Trí Huệ Bát Nhã Tâm Kinh
Đã gửi: 20:57, 22/02/12
Trí Tuệ Bát Nhã Tâm Kinh
1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, và như thế các Pháp đều là Không, liền thóat khỏi mọi khổ ách.
2- Này người con Xá Lợi, hinh tướng cũng là Không, Không cũng là hình tướng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tưởng Hành Thức đều như vậy.
3- Này người con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tướng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tượng của mắt, tai, mủi, lưởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có được mất, vì không có gì được hay mất.
4- Giờ đây Đại bồ Tát nương vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa được điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong ba đời cũng nương theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã là đại thần Lực, là vô thượng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối.
6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã được tuyên nói trong kinh rằng:
"Vượt qua, vượt qua, vượt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thượng, Giác ngộ rồi!"
Giải Nhĩa Tâm Kinh:
Hoa sen trong kinh Phật biểu tượng cho chân lý. Và chân lý đó là chân lý hiện thực trong cuộc đời. Nó hiển thị giữa trần thế lắm ưu phiền và tục lụy. Về mặt xã hội và tôn giáo, hoa sen biểu trưng cho con đường “nhập thế sinh động” của Phật giáo. Đó là những thành ngữ thường được dùng như “Cư trần bất nhiễm trần” (Sống trong trần thế nhưng không bị ô nhiễm bởi trần thế), hoặc “Phật pháp bất ly thế gian pháp” (Phật pháp không rời các pháp thế gian mà có), hoặc “muốn đến Niết bàn hãy vào đường sinh tử” v.v...
Hoa sen trong kinh Phật sẽ được hiểu tùy theo những hoàn cảnh khác nhau. Có lúc, hoa sen chỉ thuần túy là hoa sen, có lúc hoa sen là chân lý tuyệt đối (Niêm hoa vi tiếu), và có lúc hoa sen lại tượng trưng cho con đường du hóa của Tỳ kheo…
Sau đây là một số trích đoạn tiêu biểu trong các kinh nguyên thủy:
a. [HT. Thích Minh Châu - Tăng chi bộ kinh IA:51]: “Ta có thể là người với các lậu hoặc đã đoạn tận... Ví như bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn ra khỏi nước, đứng thẳng, không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà la môn, Ta là Phật, hãy ghi nhớ như vậy”.
Nguyệt San Giác Ngộ 184
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2...-52_14-1_15-1/
Bàn về một loài hoa cao quý và có biểu tượng rộng lớn như hoa Sen là cả một công trình đồ sộ do vậy xin dùng google tim kiếm thêm Hoa sen, cư trần bất nhiễm, biểu tương phật giáo,..
Bên trong Gạn loc đươc tham sân si hỷ nộ ái ố, bên ngoài thì gân bùn mà chăng hôi tanh mùi bùn văn hoa thì cư trân bất nhiễm, và hoa sen được xem như là biểu tương cơ bàn của giác ngô, là cơ bản cũa phật tính.
Đức phật đã nói "trong mỗi chúng sinh đều có phật tính" hay là " ta là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành."
Khi nói tới vàng ta co thể biết Vàng là môt "kim" loại quý, hoa sen là một loài hoa quý tiêu biểu cho Hành Mộc.
Nó đươc xem là một cái lớn trong vũ trụ vì hiện diện trong mỗi chúng sinh: Mộc là yếu tó thứ 5 thêm vào tứ đai (đất, nươc gió lửa)
"Muốn trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại. Phải dựa vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân " (Trích từ DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI / Thích Trí Châu )
SÁCH BIẾU KHÔNG BÁN
Mọi chi tiết xin liên lạc về:
Thích Trí Châu
PO Box 1522
Westminster, CA 92684, USA
Thức thuộc phi vật thể (năng lượng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.
-"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
-"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
-"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
-"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
-"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ
Như vậy "hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại." theo Từ Vi Dưới mắt Nghiệp Quả là sự cô đọng lại cúa Khí trong tiến trình Tiền Ngũ Thức được Khí hóa thành Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân tương tự quá trình hơi nước và nước,..
(Đọc thêm: http://tuviduoimatnghiepqua.blogspot.co ... -hanh.html )
Giải nghĩa Tâm Kinh
1- Tâm kinh được mỡ đầu bằng "Nương vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm được nêu lên như một cảnh tỉnh, một nhấn mạnh "công đúc viên mãn" là điều kiện ắt có và đủ.
Vậy Công đức là gì? Tại sao lại cần thiết đề vươt qua cổng đó(Kim_Mộc_Thủy_Hỏa_Thổ)
(Đọc thêm:Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5 "Giải mã huyền sử")
http://tuviduoimatnghiepqua.blogspot.co ... en-su.html
Tưởng cũng cần nhắc lại vào thời kỳ Hùng Vương thứ ba (2879-258 BC) Chử đồng tử và Tiên Dung đươc Đại bồ tát Phật Quang (PHÁP VÂN ĐỊA), truyền lại 4 bộ chân kinh Lộ trình tâm(Dich), Y hoc , Tử vi và Luyên khí .
Bôn chân kinh này liên hệ mật thiết lẫn nhau không thề tách rời nhau đươc vì nó là một tiến trinh tu học cứu cánh Giác Ngộ. Vì nó được nối liển nhau qua hệ tám thức.
Tử vi (Tử là Hạt, Vi là sóng) là hàm lương tử viết lại dòng Nghiệp lực, Tử Vi đã sử dụng hệ tám thức tức là khoảng 3000 năm trước khi ngài Vô Trươc và ngài Thế Thân (316 AC hay 860 năm sau khi Đức Phật diệt độ) xiêm dương Duy thứ hoc, duy thức thuộc tông Pháp tướng. Nói khác Tử vi nói lên cái Thực Tướng của dòng nghiêp lực. Mọi biến hiện hình tướng đều xuất phát từ biến động từ Tạng thức. Một biến đổi của dòng Nghiêp lực là một hay nhiểu thay đổi qua 12 cung trên địa bàn Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào và từ đó tương tác lên bộ vị trên tướng, thanh, sắc (màu sắc, bức xạ ánh sáng, sóng), y tướng của đương số, như ta vẫn thường nghe "Tướng tùy tâm sanh tướng tùy tâm diệt" cũng không ngoài khái niêm này.
Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Hoàn công rằng :
Chúa công có bệnh ở thớ thịt ; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng.
Hoàn công nói :
- Tôi chẳng có bệnh gì cả !
Biển Thước lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến ; nói với Tề Hoàn công rằng :
- Bệnh chúa công đã ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa.
Hoàn công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn công rằng :
Bệnh chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi Hoàn công lại không trả lời. Biển Thước lui ra. Hoàn công than rằng :
Tệ quá ? Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò ! Người ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh ?
Qua năm ngày nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Tề Hoàn công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn công sai người hỏi. Biển Thước nói :
- Bây giờ bệnh chúa công đã vào đến tủy rồi ! Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh ở mạch máu thì còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.
Lại qua năm ngày nữa. Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói :
- Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi ?
(Đông châu liệt quốc hồi 32 @ 4phuong.net)
Sắc khí là bức xạ phát ra từ kinh mạch bị đồn nén, bế tắt phát ra khi đi xuyên qua da thịt làm thay đổi màu sắc tại đó như tia laser đỏ để lại vết đỏ khi qua cừa kính.
"The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism."
Lới phát biều trên của Albert Einstein gây nhiều dĩ ứng tôn giáo " Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ . Nó cần phải vượt qua Đấng tạo hóa, tránh giáo điều và thần học. Hàm chứa phi vật chất (tinh thẩn) lẫn vật chất, và (nếu) phải là một tôn giáo thì tôn giáo đó phải bắt nguồn từ kinh nghiêm về vật chất lẫn Phi vật chất (tinh thần) là một tổng thể đồng nhất đầy ý nghĩa. Phật giáo trà lời cho sự mô tả này và nếu có bất kỳ tôn giáo nào có thể đáp ứng với những nhu cầu khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo."
Vũ trụ, thật là đầy ý nghĩa vì không phải chỉ có trái cầu này là hành tinh duy nhất có sinh vật. Theo Tử vi đưới mắt nghiệp quả thì chúng sinh là kết quả của xâu chuổi Vô minh -Lão tử, là thai tạng của dòng nghiêp lực, là biến hiện của tám thức mà thực tướng, hiện tướng của nó là tổng thể đồng nhất cũa vật chất và Phi vật chất.
(Đoạn sau trich từ :CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT / Đoàn Trung Còn)
"Pháp tướng tông khi truyền sang Nhật Bản cũng tạo ra rất nhiều ảnh hưởng tích cực trong đời sống của dân tộc này. Khi nhận biết rằng những giá trị vật chất trong cuộc sống vốn là không thật, họ không rơi vào chỗ bi quan yếm thế hay lười nhác, trốn tránh. Trái lại, họ vận dụng được nhận thức này để rèn luyện sự kiên tâm và một nghị lực vững vàng trước mọi biến động trong cuộc sống. Nhờ vậy, họ có thể chịu đựng được những cơn động đất, bão tố, nạn đao binh... Trải qua thảm họa, họ thản nhiên xây dựng lại cuộc sống; gặp những mất mát đau thương, họ mỉm cười chấp nhận để nỗ lực vượt qua. Họ biết rằng không có gì là trường tồn. Những điều tốt đẹp hay xấu xa, thảy đều sẽ qua đi với thời gian. Và nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất đi những nỗ lực vươn lên hoàn thiện cuộc sống. Họ tin tưởng rằng, tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm, nhưng chính phần tâm thức, nghị lực của mỗi con người là thật có."
PhapTuongTong.DoanTrungCon http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75 ... 14-1_15-1/
"tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm" và theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì Thế giới này chỉ không còn hiện hữu khi chúng sinh cuối cùng trong vũ tru được giác ngộ.. Có lẽ đây cũng là lý do Đức Phật muốn nhập diệt ngay sau khi thành đạo, Làm sao đây để chúng sinh hiểu được rằng thế giới này là giã tạm khi mà chúng sinh hiện hữu thì thế giới này còn hiện hữu hay nói khác Vật chất sơn hà địa đại, 12 cung tử vi 12 tương quan Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào là một thực tại khó bác bỏ. Với con đưòng tu đạo nếu hiểu được là giã tạm, là không thực, là hư vọng, là do nhân duyên sinh, là không, là giã danh thì sự giác ngô sẽ không còn bao xa.
Trở lại với Công đức:
Theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì khi làm một việc thiên có nghĩa một chủng từ thiện được gieo vào tàng thức. chủng tử đó được goi là chủng từ Công đức. Khi hội đủ điều kiện (duyên) thì sẽ trở thành Phúc đức (phước đức) ở hiện kiếp. Nêu việc thiên đó do Tham Sân Si, Ích kỷ thì nó cũng là chủng tử Công đức nhưng có thêm cái đuôi TSS, IK thí dụ Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK, và như thế khó có duyên để thành Phúc đức, nói như vậy không có nghĩa là vô phương cứu chữa chỉ cẩn thực hành Tứ vô lương tâm chuyển hóa Công-Dức_TSS, Công-Dức_IK thành Công đức. Nói như vậy còn có ý nghĩa chỉ cần trong một thoáng giây hành thiện mà tâm tỉnh lặng, không ích kỷ, tâm vi tha, tâm hỹ, tâm xã thì cơ hội chuyển hóa vẫn luôn còn đó. Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ.
Chuyện kể rằng:
Khi Ðức Ðạt Ma Tổ Sư được rước vào Kim Lăng, vua Lương Võ Ðế hỏi rằng:
- Từ khi lên ngôi, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không xiết kể, thế có Công đức chăng?
Tổ Sư nói: - Các việc làm ấy không có Công đức.
Ấy là Tổ Đat Ma ấy nói tới công đức khó có thể biến đổi thành phúc đức trong kiếp hiện tai hay tương lai (Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK)
"Lương Võ Ðế làm vua 48 năm, thọ 86 tuổi, 45 năm quy y đầu Phật, chẳng những thâm tín mà còn thông hiểu giáo lý đạo Phật, ông đã một đời hoằng dương chánh pháp như độ tăng, cất chùa, xây tháp, giảng kinh, chú sớ, từ bỏ ngai vàng, tránh cuộc chiến tranh. Người hiểu đạo, mới thấy ông là bậc bồ tát hiện thân, cho nên ông được người đương thời xưng tán là Phật tâm thiên tử."
(Đoạn trên trich từ : http://chanhhanh.blogspot.com/2010/05/luong-vo-e.html)
Như đã nói Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ. Với hành trang dấn thân của vua Lương Võ Đế như trên ông quả xứng đáng là bậc bồ tát hiện thân, Công đức vô lượng đáng được xưng tán là Phật tâm thiên tử. Và như thế lời nói của Tổ Đạt Ma chì mang ý nghĩa cùa cây gậy nhà “Thiền” !!!!
Làm thế nào xây dựng một nền tảng công đức vô lương cứu cánh Niết bàn:
Theo người viết thì giữ giới là yếu tố tiên quyết thưc hành bồ tát đạo như Đức phật đã dạy:
“Trong Tăng Chi Bộ kinh, 3B – trang 73, Ðức Phật dạy 10 mục đích hình thành giới bổn như sau:
1. Ðể Tăng chúng được cực thịnh
2. Ðể Tăng chúng được an ổn
3. Ðể chặn đứng các người khó điều phục
4. Ðể các vị Tỳ kheo tốt được sống an ổn
5. Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại
6. Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai
7. Ðể đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những người chưa tin
8. Ðể làm tăng trưởng niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những ai đã có lòng tin
9. Ðể cho chánh pháp được tồn tại
10. Ðể cho giới luật được chấp nhận
Với những điều kiện trên, chúng ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng là để ngăn ngừa điều ác, làm và tăng trưởng điều thiện. Như Luật tạng nói: "Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan là để được hỷ, hỷ là để được khinh an, khinh an là để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn"
1- Nương vào công đức vô lượng, Bồ tát Quán Thế Âm, an định, tự tại tiến sâu vào nguồn kinh mạch Kim, Thủy, Hỏa, Môc, Thỗ và rằng khi vượt qua khiếu đó (cỗng, gate) hợp thể năm chất đều là Không, và như thế các Pháp đều là Không, liền thóat khỏi mọi khổ ách.
2- Này người con Xá Lợi, hinh tướng cũng là Không, Không cũng là hình tướng, rằng phi vật chất, vật chất là không hai không khác. Thọ Tưởng Hành Thức đều như vậy.
3- Này người con Xá Lợi: Hết thảy các pháp đều không. Không sanh cũng không diệt, không dơ cũng không sạch, không thêm cũng không bớt. Và rằng tánh không, không có hình tướng, cho nên không có nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, nên không có đối tượng của mắt, tai, mủi, lưởi, thân, cũng không có cái biết của sắc, thanh, hương, vị, xúc. Không có vô minh, không có hết vô minh, không có già chết và cũng không có hết già chết. Không có khổ nạn nên không có tập, diệt, đạo, không có tri thức hiểu biết, cũng không có được mất, vì không có gì được hay mất.
4- Giờ đây Đại bồ Tát nương vào trí tuệ Bát Nhã, nên tâm không còn chướng ngại, nên không còn sợ hãi, lìa xa được điên đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết Bàn. Các vị Phật trong ba đời cũng nương theo Trí Tuệ Bát Nhã nầy mà đắc quả vô thượng chánh đẳng chánh giác.
5- Cho nên phải biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã là đại thần Lực, là vô thượng lực, là lực vô đối vô song có khả năng tiêu trừ khổ nạn, là chân thật, là sự thật không gian dối.
6- Vì thế, nên biết rằng Trí Tuệ Bát Nhã được tuyên nói trong kinh rằng:
"Vượt qua, vượt qua, vượt qua cổng đó, thể nhập vào trái tim vô thượng, Giác ngộ rồi!"
Giải Nhĩa Tâm Kinh:
Hoa sen trong kinh Phật biểu tượng cho chân lý. Và chân lý đó là chân lý hiện thực trong cuộc đời. Nó hiển thị giữa trần thế lắm ưu phiền và tục lụy. Về mặt xã hội và tôn giáo, hoa sen biểu trưng cho con đường “nhập thế sinh động” của Phật giáo. Đó là những thành ngữ thường được dùng như “Cư trần bất nhiễm trần” (Sống trong trần thế nhưng không bị ô nhiễm bởi trần thế), hoặc “Phật pháp bất ly thế gian pháp” (Phật pháp không rời các pháp thế gian mà có), hoặc “muốn đến Niết bàn hãy vào đường sinh tử” v.v...
Hoa sen trong kinh Phật sẽ được hiểu tùy theo những hoàn cảnh khác nhau. Có lúc, hoa sen chỉ thuần túy là hoa sen, có lúc hoa sen là chân lý tuyệt đối (Niêm hoa vi tiếu), và có lúc hoa sen lại tượng trưng cho con đường du hóa của Tỳ kheo…
Sau đây là một số trích đoạn tiêu biểu trong các kinh nguyên thủy:
a. [HT. Thích Minh Châu - Tăng chi bộ kinh IA:51]: “Ta có thể là người với các lậu hoặc đã đoạn tận... Ví như bông sen xanh, bông sen hồng hay bông sen trắng sanh ra trong nước, lớn lên trong nước, vươn ra khỏi nước, đứng thẳng, không bị nước thấm ướt. Cũng vậy, sanh ra trong đời, lớn lên trong đời, Ta sống chinh phục đời, không bị đời thấm ướt. Này Bà la môn, Ta là Phật, hãy ghi nhớ như vậy”.
Nguyệt San Giác Ngộ 184
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2...-52_14-1_15-1/
Bàn về một loài hoa cao quý và có biểu tượng rộng lớn như hoa Sen là cả một công trình đồ sộ do vậy xin dùng google tim kiếm thêm Hoa sen, cư trần bất nhiễm, biểu tương phật giáo,..
Bên trong Gạn loc đươc tham sân si hỷ nộ ái ố, bên ngoài thì gân bùn mà chăng hôi tanh mùi bùn văn hoa thì cư trân bất nhiễm, và hoa sen được xem như là biểu tương cơ bàn của giác ngô, là cơ bản cũa phật tính.
Đức phật đã nói "trong mỗi chúng sinh đều có phật tính" hay là " ta là phật đã thành, chúng sinh là phật sẽ thành."
Khi nói tới vàng ta co thể biết Vàng là môt "kim" loại quý, hoa sen là một loài hoa quý tiêu biểu cho Hành Mộc.
Nó đươc xem là một cái lớn trong vũ trụ vì hiện diện trong mỗi chúng sinh: Mộc là yếu tó thứ 5 thêm vào tứ đai (đất, nươc gió lửa)
"Muốn trở về với Chân Tánh Bổn Nguyên Thanh Tịnh thì phải nương vào Thân Xác Thô Kệch này, là hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại. Phải dựa vào Năm Giác Quan Thô Phù của nó gồm Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân " (Trích từ DUY THỨC TAM THẬP TỤNG LƯỢC GIẢI / Thích Trí Châu )
SÁCH BIẾU KHÔNG BÁN
Mọi chi tiết xin liên lạc về:
Thích Trí Châu
PO Box 1522
Westminster, CA 92684, USA
Thức thuộc phi vật thể (năng lượng, KHÔNG) khi qua "sự vân dụng của Y Lý" thì Thức trở thành Khí (vật chất, SẮC), tiến trình này gọi là Khí Hoá, và thông qua các khiếu mà ta nhận được khi kết hợp Thận, Tỳ, Can, Tâm, Phế (Đông Y) và Nhãn, Nhỉ, Tỷ, Thiệt, Thân.
-"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
-"Tỳ khai khiếu ở miệng" hay "Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ thuộc thuộc Thổ
-"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
-"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
-"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
1. Nhãn thức ---> hóa khí--->"Can khai khiếu ở mắt". Can thuộc Mộc
2. Nhĩ thức---> hóa khí--->"Thận khai khiếu ở Tai". Thận thuộc Thủy
3. Tỷ thức---> hóa khí--->"Phế khai khiếu ở mũi". Phế thuộc Kim
4. Thiệt thức---> hóa khí--->"Tâm khai khiếu ở lưỡi". Tâm thuộc Hỏa
5. Thân thức---> hóa khí--->"Tỳ khai khiếu ở miệng"/" Thân nhục khai khiếú ở Miệng". Tỳ (Thân nhục) thuộc Thổ
Như vậy "hiện tướng của vô lượng những quang minh đã bị lưu ngại cô động lại." theo Từ Vi Dưới mắt Nghiệp Quả là sự cô đọng lại cúa Khí trong tiến trình Tiền Ngũ Thức được Khí hóa thành Mắt, Tai, Mũi, Lưỡi, Thân tương tự quá trình hơi nước và nước,..
(Đọc thêm: http://tuviduoimatnghiepqua.blogspot.co ... -hanh.html )
Giải nghĩa Tâm Kinh
1- Tâm kinh được mỡ đầu bằng "Nương vào công đức" xác định không một ai có thề chứng đạt, kiến tánh mà không hôi đủ công đức, tiếp liền đó danh hiệu Bổ tát Quán thế Âm được nêu lên như một cảnh tỉnh, một nhấn mạnh "công đúc viên mãn" là điều kiện ắt có và đủ.
Vậy Công đức là gì? Tại sao lại cần thiết đề vươt qua cổng đó(Kim_Mộc_Thủy_Hỏa_Thổ)
(Đọc thêm:Tử Vi Dưới Mắt Nghiệp Quả, bài 4.5 "Giải mã huyền sử")
http://tuviduoimatnghiepqua.blogspot.co ... en-su.html
Tưởng cũng cần nhắc lại vào thời kỳ Hùng Vương thứ ba (2879-258 BC) Chử đồng tử và Tiên Dung đươc Đại bồ tát Phật Quang (PHÁP VÂN ĐỊA), truyền lại 4 bộ chân kinh Lộ trình tâm(Dich), Y hoc , Tử vi và Luyên khí .
Bôn chân kinh này liên hệ mật thiết lẫn nhau không thề tách rời nhau đươc vì nó là một tiến trinh tu học cứu cánh Giác Ngộ. Vì nó được nối liển nhau qua hệ tám thức.
Tử vi (Tử là Hạt, Vi là sóng) là hàm lương tử viết lại dòng Nghiệp lực, Tử Vi đã sử dụng hệ tám thức tức là khoảng 3000 năm trước khi ngài Vô Trươc và ngài Thế Thân (316 AC hay 860 năm sau khi Đức Phật diệt độ) xiêm dương Duy thứ hoc, duy thức thuộc tông Pháp tướng. Nói khác Tử vi nói lên cái Thực Tướng của dòng nghiêp lực. Mọi biến hiện hình tướng đều xuất phát từ biến động từ Tạng thức. Một biến đổi của dòng Nghiêp lực là một hay nhiểu thay đổi qua 12 cung trên địa bàn Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào và từ đó tương tác lên bộ vị trên tướng, thanh, sắc (màu sắc, bức xạ ánh sáng, sóng), y tướng của đương số, như ta vẫn thường nghe "Tướng tùy tâm sanh tướng tùy tâm diệt" cũng không ngoài khái niêm này.
Biển Thước đi chơi khắp thiên hạ, cứu được nhiều người lắm. Một hôm đi đến đất Lâm Tri, vào yết kiến Tề Hoàn công, nói với Hoàn công rằng :
Chúa công có bệnh ở thớ thịt ; nếu không chữa thì thành ra bệnh nặng.
Hoàn công nói :
- Tôi chẳng có bệnh gì cả !
Biển Thước lui ra. Sau năm ngày lại vào yết kiến ; nói với Tề Hoàn công rằng :
- Bệnh chúa công đã ở mạch máu, làm thế nào cũng phải chữa.
Hoàn công không trả lời. Sau năm ngày nữa lại vào yết kiến, nói với Hoàn công rằng :
Bệnh chúa công đã ở trong ruột và dạ dày rồi, phải chữa ngay đi Hoàn công lại không trả lời. Biển Thước lui ra. Hoàn công than rằng :
Tệ quá ? Thầy thuốc chỉ nghề hay vẽ trò ! Người ta không có bệnh mà cứ bảo là có bệnh ?
Qua năm ngày nữa, Biển Thước lại vào yết kiến Tề Hoàn công, vừa trông thấy nét mặt Hoàn công đã vội lui ra mà bỏ chạy. Hoàn công sai người hỏi. Biển Thước nói :
- Bây giờ bệnh chúa công đã vào đến tủy rồi ! Bệnh ở da thịt còn xoa thuốc được, bệnh ở mạch máu thì còn tiêm thuốc được, bệnh ở ruột và dạ dày còn uống thuốc được, nay bệnh đã vào đến tủy thì dẫu trời cũng không chữa được nữa, bởi vậy tôi không nói mà lui ra.
Lại qua năm ngày nữa. Hoàn công quả nhiên ốm nặng, sai triệu Biển Thước. Người nhà Biển Thước nói :
- Thầy tôi bỏ đi đã năm hôm rồi ?
(Đông châu liệt quốc hồi 32 @ 4phuong.net)
Sắc khí là bức xạ phát ra từ kinh mạch bị đồn nén, bế tắt phát ra khi đi xuyên qua da thịt làm thay đổi màu sắc tại đó như tia laser đỏ để lại vết đỏ khi qua cừa kính.
"The religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual, it should be based on a religious sense arising from the experience of all things natural and spiritual as a meaningful unity. Buddhism answers this description. If there is any religion that could cope with modern scientific needs it would be Buddhism."
Lới phát biều trên của Albert Einstein gây nhiều dĩ ứng tôn giáo " Tôn giáo tương lai sẽ là một tôn giáo vũ trụ . Nó cần phải vượt qua Đấng tạo hóa, tránh giáo điều và thần học. Hàm chứa phi vật chất (tinh thẩn) lẫn vật chất, và (nếu) phải là một tôn giáo thì tôn giáo đó phải bắt nguồn từ kinh nghiêm về vật chất lẫn Phi vật chất (tinh thần) là một tổng thể đồng nhất đầy ý nghĩa. Phật giáo trà lời cho sự mô tả này và nếu có bất kỳ tôn giáo nào có thể đáp ứng với những nhu cầu khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo."
Vũ trụ, thật là đầy ý nghĩa vì không phải chỉ có trái cầu này là hành tinh duy nhất có sinh vật. Theo Tử vi đưới mắt nghiệp quả thì chúng sinh là kết quả của xâu chuổi Vô minh -Lão tử, là thai tạng của dòng nghiêp lực, là biến hiện của tám thức mà thực tướng, hiện tướng của nó là tổng thể đồng nhất cũa vật chất và Phi vật chất.
(Đoạn sau trich từ :CÁC TÔNG PHÁI ĐẠO PHẬT / Đoàn Trung Còn)
"Pháp tướng tông khi truyền sang Nhật Bản cũng tạo ra rất nhiều ảnh hưởng tích cực trong đời sống của dân tộc này. Khi nhận biết rằng những giá trị vật chất trong cuộc sống vốn là không thật, họ không rơi vào chỗ bi quan yếm thế hay lười nhác, trốn tránh. Trái lại, họ vận dụng được nhận thức này để rèn luyện sự kiên tâm và một nghị lực vững vàng trước mọi biến động trong cuộc sống. Nhờ vậy, họ có thể chịu đựng được những cơn động đất, bão tố, nạn đao binh... Trải qua thảm họa, họ thản nhiên xây dựng lại cuộc sống; gặp những mất mát đau thương, họ mỉm cười chấp nhận để nỗ lực vượt qua. Họ biết rằng không có gì là trường tồn. Những điều tốt đẹp hay xấu xa, thảy đều sẽ qua đi với thời gian. Và nhờ đó, họ không bao giờ đánh mất đi những nỗ lực vươn lên hoàn thiện cuộc sống. Họ tin tưởng rằng, tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm, nhưng chính phần tâm thức, nghị lực của mỗi con người là thật có."
PhapTuongTong.DoanTrungCon http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-75 ... 14-1_15-1/
"tuy mọi cái đều không thật, đều giả tạm" và theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì Thế giới này chỉ không còn hiện hữu khi chúng sinh cuối cùng trong vũ tru được giác ngộ.. Có lẽ đây cũng là lý do Đức Phật muốn nhập diệt ngay sau khi thành đạo, Làm sao đây để chúng sinh hiểu được rằng thế giới này là giã tạm khi mà chúng sinh hiện hữu thì thế giới này còn hiện hữu hay nói khác Vật chất sơn hà địa đại, 12 cung tử vi 12 tương quan Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Tật, Tài, Tử, Phu(Thê), Bào là một thực tại khó bác bỏ. Với con đưòng tu đạo nếu hiểu được là giã tạm, là không thực, là hư vọng, là do nhân duyên sinh, là không, là giã danh thì sự giác ngô sẽ không còn bao xa.
Trở lại với Công đức:
Theo Tử vi dưới mắt nghiệp quả thì khi làm một việc thiên có nghĩa một chủng từ thiện được gieo vào tàng thức. chủng tử đó được goi là chủng từ Công đức. Khi hội đủ điều kiện (duyên) thì sẽ trở thành Phúc đức (phước đức) ở hiện kiếp. Nêu việc thiên đó do Tham Sân Si, Ích kỷ thì nó cũng là chủng tử Công đức nhưng có thêm cái đuôi TSS, IK thí dụ Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK, và như thế khó có duyên để thành Phúc đức, nói như vậy không có nghĩa là vô phương cứu chữa chỉ cẩn thực hành Tứ vô lương tâm chuyển hóa Công-Dức_TSS, Công-Dức_IK thành Công đức. Nói như vậy còn có ý nghĩa chỉ cần trong một thoáng giây hành thiện mà tâm tỉnh lặng, không ích kỷ, tâm vi tha, tâm hỹ, tâm xã thì cơ hội chuyển hóa vẫn luôn còn đó. Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ.
Chuyện kể rằng:
Khi Ðức Ðạt Ma Tổ Sư được rước vào Kim Lăng, vua Lương Võ Ðế hỏi rằng:
- Từ khi lên ngôi, trẫm cất chùa, chép kinh, độ tăng không xiết kể, thế có Công đức chăng?
Tổ Sư nói: - Các việc làm ấy không có Công đức.
Ấy là Tổ Đat Ma ấy nói tới công đức khó có thể biến đổi thành phúc đức trong kiếp hiện tai hay tương lai (Công-Đức_TSS, Công-Đức_IK)
"Lương Võ Ðế làm vua 48 năm, thọ 86 tuổi, 45 năm quy y đầu Phật, chẳng những thâm tín mà còn thông hiểu giáo lý đạo Phật, ông đã một đời hoằng dương chánh pháp như độ tăng, cất chùa, xây tháp, giảng kinh, chú sớ, từ bỏ ngai vàng, tránh cuộc chiến tranh. Người hiểu đạo, mới thấy ông là bậc bồ tát hiện thân, cho nên ông được người đương thời xưng tán là Phật tâm thiên tử."
(Đoạn trên trich từ : http://chanhhanh.blogspot.com/2010/05/luong-vo-e.html)
Như đã nói Tâm bồ đề chĩ có thề có khi tạo được thói quen hành thiện, qua kinh nghiệm hoc tâp, qua hành động dấn thân làm thiện mà tâm bổ đề dẩn hiện rõ. Với hành trang dấn thân của vua Lương Võ Đế như trên ông quả xứng đáng là bậc bồ tát hiện thân, Công đức vô lượng đáng được xưng tán là Phật tâm thiên tử. Và như thế lời nói của Tổ Đạt Ma chì mang ý nghĩa cùa cây gậy nhà “Thiền” !!!!
Làm thế nào xây dựng một nền tảng công đức vô lương cứu cánh Niết bàn:
Theo người viết thì giữ giới là yếu tố tiên quyết thưc hành bồ tát đạo như Đức phật đã dạy:
“Trong Tăng Chi Bộ kinh, 3B – trang 73, Ðức Phật dạy 10 mục đích hình thành giới bổn như sau:
1. Ðể Tăng chúng được cực thịnh
2. Ðể Tăng chúng được an ổn
3. Ðể chặn đứng các người khó điều phục
4. Ðể các vị Tỳ kheo tốt được sống an ổn
5. Ðể chế ngự các lậu hoặc ngay trong hiện tại
6. Ðể chặn đứng các lậu hoặc trong tương lai
7. Ðể đem lại niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những người chưa tin
8. Ðể làm tăng trưởng niềm tin thanh tịnh chính đáng cho những ai đã có lòng tin
9. Ðể cho chánh pháp được tồn tại
10. Ðể cho giới luật được chấp nhận
Với những điều kiện trên, chúng ta thấy mục đích hình thành giới bổn cũng là để ngăn ngừa điều ác, làm và tăng trưởng điều thiện. Như Luật tạng nói: "Giới là để chế ngự, chế ngự là để khỏi hối hận, không hối hận là để được hân hoan, hân hoan là để được hỷ, hỷ là để được khinh an, khinh an là để được lạc, lạc để được định, định để được chánh kiến, chánh kiến để được vô dục, vô dục để được ly tham, ly tham để được giải thoát, giải thoát để có giải thoát tri kiến, giải thoát tri kiến để đi đến vô thủ trước Niết bàn"