Trang 1 trên 3
PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 21:05, 14/04/25
gửi bởi hathao207
MỘT BƯỚC ĐẦU TIÊN - MỘT BƯỚC CUỐI CÙNG
Vô Thường lưu ký!
I. Về A Di Đà Phật - Nhất Tâm niệm Phật!
Niệm Tăng thù thắng, Niệm Pháp thù thắng hơn, Niệm Phật tối thắng. Như mọi pháp, đều đi từ sơ cơ đi lần lần tiến tới, cho đến khi có thể thực hành chứng trú pháp Niệm Phật.
Quy tông:
Pháp Niệm Phật lấy A Di Đà Phật làm đối tượng (Tầm, Tứ). Giống như trong Pháp Quán Niệm Hơi Thở thì lấy Hơi Thở làm đối tượng (Tầm Tứ). Sau khi vào định, diệt Tầm Tứ chỉ còn CỰC LẠC - cũng giống như trình tự của nhập định qua đối tượng hơi thở, diệt tầm tứ chỉ còn LẠC. TRÚ LẠC. Khi chứng trú Cực Lạc, xả (thế giới) Cực Lạc - vượt qua Cực Lạc, trú xả (xả niệm) - không còn niệm (kể cả niệm thanh tịnh như đang trú).
Nhập định:
Nhất tâm niệm Phật - Lúc này Nhập định. - Giống như chặt đứt 5 sợi dây triền cái, ly dục, ly ác pháp trong Tứ Thánh Thiền - lập tức vào sơ định.
Một phương pháp dùng phương tiện có thể tham khảo:
Mồm niệm Phật ra lời - dù chuyên chú hay niệm kiểu gì - cũng không thể tiến tới nhất tâm. - Hiểu đại ý, đây là khẩu niệm, vị niệm…
Mồm không niệm Phật ra lời, niệm trong óc, cũng giống như vị niệm. Đây chưa tiến tới nhất tâm niệm Phật, đây là ý niệm chứ không phải tâm niệm.
Mắt niệm Phật - ở đây chính là thấy (niệm, hoài nhớ, gợi lên, nhìn) - Phật A Di Đà - Thế giới cực lạc.
Cũng vậy, mũi niệm Phật - thấy hương A Di Đà
Cũng thế, thân niệm Phật - thấy Pháp thân A Di Đà
Cũng thế, tai niệm Phật - Thấy tiếng A Di Đà
Khó nhất là Thân niệm Phật. Thân niệm Phật liên quan thân thanh tịnh - điều này chỉ có khi có giới thân.
Khi bắt đầu hành công, 6 thức hay 18 giới đều đồng rung và thông liên A Di Đà Phật. Toàn bộ 18 giới đều tràn ngập A Di Đà Phật - Vào định (Với đối tượng Tầm Tứ - tức là niệm tầm tứ: A Di Đà Phật)
Nhất tâm chính là vậy. Vào được đây, mọi thứ khác tự thấy, tự thông.
Giới thân - chính là giới!
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 21:38, 14/04/25
gửi bởi hathao207
6 căn cùng niệm Phật gọi là nhất tâm. Vị Phật là dễ niệm nhất - vì lẽ ai cũng dễ thấy vị Phật ngọt ngào. Ý Phật cũng dễ niệm bởi vì, ai cũng có thể tự trải nghiệm và thấy trong đầu mình lựa chọn giữa niệm (cảm giác) khổ đau và niệm an lạc thì ý sẽ chọn niệm nào. Nên ý cũng dễ niệm Phật.
Để tai, mắt, mũi niệm được Phật, rõ ràng cần trải qua sơ cơ tu tập (sơ cơ thế nào thì có vô lượng Pháp từ vô lượng đời nay mà ai cũng có thể tìm ra những pháp phù hợp để đi qua giai đoạn sơ cơ).
Pháp thân cần giới. - Giới thế nào thì tuỳ tu mà thấy.
Pháp này thù thắng vì khi 6 căn bám chặt vào A Di Đà không rời - đạt được nhất tâm vào định, lập lức thấy (thế giới Cực Lạc) - Có thể xả ngay tầm tứ để an trú vào cực lạc. Dù vậy, cực lạc sẽ khó vượt qua hơn là đi qua 2 nấc (thiền 2 và thiền 3) - do tưởng hoạt động mạnh. Cần tự (còn) tỉnh thức để thấy rõ (thế giới lạc hay thế giới cực lạc) vì trạng thái tưởng và phi tưởng phi phi tưởng. Vượt qua, đối chiếu với việc nắm giữ sinh tử (hơi thở) - ở thiền 4 (xả niệm). Vào định diệt thọ tưởng (định này chưa nên nghĩ vì chúng ta nghĩ càng nhiều, tưởng càng lắm. Dù vậy, chúng ta vẫn đang nghĩ đây. Rất khó cho thế giới Ta Bà chúng ta nói Đạo - chẳng biết nói thế nào cho rõ vì chúng ta vẫn là chúng sinh)… ?
II. Về việc nhập định
Đồng ý, cần phải có đối tượng (Tầm Tứ) mới nhập định (đúng đường hay đúng Chánh Pháp) được. Không có đối tượng, rất khó giữ tỉnh thức, dễ rơi vào mê mờ, hoặc rơi thẳng vào ảo tưởng - gọi là bị ma ta kéo đi.
Như vậy, sự khác biệt giữa nhập định đúng Chánh Pháp và bằng các kỹ thuật khác gần như nằm ở chỗ “đối tượng tầm tứ”. Một cách bản chất và chân như - khi bắt đầu hành công vào sơ định - không bao giờ người hành công đạt được cái gọi là “Không” hay đã Phật. Như vậy, nếu người hành công không có Tầm Tứ mà vào định - chắc chắn vừa “ló 6 căn vào” - lập tức “cái tưởng” nó tràn ngập 6 căn 18 giới. Người hành công lúc này “tự tin” rằng: Bản thân hiểu về KHÔNG nên dùng “tâm không” nên mới vào được định. Và vào rồi nên bây giờ “mới thấy” tất cả mọi thứ (chân như, bản chất, sự thực) về thế giới này…. - Đây đều là cái vô minh tưởng của chúng ta tự tặng chúng ta. Chúng ta bám vào các đối tượng này và lầm lỡ. Ngỡ là tu Phật mà đã hãm Ma Ba Tuần.
Các “Đối tượng Tầm Tứ” - Chánh Pháp - Đức Thế Tôn của chúng ta đã nói kỹ, nói đủ. Chúng ta phù hợp phương tiện gì thì dùng phương tiện đó. Không có phương tiện của ai hơn được Chánh Pháp Đức Thế Tôn đã giảng. Có chăng chỉ là những “kỹ thuật” hay phương pháp sử dụng của các Chư Tôn Túc sẽ khác nhau vì bối cảnh thời đại và căn cơ…
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:09, 14/04/25
gửi bởi hathao207
Như vậy, chúng ta đã rõ tầm quan trọng của “chánh niệm” và “tỉnh giác” (tỉnh thức) khi bắt đầu hành công vào định.
Chánh niệm - cuối cùng khi hành trang trước cánh cửa này chính là chúng ta lựa chọn niệm tầm tứ nào làm đối tượng để cho 6 căn bám vào và… thế nào nữa nhỉ? - Không được để mất chánh niệm (còn gọi là thất niệm) khi vào định . Tất nhiên, cái Chánh ở trong Đạo Đức Thế Tôn thì niệm đối tượng này cần phải thuộc Pháp ở hệ thống giới kinh - tức những Pháp Đức Thế Tôn đã giảng cho chúng ta.
Khi chúng ta vào định, nếu chúng ta thất niệm hay cái chúng ta biết là nhiều người đã gặp chính là: 6 căn của chúng ta không bám chặt được vào đối tượng khi chúng ta vào định. Khiến cho chúng ta mất đối tượng tầm tứ. Kể cả việc chúng ta đang bám A Di Đà Phật, chúng ta lại rời A Di Đà Phật bám vào hơi thở vô hơi thở ra.. được một lúc chúng ta lại mất niệm này lại đi bám vào quán Vô ngã hay quán vô thường rồi mong muốn dùng kỹ thuật chỉ Quán … để vào định…. - chúng ta gần như sẽ thấy - đều là các ngã rẽ có thể chệch đường Chánh Pháp.
Chúng ta phải (trong giai đoạn sơ cơ) tu tập được sức tỉnh thức nhất định (đạt điều kiện cần). Chỉ có đạt được 1 mức nhất định đạt yêu cầu thì chúng ta mới không bị thất niệm (mất chánh niệm đối tượng Tầm Tứ) khi vào định. - Bằng không, chúng ta cứ tự nhiện thử xem, chúng ta không tu tập sơ cơ gì, ngồi kiết già vào định, bám vào hơi thở hay bất cứ đối tượng nào… chúng ta xem, chúng ta bám được bao lâu (giữ được bao lâu). - Nếu chúng ta cứ cố - tức là hành công quá mức khi mà sức tỉnh thức không có - việc rơi vào ảo tưởng - hoàn toàn có khả năng.
Tỉnh giác. Nếu 6 giác quan chúng ta mê mờ, chúng ta liệu có liên thông và tập hợp được 6 giác quan (6 căn) này cùng bám vào một đối tượng (cùng niệm tầm tứ)?
Chúng ta thấy: Nếu nhất tâm hơi thở, chúng ta nghe hơi thở? - Nghe dễ không, nguyên cái thính thức này nó có tạo ra “lắm ảo thanh/ảo giác” cho chúng ta trong quá trình tỉnh giác? - Chưa nói đến việc nhìn hơi thở, vị hơi thở, xúc hơi thở…. 6 căn 6 giác quan này, nó phải tỉnh giác thì nó mới tụ được về 1 điểm để bám theo hơi thở - nó mới gọi là viên thông.
Nhiếp tâm là vậy. Chính là ghìm - không phải chỉ mỗi ý thức mà cả 5 thức kia về yên ổn nơi mà chúng (6 thức) tập hợp để bám vào đối tượng, bám cho không rời ra, không cho 1 thức nào rời khỏi đối tượng. Gọi là thuần phục.
Khi 6 thức (6 giác quan 6 căn) bám vào hơi thở, để bám được nó phải “giác” được hơi thở hay “thấy” được hơi thở. Gọi là tỉnh giác. Nhiếp tâm thuần phục chính là vậy. Tỉnh thức chính là trong quá trình vào định, không được để mất “chánh niệm đối tượng này”.
Vì khi vào định, tỉnh thức yếu - chắc chắn chúng ta sẽ bỏ đối tượng mà “chạy ùa” theo muôn vàn cái “kỳ tư diệu tưởng” y như thật, chân như, đủ mọi thứ diệu kỳ…. (Đọc kỹ mấy chục ma sự đã được Đức Thế Tôn nói rõ ở Kinh Đảnh thủ Lăng Nghiêm (đã trích)).
Cũng thế, với A Di Đà Phật và các đối tượng Tầm Tứ Chánh Pháp khác đã được Đức Thế Tôn giảng.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 21:30, 15/04/25
gửi bởi hathao207
III. Về một số phương pháp dụng phương tiện để tỉnh giác, tỉnh thức, chánh niệm
Thực tế thì ngôn từ hàm nghĩa ở Việt Nam hiện đại có thể dùng là “tập trung”
Làm gì thì tập trung làm việc đó. Trong khi tập trung làm việc đó thì ý tự nhắc nhở trong óc “tôi đang làm… abc …xyz”
Như vậy, các giác quan sẽ dần mở ra (tỉnh giác) và tính “thấy” hiện tại dần dần hiện - sau giai đoạn sơ cơ, điều này sẽ trở thành hiển nhiên.
Không phân tâm và hạn chế các giác bị thu hút bởi các đối tượng khác khi đang làm 1 việc cụ thể nào đó.
Như vậy, tập trung chính là các giác quan đang thực hành an trú vào 1 đối tượng không rời.
Ví dụ: Đức Phật khi đi kinh hành thì sét nổ bên tai cũng không phân tâm (vẫn chỉ tập trung vào đối tượng mà Đức Thế Tôn đang neo).
Chúng ta chưa làm được như Đức Thế Tôn ngay nhưng việc tu tập tỉnh giác, tỉnh thức, chánh niệm … khi đủ tinh tấn chúng ta tự thấy (đã có rất ít (cảnh trần sắc) bên ngoài ảnh hưởng đến chúng ta hàng ngày hàng giờ hàng phút).
Vì lẽ nào lại nhiệm màu như vậy?
- Chúng ta sẽ thấy, mỗi giây phút trôi qua (giây phút hiện tại) - dù ở bất cứ hoàn cảnh nào thì cũng có hàng chục, hàng trăm, hàng ngàn cảnh sắc trần pháp lôi kéo và ảnh hưởng đến chúng ta qua 6 căn. Từ ý căn đến 5 căn còn lại… liên tục bị các đối tượng lôi kéo và ảnh hưởng. - Trong khi chúng ta không ở trong cốc hay ở 1 nơi định tĩnh. Chúng ta đang ở thế giới vô thường.
Bởi vậy, khi chúng ta tập trung vào hành cụ thể của chúng ta ở giây phút hiện tại đó - đây là con đường ngắn nhất, thẳng nhất rời xa sự vướng víu dính mắc hay sắc trần pháp lôi kéo.
Nhờ sự tu tập này, chúng ta sớm thấy: Dần dần càng ngày càng ít sắc trần cảnh pháp có thể gây nên sự chú ý hay lôi kéo chúng ta. Chúng ta biển lặng trong tâm thanh tịnh tự thấy rõ theo thời gian thực hành.
Tập trung quá mức hay hành công quá mức: Là một trạng thái cố gắng tập trung hay bị cuốn vào 1 sắc trần cảnh pháp nào đó nhưng 6 căn chưa đủ lực tương thông hoặc lực đạo thông suốt khiến cho tinh thần, thân thể bị mệt mỏi. . Vì vậy, việc tu tập cần đi bước 1, không thể tập trung vào 1 đối tượng, 1 hành nào đó quá lâu ở thời gian đầu. - Chúng ta đều có thể tự thử và tự thấy. Từ đó thấy rõ việc thay đổi đối tượng tập trung là 1 thiết chế Đức Thế Tôn đã chỉ rõ..
Khi chúng ta tập trung chúng ta sẽ dần dần thấy an lạc và ít lo âu sầu khổ, niệm hoài thương đau.v.v. - và chúng ta biết hết, chứ không phải mê mờ.
Nhớ rõ: Khi tập trung hành gì, đối tượng gì, sắc trần cảnh pháp gì, luôn nhớ (tác ý): TÔI ĐANG….. Không cần phải liên tục niệm ý này nhưng hãy nhớ niệm này, niệm lên.
Khi thực hành đủ lâu - tức là khi chúng ta có sức chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức, chúng ta tự thấy: Cảm xúc của chúng ta sẽ lặng dần, không còn bị xao động, bị tuôn trào bởi sắc cảnh trần pháp… càng ngày chúng ta càng thấy sự lặng lẽ trong thân tâm - chính là chúng ta càng ngày càng thanh tịnh rồi.
Thanh tịnh thì hành công vào định mới không sai đường, lệch chánh pháp.
Điều này tương ứng với chúng ta tự thấy 5 sợi dây triền cái lỏng lẻo dần, nhỏ dần, chúng ta yếm ly được dần dục pháp, ác pháp, tâm từ bi tự hiện tiền sáng rõ dần, tự nhiên.
Dù vậy, ở đây chỉ là nhắc lại. Pháp và giảng pháp - các Chư Tôn, thầy đã nói đủ.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:14, 15/04/25
gửi bởi hathao207
Như vậy, chúng ta thấy rõ, chúng ta thực hành tu tập thực tế chỉ là: Thực hành việc 6 căn đang bị cuốn hút bởi “vô lượng đối tượng” hàng ngày hàng giờ hàng phút giây… làm sao cho 6 căn này tập trung dần, neo dần, bám dần vào một số lượng ít dần các đối tượng theo thời gian tu tập cho đến khi chỉ cần 1 đối tượng mà 6 căn có thể mãi vào đó, không rời - đây chính là mức tương đương thiền 1 với tầm tứ, chỉ còn 1 đối tượng mà 6 căn có thể bám vào đó không rời trong mỗi phút giây.
Chúng ta phải đi từ việc vô lượng đối tượng có thể cuốn hút kéo lấy 6 căn (với người bình thường) ở bất cứ hoàn cảnh giây phút hiện tại nào tới hãn hữu và tới duy nhất chỉ còn 1 đối tượng mà chúng ta lựa chọn để tập trung vào ở 1 giây phút hiện tại bất kỳ nào đó. (Một đối tượng - chính là có chánh niệm rõ, tập trung được chính là tỉnh giác, biết rõ và duy trì điều này được chính là tỉnh thức).
Về Đạo Đức Thế Tôn: Đối tượng mà chúng ta có thể bám vào (các Pháp) có nhiều - tuỳ chúng ta khế hợp. Điều tất yếu, các đối tượng này, pháp này không phải là dục (trần) pháp hay ác pháp - như vậy, tập hợp pháp Phật là rất rộng, dù sẽ chỉ có 1 số pháp tối thắng sẽ được dùng khi hành công vào định nhưng về hiện tại an lạc trú (hay đời sống giây phút hàng ngày) thì lượng pháp đối tượng cho chúng ta an trú là vô lượng - mà tuỳ thuộc vào giây phút đó chúng ta hành với hành nào. Chúng ta hành đối tượng nào chúng ta an trú vào đối tượng đó - chính là tập trung, chính là hiện tại an lạc trú.
Như vậy, qua quá trình tu tập sơ cơ, các đối tượng dục trần, ác pháp sẽ tự nhiên được chúng ta loại bỏ dần cho tới khi có thể yếm ly các đối tượng này một cách tự nhiên - bởi vì lúc này chỉ còn 1 số ít đối tượng (thuộc pháp Phật thù thắng, tối thắng) mới có thể làm 6 căn của chúng ta bị lôi kéo, chú ý và dễ dàng an trú. Lúc này, việc hành công vào định có thể đạt . Có thể xông quan.
Dù sao, khi bắt đầu vào định chỉ có 1 đối tượng được 6 căn bám vào (an trú). Khi vào cấp 2 thì dù là đối tượng nào cũng chỉ còn 1 đối tượng là niệm thanh tịnh, khi vào sâu hơn nữa thì đến niệm thanh tịnh này cũng được xả bỏ.
Niệm thanh tịnh là gì: Là niệm tự thấy của cái gọi là cơ vô thức, a lại da, ngã tâm… (niệm tự thấy). Đây là đối tượng đầu tiên, cũng là đối tượng cuối cùng của quá trình hành dục như ý túc có kết quả. Đối tượng này không còn bóng dáng hay ảnh hưởng bởi sắc, trần, pháp, và tưởng cũng nhạt nhoà dần, tiến đến không còn có chỗ tưởng ở đây.
Tuy nhiên, trước khi có được niệm thanh tịnh - chúng ta vẫn cần nương (bám, neo, an trú) vào 1 đối tượng Pháp Phật nào đó để đi vào thiền 1. Chuyên chuyến đò này, chuyên chuyến đò sang bến bờ bên kia, không có gì khác: Vẫn phải dùng 1 đối tượng (Pháp) nào đó. - Lẽ này, thật là hợp Đạo Lý nhiệm màu mà ai ai cũng có thể học suy, nhưng dù vậy, dùng được là 1 chuyện, đến bến bờ bên kia với “đối tượng đó” hay không - lại không phải do đối tượng mà là do “sức chèo thuyền” của mỗi chúng ta.
Ở đây sức chèo thuyền chính là: Chánh niệm (6 căn vào thuyền), tỉnh giác, tỉnh thức (bám chặt không rời khỏi thuyền)… - mà thuyền như vừa nói: Chính là đối tượng chúng ta (6 căn) lựa chọn bám vào khi hành công.
Bờ bỉ ngạn là vậy?
Có câu: Đến bờ bên kia, đến thuyền cũng bỏ là vậy - chính là (diệt Tầm Tứ) - vào thiền 2. Chứ lưu luyến thì sớm muộn lại quay lại “bến Ta Bà”.
Tuy nhiên, chúng ta lần lần, thấy rõ thuyền hợp cơ ở bờ bến bên này và chuẩn bị thật kỹ lưỡng đã.chớ vội.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:48, 15/04/25
gửi bởi hathao207
IV. Về niệm Pháp
Cái gì cũng là Pháp, ở đây chúng ta cũng hiểu, khi nói dùng con thuyền Niệm Pháp để đến bến bờ bên kia - chính là Pháp Phật. Chứ Pháp Ma (dục trần pháp, ác pháp) không ở trong tập xác định của phạm trù Niệm Pháp mà chúng ta nói ở đây.
Như vậy, với niệm pháp - tức là có vô lượng con thuyền cho chúng ta đến bến bờ bên kia. Ai hợp thuyền nào, chuyên thuyền đấy. Chớ nhảy thuyền là vậy. - vì sao? - Vì như đã nói ở phía trước, trong quá trình hành công vào định (sang bờ bên kia) thì 6 căn phải bám chặt vào đối tượng (thuyền), tỉnh thức, tỉnh giác, không được thất niệm.
Có nghĩa, đi thuyền nào là 1 đi không đổi, tới bến bên kia mới xả (lên bờ) - tức là diệt tầm tứ (diệt đối tượng mà 6 căn đang neo).
Pháp Niệm Phật ai cũng rõ - vừa nhắc khai lời ở trên.
Pháp quán niệm hơi thở - cái này ai cũng đã có thể được nghe giảng.
Pháp quán (vô lượng pháp khác) như: Quán vô thường, quán vô ngã, quán khổ, quán abc, quán xyz… - đều cũng giống như pháp quán niệm hơi thở.
Pháp niệm trì chú: Có giống Pháp niệm Phật A Di Đà như đã nói không. Câu “A Di Đà” chính là 1 câu chú tối thắng. Nên mọi pháp niệm trì chú khác cũng giống như pháp niệm Phật nhưng mức độ thù thắng (thuyền) có thể kém hơn pháp niệm Phật A Di Đà.
Cũng giống như pháp quán niệm hơi thở là một pháp tối thắng (con thuyền/phương tiện) trong các hàng pháp quán niệm khác. Nhưng các pháp quán khác cũng vậy, đều là thuyền.
Pháp Giới: Đây là từ giới mà xông. Chuyên giới. Các con thuyền khác đều cần giới. Con thuyền này là con thuyền chuyên giới. Từ giới, pháp giới mà đi tới. - Pháp này, tối thắng rồi.
…
Cũng thế, vô lượng pháp, vô lượng con thuyền, vô lượng đối tượng…
Chúng ta thực hành đúng Chánh Pháp - Đúng Đạo Đức Thế Tôn chúng ta sẽ thấy vô lượng Pháp từ xưa đến giờ thì ra: Thì ra thực sự đều là thuyền là phương tiện là Pháp Phật… là thứ “đối tượng” chuyên chúng ta tới bến bờ bên kia.
Chỉ khi chúng ta đứng tại nơi bến Ta Bà, chúng ta mới thấy sự vĩ ngạn của vô lượng phương tiện mà Đức Thế Tôn đã để lại cho chúng ta.
Chúng ta không thể ngờ rằng: Đến câu “Úm Ma Ni Bá Mề Hồng” - Cũng đưa chúng ta đến bờ bên kia được sao? - Trì chú cũng có tác dụng thật? - Thế thì nói gì đến mấy phương tiện khác vẫn suốt ngày được nghe giảng giải….?
Như vậy, chúng ta cần tu tập sơ cơ để đến bến Ta Bà.
Từ đây, chỉ còn 1 thuyền cho một chúng ta. Nhưng là con thuyền đại Bát Nhã vì - một thuyền mà lại là vô lượng thuyền… ai ai cũng đủ, cũng có. Bát Nhã là vậy. Bến Bát Nhã là thế..
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 21:21, 16/04/25
gửi bởi hathao207
V. Về đối tượng và dục tầm
Ở đây, chúng ta phải xác định rõ. Đối tượng duy nhất mà chúng ta bám vào (nguyện) ở dài hạn trong cuộc đời là “giải thoát”. Đây chính là dục như ý túc, dục tầm. Nếu không bám vào đối tượng “dài hạn” này, chúng ta không đi đến đâu cả. - Giống như mục tiêu, mục đích của cuộc đời.
Khi tự nhận rõ được đối tượng dục tầm dục như ý túc phía trên, mới nói đến “giây phút hiện tại” và các pháp Phật - vô lượng pháp Phật - chính là các đối tượng ngắn hạn, các đối tượng ở ngay bây giờ, ngay giây phút hiện tại - chúng ta thông qua giải quyết “giây phút hiện tại” này. Nhưng chúng ta chỉ thấy được sự tinh tấn ở giây phút hiện tại khi chúng ta đã rõ đối tượng của chúng ta về dục như ý túc.
Thông qua (đối tượng ở giây phút hiện tại) mà chúng ta bám được chặt vào đối tượng giải thoát, không buông lung, không mê mờ. Nhưng nếu chúng ta không bám vào đối tượng giải thoát - thì dù chúng ta có thực hành pháp ở giây phút hiện tại như thế nào thì chúng ta cũng không đi tới đâu.
Bởi vì đối tượng dục tầm như trên, nên rất rõ Pháp Phật không có nhiều tác dụng cho người không muốn giải thoát. - Thôi thì để làm “niềm tin tôn giáo”, “niềm tin cầu xin” - cũng có thể coi là 1 tác dụng lớn với “người đời”.
Còn Pháp Phật chỉ có tác dụng nhiệm màu với người đời muốn giải thoát (khi đã nhận thấy rõ đối tượng dục tầm của dục như ý túc).
Đối tượng nào rồi cuối cùng cũng diệt… nhưng không bám chặt vào những đối tượng cụ thể… chẳng bao giờ đi được từ bờ mê tới bến ngộ.
Như vậy:
Đối tượng dục tầm (giải thoát) dục như ý túc - Chính là ngọn hải đăng.
Đối tượng (pháp) ở mỗi giây phút hiện tại - chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức - chính là cái phao, con thuyền.
Dù sao, khổ hải vô biên, quay đầu là bờ nhưng cần nhìn hải đăng mới biết đó là bờ, bằng không giữa biển khơi trùng trùng sóng gió 360 độ quay tròn đều thấy khổ - biết đâu là phương/hướng bến bờ.
Duy nhất cần nhớ: Khi kiết già hành công vào định - thì cả 6 căn chỉ bám và chỉ bám, bám chặt vào 1 đối tượng khế hợp căn cơ
Dù sao chúng ta cũng có rất nhiều thời gian thực tập mới đến được đây, nên ở đây chỉ làm chuẩn bị lại một vài nét như vầy.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:01, 16/04/25
gửi bởi hathao207
VI. Về quá trình vào định
Định có nhiều trạng thái định. Ở đây là nói Chánh định - Định Đạo.
Như vậy, định này luôn đi cùng với Thiền, còn gọi là Như Lai Thiền hay Pháp Thiền của Đức Thế Tôn. Không thiền thì không vào định.
Hình thái thiền tối thắng của Đức Thế Tôn là ngồi kiết già. Chánh niệm trước mặt.
Như vậy, rất rõ, nhành chánh niệm (8nhành) phải viên mãn hay đủ điều kiện thì mới tiến tới được nhành định. Ý nhắc ở đây là (chánh niệm, tỉnh giác, tỉnh thức) phải đạt điều kiện thì mới vào được Chánh Định. - Không còn cái gì khác, mọi cái khác ở trước đó chỉ là cái bóng cái mơ…
Đi theo đối tượng quán - Chư Tôn Túc đã để lại nhiều lưu ký mà chúng ta đều thấy “kỹ thuật Chỉ Quán” - Chỉ quán tức là dừng quán. Khi quán đối tượng đến mức đủ thâm sâu thì lập tức dừng quán (chỉ quán). 6 căn chỉ cần bám chặt vào đối tượng là chúng ta đến bên kia….
Thiền Tông còn nhiều kỹ thuật được các Chư Tôn Túc lưu lại. Kể như công án - tâm ấn
Thiền sinh bắt được đối tượng trong tâm ấn của Thầy. Bám chặt vào đó đến bến bên kia. Tuy nhiên, kể từ khi công án (tâm ấn) được viết, suy nghĩ, giảng giải… đối tượng đã không còn ở trong đó…
Tác ý là một kỹ thuật được phát triển dựa trên pháp Như Lý Tác Ý. Tác ý nhiều như niệm chú - hẳn có tác dụng. Đây là 1 kỹ thuật lấy công mài sắt.
Tuỳ Pháp là một kỹ thuật được phát triển dựa trên pháp Tuỳ Pháp Vô Niệm - hiện giờ rất nhiều các Chư Tôn Thầy đều phát triển kỹ thuật này để dẫn Đạo. Tuy nhiên, giảng nhiều thành nhàm. Hiện giờ, thường mê mờ trong tuỳ pháp vì quên mất đối tượng. Có lẽ tông “tịnh độ” còn giữ được đối tượng tương đối rõ (Vãng sinh). Còn nhiều tông (viện) khác dù vẫn nói về đối tượng Bồ Tát nhưng đã ở trong vòng luẩn quẩn của đời…
Tuỳ pháp nhưng khi đến nấc tinh tấn là người thực hành phải thực hành dần việc bám vào duy nhất 1 đối tượng để chuẩn bị cho quá trình CHÁNH ĐỊNH.
Không vào định - thì có nghĩa vẫn động, mà động (chuyển động/vận động) nghĩa là vẫn vô thường. Đơn giản vậy thôi. Trí của chúng ta đã quá rõ về chúng ta khi ở chỗ này. Chính vì ở trong vô thường, chịu vô thường nên chúng ta luân hồi. Hiểu mọi thứ về định, hiểu mọi thứ về không, hiểu mọi thứ về giải thoát, vô ngã, vô thường, khổ, Phật, Đạo…. Nhưng rốt cuộc chúng ta phải hành công vào định ở muộn nhất là giây phút trút hơi thở cuối cùng của đời này ở thế này - có như vậy, chúng ta mới giải thoát khỏi luân hồi.
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:34, 16/04/25
gửi bởi hathao207
VII. Về việc làm thế nào để 6 căn bám chặt vào đối tượng
Nguyên lý như đã nói là Chánh Niệm, Tỉnh giác, Tỉnh thức. Nhưng mất bao nhiêu lâu để tỉnh giác?
Thứ nhất: Chúng ta phải tin rằng Đức Thế Tôn đã nói đi nói lại về Tánh Giác/Tánh Phật/Tánh thấy, tánh nghe…. - Nên chúng ta yên tâm rằng 6 cái căn này nó như là 6 cái nút thắt từ 1 chiếc khăn thắt lại. Khi mà chiếc khăn đã thắt thì chúng ta mới có 6 cái nút - chính là mắt tài lưỡi xúc ý mũi - công năng mỗi cái nút và tên gọi mới như con người chúng ta. Tháo nó ra thì chẳng còn nút nào, mà chiếc khăn thì lúc này mới là “chiếc khăn” - công năng vẫn đủ - khả năng nhiều công năng hơn là hiển nhiên…
Thứ hai: Vậy làm thế nào để tỉnh giác, để cho 6 cái nút đó bám chặt vào đối tượng hay làm thế nào để cởi 6 cái nút đó?
Thực tế, Đức Thế Tôn khuyên cởi nút tai (thính/thanh) trước tiên. Hầu như, các pháp mà chúng ta thường xuyên gặp hiện giờ cũng đều trọng tâm tu cởi nút tai đầu tiên.
Niệm A Di Đà Phật bằng mồm, tai nghe. Hít thở, tai nghe hơi thở. Bồ Tát - Quán Âm - âm là tiếng, là thanh… nên cũng là tai… - Thường gọi là Tánh Nghe.
Mắt là thứ 2, thường gọi là tánh thấy.
Vì ý như con khỉ, nó có tưởng lại thành tinh, có đủ “72 phép biến hoá” - thế nên ý dễ bám vào đối tượng nhất, nhưng không cởi từ ý. Cởi từ ý, chúng ta không cởi ra cái gì cả. - Thực tế có vẻ khác so với chúng ta vẫn đang tưởng từ xưa tới giờ.
Đức Thế Tôn đã nói, cởi tai cởi trước tiên. Khi nào tai nghe được đối tượng không rời, bám chặt vào đó, vượt qua “màn chướng” của vô lượng đối tượng khác xuất hiện trong tai… cuối cùng tai chỉ còn nghe được duy nhất và chỉ duy nhất đối tượng mà chúng ta bám vào… đến lúc này chúng ta đã biết chúng ta đã đi tới đâu. .
Chúng ta sẽ có 5 lạch cần vượt qua khi này. Rõ ràng, trước tiên là sắc, tiếp theo đến thọ, thứ nữa là tưởng, tiếp nữa là hành và cuối cùng là thức.
Chúng ta nhớ, 5 lạch này, 5 ấm không bao giờ xuất hiện lộn xộn mà chắc chắn xuất hiện theo thứ tự. Chúng ta bám vào đối tượng, đi qua 5 ấm này.
Hiển nhiên, âm sắc sẽ biến mất, đến âm thọ, âm tưởng, âm hành và cuối cùng chính là (âm) thức thính.
1 thông thì 6 thông. 6 thông thì chính là 1. Là như vậy!
TL: PHẬT - ĐẠO
Đã gửi: 22:57, 16/04/25
gửi bởi hathao207
Chúng ta đến đây chúng ta đều đã thấy trí tuệ vô thượng của bậc Chánh Đẳng Giác - Đức Thế Tôn khi nói rõ cho ngàn đời sau chúng ta về việc nên cởi từ nút tai đầu tiên - thứ nữa mới nên cởi từ nút mắt. Thực tế, tai với mắt cũng gần gần nhau. Và các Tổ của chúng ta - được xưng là Tổ - chỉ tâm truyền (tánh thấy tánh nghe) là vậy.
Nhưng bây giờ, chúng ta cứ đi cởi nút ý - nhiều khi chúng ta cởi 1 đời, có cởi nổi nửa nút hay không, tự chúng ta thấy.
Nào là ý chúng ta thấy về sắc ra sao..
Ý chúng ta rõ chân như về thọ thế nào..
Ý chúng ta biết y như thật về tưởng ra sao…
Mọi thứ cái gì ý chúng ta cũng thấy biết hiểu tất, chẳng cái gì là không thể - chỉ cần chúng ta đọc nhiều, nghe nhiều, suy tường nhiều, kể cả là dụng công quán…
Không có Đạo Lý nào là ý chúng ta không biết…
Nhưng đi từ ý - chúng ta không thấy chút tinh tấn nào về việc 6 căn thông nhau vào định..v.v.
Rốt cục, lại đi từ tai (hoặc mắt) - tức là cởi đó.
Nhưng đi từ cái gì, chúng ta cũng gặp theo thứ tự 5 ấm - không bao giờ có ngoại lệ lộn xộn.
Kỳ tài vô lượng đời có 1 - vẫn có thể đi từ ý, đi từ xúc, đi từ vị (Như Dược Bồ Tát) - Thời của Đức Thế Tôn chúng ta thấy có đầy đủ các Chư Tôn đi từ 1 trong 6 căn. Đặc biệt các vị đi từ căn Ý là rất nhiều và muôn hình vạn tượng phương kiểu, kỹ thuật.v.v. Nhưng ấm thì luôn luôn phá theo thứ tự.
Tại sao bây giờ không nên “ngông cuồng” mà đi theo căn Ý - Vì Đức Thế Tôn nhắc chúng ta rồi. Ý chúng ta có thể lịch duyệt hàng nghìn hàng vạn quyển Kinh hẳn là đã thấy rõ Đức Thế Tôn nhắc điều này và lý do.
Và chúng ta đã rõ: Nếu chúng ta không có đủ sức tỉnh thức, tỉnh giác, chánh niệm - khi đi qua 5 ấm ở trong định đạo (đường định) - chúng ta sẽ thất niệm… bị lôi kéo ngay, nhẹ thì phế Đạo, nặng thì đoạ nhập vào hàng Ma. Đức Thế Tôn đều nói rõ rồi.
Chúng ta đến đây, 6 căn của chúng ta đều được thủ hộ thanh tịnh nhất định rồi. Nên ở đây chúng ta chỉ nói lại một vài lưu ký. Còn chuyện cởi từ nút nào, đó là do tự chúng ta thấy. Dù sao, Đức Thế Tôn không cấm, Đức Thế Tôn chỉ nói vậy.