Trang 1 trên 2

Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 11:04, 22/08/10
gửi bởi tuetvnb
VĂN TẾ THẬP LOẠI CHÚNG SINH
(Nguyễn Du)

Tiết tháng by mưa dm sùi st,
Toát h
ơi may lnh but xương khô
Não ng
ười thay bui chiu thu,
Ngàn lau nhu
m bc lá ngô rng vàng...

Đ
ường bch dương bóng chiu man mác,
D
p đường lê lác đác sương sa
Lòng nào lòng ch
ng thiết tha
Cõi d
ương còn thế na là cõi âm.

Trong tr
ường d ti tăm tri đt,
Có khôn thiêng ph
ng pht u minh...
Th
ương thay thp loi chúng sinh
H
n đơn phách chiếc lênh đênh quê người

H
ương la đã không nơi nương ta
H
n m côi ln la by niên...
Còn chi ai khá ai hèn
Còn chi mà nói ai hèn ai ngu!


Ti
ết đu thu lp đàn gii thoát
N
ước tĩnh đàn sái ht dương chi
Muôn nh
đc Pht t bi
Gi
i oan cu kh đ v tây phương.

Cũng có k
tính đường kiêu hãnh
Chí nh
ng lăm ct gánh non sông
Nói chi nh
ng bui tranh hùng
T
ưởng khi thế khut vn cùng mà đau!
B
ng phút đâu mưa sa ngói l
Khôn đem mình làm đ
a tht phu
Lớn sang giầu - n
ng oán thù
Máu t
ươi lai láng xương khô rng ri
Đoàn vô t
lc loài nheo nhóc,
Qu
không đu đng khóc đêm mưa
Cho hay thành b
i là cơ
Mà cô h
n biết bao gi cho Cũng có


Nào những
k màn lan trướng hu
Nh
ng cy mình cung quế Hng Nga,
M
t phen thay đi sơn hà,
M
nh thân chiếc lá biết là v đâu?
Trên l
u cao dưới dòng nước chy
Ph
n đã đành trâm gãy bình rơi
Khi sao đông đúc vui c
ười
Mà khi nh
m mt không người nht xương.
Đau đ
n nh không hương không khói
H
n ngn ngơ dòng sui rng sim.
Th
ương thay chân yếu tay mm
Càng năm càng héo m
t đêm mt dài.

Kìa nh
ng k mũ cao áo rng,
Ng
n bút son thác sng tay
Kinh luân găm m
t túi đy
Đã đêm Qu
n Nhạc li ngày Y Chu.
Th
nh mãn lm, oán thù càng lm,
Trăm loài ma m
nm chung quanh
Ngàn vàng khôn đ
i được mình
L
u ca vin hát tan tành còn đâu?
K
thân thích vng sau vng trước
Bi
ết ly ai bát nước nén nhang?
Cô h
n tht thu dc ngang
N
ng oan khôn nhẽ tìm đường hóa sinh?

Kìa nh
ng k bài binh b trn
Dấn
mình vào cướp n nguyên nhung
Gió m
ưa sm sét đùng đùng
Dãi thây trăm h làm công mt người.
Khi th
t thế tên rơi đn lc
Bãi sa tr
ường tht nát máu rơi
Mênh mông góc b
chân tri
N
m xương vô ch biết rơi chn nào?
Tr
i thăm thm mưa gào gió thét
Khí âm huy
n m mt trước sau
Ngàn mây n
i c ru ru,
Nào đâu đi
ếu tế, nào đâu chưng thường?

Cũng có k
tính đường trí phú
Mình làm mình nh
n ng kém ăn
Ru
t rà không k chí thân
D
u làm nên đ dành phn cho ai?
Khi n
m xung không người nhn nh
C
a phù vân du có như không
S
ng thi tin chy bc ròng
Thác không đem đ
ược mt đng nào đi.
Khóc ma m
ướn, thương gì hàng xóm
Hòm g
đa bó đóm đưa đêm
Ng
n ngơ trong qung đng chiêm
Nén h
ương git nước biết tìm vào đâu?

Cũng có k
rp cu ch qúy
Dấn
mình vào thành th lân la
M
y thu lìa ca lìa nhà
Văn ch
ương đã chc đâu mà chen chân.
D
c hàng quán gp tun mưa nng
V
con nào nuôi nng khem kiêng
V
i vàng lim sp chôn nghiêng
Anh em thiên h
láng ging người dưng
Bóng ph
n t xa chng hương khúc
Bãi tha ma k
dc người ngang
Cô h
n nh gi tha phương
Gió trăng hiu h
t la huơng lnh lùng.

Cũng có k
vào sông ra b,
Cánh bu
m mây chy xế gió đông
G
p cơn giông t gia dòng
Đem thân chôn r
p vào lòng kình nghê.

Cũng có k
đi v buôn bán
Đòn gánh tre chín d
n hai vai
G
p cơn mưa nng gia tri
H
n đường phách sá lc loài nơi nao?

(còn nữa)

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 11:05, 22/08/10
gửi bởi tuetvnb
(tiếp)

Cũng có kẻ mắc vào khóa lính
Bỏ cửa nhà gồng gánh việc quan
Nước khe cơm vắt gian nan
Dãi dầu nghìn dặm lầm than một đời
Buổi chiến trận mạng người như rác
Phận đã đành đạn lạc tên rơi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tiếng oan văng vẳng tối trời càng thương!

Cũng có kẻ lỡ làng một kiếp
Liều tuổi xanh buôn nguyệt bán hoa
Ngẩn ngơ khi trở về già
Ai chồng con tá biết là cậy ai?
Sống đã chịu một đời phiền não
Thác lại nhờ hớp cháo lá đa
Đau đớn thay phận đàn bà,
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất
Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi
Thương thay cũng một kiếp người
Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan.

Cũng có kẻ mắc oan tù rạc
Gửi mình vào chiếu rách một manh
Nắm xương chôn rấp góc thành
Kiếp nào cỡi được oan tình ấy đi?

Kìa những kẻ tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc thiết tha nỗi lòng.

Kìa những kẻ chìm sông lạc suối
Cũng có người sẩy cối sa cây
Có người leo giếng đứt dây
Người trôi nước lũ kẻ lây lửa thành.
Người thì mắc sơn tinh thủy quái
Người thì sa nanh khái ngà voi
Có người có đẻ không nuôi
Có người sa sẩy có người khốn thương.

Gặp phải lúc đi đường lỡ bước
Cầu Nại Hà kẻ trước người sau
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ?
Hoặc là ẩn ngang bờ dọc bụi
Hoặc là nương ngọn suối chân mây
Hoặc là điếm cỏ bóng cây
Hoặc là quán nọ cầu này bơ vơ
Hoặc là nương thần từ Phật tự
Hoặc là nhờ đầu chợ cuối sông
Hoặc là trong quãng đồng không
Hoặc nơi gò đống hoặc vùng lau tre
Sống đã chịu một bề thảm thiết
Ruột héo khô dạ rét căm căm
Dãi dầu trong mấy mươi năm
Thở than dưới đất ăn nằm trên sương
Nghe gà gáy tìm đường lánh ẩn
Tắt mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng nhẽ lại mà nghe kinh.
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.

Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
Mười loài là những loài nào?
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh.

Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.


Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

Ai đến đây dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sanh.


Phật hữu tình từ bi phổ độ
Chớ ngại rằng có có không không.
Nam mô Phật, Nam mô Pháp, Nam mô Tăng
Độ cho nhất thiết siêu thăng thượng đài.

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 11:16, 22/08/10
gửi bởi hungdh
Mình thì lại thích câu này hơn:
bắt phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới được phần thanh cao
..........................
Có tài mà cậy chi tài ""
Có tài liền với chữ tai một vần:
.........................
Đã cho một chút hồng nhan...cho bạc cho... mới thôi

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 11:31, 22/08/10
gửi bởi tuetvnb
Ngày rằm tháng 7, đọc lại bài văn tế Thập loại chúng sinh của cụ Nguyễn Du mà ngẫm cái triết lý nhân sinh. Kiếp người ta, cũng chỉ là “QUẢ” của cái “NHÂN” từ tiền kiếp để lại. Kiếp phù sinh là thế, bao bon chen, bao cừu thù, oan trái… cuối cũng cũng lại trở về với cái HƯ KHÔNG của trời đất. Tuy là văn tế chúng sinh, nhưng cũng là cái lẽ đời, tất cả trở nên vô nghĩa khi con người ta trở về với cát bụi. Trong cái cõi u minh ấy, chẳng còn phân biệt sang hèn, chẳng còn quý tiện, hèn ngu… Trong văn của cụ Nguyễn, mọi thứ trên đời đều chỉ là phù phiếm. Từ những kẻ “mũ cao áo rộng” , những kẻ “màn lan trướng huệ” đến những kẻ hành khất “nằm cầu gối đất”… đều giống nhau khi khi dứt cõi trần. Dù cao sang, quyền quý, dù nghèo hèn yểu mệnh, đều không thoát khỏi cái sự xoay vần của tạo hóa… cuối cùng thì :

Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng “vạn cảnh giai không”



Dù cho giầu có, quyền hành, khổ ải, đầy đọa, cũng chẳng ai mang theo được sang thế giới bên kia. Vậy mà chúng sinh cứ mãi mê muội, cả đời lao tâm khổ tứ, tranh đấu giành giật, làm nên biết bao oán nợ chồng chất. Mà rồi thì cuối cũng cũng chỉ “thở than dưới đất, ăn nằm trong sương”… :(



Ngày "xá tội vong nhân" thành tâm cầu cho thập loại được tịnh độ siêu sinh.

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 11:56, 22/08/10
gửi bởi nobfebbig
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh đàn sái hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ độ về tây phương.
...
Nhờ phép Phật siêu sinh tịnh độ
Phóng hào quang cứu khổ độ u
Rắp hòa tứ hải quần chu
Não phiền trút sạch oán thù rửa không.

Nhờ đức Phật thần thông quảng đại
Chuyển pháp luân tam giới thập phương
Nhơn nhơn Tiêu Diện đại vương
Linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh.
Nhờ phép Phật uy linh dũng mãnh
Trong giấc mê khua tỉnh chiêm bao
...
Kiếp phù sinh như hình như ảnh
Có chữ rằng:"Vạn cảnh giai không"
Ai ơi lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi trong luân hồi.
Đàn chẩn tế vâng lời Phật giáo
Của có khi bát cháo nén nhang
Gọi là manh áo thoi vàng
Giúp cho làm của ăn đường thăng thiên.

6h sáng rằm tháng 7 cách đây 1 năm, em nghe điện thoại báo anh mất! Em không biết mình vừa nghe thấy gì, em bảo mẹ anh mất rồi! Mọi người mắng em nói năng lảm nhảm....

Rằm tháng bảy người ta bảo là ngày xá tội vong nhân...thế mà sao anh lại bị bắt đi? Không ốm không đau, không bệnh không tật....ngủ mà đi được.... Nghe như chuyện mơ hồ, ngủ mà mất được ư? Đầu gối vào núi, chân hướng ra biển, mặt quay về Nam, người ta bảo anh tôi chết tiên chết Phật? TIên gì? PHật gì?

Bói toán khắp nơi, người bảo tuổi Ất Mão của anh sống không hết số. Người bảo nhà động nọ động kia. Người bảo phải lập đàn, lập đàn rồi người ta lại kêu đàn hỏng....

Nhà mình có mấy khi bói toán...vậy mà...
Các già vào cúng cho anh, cầu Phật cứu rỗi linh hồn anh về miền Tây PHương cực lạc, không bị vướng vào cái vòng luân hồi luẩn quẩn này nữa. Các cụ dặn cúng anh trong 100 ngày chỉ cúng cơm chay để dễ siêu thoát. Em vẫn bướng bỉnh làm những món anh thích...

Còm ơi, 1 năm rồi đấy! Nằm dưới đất sâu chẳng biết giờ thịt xương đã tan ra đến đâu rồi? Xuống đó anh đã gặp ông bà chưa? Biết anh buồn nhiều lắm mà không biết phải làm sao cả?

Nếu thực sự có cõi tiên cõi Phật, cầu cho những linh hồn dòng họ nội ngoại nhà mình, cầu cho anh trai tôi sớm được siêu thoát! Anh ơi..

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 21:13, 24/08/10
gửi bởi PHEPMAU
Cầu cho anh trai em được siêu sinh tịnh độ .
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát [-O<

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 02:41, 13/01/11
gửi bởi mysterious
Huynh đi trước , Đệ đi sau.
Huynh dẫn dắt , Đệ đi cùng .
Hiểu Rốt Ráo là hai chữ Huynh Đệ .

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 14:30, 19/03/11
gửi bởi doshaku
Cầu cho anh trai bạn được siêu sinh tịnh độ .
Nam mô Địa Tạng Vương Bồ Tát


_________________

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 12:37, 05/05/11
gửi bởi Ducminh
Trăng có khi khuyết khi tàn
Trời cao đất rộng đã hoàn mỹ đâu
Đời người sống được bao lâu
Cớ sao cứ phải lo âu tháng ngày
Sang hèn, khôn dại, tỉnh say
Cuối cùng cũng phải xuôi tay về trời
Mấy ai thọ được bảy mươi
Thời gian như nước chảy xuôi qua cầu
Chợt nhìn bãi bể nương dâu
Đời như ảo mộng, cần đâu nhọc lòng

TL: Văn tế Thập loại chúng sinh - Nguyễn Du

Đã gửi: 12:47, 05/05/11
gửi bởi tigerstock68
Tìm hiểu về “thập loại chúng sinh”
[highlight=#f3f3f3][blockquote][blockquote]Một cảnh ở Địa ngục
[/blockquote][/blockquote][/highlight]
Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”.
Là người Việt Nam, ít ai không thuộc dăm ba câu trong truyện Kiều, cũng như ít ai không biết tác giả áng văn tuyệt tác viết bằng thể thơ lục bát đó là thi hào Nguyễn Du. Rất nhiều đoạn, nhiều câu, nhiều tình huống trong truyện Kiều đã trở thành văn học dân gian vì những tâm trạng, những hoàn cảnh đó quá gần gũi với môi trường thực tế trong xã hội, cả thời xưa cho đến ngày nay.
Ngoài Truyện Kiều đã quảng bá khắp dân gian, thi hào Nguyễn Du còn là tác giả của một tác phẩm mà không mùa Vu Lan nào không được nhắc đến. Đó là bài “Văn tế thập loại chúng sinh”.
Tự thân Nguyễn Du đã nhận chịu quá nhiều đau thương buồn tủi từ thuở ấu thơ nên tâm hồn rất nhạy cảm trước nỗi đau nhân thế. Những tác phẩm của tiên sinh thường bàng bạc tinh thần Phật giáo qua luật nhân quả, vòng tử sinh luân hồi, vay trả mà chưa phân minh thì sau khi thác sẽ thành những oan hồn uổng tử, vất vưởng khắp chốn u tối mịt mùng. Những oan hồn đó chỉ trông chờ vào mùa mưa tháng bẩy, chầu chực miếng cơm chén cháo nơi các trai đàn chẩn tế thí thực cho!
Tại sao lại tháng bẩy?


Vì đó là thời điểm Đức Phật dạy ngài Mục Kiền Liên phương thức cứu mẹ khỏi chốn địa ngục A-Tỳ. Lòng thành của người con thảo thỉnh cầu Chư Tăng đang tụ hội về trong ngày Tự Tứ, cùng góp lời cầu xin và sám hối, không những đã cứu được bà Thanh Đề khỏi nghiệp gông cùm đói khát, mà cũng trong ngày đó, năng lượng dũng mãnh của Chư Tăng còn lan tỏa, xá tội được cho tất cả bao oan hồn uổng tử vất vưởng chốn u tối ngục hình.
Nhân gian từ đó noi theo, lấy ngày rằm tháng bẩy là ngày Vu Lan báo hiếu, đồng thời lập đàn, bày thực phẩm thí phát cho những oan hồn bơ vơ không ai tế độ.
Văn minh nhân loại, hợp cùng y học thực tiễn, dù tinh vi đến đâu cũng chưa thể giải thích thỏa đáng những trường hợp hiển linh, chứng minh về sự cố “Chết, chưa là hết. Chết mà chưa siêu được thì hồn vẫn vất vưởng trong cõi u minh”.
Kinh Pháp Cú có đoạn dạy rằng “kẻ nào không tin luật nhân quả, không tin có sinh tử luân hồi thì không điều ác nào mà kẻ ấy không dám làm” Lời dạy này thật đơn giản, vì nếu không tin làm ác gặp ác, thì cứ việc gì mang lợi tới cho bản thân là làm, dù việc đó gây tai hại cho người khác; Không tin luân hồi sinh tử thì đang có thân người đây, mục đích duy nhất là phục vụ thân này, dù dẫm đạp lên người khác, vì khi chết là hết, can chi phải nương tay, dại gì không tận hưởng!
Thương thay cho những ai lập luận rằng nhân quả và luân hồi vô hình vô tướng, mù mờ quá, lấy gì mà tin! Họ thấy chăng những cái có hình có tướng đang nắm giữ trong tay, cột chặt trong người mà vẫn chớp mắt vuột mất thì lại quyết tin là có thật! Này là bằng hữu tôi, này là tri kỷ tôi, này là vợ, này là chồng tôi, này là những gì quý nhất, bền bỉ nhất của tôi, nhưng tỉnh dậy mà nhìn quanh xem, nhan nhản biết bao cảnh vô thường. Bóng câu chưa khuất ngang khung cửa thì tình đã nhạt, hương đã phai, những cái tưởng của tôi muôn đời, đã lạnh lùng biến dạng, đã là của người khác!
Tình đã thế, tiền thì sao? Này là xe tôi, này là nhà tôi, này là của cải tôi, chỉ cần qua một đêm mộng mị, tình huống ngoài xã hội kia chợt thay đổi khiến tiền cất kỹ trong băng trở thành giấy, ngôi nhà đang ở trở thành nợ nần, không chạy khỏi cho mau sẽ còn mang lụy!
Những gì có hình có tướng, ngỡ đã cất giữ thật chặt, thật kỹ đó, chúng ta vẫn thường đau khổ chứng kiến sự ra đi phù du của chúng. Nhưng lạ thay, dù thấy, dù biết, ta vẫn cố níu kéo cho tới ngày thành ma vất vưởng!
Tiên Sinh Nguyễn Du động lòng trắc ẩn đã dùng ngòi bút lân mẫn mà khóc cho thập loại chúng sinh:
Thập loại là những loại nào,
Gái trai già trẻ đều vào nghe kinh
Nguyễn Du cất tiếng kêu cứu, khóc cho tất cả kiếp nhân sinh khi sống đã buông lung, không sợ nhân quả, lúc thác đi, làm ma côi cút lang thang. Mười loại chúng sinh tiêu biểu trong xã hội, từ vua quan tể tướng, kẻ sỹ, kẻ nông, kẻ già, người trẻ, kẻ thầy, người thợ, nếu thác đi không ai tế tự, đều mòn mỏi đợi mùa tháng bẩy tìm về những trai đàn chẩn tế:
Tiết tháng bẩy mưa dầm sùi sụt
Toát hơi may lạnh ngắt sương khô
Não người thay buổi chiều thu
Ngàn lau khóm bạc lá ngô đồng vàng
Đường bạch dương bóng chiều man mác
Ngọc đường lê lác đác mưa sa
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
Cõi dương còn thế, nữa là cõi âm!
Những kẻ lúc sống, ngủ vùi trong giấc mộng vô thường, khi thác đi mới chợt tỉnh thì ôi thôi:
Khi nằm xuống không người nhắn nhủ
Của phù vân dù có như không
Sống thời tiền chảy, bạc ròng
Thác không đem được một đồng nào đi!
Khi đó, thân người chẳng có, trí huệ cũng không, bà con quyến thuộc nay đều trở thành người dưng kẻ lạ vì:
Mỗi người một nghiệp khác nhau
Hồn xiêu phách lạc biết đâu bây giờ!
Nguyễn Du là người từng lắng tâm, tụng đọc kinh Kim Cang hàng ngàn lần để thấu đáo sâu sa lẽ vô thường “Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điển. Ưng tác như thị quán”
Từ đấy, mới rộng lòng xót thương bao kẻ chưa kịp tỉnh giác đã vội thác làm ma, đồng loạt lang thang khổ sở như nhau, chẳng còn chi là giầu nghèo, cao thấp nữa. Nguyễn Du đã nhỏ lệ, cất lời cầu xin bình đẳng cho tất cả:
Hương khói đã không nơi nương tựa
Phận mồ côi lần lữa đêm đêm
Còn chi ai khá, ai hèn
Còn chi mà nói ai hiền, ai ngu
Tiết đầu thu dựng đàn giải thoát
Nước tịnh bình tưới hạt dương chi
Nương nhờ Đức Phật từ bi
Giải oan cứu khổ, hồn về Tây Phương
Là con Phật, nếu chúng ta tin, hiểu lời Phật dạy, ta sẽ dễ dàng biết mở rộng cánh cửa từ bi sẵn có trong mỗi trái tim để cùng chia xẻ với ngài A Nan khi thấy Đức Phật dừng lại bên đường và quỳ lạy đống xương khô. Trong đống xương hỗn độn đó, với vòng sinh tử luân hồi chưa từng ngưng dứt, mấy ai dám chắc không có thịt xương ông bà, cha mẹ mình! Sự chiêu cảm giữa đất trời và âm dương chia cách là những thực thể chúng ta từng thấy:
Bóng phần tử xa chừng hương khúc
Bãi tha ma kẻ dọc người ngang
Cô hồn nhờ gởi tha phương
Gió trăng hiu hắt, lửa hương lạnh lùng!
Trong niềm bi ai khóc cho lỗi lầm nhân thế, Nguyễn Du cũng không quên những oan hồn trẻ thơ, chưa tội tình gì mà đã thác oan. Những linh hồn bé bỏng, chưa tự lo liệu, chưa biết nghĩ suy, làm sao nơi cõi âm tăm tối mà tìm được hạt cơm, hớp cháo!? Tiếng khóc này của Nguyễn Du mới cực kỳ bi thiết làm sao:
Kìa những đứa tiểu nhi tấm bé
Lỗi giờ sinh, lìa mẹ, lìa cha
Lấy ai bồng bế xót xa
U ơ tiếng khóc, thiết tha nỗi lòng!
Thương thay, bao oan hồn bơ vơ, lầm lũi theo nhau trong đêm tối:
Nghe gà gáy tìm đường ẩn tránh
Lặn mặt trời lẩn thẩn tìm ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già
Có khôn thiêng cố lại mà nghe kinh
Bằng tất cả niềm tin dũng mãnh nơi năng lượng vô biên, mầu nhiệm của Chư Phật, Nguyễn Du khuyến tấn:
Kiếp phù sinh như bào như ảnh
Có chữ rằng: Vạn cảnh giai không
Ai ơi, lấy Phật làm lòng
Tự nhiên siêu thoát khỏi vòng trầm luân
Với sự tin tưởng đó, Nguyễn Du tiên sinh đã kết thúc “Văn tế thập loại chúng sinh” bằng một trai đàn chẩn tế, thành tâm dâng cúng:
Ai đến đây, dưới trên ngồi lại
Của làm duyên chớ ngại bao nhiêu
Phép thiêng biến ít thành nhiều.
Trên nhờ Tôn Giả chia đều chúng sinh
Phật từ bi hữu tình phổ độ
Chớ ngại rằng có có, không không
Nam Mô Phật, Nam Mô Pháp, Nam Mô Tăng
Nam Mô nhất thiết siêu thăng thượng đài.
Nhân mùa Vu Lan báo hiếu và cúng thí cô hồn, xá tội vong nhân, xin trích lại phần nào bài văn tế của thi hào Nguyễn Du để góp lời cầu nguyện dâng lên mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát, Chư Hiền Thánh Tăng, xin nhủ lòng lân mẫn cứu độ muôn loài còn đang ngụp lặn trong bể khổ sông mê, sớm đủ duyên chạm được ánh từ quang mà vượt thoát.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Kệ kinh Kim Cang.- Những câu thơ song thất lục bát là trích trong văn bản “Văn tế thập loại chúng sinh” của thi hào Nguyễn Du
Biển Dài – Mùa Vu Lan