Dương trạch tam yếu: nhà số 2. chủ khảm với cửa càn
Đã gửi: 10:23, 23/07/10
Nhà số 2: CỬA KIỀN với CHỦ KHẢM
(Lục sát trạch) (Cửa cái tại Kiền, Chủ phòng hay Sơn chủ tại Khảm).
- Lời tương ứng về ngôi nhà: Thiên môn lạc thủy, xuất dâm cuồng. Chữ Thiên ám chỉ Kiền (Kiền vi Thiên). Lạc thủy là rơi vào nước, tức là nói gặp Khảm (Khảm vi thủy). Đại ý nói, Cửa Kiền với Chủ Khảm là ngôi nhà ứng ra các việc dâm đãng, cuồng dại.
(Lục sát trạch) (Cửa cái tại Kiền, Chủ phòng hay Sơn chủ tại Khảm).
- Lời tương ứng về ngôi nhà: Thiên môn lạc thủy, xuất dâm cuồng. Chữ Thiên ám chỉ Kiền (Kiền vi Thiên). Lạc thủy là rơi vào nước, tức là nói gặp Khảm (Khảm vi thủy). Đại ý nói, Cửa Kiền với Chủ Khảm là ngôi nhà ứng ra các việc dâm đãng, cuồng dại.
- Cửa Kiền biến 4 lần tới Chủ Khảm thừa Lục sát cho nên gọi là Lục sát trạch, một ngôi nhà hung hại. Lục sát Thủy là du niên vốn có tánh cách dâm cuồng lại lâm Khảm Thủy đồng tính chất với nó cho nên nhà sanh ra những việc dâm bôn, bất chính, trụy lạc, lầm lỗi. Tuy nhiên, cũng có một điểm tốt là Cửa Kiền Kim sanh Chủ Khảm Thủy, ấy là ngoài sanh vào trong, ở sơ niên cũng có lúc hưng tài, phát lộc. Nhưng vốn là Lục sát, tất chẳng bao lâu rồi cũng khắc hại vợ con, sống cô đơn, vắng hiu con cái, khiến cho vong gia, bại sản. Khảm với Kiền thuần dương tất lấn hại âm và kết thành sát khí (Lục sát) khiến cho âm nhân, phụ nữ tử vong.
Cửa Kiền với Chủ Khảm phối 8 Bếp:
1) Bếp Kiền: Bếp Kiền với Cửa Kiền là hai Kim tỷ hòa và đồng cung nên gọi là Bếp Phục vị, tuy cũng có thoảng qua một ít tốt, rồi rốt cuộc nó vẫn bị lôi cuốn theo các nẻo dữ. Bởi Bếp Kiền cũng như Cửa Kiền biến tới Khảm hóa nên Lục sát, vậy cũng ứng theo lời tượng nhà số 2: Thiên môn lạc thủy xuất dâm cuồng.
2) Bếp Khảm: Cửa Kiền thì Chủ Khảm thừa Lục sát tất Bếp Khảm cũng thừa Lục sát. Cả nhà đầy sát khí, lắm chuyện bất tường xảy ra. Một Kiền với hai Khảm toàn là dương, không thể sanh phát. Và bởi không có sự kết phối âm dương mà lại nước quá nhiều tất làm hao tiết mất cái thịnh khí của Kiền Kim (Thủy năng thoát Kim), ứng ra điềm tiêu tán tiền của, thiếu thốn cháu con. (Sở dĩ nói nước quá nhiều là 2 Khảm cộng với 2 Lục sát thành 4 Thủy).
3) Bếp Cấn: Cửa Kiền Kim với Bếp Cấn Thổ tương sanh và phối biến thành Bếp Thiên y đăng diện rất tốt, điềm sanh 3 con quí. Tuy đối với Cửa Kiền tốt như vậy, nhưng đối với Chủ Khảm lại ứng điềm hung vì Cấn với Khảm hỗ biến ra Ngũ quỉ, khiến cho tiểu nhi khó nuôi dưỡng, hàng trung nam đoản thọ, hiếm hoi con cái, tim bụng đau nhức, thường bị các chứng no hơi, phình trướng và nghẹn ngực. (Cấn thuộc thiếu nam ứng về tiểu nhi, Khảm thuộc trung nam ứng với hạng trung nam).
4) Bếp Chấn: Cửa Kiền Kim khắc với Bếp Chấn thuộc Mộc và biến thành Bếp Ngũ quỉ hung hại bậc nhất. Nhà Lục sát chứa Bếp Ngũ quỉ tài nào mà chẳng suy vi, cho nên càng ở lâu càng lụn bại. Sơ niên có tốt chút ít và sự tai hại qua loa là nhờ Bếp Chấn với Chủ Khảm hỗ biến được du niên Thiên y. (Cửa với Chủ đối nhau hay Cửa với Bếp đối nhau gọi là chính biến. Còn chủ với Bếp đối nhau gọi là hỗ biến. Chính biến thì họa phước chính xác và hệ trọng, còn hỗ biến thì họa phước nhẹ hơn).
5) Bếp Tốn: bếp Tốn hỗ biến với Chủ Khảm được Sinh khí nhưng chính bieến với Cửa Kiền là Bếp Họa hại. Sơ niên phát cả tiền tài và nhân khẩu (thêm nời), nhưng ở lâu rồi bệnh đau gân cốt nổi lên, âm nhân chết sớm, phụ nữ suy thận, lưng nhức mỏi. Tốn thuộc trưởng nữ, thừa Họa hại lại bị Cửa Kiền khắc cho nên tai họa qui về phụ nhân. Tốn Mộc thuộc về lá gan, bị Kiền khắc cho nên gan bị thọ thương tất sanh chứng đau gân cốt, Khảm Thủy ứng về bầu thận, thừa Lục sát hung nên ứng điềm thận suy).
6) Bếp Ly: Ly âm Hỏa đối với Cửa Kiền dương Kim tương khắc và chính biến thành Bếp Tuyệt mệnh ứng điềm nam nữ yểu vong (chết non), trong nhà sanh nhiều rắc rối. Tuy trong 10 phần xấu cũng có 3 phần tốt là nhờ Bếp Ly với Chủ Khảm hỗ biến được Diên niên. Tuyệt mệnh với Diên niên ứng nghịch nhau: Tuyệt mệnh chết sớm, Diên niên sống lâu, nhưng chính biến hệ trọng hơn hỗ biến.
7) Bếp Khôn: Đối với Cửa Kiền thì Bếp Khôn tương sanh và thừa Diên niên đắc vị, đó là điềm tiền tài và nhân khẩu cả hai đều thịnh vượng. Nhưng vì Bếp Khôn khắc chủ Khảm và hỗ biến ra Tuyệt mệnh cho nên hạng trung nam (Khảm thuộc trung nam) trong nhà thọ khổn, diềm ứng nghiệm là ở góa, là bặt hơi con cái, là những sự việc có tính cách đoạn tuyệt.
8) Bếp Đoài: Đối với Cửa Kiền thì Bếp Đoài tỷ hòa thừa Sinh khí. Nhưng Sinh khí Mộc đồng bị Kiền Đoài khắc thành ra nhà chỉ được phát nhân đinh (thêm đông người) mà tiền bạc và công danh chẳng hưng khởi được. Còn Bếp Đoài với Sơn chủ Khảm hỗ biến sanh Họa hại, ấy là cái hại phụ nữ (Đoài thuộc phụ nữ) không trường thọ mà về sau ở góa, dâm đãng, phóng túng, xa hoa, lỗi lầm (Khảm gặp Họa hại).
- Kết luận 8 Bếp: Vốn là Lục sát trạch đã hung hại, nếu gặp Bếp xấu tất phải hung hại hơn, bằng gặp Bếp tốt chỉ giảm bớt sự hung hại của nhà hoặc cũng có sự tốt, nhưng không thể khiến cho nhà phát đạt to.
Cửa Kiền với Chủ Khảm phối 8 Bếp:
1) Bếp Kiền: Bếp Kiền với Cửa Kiền là hai Kim tỷ hòa và đồng cung nên gọi là Bếp Phục vị, tuy cũng có thoảng qua một ít tốt, rồi rốt cuộc nó vẫn bị lôi cuốn theo các nẻo dữ. Bởi Bếp Kiền cũng như Cửa Kiền biến tới Khảm hóa nên Lục sát, vậy cũng ứng theo lời tượng nhà số 2: Thiên môn lạc thủy xuất dâm cuồng.
2) Bếp Khảm: Cửa Kiền thì Chủ Khảm thừa Lục sát tất Bếp Khảm cũng thừa Lục sát. Cả nhà đầy sát khí, lắm chuyện bất tường xảy ra. Một Kiền với hai Khảm toàn là dương, không thể sanh phát. Và bởi không có sự kết phối âm dương mà lại nước quá nhiều tất làm hao tiết mất cái thịnh khí của Kiền Kim (Thủy năng thoát Kim), ứng ra điềm tiêu tán tiền của, thiếu thốn cháu con. (Sở dĩ nói nước quá nhiều là 2 Khảm cộng với 2 Lục sát thành 4 Thủy).
3) Bếp Cấn: Cửa Kiền Kim với Bếp Cấn Thổ tương sanh và phối biến thành Bếp Thiên y đăng diện rất tốt, điềm sanh 3 con quí. Tuy đối với Cửa Kiền tốt như vậy, nhưng đối với Chủ Khảm lại ứng điềm hung vì Cấn với Khảm hỗ biến ra Ngũ quỉ, khiến cho tiểu nhi khó nuôi dưỡng, hàng trung nam đoản thọ, hiếm hoi con cái, tim bụng đau nhức, thường bị các chứng no hơi, phình trướng và nghẹn ngực. (Cấn thuộc thiếu nam ứng về tiểu nhi, Khảm thuộc trung nam ứng với hạng trung nam).
4) Bếp Chấn: Cửa Kiền Kim khắc với Bếp Chấn thuộc Mộc và biến thành Bếp Ngũ quỉ hung hại bậc nhất. Nhà Lục sát chứa Bếp Ngũ quỉ tài nào mà chẳng suy vi, cho nên càng ở lâu càng lụn bại. Sơ niên có tốt chút ít và sự tai hại qua loa là nhờ Bếp Chấn với Chủ Khảm hỗ biến được du niên Thiên y. (Cửa với Chủ đối nhau hay Cửa với Bếp đối nhau gọi là chính biến. Còn chủ với Bếp đối nhau gọi là hỗ biến. Chính biến thì họa phước chính xác và hệ trọng, còn hỗ biến thì họa phước nhẹ hơn).
5) Bếp Tốn: bếp Tốn hỗ biến với Chủ Khảm được Sinh khí nhưng chính bieến với Cửa Kiền là Bếp Họa hại. Sơ niên phát cả tiền tài và nhân khẩu (thêm nời), nhưng ở lâu rồi bệnh đau gân cốt nổi lên, âm nhân chết sớm, phụ nữ suy thận, lưng nhức mỏi. Tốn thuộc trưởng nữ, thừa Họa hại lại bị Cửa Kiền khắc cho nên tai họa qui về phụ nhân. Tốn Mộc thuộc về lá gan, bị Kiền khắc cho nên gan bị thọ thương tất sanh chứng đau gân cốt, Khảm Thủy ứng về bầu thận, thừa Lục sát hung nên ứng điềm thận suy).
6) Bếp Ly: Ly âm Hỏa đối với Cửa Kiền dương Kim tương khắc và chính biến thành Bếp Tuyệt mệnh ứng điềm nam nữ yểu vong (chết non), trong nhà sanh nhiều rắc rối. Tuy trong 10 phần xấu cũng có 3 phần tốt là nhờ Bếp Ly với Chủ Khảm hỗ biến được Diên niên. Tuyệt mệnh với Diên niên ứng nghịch nhau: Tuyệt mệnh chết sớm, Diên niên sống lâu, nhưng chính biến hệ trọng hơn hỗ biến.
7) Bếp Khôn: Đối với Cửa Kiền thì Bếp Khôn tương sanh và thừa Diên niên đắc vị, đó là điềm tiền tài và nhân khẩu cả hai đều thịnh vượng. Nhưng vì Bếp Khôn khắc chủ Khảm và hỗ biến ra Tuyệt mệnh cho nên hạng trung nam (Khảm thuộc trung nam) trong nhà thọ khổn, diềm ứng nghiệm là ở góa, là bặt hơi con cái, là những sự việc có tính cách đoạn tuyệt.
8) Bếp Đoài: Đối với Cửa Kiền thì Bếp Đoài tỷ hòa thừa Sinh khí. Nhưng Sinh khí Mộc đồng bị Kiền Đoài khắc thành ra nhà chỉ được phát nhân đinh (thêm đông người) mà tiền bạc và công danh chẳng hưng khởi được. Còn Bếp Đoài với Sơn chủ Khảm hỗ biến sanh Họa hại, ấy là cái hại phụ nữ (Đoài thuộc phụ nữ) không trường thọ mà về sau ở góa, dâm đãng, phóng túng, xa hoa, lỗi lầm (Khảm gặp Họa hại).
- Kết luận 8 Bếp: Vốn là Lục sát trạch đã hung hại, nếu gặp Bếp xấu tất phải hung hại hơn, bằng gặp Bếp tốt chỉ giảm bớt sự hung hại của nhà hoặc cũng có sự tốt, nhưng không thể khiến cho nhà phát đạt to.
LƯỢNG THIÊN XÍCH