uống thuốc, mà mạnh. Bệnh đau lâu, Tử Tôn gặp Tuần Không, và
động mà hóa Không, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, Tử Tôn động mà hóa Quỷ, Quỷ
hóa Tử Tôn, Phụ hóa Tử, Tử hóa Phụ và ngày, tháng, hào động xung khắc, thì phải mau
uống thuốc. Bằng trể thì khó mà sống.
CHIẾM CHO VỢ HẦU ĐAU: Lấy Tài làm Dụng Thần. Hào Tài vượng tướng, hoặc đồng với
ngày, tháng, hào động tương sinh, hoặc hào Tài động hóa Tử Tôn, hoặc động hóa sinh
vượng, chẳng luận lâu mau, trị thì thấy lành.
5
Bệnh mới đau, Tài gặp Tuần Không và động mà hóa Không, hoặc gặp lục xung, quẻ biến
lục xung, chẳng cần uống thuốc, dám hứa nạn qua. Nếu bệnh đau lâu, hào Tài hóa Không,
hóa Phá, gặp quẻ lục xung, quẻ biến lục xung, hoặc Tài động biến Quỷ, Quỷ động hóa Tài,
Huynh Đệ hóa Tài, Tài hóa Huynh Đệ, trên đời dù có lương y cũng khó trị lành (chết nhiều
hơn sống).
Phàm chiếm bệnh cho ba đảng: Phụ Tộc, Mẫu Tộc, Thê Tộc (bà con bên Nội, bà con bên
Ngoại, và bà con phía vợ) cùng là quan trưởng, Thầy trò, tôi tớ, người giúp việc, đều phải
coi chương Dụng Thần mà chọn cho đúng Dụng Thần, thì có thể xem rõ lành bệnh, hoặc
sống chết. Còn chiếm bệnh cho bằng hữu là kẻ ngoại nhân, thì lấy ứng hào làm Dụng
Thần. Đó cũng là lẽ thường, nhưng có khi không ứng nghiệm. Tại sao? Có lẽ vì không phải
ruột rà, nên không hết lòng thành mà ra vậy.
(Theo tôi đã nghiệm thấy, đối với bạn bè mà người có niềm tin, và là bạn bè chí thân, hết
lòng cho nhau, thì quẻ ra vẫn ứng rõ ràng. Ta có thể dùng Ứng hào, hoặc chọn ngay Dụng
Thần là Huynh Đệ, tuỳ theo quẻ, vẫn đoán rất chính xác)
Thánh Dã Hạc nói: Có người hỏi tôi rằng, "Cứ theo lời thầy nói, bói quẻ là một việc rất dễ
dàng. Như chiếm công danh, quan chức, mà đặng vượng Quan trì Thế, sẽ thành danh;
Tử Tôn trì Thế thì thất vọng. Chiếm tật bệnh, bệnh mới đau mà gặp lục xung, gặp Tuần
Không, chẳng uống thuốc cũng hết bệnh. Bệnh đau lâu, mà gặp xung, gặp Tuần Không, dù
có thuốc linh đơn cũng không thể cứu. Như đặng thấy hiển nhiên như vậy thì thật không
phải khó biết. Còn như chiếm tật bệnh mà không gặp lục xung, Dụng Thần chẳng thấy
Tuần Không, vượng chẳng vượng, suy chẳng suy, hung chẳng hung, mà cát chẳng cát. Lại
như chiếm công danh, sự nghiệp, Quan với Tử Tôn không trì Thế, 6 hào Loạn động, Tài
phụ đồng hung, thì mới lấy chi mà nhất quyết?"
- Nếu anh xủ rèm mà làm nghề bói mướn, mỗi ngày xủ nhiều quẻ, thì đâu mà đặng toàn là
những quẻ hiển nhiên dễ thấy. Cũng trong hung mà ẩn cát, trong cát mà ẩn hung, thì phải
ráng tìm áo lý để ý xét suy.
Nếu anh muốn tự biết xu kiết tỵ hung, tất nhiên không có loạn chiếm nhiều quẻ, không có
tạp niệm trong lòng. Mỗi khi gặp một việc gì, thì tức khắc bói liền. Thần chẳng gạt người.
Hễ chiếm danh mà đặng thành, thì có Quan trì Thế. Còn không đặng thành, thì Tử Tôn sẽ
động ở trong quẻ. Hoặc như có quẻ không minh bạch rõ ràng thì mai sớm hết lòng thành
bói lại coi. Nếu còn rối reng nữa, thì bói lại nữa, tự nhiên có tương ứng. Nhưng khi chiếm
trong lòng chẳng nên tưởng nhớ hai việc. Lòng thành nhất niệm, thì sẽ thấy ứng. Nếu một
lần chiếm đôi ba việc thì quẻ không linh.
Lại như chiếm tật bệnh, còn dễ dàng lắm vậy. Một người có bệnh trong nhà ai khác cũng
có thể chiếm thay, tha hồ mà chiếm giùm. Nếu là bệnh mới đau, chỉ có một quẻ, một hào
gặp lục xung, hoặc quẻ biến lục xung, hoặc Dụng Thần gặp Tuần Không, hoặc động mà
hóa Không, đó là bệnh dễ mạnh. Bệnh đau lâu, mà nhằm nó, thì mang tai, vì khó trị. Lại
như phòng tai sợ nạn, chỉ đặng hào Tử Tôn trì Thế thì ở trong chỗ sấm sét, hứa chắc bình
an, không sao cả. Vậy thì có gì là khó đâu.
Khách nói: Chiếm một lần đã phiền nhọc Thần linh, chẳng dám hỏi lần thứ hai thứ ba nữa,
đâu dám bói luôn mấy ngày như vậy.
Thánh Dã Hạc trả lời: Vì một lời nói đó mà hết thả những người bói quẻ phải lầm lạc. Vậy
anh nghe nói: "Ba người chiếm thì do lời hai người bàn" không? Một việc mà đã chiếm ra
ba chỗ, thì tái cầu có hại gì? Cũng có một trường hợp không chiếm lại là, trong một khắc
mà chiếm hoài một việc. Phải chờ mai xem lại mới là tốt.
Lại cũng có trường hợp chiếm liên tiếp mà nhiều ngày cũng không nên, là như chiếm công
danh, đã đặng Tử Tôn trì Thế, trong lòng không thích, muốn chiếm lại sao cho được Quan
trì Thế mới chịu thôi. Đó gọi là làm phiền nhọc Thần linh nhiều lần. Nhưng tôi cũng thấy có
kẻ làm như vậy, mà Thân linh cũng chưa từng không ứng.
Tôi nhân thuở nhỏ lao bề công danh, chiếm đến 7 lần. Sáu lần đặng Tử Tôn trì Thế. Đó là
Thần Linh chẳng phải chán, vì tôi hỏi nhiều lần. Mỗi lần hỏi, thì mỗi lần có báo tin. Mà chán
tôi nhiều là, như tôi hỏi quẻ cầu tài, để chỉ rõ số tiền hiện hữu, lòng tôi đã rõ rồi mà cứ hỏi
hoài, thì Thần không nói nữa. Có nói, là nói về viêc tôi không có hỏi.
Như có một ngày kia, tôi chiếm cầu tài. Vượng Tài trì Thế thì tôi đã rõ ngày Thìn đặng tài.
Ngày kế, tôi chiếm một quẻ coi quả ngày Thìn đặng có Tài không? Quẻ đặng hào Thân
Kim Huynh động, mà không rõ là nói gì. Đến ngày Thìn đặng tài, đến ngày Thân vì việc
khác mà mất tài. Mới biết Thần cho tôi rõ ngày Thìn có tài, mà ngày kế tôi còn hỏi nữa nên
Thần không nói. Thần lại nói, "ngày Thân mất tài", cho nên biết rằng hỏi nhiều lần, Thần
cũng không trách, mà lại báo tin về việc ta không hỏi. Việc như vậy rất nhiều.
Tôi viết cuốn sách này ra, là để truyền bí pháp cho bực hậu hiền. Nhưng không phép nào
khác, chỉ dạy người học bực sơ cạn, phàm gặp quẻ mơ hồ trong lòng chưa biết rõ, thì
chiếm nhiều lần vô ngại. Nếu trong quẻ đã hiện rỏ ràng rồi, thì chớ nên hỏi nữa.
Chí như chiếm bệnh, một người có bệnh, thì cả nhà ai cũng chiếm thế cho được, tự có quẻ
ứng linh. Lại gặp việc, thì chiếm liền, thừa lúc chưa loạn, chẳng khá nghĩ nhiều việc trong
lòng. Việc nhiều tâm loạn, thì không phải là lòng thành nhất niệm nữa.
Còn dạy kẻ học bói đến chỗ sâu xa, sau có chia phép chiếm và nói về chỗ sai lầm ở trong
các sách, chỉ thêm chỗ áo lý, nên nghiền ngẫm mà hiểu cho rõ cái ý nghĩa.
Đó là công trình của tôi trong bốn chục (40) năm, cả ngày ăn rồi chỉ lo một việc đó, chẳng
lìa ra chốc lát nào hết, mới là đặng vậy. Đó là chỗ tiên hiền chưa truyền. Phải ráng từ đầu
đến cuối, tỷ mỉ xét rõ, tự nhiên xảo đoạt thiên công. Muốn tham cứu chỗ hóa dục (sinh
biến) của Trời Đất, suy trắc lý ẩn vi của Quỷ Thần, không phải khó.
Giác Tử cũng có nói: "Nếu gặp việc gấp dù trong một giờ, cũng có thể chiếm năm ba quẻ
liên tiếp".
Cá nhân tôi có kinh nghiệm với một cô em dâu chưa cưới, Cô này đang chuẩn bị vào
trường thuốc để học bác sĩ, và cô chỉ thích làm bác sĩ không học gì khác, nên đã đến nhờ
tôi xem quẻ có được nhận hay không. Từ năm ngoái đến năm nay xủ gần chục quẻ, từ
quẻ đầu cho đến quẻ cuối, không quẻ nào mà không Tử Tôn trì Thế. Nên tôi đã đoán nhất
7
định số cô làm bác sĩ thôi không thể làm gì khác. Và tôi cũng đã có cơ hội xem cho 3 người
bác sĩ đã hành nghề nhiều năm, hễ họ xủ quẻ hỏi về Vận Số là Tử Tôn trì Thế. Còn tôi có
ông bạn làm Cha nhà thờ, xủ khá nhiều quẻ về bản Mệnh mà không hề có quẻ nào là Tử
Tôn trì Thế cả, thật tôi không hiểu lý do, nhưng đó là việc rất lạ. Cũng như số Thánh Dã
Hạc được làm Thầy Thiên Hạ và làm Vĩ Nhân nên 6 lần đều Tử Tôn trì Thế là vậy. Nên nhớ
Thầy thuốc, Tăng đạo, Thầy tướng, trung thần lương tướng, cửu lưu thuật sĩ, con cháu,
phước đức đều lấy hào Tử Tôn làm Dụng Thần).
Dám chắc với các bạn là sắp tới sẽ có người mặc dù chê bai Bốc Dịch, còn viết ra thành
văn nữa, nhưng sẽ thử áp dụng cách tôi đã viết ra ở trên hoặc sắp tới, để xem có khả
năng làm Thầy không. Và cũng xin thông báo trước nếu khi xủ quẻ bản Mệnh thấy mình
không có Tử Tôn trì Thế mà đoán số càn bậy thì nghiệp không phải ít đâu nhé. À, tôi còn
quên một điều này nữa, có cô bạn làm Đông y sĩ châm cứu, đã xủ quẻ hỏi bản mệnh năm
nay. Cô ta xủ tổng cộng 3-4 quẻ gì đó, đều là Tử Tôn trì Thế!
Từ từ tôi sẽ viết ra cách các bạn có thể xem thử cho mình khi đi gặp bác sĩ khám bệnh,
Thầy coi Tử Vi, coi bói, Thầy dạy học hay thầy dạy Tử Vi, hoặc xem người mình hỏi là
người giỏi hay dỡ hay là bọn nói dốc, hay là người ta đây chỉ nói khoác lác... Các bạn đều
có thể xem biết hết! Khỏi phải sợ ai lường gạt. Lấy vượng suy để đo lường khả năng, tiền
bạc, cũng như học thuật của mình của người.
Đạo Càn là cha thuộc Dương: sinh ra Chấn = trưởng nam, Khảm = trung nam, Cấn = thiếu
nam
Đạo Khôn là mẹ thuộc Âm: sinh ra Tốn = trưởng nữ, Ly = trung nữ, Đoài = thiếu nữ
Chương 2: QUÁI TƯỢNG ĐỒ
CÀN tam liên (3 gạch liền): được 3 hào Dương không có hào bị đứt khúc
KHÔN lục đoạn (6 đoạn): được luôn 3 hào Âm có 6 đọan ngắn
CHẤN ngưỡng bồn (chậu để ngửa): hào đầu dương, hào 2 hào 3 là Âm
CẤN phúc oản (chén để úp): hào 1 hào 2 là Âm, hào 3 Dương
Ly trung hư (giữa ruột trộng): hào 1 và hào 3 Dương, hào 2 ở giữa Âm
KHẢM trung mãn (giữa ruột đầy): hào 1 và hào 2 là Âm, hào 2 Dương
ĐOÀI thượng khuyết (trên khuyết): hào 1 hào 2 Dương, hào 3 là Âm
TỐN hạ đoạn (dưới đứt khúc): hào đầu Âm, hào 2 hào 3 là Dương
Cách Xủ Quẻ (dùng 3 đồng tiền)
1 đồng sấp (head) là Dương, thì gạch 1 gạch dài ( ▬▬▬ )
2 sấp (2 heads) là Âm thì gạch 2 gạch ngắn ( ▬
3 sấp là Lão Dương, thì vẽ 1 vòng tròn ( O )
3 ngữa là Lão Âm, thì vẽ hai đường chéo ( X )
Một gạch dài (▬▬▬) là Thiếu Dương, còn vòng tròn (O) gọi là Lão Dương - tức là hào
Dương động. Hai gạch ngắn (▬ ▬) là Thiếu Âm, còn chữ (X) gọi là Lão Âm - tức là hào
Âm động. Phàm trong quẻ có vòng tròn, dấu chéo, thì gọi là quẻ động.
Muốn hỏi việc chi, thì lòng phải chí thành, bày tỏ tên họ, chỗ ở, cầm 3 đồng tiền gieo vào
trong mâm, hoặc đĩa, hoặc trên bàn, hoặc dưới nền nhà, coi mấy đồng ngữa mấy đồng
sấp. Thấy 1 sấp thì gạch 1 gạch dài (▬▬▬), 2 sấp thì vạch 2 gạch ngắn (▬ ▬), 3 sấp
thì vẽ vòng tròn (0), 3 ngửa thì viết chữ X (X). [Dùng tiền xưa, thì bên không chữ là sấp
Dương (▬▬▬), bên có chữ là ngửa - Âm (▬ ▬). Tại sao thế, vì Dương chủ là Khí, còn
Âm chủ là Thể, như khí của cha truyền qua mẹ tạo thành hình thể của con là vậy, đó là
nguyên lý mà cổ nhân đặt ra như thế.]
Thí dụ gieo tiền 6 lần ta được quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế như sau:
▬▬▬ O
▬ ▬ X (3 hào trên hợp lại là quẻ ngoại, gọi ngoại quái)
▬▬▬ O
▬ ▬X
▬▬▬ O (3 hào dưới hợp lại là quẻ nội, gọi nội quái)
▬ ▬X
Quẻ Hỏa Thủy Vị Tế hóa Thủy Hỏa Ký Tế, nạp thành 6 hào như sau:
Hỏa Thủy Vị Tế è Ký Tế
Huynh Tỵ Ứng O è Quan Tý
Tử Mùi X è Tử Tuất
Tài Dậu O è Tài Thân
Huynh Ngọ Thế X è Quan Hợi
Tử Thìn O è Tử Sửu
Phụ Dần X è Phụ Mão
Chú Ý: khi vạch quẻ thì vạch từ dưới lên, mà khi đọc quẻ thì đọc từ trên xuống. Như quẻ
trên có Ly trên (Ly trung hư), Khảm dưới (Khảm trung mãn), nên đọc là Hỏa Thủy Vị Tế
(tượng là chưa xong). Khi biến ra thì có quẻ Khảm trên, Ly dưới, nên đọc là Thủy Hỏa Ký
Tế (tượng đã xong).