Trang 1 trên 2

Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 12:32, 26/05/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ


Một cô bé người Anh đã làm mọi người kinh ngạc vì bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ khác lạ vào một buổi sáng sau khi thức giấc. Cô không còn hiểu được tiếng Anh, không nhận ra cha mẹ và luôn tỏ ra sợ sệt...
Các chuyên gia vào cuộc và xác định, cô bé hoàn toàn khỏe mạnh và thứ ngôn ngữ lạ mà cô sử dụng chính là tiếng Tây Ban Nha chuẩn. Bằng thứ tiếng này, cô cũng khẳng định mình là người Tây Ban Nha, rằng tại thành phố Toledo, trong một ngôi nhà trên đường phố, người hàng xóm vì ghen tị đã dùng dao đâm cô.
Cảnh sát Tây Ban Nha đã kiểm tra lại câu chuyện này; tất cả đều trùng hợp. Đúng là có một cô gái 22 tuổi từng sống ở Toledo , chính trong ngôi nhà và đường phố mà cô bé ở Anh đã nói đến. Một hôm, người ta tìm thấy cô bị giết chết. Cha mẹ cô đã già và tới nay vẫn còn than khóc vì thương nhớ con. Khi hỏi đến người hàng xóm nay cũng đã già, người này thú nhận tội ác của mình.
Báo chí thế giới đăng tải câu chuyện trên khiến nhiều người kinh ngạc. Nhưng các nhà khoa học thì không ngạc nhiên vì đối với họ, hiện tượng đó không phải là mới.
Vào những năm 1970, Elena Markard - cô gái Đức 20 tuổi ở Tây Berlin - bị thương nặng. Khi tỉnh lại, cô bắt đầu nói tiếng Italy rất chuẩn - thứ tiếng mà trước đó một chữ cắn đôi cô cũng không hề biết. Cô khẳng định tên mình là Rozetta Liani, sinh ở Italy năm 1887 và đã... chết ở đó năm 1917. Khi được đưa tới địa chỉ "quê cũ" tại Italy , Elena gặp một bà già, vốn là con gái của người phụ nữ có tên Rozetta đã quá cố. Không do dự, cô gái 20 tuổi Elena chỉ vào bà già và nói: “Đây là con gái tôi - Fransa”.
Tạp chí Tiếng vọng hành tinh của Nga cũng đã có lần kể về cậu bé Titu người Ấn Độ: Cậu bỗng nhiên nói rằng tên mình là Sures Varma, chủ một cửa hiệu ở Agra , có vợ là Uma và hai đứa con. Cha mẹ cậu hoảng sợ liền đi Agratìm hiểu và được biết: Đúng là có một thương gia tên Varma từng sống ở đó và đã chết vì bị bắn vào đầu. Khi gặp góa phụ và hai đứa con, Titu nhận ra cả ba người. Một điều thú vị là trên đầu Titu có dấu vết bẩm sinh đúng vào chỗ vết thương của ông Varma trước đây.
Trong lịch sử từng có hàng nghìn trường hợp quay trở về cuộc sống dĩ vãng. Một lý thuyết được gọi là “trí nhớ gene” đã được đề xướng để giải thích các hiện tượng này. Theo nhà nghiên cứu Hidtoring Tan, trí nhớ gene là trí nhớ đã được di truyền từ các thế hệ trước. Ngay từ khi con người mới sinh ra, trong bộ não đã tồn tại vùng lưu giữ ký ức của mọi việc từng xảy ra từ đời bố mẹ, ông bà, cụ kỵ... Trí nhớ gene được lưu trong những phân tử protein của tế bào não. Khi có một năng lực nào đó làm khởi động các phân tử ấy thì ký ức về đời trước sẽ được phục hồi, con người bỗng nhiên nhớ lại những gì từng xảy ra với tổ tiên xa xôi, y như là đã xảy ra với chính mình.
Ai là người sở hữu trí nhớ gene?
Hình ảnh


Liệu có phải ngay từ khi sinh ra, mỗi người đều tích trữ trong bộ não mình dữ liệu về những đời trước? Các nhà khoa học nhận thấy rằng cả cuộc đời một con người, dù có sống đến 100 tuổi thì cũng mới chỉ tiêu thụ có 1/10 năng lực của bộ não. Có thể 9 phần còn lại đã tích chứa những ký ức, hình ảnh, sự kiện của nhiều đời nhiều kiếp khác nữa mà trí nhớ gene là cái khóa cần được mở mới biết được.
Theo ông Edgar Cayce, người được coi là có khả năng khơi dậy những hình ảnh trong tiền kiếp của người khác: Đôi khi những hình ảnh trong trí nhớ gene được hiện ra qua những tác nhân như giấc mộng khi đang ngủ, một hình ảnh nào đó khi đang thức, hay mạnh mẽ hơn và rõ ràng hơn khi được kích động bằng phương pháp thôi miên.
Các nhà khoa học thuộc Đại học Delhi (Ấn Độ) và Đại học Virginia (Mỹ) đã đưa ra một thống kê cho thấy, trẻ nhỏ có khả năng phát lộ trí nhớ gene mạnh hơn người lớn. Chúng thường sống lại “quá khứ xa xăm” của mình mà ngay bản thân và bố mẹ không hề biết. Chẳng hạn, nhiều đứa trẻ có những thái độ, cử chỉ, lời nói hay sự lo lắng rất đặc biệt, sự kiện này được xác định là có liên quan đến một người ở tiền kiếp. Nếu người ấy đã chết vì tai nạn sông nước hay những gì liên quan đến nước thì đứa trẻ này rất sợ nước. Nếu người ấy bị bắn chết thì đứa trẻ rất sợ tiếng nổ, hay trông thấy súng là hoảng sợ...
Theo sự phân tích tỉ mỉ của bác sĩ Stevenson trong nhóm nghiên cứu, có nhiều bé gái nhớ lại tiền kiếp của mình là trai và ngược lại, nhiều bé trai nhớ lại tiền kiếp của mình là gái. Chính vì thế mà chúng có sở thích ăn mặc cũng như cử chỉ, dáng điệu phù hợp với giới tính của mình trước đó, tuy ngược hẳn với giới tính hiện tại.
Theo nhà siêu tâm lý Banglopp, những người bị chết bất đắc kỳ tử thường nhớ rõ về thời gian và những gì đã xảy ra ở kiếp trước khi họ bước vào một cuộc đời mới. Có lẽ cái chết bất ngờ của tiền kiếp, chết không theo đúng quy luật của tự nhiên (sinh, lão, bệnh, tử) đã khiến linh hồn thoát khỏi thể xác một cách bất ngờ, khi vào thân xác mới vẫn giữ được sự liên quan mật thiết với những gì của thời quá vãng.
Còn một hiện tượng khác ít gây chú ý cho công chúng nhưng lại khiến các nhà nghiên cứu quan tâm, đó là thần đồng. Nó củng cố giả thuyết về “cuộc sống kiếp trước”. Có những thi sĩ, nhạc sĩ mới 10 tuổi, những sinh viên ở tuổi thiếu niên... Làm sao họ có ngay được nguồn vốn kiến thức và trí tuệ phức tạp đến như vậy? Câu trả lời của một số nhà khoa học là: thể xác mới có khả năng nhớ lại được những kỹ năng, kiến thức đã tích lũy từ kiếp trước.
Cho đến nay, các hiện tượng trên vẫn đang là câu hỏi lớn đối với giới khoa học. Sự nhớ lại kia là trí nhớ gene ? Có giả thiết cho rằng, ký ức kiếp trước là một tập hợp thông tin được lưu giữ theo cách nào đó trong vũ trụ mà chỉ một số người có khả năng thu nhận.


Nguồn:


Chuyên trang trắc nghiệm – khám phá năng lực bản thân

BỘ NHỚ CỦA VŨ TRỤ.

hay Ký ức của Vũ trụ

Memories

of the Universe
Akashic Records - The Book of Life
Chúng ta thử xem một đoạn được trích trong quyển Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời của Ông Nguyễn Hữu Kiệt từ trang nhà Vietshare :
Hình ảnhVới thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì nó gây nên những kết quả tốt đẹp.
Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội.
Những điều kể trên đã lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi.
Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại.
Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất.
Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa Phân giải Tâm lý (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.
Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những " ký ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau:
Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực.
Chính nhờ đó sự ghi nhận trong ký ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ.
Hình ảnhCái khả năng thấy ký ức của Thiên Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi mực độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồng sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là "Ký ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên."
Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akasha. Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận.
Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở tích cực hơn để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng này là ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus?
Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của Lịch Sử, được ẩn giấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của Vũ Trụ?
Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc khán nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy.
Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ óc con người, và sự truyền cảm của bộ Thần kinh hệ.
Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên.
Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khám bệnh bằng Thần Nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả độ 2.500 người. Cũng như những cuộc khán bệnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp cho họ.
Khi con người mở được thần nhãn, tùy theo cấp độ cao thấp, mà người đã mở thần nhãn có thể vào được hệ thống nào, tương ứng với công lực của họ.
Do đó, có lý thuyết cho rằng, sự nhớ lại tiền kiếp chỉ là sự bắt lại những bộ nhớ thông tin của người đã chết được lưu trữ trong ký ức của Vũ Trụ, mà do sự vô ý hay có phương pháp đồng bộ vi diệu của nảo bộ, con người có thể scan, quét được bộ nhớ đó như ta bắt đài TV vậy ; cũng như một người nhớ lại nhiều kiếp trước chỉ là phần cứng bộ máy sinh vật vi tính nảo bộ của họ có khả năng bắt được nhiều đài, nhiều bộ nhớ của ký ức vũ trụ vậy.
Nếu có tái sinh, thì những con người khi sinh ra không cần phải học lại những kiến thức đã thu hoạch được từ kiếp trước, mà chỉ phát triển thêm cho nó hoàn hảo mà thôi. Ở đây chúng ta không bàn về vấn đề luân hồi tái sinh theo tín ngưởng ... vì trải qua hằng trăm năm hệ thống tín ngưởng về luân hồi tái sinh đã bao trùm tâm linh nhân loại rồi, và việc nầy lập đi lập lại không có gì khai phá mới cả, kinh điển nói sao, tín đồ tin như vậy, không bao giờ có ý nghỉ khác... vì cho rằng quá đúng và quá đủ...
Nhưng, với sự khai phóng, cởi mở tự do tâm linh và sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật vượt bực của thế́ kỷ 21 Bảo Bình Tâm Linh ngày nay ; chúng ta ngoài việc đồng ý với tôn giáo, tín ngưởng sẳn có về luật tái sinh, luân hồi... và đồng thời chúng ta có thể song hành cập nhật tâm linh trên, như nhiều nhà tâm linh và khoa học gia tại các quốc qia tân tiến đang làm, qua cách dùng phương pháp quy nạp và loại suy, so sánh và phân tích, dùng những sự tiết lộ mật pháp của Huyền Môn, cùng khoa học cao cấp hiện đại của :
Lý Thuyết Sợi – String Theory
Hình ảnhĐến lúc đó, con người có thể dùng phương pháp clone để tạo một cơ thể mới từ tế bào của chính mình, rồi dùng phương pháp Phowa hay Đoạt Xả của Mật Tông Tây Tạng hay phương pháp Tá Thi Hoàn Hồn hay chuyển di thần thức của Đạo Gia mà chuyển di ý thức, kiến thức, kinh nghiệm cùng tâm linh của mình sang cơ thể mới, như Bluetooth hay USP memory Stick chuyển data từ máy PC nầy sang PC nọ vậy....
Đến lúc đó, sau khi trưởng thành các giác quan, tức sáu căn âm phát triển đầy đủ, con người không cần phải học gì cả, mà chỉ cần vào bộ nhớ của vũ trụ hay trong tiềm thức của những nhà khoa học, Bác Sỉ̃, kỷ sư.... để lấy kiến thức xuống để mà dùng cùng phát triển thêm mà thôi... như vậy tiết kiệm được nhiều thời gian và kinh tế để học lại kiến thức cơ bản củ của kiếp trước...
Con người có Lục Căn Âm là Mắt, Tai, Mủi, Miệng, Thân, Ý là do ý thức hay là Thức Thần chủ động dùng để sinh hoạt trong thế giới vật chất, còn Lục Căn Dương là do Chân Thần hay Nguyên Thần chủ động dùng để sinh hoạt trong thế giới siêu hình...
Công năng của Lục Căn Dương khi được khai mở thì người ta thường gọi là Lục Thần Thông.
Tùy theo môn phái Huyền Môn, mổi môn phái đều có những phương pháp khác nhau để khai mở Thần Nhãn - Astral Vision và phân thân, xuất hồn Astral Projection ; chỉ những người trong môn phái đó mới được sự chỉ dạy và chăm nom dưới sự hướng dẩn của những vị Minh Sư...
Những người được gọi là Nhà Tâm Linh đúng nghĩa, thì điều kiện tối thiểu là cần khai mở được hai khả năng nầy, nếu không thì vẩn còn là một người hành giả tâm linh trên bước đường huyền môn đầy hấp dẫn và kỳ ảo.....
Danh từ Thần Thông ngày xưa, ngày nay người ta hay dùng những danh từ như : Ngoại Cảm, Đặc Dị Công Năng......trong các ngành của chính quyền ; Pháp Thuật, Phương Thuật... trong các môn phái Huyền Môn.
Tùy theo công lực cao thấp của hành giả mà Thần Thông được xử dụng thông qua Tha lực, pháp cụ hay tự lực của Tâm Lực, Linh Lực... của Nguyên Thần hay Chân Thần vậy.
Ngày nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã thành công huấn luyện được những chuyên viên có Lục Căn Dương để xử dụng trong rất nhiều ngành nghề, từ quốc phòng, ngoại giao, gián điệp, công an, cảnh sát, Y Khoa, Trị Liệu, giáo dục ... nhưng những khả năng tâm linh nầy của các chuyên viên trên lại không công bố và không được người thường biết đến, và những khả năng thần thông nầy đã giúp cho họ có được một phương tiện hữu dụng hơn, trong việc phục vụ xã hội và mưu cầu hạ̣nh phúc cho nhân sinh vậy.
Như vậy, những tiềm năng tiềm ẩn của con người đang âm thầm khai phát khắp mọi nơi, từ trong chính quyền, nội môn tôn giáo... ra ngoài cho đến trong dân gian qua các phong trào khí công, linh trị, ngoại cảm, cảm xạ học, phong thủy, bùa chú, pháp thuật..., để chuẩn bị cho một nền văn minh mới, Văn hóa Tâm linh của nhân loại, đến đó sự chênh lệch giữa vật chất và tâm linh sẽ được thăng bằng, nhân loại sẽ đi vào kỷ nguyên của sự hạnh phúc và thịnh vượng của thế kỷ 21 yêu đời, đầy hoa tâm lành và ánh sáng trí huệ tỏa khắp vạn vật trong an lạc
Người viết, Tâm Linh Huyền Đạo
Sydney, 12.33Am, 31/08/10
[/font][/color][/size]

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 13:16, 01/06/12
gửi bởi Yuri198
Sao mình hok nhớ gì hết :(

TL: Re: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 12:42, 02/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ
Yuri198 đã viết:Sao mình hok nhớ gì hết :(

Liệu Pháp Hướng Dẫn Bệnh Nhân Nhớ Lại Kiếp Trước -

Phỏng Vấn Bác Sĩ Hazel Denning

Pat Chalfant
(giáo sư nghiên cứu về môi trường tâm linh)

http://sachhiem.net/TONGIAO/tgP/PatChalfant.php
Hình ảnh 25-Jan-2012



V
ào một buổi chiều lười biếng ở Sydney, tôi mở Tivi và thấy chương trình Oprah Winfrey đang tranh luận về kiếp trước kiếp sau, cuộc tranh luận rất sôi nổi. Đây là một "talk show" của Mỹ.

Khách mời là Dr. Hazel Denning, bác sĩ phân tâm học, là một phụ nữ có tuổi, thông minh, ăn nói rất lưu loát và là sáng lập viên của hội Association for Past life and Therapies (Hội Nghiên cứu kiếp trước kiếp sau để ứng dụng vào việc chữa trị). Là một người tiền phong trong lãnh vực này, bà đã đi nhiều nơi trên thế giới thuyết giảng về luân hồi.

Ngoài tài ăn nói rõ ràng lưu loát về đề tài luân hồi, về vấn đề kiếp trước ảnh hưởng đến kiếp hiện tại, bà còn là một bác sĩ tâm lý trị liệu rất giỏi. Tôi nghĩ công trình nghiên cứu của bà về luân hồi vào khoa tâm lý trị liệu ở Tây phương sẽ là những tài liệu quý báu cho tôi, nên tôi tìm cách hội kiến với bà.

Máy bay hạ cánh xuống một phi trường nhỏ ở miền Nam California. Giáo sư Denning thân hành ra đón tôi. Người nhỏ thó, lưng thẳng đi đứng nhanh nhẹn tuy đã ngoài tám mươi. Bà ung dung lái xe về nhà ở Riverside, nơi sản xuất cam nổi tiếng của Cali. Trong căn phòng làm việc của bà treo đầy bằng cấp, chứng chỉ: hai bằng tiến sĩ, hai bằng thạc sĩ, bằng cấp cử nhân và rất nhiều văn kiện chứng thực bà rất uyên bác về khoa thôi miên và khoa cận tâm lý (Parapsychology).

Trong hai ngày tôi ở lại nhà bà, bà kể cho tôi nghe về công việc của bà và giải thích lý do bà chọn công việc này. Từ hồi nhỏ, giáo sư Denning hay thắc mắc muốn tìm hiểu "tại sao" về việc này việc nọ, tại sao con người phải chịu khổ đau. Bà không tin đó là ý Chúa (God). Bà cho là tin như vậy có vẻ không hợp lý.
Năm ngoài hai mươi tuổi, tình cờ bà được đọc một cuốn sách về luân hồi. Bà vui mừng,"Ôi chao! Tôi đã tìm được giải đáp cho những thắc mắc của tôi rồi. Tôi quá đổi vui mừng và suy nghĩ: cuối cùng thì tôi cũng tìm được một lời giải hợp lý, có thể lý giải được tất cả những bất công của thế gian".
Hình ảnh
Dr. HAZEL DENNING
Hồi đầu thì bà chưa tin lắm. Bà tìm đọc những tài liệu xưa để xem những thức giả đời trước nghĩ sao về luân hồi, và khám phá ra rằng tất cả những tôn giáo lớn trên thế giới đều tin luân hồi kể cả Thiên chúa giáo cho đến năm 533 sau Tây lịch, thì một ông vua La Mã và bà hoàng hậu cấm không cho nói đến luân hồi nữa.
Có hai giáo hoàng bị giết vì muốn giữ đoạn nói về luân hồi trong kinh sách. Ít người biết đến dữ kiện này. Cũng không mấy ai biết chuyện những cha cố ngày xưa như cha Origin và ông thánh Augustin đều tin có luân hồi. Bà nói, "Vậy những người nào nói rằng tin có luân hồi là trái với giáo điều Thiên chúa giáo là không biết những chuyện này". Bà càng thích thú hơn khi khám phá ra những nhân vật nổi tiếng từ cổ chí kim đều tin có luân hồi, từ Plato, Aristotle, Socrates đến Henry Ford, Gladstone, Thomas Edison, đại tướng Patton và nhiều người khác nữa. Bà áp dụng những hiểu biết về luân hồi vào khoa chữa bệnh tâm thần để tìm hiểu nguyên do sâu xa do đâu mà bệnh nhân dường như sống ở một thế giới khác, hay có nhiều sợ hãi vô lý (phobia).
Tôi nóng lòng muốn biết giáo sư Denning làm sao dung hòa được hai vai trò có vẻ trái ngược, vai trò của một bác sĩ tâm thần và vai trò của một người dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về kiếp trước. Làm sao bà có thể chấp nhận lối giải thích của các bác sĩ tâm lý trị liệu hiện nay dùng chữ nghiệp (karma) để giải thích rằng những gì xảy ra trong đời này đều do nghiệp chướng đương sự đã tạo nên từ nhiều đời trước.

Giáo sư Denning không tin môi trường sống là tác nhân chính ảnh hưởng đến cách hành xử của một người. Bà công nhận hoàn cảnh bao quanh đời sống cũng đóng một vai trò khá quan trọng nhưng không phải là yếu tố chỉ huy. Theo bà thì mục đích của đời sống ở thế gian là để tu tâm hướng thượng. Một người tái sanh ở lại cõi trần là để thanh toán, thành tựu những gì mình làm dang dở trong những kiếp trước.
Bà nói có những đứa trẻ sanh ra với một bản tánh yêu đời, đứa khác thì hay cáu giận, tức là mang theo chủng tử của kiếp trước. Theo bà thì số phận (destiny) của mỗi người không thể thay đổi được những phước báu của cha mẹ hay môi trường chung quanh có thể làm cho đời sống của người ấy thoải mái hơn hay khó khăn hơn.

Vì thế giáo sư Denning quyết định trở nên một nhà thôi miên chuyên nghiệp. Bà muốn dùng thuật thôi miên đưa bệnh nhân trở về sống lại kiếp trước của mình. Bà rất cẩn trọng, tỉ mỉ và trung thực trong công việc này. Bà không tìm cách khống chế tư tưởng của bệnh nhân. Bà nói ngày trước trong khoa thôi miên người ta thường dạy phương pháp gợi ý cho bệnh nhân (post-hypnotic suggestion) dùng những câu như "Không được ăn thức ăn này. Thức ăn này ghê lắm v.v...". Tôi không dùng phương pháp ấy, trái ngược với nguyên tắc của tôi. Tôi tìm được cách riêng của tôi mà không cần khống chế tâm ý của bệnh nhân. Vì thế tôi muốn dùng cụm từ "đổi đời" (altered state) thay vì hai chữ thôi miên".

Năm 1980 bà lập hội "Association for Past Life Research and Therapies" và vui mừng thấy hội phát triển nhanh hơn dự tính, vì số người tin và muốn tìm hiểu luân hồi ngày càng đông. Bà khẳng định rằng khoa hướng dẫn bệnh nhân nhớ lại kiếp trước (Past Life Therapy) trở nên một dụng cụ hữu hiệu trong khoa tâm lý và y khoa toàn diện - chữa trị cả thân và tâm. Đường hướng này không những phát triển nhanh ở Mỹ mà còn lớn mạnh ở các nước khác trên thế giới.

Bà được mời đi nói chuyện nhiều lần ở Á châu và ở trường đại học Ultrecht của Hòa Lan, một trường đại học xưa nhất, mà cũng là trường đại học đầu tiên có giảng dạy môn cận tâm lý (parapsychology).

Ở Mỹ những người tìm đến với Dr. Denning gồm đủ mọi thành phần xã hội. Bà dùng phương pháp thông thường trước. Nếu không có kết quả thì bà đưa bệnh nhân trở về kiếp trước để tìm hiểu nguyên nhân. Bệnh nhân của bà gồm đủ mọi hạng người, mục sư có, chuyên viên có, rất nhiều nhà giao, nhiều quân nhân và các thành phần khác. Thường thường ai cũng muốn hỏi. "Mục đích của đời sống là gì?", "Tôi đang làm gì ở đây", "Tôi trở lại lần này để làm gì?"

Bệnh nhân của bà thường ở lứa tuổi ba mươi đến bốn mươi, nhưng có một cô bé chín tuổi xin cha mẹ đến gặp bà để tìm hiểu tại sao cô sợ máu lắm. Mới chín tuổi nhưng cô rất chững chạc. Vừa thiếp đi cô bé thấy kiếp trước của mình là một ông già đang giẫy chết vì bệnh tim.

Bỗng dưng cô la lên, "Không, tôi không phải chết vì bệnh mà vì tôi quá đau khổ". Rồi cô bắt đầu kể đến ông già - tức là tiền thân của cô - đưa vợ đi ăn tiệm. Một tên cướp vào tiệm bắn chết nhiều người trong đó có vợ ông. Cô thấy người "vợ" chết trong vũng máu - ấn tượng hãi hùng đó theo thần thức qua đến đời này. Thêm vào đó là mặc cảm tội lỗi đã không cứu được người "vợ" của mình ray rức hành hạ cổ, bà kết luận.

Quan điểm của giáo sư Hazel Denning về vấn đền này rất rõ ràng vì bà chứng kiến hàng ngàn bệnh nhân đã đổi đời, bà đã thấy rõ bao nhiêu thảm cảnh trong nhiều kiếp của họ và bà đã khai triển riêng lý thuyết của bà. Cuộc đàm thoại sau đây giữa cô Mackenzie (*) với giáo sư Denning, vì vậy, không những có giá trị về mặt thông tin mà còn rất thù vị và hào hứng.
-- o)(o --

Vicki Mackenzie: Tại sao lại có hiện tượng tái sanh?


Hazel Denning: Khi đưa một người trở về kiếp trước và tìm hiểu tại sao đương sự chọn tái sanh vào gia dình này, và mục đích của họ trở lại thế gian để làm gì thì ai cũng có câu trả lời tương tự: "Quả thật tôi không muốn trở lại thế gian chút nào. Ép mình vào cái xác phàm như đi vào tù, ngột ngạt lắm". Khi tôi hỏi lại: "Vậy tại sao ông/bà lại trở về, có ai bắt mình ở lại đâu?" thì câu trả lời luôn luôn là: "Vì thế gian là một trường học để rèn luyện nhân phẩm của mình.

Muốn trau dồi tâm linh, muốn hướng thượng thì phải trở lại thế gian. Mà thật tình tôi muốn tu tâm nên tôi phải trở lại thế gian này". Đó là câu trả lời tôi ghi lại.


Vicki Mackenzie: Theo kinh nghiệm của bà thì người ta trở lại thế gian này bao nhiêu lần?


Hazel Denning: Vô lượng kiếp, cho đến khi họ học hỏi thành tựu được những điều mong muốn. Ngay cả trong đời hiện tại này có người phải mất nhiều năm mới thấy rõ ý nghĩa của những chướng ngại khó khăn xảy ra cho mình.

Có một bà khi đến phòng mạch lần đầu tuyên bố rằng, "Tôi đến đây muốn hỏi về tình yêu lứa đôi". Trả lời thế nào với bà này? Là bác sĩ chuyên môn về khoa tâm lý, tôi không thể nói bà cứ yêu đi rồi sẽ được yêu. Bà vẫn đến phòng mạch nhưng không thường xuyên. Mãi đến mười tám năm sau bà mới tìm ra "chân lý".

Trong thời gian không gặp mặt, bà có một đời chồng, ly dị, ăn ở với một ông khác, lấy chồng lần thứ hai, rồi cũng ly dị, ăn ở với năm, sáu ông khác nữa cho đến một hôm bà không chịu đựng được cảnh sống một mình nữa và cương quyết đi gặp tôi mỗi ngày cho đến khi nào tìm được nguyên nhân tại sao bà không thể chung thủy với một người. Cuối cùng thì bà thấy kiếp trước bà là con gái của một gia đình giàu có ở Hy Lạp. Khi chừng mười bốn tuổi, cô bé yêu cậu người làm cùng tuổi. Khi biết được, cha cô nổi trận lôi đình đày người yêu của cô ra một hòn đảo và bán cô cho một người đàn ông lớn tuổi.

Quá đau buồn uất ức, cô tự tử chết. Trước khi chết, cô nguyện rằng. "Tôi thề sẽ không bao giờ, không giờ thương yêu ai nữa".

Qua bao năm kinh nghiệm với công việc này, tôi thấy tư tưởng hay ý nguyện cuối cùng trước khi chết, nếu là tiêu cực sẽ theo người đó qua kiếp sau. Thí dụ nếu mình chết với lòng giận dữ, với tâm thù hận thì kiếp sau mình phải tu tâm dưỡng tánh để rửa lòng, để xả bỏ những thù hận của kiếp trước.

Trở lại chuyện bà khách. Sau khi biết tiền kiếp của mình, bà gặp được một người chồng tử tế và có hai đứa con. Bà đang hụp lặn trong hạnh phúc mà trước đây bà không thể tưởng tượng có ngày bà có thể được hưởng.

Sau khi chứng kiến câu chuyện bà này, tôi nghiệm rằng có nhiều người không thể một sớm một chiều mà tìm được lời giải. Họ cần phải trải qua nhiều biến cố nữa trước khi thấy cái nghiệp của mình. Và câu chuyện này cũng giúp tôi đi đến kết luận rằng mình không thể tự dối lòng.

Cho đến khi mình thấy được cái nhân của đời trước, mình mới có thể giải quyết cái quả của đời này. Nhiều khi phải đi sâu vào nhiều đời trước mới thấy được cái "nhân" chính đang chi phối đời sống hiện tại.


Vicki Mackenzie: Có những người đa nghi cho rằng bệnh nhân tưởng tượng ra những hình ảnh, thêu dệt nên những câu chuyện trong tiềm thức của họ để biện minh cho những đau buồn ưu não của họ?


Hazel Denning: Nếu quả đúng như vậy thì khoa tâm lý học phải giúp được bệnh nhân giải quyết mọi ẩn ức của họ chứ. Nhưng thực tế thì không phải vậy. Có nhiều bệnh nhận của tôi theo khoa tâm lý trị liệu trong nhiều năm mà không ăn thua gì.


Vicki Mackenzie: Bà có cho rằng chính mình tự chọn đời sống của mình không?


Hazel Denning: Đúng vậy. Để tôi kể cho cô nghe một chuyện rợn tóc gáy. Một người đàn bà đến nói với tôi rằng: "Mẹ tôi đang hấp hối, cha tôi thì chết rồi. Cả cha lẫn mẹ tôi bầm dập sờ mó tôi hồi tôi mới ba tuổi cho đến năm tôi mới mười ba tuổi". Khi thiếp đi, bà sống lại cảnh tượng bị cưỡng hiếp hồi còn bé và la lên, "Cha ơi đừng, đừng làm con đau!" và bà nói tiếp liền "Tôi muốn tha thứ cho mẹ tôi trước khi bà chết nhưng tôi thấy khó tha thứ quá, tôi thù ghét cả cha lẫn mẹ".

Nếu một người muốn sẵn sàng tha thứ, muốn quên hận thù cũ thì người đó đã được một sự chuyển hóa tâm linh cao và có thể hóa giải được. Nhưng nếu người nào nói ra rằng, "Đừng nói đến chuyện tha thứ những quân dã man đó, Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho họ. Tôi thù ghét họ". Thì đừng tìm cách giúp họ tha thứ vì tâm họ chưa sẵn sàng.

Đối với bà này, tuy bà nói sẵn sàng tha thứ cho cha mẹ, nhưng tôi nghĩ "Làm sao tôi có thể giúp bà ta tha thứ cho người cha, người mẹ đã làm những chuyện ghê tởm như thế đối với con mình"? Tôi bứt rứt, dằn vặt mãi và cuối cùng chính bệnh nhân đã giúp tôi tìm câu giải đáp.
Bà thấy kiếp trước, thời Đức Quốc Xã, bà là một đứa trẻ bụi đời, sống lang thang đầu đường xó chợ và đã giết chết một đứa trẻ khác. Sau đó họ bị bắt vào Auschwitz, một trại giam người Do Thái, và bắt phải làm công việc kiểm soát những đứa trẻ Do Thái bị giết đã chết hẳn chưa. Lúc đầu công việc không làm bà phiền hà mấy, nhưng ngày lại ngày nhìn bao nhiêu xác trẻ con, bà chịu không được nên đã bỏ trốn và bị bắn chết. Bệnh nhân nói thêm rằng, "Đời sau, khi tái sanh, tôi muốn cha mẹ tôi hành hạ tôi để tôi trả nghiệp cho mau. Vì vậy tôi phải cám ơn hai vị này đã giúp tôi trả nghiệp báo".

Vicki Mackenzie: Có bao giờ bà chứng minh được những mẫu chuyện tiền thân này thật sự xảy ra không?


Hazel Denning: Có chứ. Tôi vẫn để tâm theo dõi mỗi khi có dịp tốt. Thí dụ trường hợp một thân chủ nhất định không cho các con đi coi buổi trình diễn của gánh xiếc. Bà biết cấm đoán như vật thật là vô lý nhưng bà không thể làm gì khác hơn. Khi được đưa trở về kiếp trước thì bà thấy chính bà là "con mụ mập" (the fat lady) của một gánh xiếc và bà ghét cay ghét đắng vai trò của mình. Bà nhớ cả tên người đàn bà mập ấy và cả tên thành phố nữa. Có một bệnh nhân khác có mặt hôm đó biết thành phố này. Ông tình nguyện sẽ tìm đến xem thì quả nhiên đầu thế kỷ 20, ở thành phố đó có một bà mập tên đó đã theo đoàn hát xiếc kiếm ăn như lời bà kia tả lại.

Trong đời hiện tại bà này cũng mập.

Một bệnh nhân khác nhớ lại kiếp trước bà là một phú thương đàn ông bị chết chìm theo chiếc tàu Titanic. Bà nhớ tên tuổi của người đàn ông này. Về sau tìm xem sổ sách thì quả nhiên người đàn ông ấy là hành khách trên chiếc tàu Titanic. Bà kể khi nhìn thấy tên trong sổ bà rùng mình ớn lạnh!

Ngoài những chứng cớ cụ thể này, những chứng cớ cho thấy những chuyện tiền thân mà các thân chủ tôi nói ra là có thật, và nó rất hợp tình hợp lý với bối cảnh riêng của từng người.

Nhờ đó họ có thể đổi đời, có thể thoát được những ray rứt, những sợ hãi vô lý làm xáo trộn đời sống hiện tại của họ.


Vicki Mackenzie: Có ai tỏ ra có mặc cảm tội lỗi khi nhìn thấy những việc xấu họ đã làm trong những đời trước?


Hazel Denning: Không hẳn như thế sau khi họ hiểu mục đích của sự tái sanh và duyên nghiệp.

Tôi giải thích cho họ thấy rằng những chuyện xảy ra trong quá khứ không quan trọng mấy.

Quan trọng chăng là những gì mình học hỏi được từ những biến cố ấy, và dường như đây mới là nguyên tắc căn bản.

Có một trường hợp rất lạ lùng. Một bệnh nhân vừa bước vào phòng mạch là ngồi phịch xuống ghế, đấm mạnh hai tay vào thành ghế và la lớn, "Tôi ghét Chúa! Jesus Christ là một kẻ lừa đảo! Tôi đã cố gắng làm hết mọi thứ, đã đi tìm thầy chuyên môn, đã học hết kinh Thánh mà vẫn không thay đổi gì được cuộc sống của tôi. Tôi khổ quá!" Bà gặp toàn chuyện xui. Rờ tới cái gì thì hỏng cái đó mặc dù bà là một người có khả năng xuất chúng. Sự nghiệp làm ăn bà gây dựng nên tưởng như thành công, cuối cùng cái gì cũng thất bại. Đường chồng con cũng xấu. Tuổi còn trẻ mà trông như một bà già. Bác sĩ nói cơ thể của bà già trước tuổi đến hai chục năm.

Khi được hướng dẫn trở về kiếp trước thì thấy bà là một hồng y trong Tòa Án Dị Giáo (The Inquisition) do giáo hội La Mã Thiên Chúa chủ trì để trị tội những người ngoại đạo. Sự việc này làm đức hồng y (tiền thân của bà) rất đau khổ.

Ngài biết trị tội những người ngoại đạo là sai lầm, nhưng đó là việc giáo hội muốn làm. Khi được hỏi tại sao bà trở thành công cụ chính trong Tòa Án Dị Giáo thì bà buột miệng nói rằng, "Đó là để cải tổ lại giáo hội vì giáo hội thời ấy quá hủ hóa, và tôi được giao trọng trách này".

Qua những chuyện tương tự, tôi thấy rằng những việc làm khủng khiếp đều có mục đích riêng.


Vicki Mackenzie: Đứng trên góc độ này, nghiệp báo trở nên khúc mắc, ly kỳ khó hiểu, phải không thưa bà? Vì nếu quan niệm những kẻ phạm tội ác chỉ là những công cụ giúp người kia trả nghiệp thì họ đâu có tội lỗi gì?


Hazel Denning: Thật ra thì cũng khó nói lắm. Trùng trùng duyên khởi, cái nọ xọ cái kia, khó mà giải thích chữ nghiệp một cách rốt ráo. Mọi vật hiện hữu trên đời đều phụ thuộc tương tác lẫn nhau, chúng nương nhau mà sống. Nói một cách giản dị, có thể lấy ví dụ của một người chỉ thấy hạnh phúc trong sự đau khổ (masochist) có thể thỏa mãn nhu cầu của một người chỉ thấy vui sướng trên sự đau khổ của kẻ khác (sadist).

Hai loại người này nương tựa vào nhau mà sống. Không có cái gì xấu hoàn toàn. Mỗi kinh nghiệm là một bài học. Ta có thể là thủ phạm làm điều ác trong một kiếp nào đó nhưng cũng có thể là nạn nhân trong một kiếp khác. Và cứ như thế, con người sống từ đời này qua đời khác cho đến khi nào họ học được bài học.

Tôi tin rằng chính chúng ta tự chọn con đường mình đi, dễ dàng hay chông gai là cũng do mình. Một khi mình nhận chân được sự thật đó và chấp nhận mục đích của đời sống hiện tại thì hoàn cảnh chung quanh có thể thay đổi. Nếu một người biết nhận trách nhiệm của mình thì người đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề.

Còn những kẻ ngu muội không biết nhận trách nhiệm của mình mà cứ đổ lỗi cho người khác thì họ chưa sẵn sàng thay đổi. Chúng tôi, bác sĩ chuyên môn, phải thấy và biết rõ điểm này.

Khi đạt đến mức tỉnh thức tối thượng thì linh hồn (the soul) tự dưng hiểu thấu mọi lẽ - hiểu được mình là ai, tại sao mình hiện hữu ở đây; thấy những gì mình đã làm trong kiếp trước, và những gì mình sẽ làm về sau này vân vân và vân vân. Nhưng chính cá nhân người đó phải tự mình học hỏi. Và tôi cũng không hiểu lý do tại sao chúng ta phải học hỏi nhiều quá như vậy, nhưng tôi không phải là người tạo ra những quy luật ấy mà chỉ tìm cách phân tích lý giải chúng thôi.

Có người thật sự không muốn thay đổi hoàn cảnh không mấy tốt đẹp của mình như chuyện một bà nọ sinh ra với hai con mắt gần như mù.

Bà phải đeo mắt kiếng dầy cộm. Sau khi soi căn, bà biết rằng chính bà muốn mắt mình như thế để ít thấy những phù du vật chất, để quên cái ngã của mình, để quay nhìn vào bên trong. Từ đó, bà vui vẻ với cặp mắt gần như mù của mình và không chịu tìm cách làm cho mắt sáng hơn.


Vicki Mackenzie: Bà có thấy ai chọn trở về gần gũi với những người họ quen biết từ nhiều kiếp trước không?


Hazel Denning: Có, Nhưng vai vế thì thay đổi. Có người tái sanh với nhau để giải quyết nhiều vấn đề còn dang dở. Có người muốn trở lại để giúp đỡ những người thân. Tôi cho rằng các thánh tử đạo, hay những người chọn cái chết vì chính nghĩa là họ tự nguyện làm như vậy để thức tỉnh lương tri của nhân loại. Cho nên nói rằng nghiệp báo chỉ thể hiện như một sự trừng phạt thì không đúng, cũng có nghiệp dữ, nghiệp lành. Đó là luật nhân quả.

Tôi có quen biết một bà bác sĩ, một người đàn bà rất dễ thương mà lấy một ông chồng dễ ghét nhất trần gian. Khi nào ông cùng mè nheo, gắt gỏng, độc ác mà chính ông không cố tình độc ác. Dần dần, bà chán nản không còn thương chồng nữa. Nhưng không bao giờ bà có ý định ly dị.

Một hôm bà đến xin soi căn và thấy rằng bà đã gặp ông này ở một kiếp trước khi ông là một linh hồn lạc lỏng. Bà hứa kiếp sau sẽ lấy ông làm chồng và sẽ giúp ông tìm lại linh hồn mình.

Và sau đó thì bà thay đổi thái độ, thật tình yêu thương ông, dịu dàng kiên nhẫn với ông và chỉ một năm sau thì ông cũng đổi tính. Ông đi nhà thờ với bà, ông lái chiếc xe sport màu đỏ rong chơi khắp phố phường. Ông nói năng vui vẻ, hài hước ai cũng thích.

Tôi dùng câu chuyện này để khuyên răn những gia đình có chồng nghiện rượu. Tuy người vợ tha thứ sự nghiện ngập của chồng nhưng tình cảm đối với chồng thì đã sứt mẻ. Tôi nói với họ rằng. "Nếu chị thật tình thương yêu và muốn cải hóa chồng thì chị không nên dùng giọng lời gay gắt với chồng mà nên bộc lộ tình thương, ăn nói dịu dàng thì ông sẽ thay đổi". Có nhiều bà nghe lời và đã thành công.

Vicki Mackenzie: Bà cho biết sau khi chết, hồn có một thời gian nhất định để đi đầu thai không?
Hazel Denning: Có người tái sanh trong vòng vài tiếng đồng hồ sau khi chết, nhất là lính tráng chết ngoài trận mạc. Họ không chịu được cảnh hồn họ lang thang. Họ muốn nhập xác liền. Có lẽ lý do này giải thích được hiện tượng thiên hạ sinh đẻ nhiều sau những trận chiến tranh. Có nhiều người thì mấy trăm năm sau mới tái sanh.
Có nhiều linh hồn từ thời Atlantean Age mà bây giờ mới trở lại trần gian. Có lẽ họ chờ đúng thời cơ để đem những hiểu biết mới giúp cho sự chuyển tiếp qua thời đại mới. (New Age).


Vicki Mackenzie: Có khi nào bà đã gặp những người đã từng sống ở hành tinh khác hay cõi giới khác không?


Hazel Denning: Thỉnh thoảng cũng có. Rất nhiều người cho rằng hạ giới là hành tinh thấp nhất trên cột luân hồi (the totem pole). Có mấy người nói rằng trước kia họ sống trên một hành tinh khác. Có một ông viết một thứ chữ lạ hoắc rồi dịch lại tiếng Anh. Ông nói hành tinh ấy có một văn hóa khác hẳn. Ông còn nói khi ấy ông hiểu được "nguyên lý đồng thời" - hiện tại, quá khứ và vị lai đều đang thể hiện ở giây phút này. Thật là khó hiểu.


Vicki Mackenzie: Bà có biết những kiếp trước của bà không?


Hazel Denning: Có chứ. Đời trước kiếp này của tôi rất lạnh lẽo. Tôi là một phụ nữ sinh ra ở nước Anh, lấy chồng là một người làm ngoại giao giàu có, nhà cao cửa lớn, có nhiều gia nhân hầu hạ, tiệc tùng liên miên nhưng tôi rất cô đơn, sống không có tình thương. Khi gần chết, tôi còn nhớ gia nhân rón rén bước không dám gây tiếng động, tôi đã nắm tay em gái tôi và nói rằng, "Nếu chị được sống lại từ đầu, chị sẽ thương yêu nhiều hơn".

Và trong đời này, một em gái tôi chết lúc chín tuổi, tôi mới mười một tuổi. Tôi đã thương khóc em trong hai năm. Tôi cần có kinh nghiệm xuyên qua sự đau khổ như vậy mới lấy lại được cảm xúc bình thường.

Nhưng kỷ niệm khó quên nhất xảy ra lúc tôi đang ở trong phòng tắm. Tôi bị đau gan từ lúc học lớp tám. Tôi hay bị những cơn đau túi mật hành hạ, đau đầu đến buồn nôn làm tôi khổ sở lắm. Hồi trước tôi cũng hay nóng nảy. Có hôm cơn giận nổi lên khiến hai mạch máu nhỏ ở cổ bị đứt. Có nhiều lúc tôi có cảm tưởng như cơn giận làm chóp đầu của tôi có thể bay đi mất.

Nhưng không ai biết vì tôi không để lộ ra ngoài.

Cách đây chừng mười năm, một hôm tôi đang tắm dưới một vòi sen thì cơn nhức đầu kéo tới.

Tôi dằn giọng nói lớn, "Chúa ơi, tôi muốn biết tại sao tôi bị bệnh gan hành hạ, tại sao tôi phải chịu đau khổ như thế này?" Vừa dứt lời bỗng nhiên tôi thấy mình là một người lính theo Thập Tự Chinh thời Trung Cổ, vừa bị một giáo xuyên qua gan. Tôi tức giận sắp phải chết vì một "chính nghĩa" mà tôi không còn tin tưởng nữa.

Tôi chán ghét những việc chúng tôi đang làm - đốt phá những đền đài đẹp đẽ - nhưng tôi không làm gì được hơn. Tôi biết tôi sắp chết và sẽ không bao giờ thấy lại được người vợ và hai đứa con trai. Tôi chết trong giận dữ, và chứng đau gan bây giờ là sự biểu lộ của cơn giận xa xưa ấy. Giây phút ấy trong phòng tắm, tôi nghe một giọng thì thầm: "Nguyên do của tính nóng giận của ngươi bắt nguồn ở đây". Từ ngày đó, tôi không bị cơn đau túi mật hành hạ nữa.


Vicki Mackenzie: Biết được kiếp trước của mình có lợi ích gì trong kiếp sống hiện tại không?


Hazel Denning: Những hiểu biết về kiếp trước kiếp sau giúp tôi sống an nhiên tự tại. Đối với tôi, thế giới kia cũng rất thật như thế giới này.

Cho nên khi mẹ tôi mất, rồi chồng và con trai lần lượt qua đời, tôi không đau buồn mấy. Ngày con tôi tử nạn xe mô tô, tôi vẫn tiếp tục đi thuyết giảng tại một trường đại học đã được sắp đặt trước. Khi biết ra, một giáo sư ở trường hỏi sao tôi có thể dửng dưng trước cái chết của con như vậy. Tôi đã trả lời rằng đối với người ngoài thì tai nạn ấy là một thảm cảnh, nhưng đối với tôi thì khác. Tôi biết con tôi là thầy tu trong ba kiếp trước. Trở lại lần này là cậu muốn nếm mùi đời. Cậu sống mau, sống vội, bất chấp nguy hiểm. Tôi biết con trai tôi không muốn kéo dài đời sống như vậy và cậu quyết định rời bỏ cõi trần sớm trước khi chuyện gì xấu có thể xảy ra.

Tuy tôi thương tiếc con, và cũng như những bà mẹ khác, tôi vẫn mong được thấy ngày con khôn lớn, nên người v.v... nhưng trong thâm tâm, tôi mừng cho con đã giải thoát vì tôi biết con tôi sống trong đau khổ. Trường hợp chồng tôi cũng thế. Một buổi sáng đang chơi tennis, ông gục chết trên sân cỏ. Sau khi được tin, tôi vào phòng đọc sách gọi điện thoại báo tin cho gia đình và bỗng dưng một cảm xúc kỳ diệu chưa từng có đã đến với tôi. Căn phòng như sáng hơn và ấm áp hơn. Lông măng trên hai tay tôi dựng đứng hết và tôi cảm thấy được an ủi, khích lệ và sung sướng lạ lùng dường như được ôm ấp bởi tình yêu của nhà tôi, khi ấy tôi nghe tiếng ông thầm thì: "Em ơi, anh sung sướng được ra đi như ý muốn". Tối hôm ấy tôi vẫn đi dự buổi họp ở trường. Tan họp, tôi mới báo cho mọi người biết tin và ai cũng xúc động thương tiếc làm tôi phải đi an ủi từng người.

Khi người thân qua đời thì đau buồn là chuyện thường tình, nhưng tôi không chịu được cảnh người ta tỏ ra bi thương thái quá, vì như vậy chứng tỏ họ có mặc cảm tội lỗi gì với người chết.


Vicki Mackenzie: Theo như bà nói thì mọi chuyện xảy ra đều có lý do? Và cuối cùng thì cũng đưa đến sự tốt đẹp?


Hazel Denning: Đúng thế... Tôi cho rằng con người được sinh ra với một trí tuệ sáng tạo vô bờ mà chúng ta đã ngu muội không thông hiểu, đã phá hoại và lãng quên những khả năng ấy.
-- o)(o --

T
hời đại này là thời đại chúng ta có thể trở về với bản năng chân thật của chúng ta.

Cũng giống như những mẫu đối thoại với các vị "gurus" Tây phương khác về luân hồi, buổi nói chuyện với Dr. Denning thật là hứng thú. Những điều tôi học được ở bà cũng như ở nhiều nhà chuyên môn khác về kiếp trước kiếp sau cũng không khác những điều tôi đã được nghe mấy Lạt Ma của phương Đông giảng dạy. Chi tiết về trường hợp tái sanh có thể khác nhau nhưng chân lý thì chỉ có một, là chân lý mà Lama Yeshe và Lama Zopa đã nói cho chúng tôi nghe trong chiếc lều trên sườn núi của Kopan rằng sau khi chết sẽ có một đời sống khác; rằng đời sống kế tiếp như thế nào là do nghiệp báo của bao đời trước quyết định; rằng trạng thái tâm thần khi hấp hối đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng đến đời sau; rằng người ta thường trở lại sống với những người có nghiệp duyên với chúng ta; rằng những đau khổ của đời này là chính chúng ta tạo ra v.v... Không nên oán ai, đổ lỗi cho ai vì chính mình vẫn luôn luôn làm chủ đời mình. Hình ảnh

nguồn: http://www.pastlifetimes.net/psychic_ph ... enning.htm

SH chú thích:

(*) Vickie MacKenzie từng là ký giả trong 27 năm, phần lớn làm cho báo chí Anh. Cô là tác giả quyển "Reincarnation: The Boy Lama". Cô hiện đang sống ở Sydney, Úc châu.

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 12:46, 02/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ
Hình ảnh
Có bao giờ bạn trải qua một cảm giác là dường như “đã từng nhìn thấy” hay “đã từng ở” một nơi mà cả đời bạn chưa từng biết tới hay chưa? Nhiều nhà khoa học khẳng định rằng chúng ta đã từng trải qua nhiều tiền kiếp trong quá khứ, và sẽ còn những kiếp sau. Dưới đây là một số trường hợp được nghiên cứu bởi các chuyên gia về lĩnh vực Luân hồi.



Trường hợp 1

Hình ảnhArnall Bloxham là nhà thôi miên nổi tiếng người xứ Wales sống giữa những năm 1970, là chủ tịch Hội các nhà thôi miên Anh quốc. Ông đã sử dụng thuật thôi miên để chữa bệnh, hoặc giúp người ta loại bỏ được những thói quen xấu chẳng hạn như hút thuốc. Bằng cách thôi miên, Bloxham có thể giúp một người nhớ lại được thời điểm khi mới sinh ra, và thậm chí trước thời điểm đó. Trong 20 năm, ông đã thôi miên vài trăm người và đã ghi lại những miêu tả về các kiếp trước của họ.
Những gì diễn ra trong các cuộc thôi miên này làm đảo lộn những quan niệm truyền thống về sự sống. Những người được thôi miên có thể thuật lại, một cách tường tận chi tiết, về cuộc đời của những người đã từng sống hàng trăm năm trước.


Bloxham đã ghi âm hơn 400 cuộn băng thu lại lời kể về các cuộc đời trước của những người này trong các cuộc thôi miên. Hơn nữa, nhiều sự việc đã được ghi lại một cách rất chi tiết, sau đó được kiểm tra lại trong thực tế, và kết quả đều đúng như những gì họ mô tả. Theo Bloxham, tất cả những điều đó đã chứng minh rõ ràng rằng: Luân hồi là có thật.
Hình ảnhMột trong những trường hợp nổi tiếng nhất mà Arnall Bloxham đã ghi lại là trường hợp của Jane Evans. Vào năm 1971, khi cô thấy một tấm biển có dòng chữ: “Arnall Bloxham nói rằng bệnh thấp khớp là do tâm lý” cô đã rất ngạc nhiên để ý. Jane là một bà nội trợ xứ Wales 32 tuổi mắc bệnh viêm khớp, đã quyết định tìm cách liên hệ với chủ nhân của tấm biển ấy. Cuối cùng cô đã liên lạc được với Arnall Bloxham nhờ một người bạn của chồng cô. Qua các cuộc thôi miên, cô đã nhớ lại được 6 cuộc đời trước đây của mình. Cô đã từng là: Vợ của một gia sư vào thời La Mã; Một người Do Thái bị tàn sát vào thế kỷ thứ 12 ở thành phố York, nước Anh; Người hầu của một thương gia giàu có thời trung cổ ở Pháp; Một tỳ nữ của nữ hoàng Catherine của xứ Aragon (ngày nay thuộc Tây Ban Nha); Một nông dân nghèo ở Luân Đôn dưới thời cai trị của nữ hoàng Anne; Và là một nữ tu sĩ ở Mỹ vào thế kỷ 19.
Câu chuyện của Jane Evans và vài trường hợp luân hồi khác đã được công bố trong cuốn sách tựa đề “Nhiều Hơn Một Kiếp?” của nhà sản xuất truyền hình BBC – Jeffrey Iverson. Vào năm 1975, để kiểm nghiệm lý thuyết Luân hồi, Iverson đã xin phép Jane để Bloxham thôi miên cô một lần nữa, lần này là trước các máy quay phim và máy thu thanh của truyền hình BBC.
Iverson đã nghiên cứu kỹ lưỡng về những cuộc đời mà Jane kể lại, và đã xác minh rằng những cuộc đời đó là có thực và các chi tiết được mô tả là chính xác. Cuối cuốn sách, ông nói thành quả 20 năm nghiên cứu của Bloxham đã cho thấy sự luân hồi là một hiện tượng thực tế khách quan. Ông còn sản xuất một cuốn phim tài liệu BBC, có tên “Những cuốn băng ghi âm của Bloxham” dựa trên các tài liệu này.
Trường hợp 2


Bác sỹ Arthur Guirdham (1905-1992) là một nhà vật lý, bác sỹ tâm thần học, đồng thời là một nhà văn. Ông đã viết nhiều cuốn sách về các Phương pháp trị liệu thay thế, về Tri giác ngoại cảm và về Luân hồi. Ông từng sống tại Workington, Cumberland, và tốt nghiệp tại trường đại học Oxford, Anh quốc.
Hình ảnhBác sỹ Authur Guirdham ghi lại nhiều trường hợp luân hồi mà ông đã gặp trong những cuốn sách của mình, “Chúng ta là người khác,”“Những người Cathars và sự Luân hồi”, “Một bàn chân trên cả hai thế giới”. Ông cũng khẳng định rằng mình đã từng là một người theo tín ngưỡng Cathars trong những kiếp trước. Cathars là tín ngưỡng đã tồn tại ở khu vực Languedoc thuộc Tây Nam nước Pháp vào thế kỷ thứ 13.
Trong cuốn sách “Những người Cathars và sự Luân hồi” xuất bản năm 1970, bác sỹ Guirdham đã kể lại tình huống kỳ lạ đã khiến ông bắt đầu quan tâm nghiên cứu sự Luân hồi. Năm 1962, ông làm công việc của một bác sỹ tâm thần tại khu dành cho bệnh nhân ngoại trú của bệnh viện. Một ngày nọ, bệnh nhân của ông là một phụ nữ có tên thường gọi là Smith, nghi mắc bệnh động kinh. Người phụ nữ này gặp một cơn ác mộng tái diễn nhiều lần từ hồi còn bé. Trong khoảng thời gian đi bệnh viện ấy cô bị những 2 hoặc 3 lần một tuần. Cơn ác mộng đó rất rõ ràng, là về một cuộc đời của cô vào thế kỷ 13 tại Toulouse, Pháp, trong một gia đình quen thân với một thầy tu tên Rogiet de Cruisot. Khi ấy cô là một cô gái nông dân. Cô đã bị thiêu sống trên cột, còn Rogiet de Cruisot thì bị bắt và chết ở trong tù.
Hình ảnhHình ảnhHình ảnh
Mặc dù bác sỹ Guirdham vẫn giữ bình tĩnh, nhưng ông vô cùng kinh ngạc bởi chính ông cũng bị một cơn ác mộng giống y như vậy ám ảnh suốt hơn 30 năm qua, chỉ có khác là ông không biết được tên của người đàn ông đó mà thôi. Nhưng ông không nói gì với bệnh nhân. Lạ kỳ thay, từ đó trở đi cô không gặp ác mộng trở lại nữa, rồi cả bác sỹ Guirdham cũng thoát khỏi cơn ác mộng dai dẳng ấy.
Mặc dù vậy họ vẫn tiếp tục gặp nhau. Bác sỹ Guirdham chắc chắn nữ bệnh nhân này không có vấn đề về tâm thần và những hiểu biết về quá khứ của cô làm ông tò mò. Sau đó cô cho ông một danh sách tên của những người mà cô nói là đã sống vào thế kỷ 13 và mô tả những gì đã từng xảy ra với họ. Cô cũng nói với bác sỹ Guirdham rằng, ông cũng sống vào lúc đó và chính là Rogiet de Cruisot.
Là một bác sỹ tâm thần, bác sỹ Guirdham đã từng biết qua về hiện tượng luân hồi, nhưng không mấy quan tâm. Tuy nhiên, lần này ông thực sự tò mò, và quyết định bắt đầu nghiên cứu. Ông khám phá ra rằng những cái tên mà người nữ bệnh nhân ấy cung cấp quả thật chính xác, mặc dù những người đó chỉ được nhắc đến sơ sài trong các ghi chép lịch sử từ thời Trung cổ. Tuy nhiên, những ghi chép này được viết bằng tiếng Pháp chứ chưa bao giờ được dịch sang tiếng Anh. Ông đã xác nhận rằng, quả thực có một người đàn ông tên là Rogiet de Cruisot đã bị giết vào năm 1242. Các chi tiết về gia đình từng quen thân với ông ta cũng hoàn toàn khớp. Hơn thế nữa, tất cả những ghi chép riêng của bà Smith chứa nhiều thông tin về các tín đồ và tín ngưỡng Cathar – mà cho đến lúc ấy vẫn chưa học giả nào biết tới – về sau này đã được kiểm chứng là hoàn toàn chính xác.
Hình ảnhTín ngưỡng Cathar rất hưng thịnh ở miền Nam nước Pháp và miền Bắc nước Ý vào thời Trung cổ. Các tín đồ Cathar tin vào sự luân hồi. Theo thời gian, bác sỹ Guirdham đã gặp được thêm nhiều người nữa, tổng cộng 11 người. Thật đáng kinh ngạc, tất cả họ đều có ký ức tiền kiếp rất khớp nhau, cho thấy rằng họ đã cùng chung sống trong một nhóm tín đồ Cathar hàng trăm năm trước.

Bác sỹ Guirdham cho biết: Không có đối tượng nào đã được gây mê hoặc thôi miên; những cái tên và các sự kiện quá khứ chỉ đơn thuần xuất hiện trong trí nhớ của họ. Ông cũng công bố một trong những bằng chứng đáng chú ý nhất mà ông thu thập được. Đó là một tập tranh vẽ của một cô bé 7 tuổi, trong đó có những hình vẽ về một thời quá khứ. Tập tranh vẽ cũng viết nhiều tên tuổi các tín đồ Cathar. Quá kinh ngạc, bác sỹ Guirdham nói, “Tôi không thể tưởng tượng nổi, làm sao một đứa trẻ 7 tuổi có thể biết những cái tên này, trong khi tôi chắc rằng không có nhà sử học về thời trung cổ nào ở Anh quốc vào lúc đó biết về những người này”.

Những ký ức, tên tuổi và các mối liên hệ rõ ràng đã khiến bác sỹ Arthur Guirdham buộc phải tin rằng ông và nhóm của ông đã cùng nhau sống chung, không chỉ một, mà vài đời trước đó. Ông đã nói, “Với 40 năm kinh nghiệm trong y học, hoặc là tôi biết được sự khác nhau giữa khả năng siêu nhiên và bệnh tâm thần phân liệt, hoặc là chính tôi bị tâm thần. Không ai trong nhóm tôi khùng cả – và cũng không có bạn đồng nghiệp nào của tôi cho rằng tôi mất trí”.


Trường Hợp 3

Hình ảnhGiáo sư Bác sỹ Ian Stevenson, thuộc khoa tâm thần học tại Đại Học Virginia là một trong những nhà nghiên cứu hàng đầu thế giới về lĩnh vực Luân hồi (xem phần 1). Ông đã đi khắp thế giới để điều tra nghiên cứu những báo cáo khác nhau về sự luân hồi và đã phát minh ra phương pháp kiểm chứng khắt khe nhằm loại trừ sự gian lận, hiện tượng tiềm ký ức, v.v… Trong 200 trường hợp nghi vấn luân hồi, chỉ có 20 trường hợp qua được chế độ kiểm tra kỹ lưỡng của bác sỹ Stevenson. Có 7 trường hợp xảy ra tại Ấn Độ, 3 trường hợp ở Sri Lanka, 2 trường hợp ở Brazil, 1 trường hợp ở Lebanon và 7 trường hợp của những người da đỏ ở Alaska, Hoa Kỳ.
Ở đây đơn cử trường hợp của bé gái rất nhỏ, sinh năm 1956 tại miền trung Sri Lanka tên là Gnantilleka Baddewithana. Ngay sau khi cô bé bắt đầu tập nói, cô đã bắt đầu nhắc đến cha mẹ khác, hai anh trai và nhiều chị gái khác của mình ở một nơi khác.
Từ những chi tiết mà cô bé diễn tả, cha mẹ mới của cô đã tìm thấy một gia đình tại thị trấn cách đó không xa. Họ biết được rằng gia đình này đã mất một đứa con trai vào năm 1954. Khi Gnantilleka được đưa đến thăm họ, cô bé nói mình chính là đứa con trai đã mất của họ và đã nhận diện rất chính xác 7 thành viên trong gia đình của người đã khuất. Cho đến tận lúc đó, hai gia đình chưa bao giờ gặp nhau, thậm chí chưa từng đến thăm thị trấn của nhau.
Những người hoài nghi có thể phớt lờ và cho sự Luân hồi là ảo tưởng, trong khi những người không tin sự Luân hồi có thể cho là mê tín dị đoan vô căn cứ.
Từ thời xa xưa, Phật gia và Đạo gia; Do Thái giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo… đã luôn giảng về sự luân hồi. Họ hiểu rõ mối liên hệ giữa nhân và quả. Họ tin rằng nhân cách của một người trong cuộc đời và tất cả những việc làm tốt hay xấu của người ấy đều được ghi lại. Tính cách sẽ được lưu giữ tới kiếp sau, sướng khổ đời sau sẽ tương xứng với việc làm của kiếp trước. Tri thức của những chủng người cổ xưa vốn chưa thể đo lường được, và chúng ta chỉ có thể sống thật tốt mà thôi.

Minh Trí
(Theo pureinsight.org)

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 13:44, 02/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ

Ông Edgar Cayce Dùng Thần Nhãn Để Khám Bệnh


Thật là một điều lý thú mà biết rằng năng khiếu Thần Nhãn có thể giúp cho ta làm được những điều phi thường. Nhưng càng lý thú hơn nữa khi ta được biết rằng trong thời đại này có một người đã dùng năng khiếu Thần Nhãn một cách hữu ích trên địa hạt sưu tầm cũng như trên phương diện thực tế.
Người ấy là ông Edgar Caycẹ Người ta gọi ông Cayce trong những năm cuối cùng của đời ông, là "Con người phi thường ở Virginia Beach". Đó là một danh hiệu phỉnh lừa, vì tùy rằng có hằng trăm người đã được ông chữa khỏi bịnh trong những điều kiện thật là lạ lùng, nhưng ông không phải là một người làm "Phép lạ" hiểu theo ý nghĩa thông thường của chữ này. Không hề có chuyện đặt bàn tay truyền điện, hay làm cho bịnh nhân quăng nạng gỗ sau khi đã sờ nhẹ vào manh áo của ỵ Những sự "Nhiệm màu" của ông Cayce chỉ là sự khám đúng căn bịnh, mà thường là trong khi bịnh nhân ở cách xa ông đến hằng ngàn cây số! Ngoài ra, năng khiếu Thần Nhãn của ông chỉ hoàn toàn khai mở trong giấc ngủ thôi miên, đó là một điều đáng được sự chú ý của những nhà chữa bịnh theo khoa Tâm lý, thường dùng giấc ngủ thôi miên để chữa bịnh hoặc làm phương tiện sưu tầm về cõi tiềm thức của con người.
Một trong những ví dụ đáng kể nhất về cách xử dụng Thần Nhãn của ông Cayce là trong trường hợp sau đây: Một người con gái ở Selma, thuộc tiểu bangAlabama Hoa Kỳ, thình lình bị mất trí và được đem vào một nhà thương điên. Người anh cô ta kinh hoảng, bèn nhờ cậy ông Cayce giúp đỡ. Ông Cayce bèn nằm trên giường, thở vài hơi dài và sâu, đoạn ông ngủ thiếp đi. Kế đó, ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của một người bảo ông nhìn vào thể xác của người thiếu nữ và khám bịnh cho cô ấy. Sau một lúc im lặng, ông Cayce bắt đầu nói, cũng như bất cứ mọi người nằm trong giấc thôi miên khi họ được lịnh truyền của người dẫn dụ. Tuy nhiên, có điều khác hơn những người thường, là ông Cayce bắt đầu diễn tả tình trạng thể chất của người bịnh, dường như cặp mắt ông có quang xuyến X. Ông cho biết rằng người con gái ấy có một cái răng cấm mọc ngược và cấn lên một đường gân thông lên bộ Óc. Ông bảo phải nhổ cái răng ấy để cho đường gân kia được giải tỏa, khỏi động lên tới óc, và đem bịnh nhân trở lại trạng thái bình thường. Theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, người ta mới xem trong miệng người con gái thì thấy có một cái răng cấm mọc ngược. Sau khi được đem đến cho một vị nha sĩ nhổ răng thì người con gái liền hết bịnh điên.
Một thí dụ khác rất lạ lùng, là một người thiếu phụ Ở tỉnh Kentucky bên Hoa Kỳ sinh ra một đứa con thiếu tháng. Đứa trẻ ấy ốm đau èo uột luôn. Khi được bốn tháng, nó bị chứng kinh phong giựt rất nặng đến nỗi ba bác sĩ săn sóc cho nó (trong đó có người cha của đứa trẻ) đều lo ngại rằng nó sẽ không qua khỏi ngày hôm ấy. Người mẹ đứa trẻ đã tuyệt vọng, bèn nhờ ông Cayce khám bịnh cho nó. Trong giấc thôi miên, ông Cayce bảo đem cho nó uống một liều thuốc belladone và kèm theo sau đó, cho uống một liều thuốc trừ độc. Những vị bác sĩ khác đều phản đối cách chữa bịnh này, vì belladone là một thứ thuốc độc, nhưng bà mẹ đứa trẻ không nghe và nhất định tự mình đưa thuốc ấy cho con mình uống. Ngay tức khắc, chứng kinh phong dứt hẳn. Sau khi cho đứa trẻ uống thêm một liều thuốc trừ độc, đứa trẻ duỗi thẳng tay chân và ngủ một giấc ngon lành. Nó đã được cứu sống và đã khỏi bịnh.
Những thí dụ trên đây, cùng với hàng trăm thí dụ khác, không phải là những trường hợp chữa khỏi bịnh bằng "đức tin". Những trường hợp mà người bịnh được chữa khỏi cấp thời như những trường hợp kể trên chỉ là một số ít. Trong tất cả những trường hợp khác thì người bịnh được điều trị một cách cụ thể, có khi lâu dài, và cách điều trị gồm có: Thuốc men, giải phẫu, kiêng cữ món ăn, dùng sinh tố, chữa bằng điện, thoa bóp hay tự kỷ ám thị...

Những trường hợp chữa bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce đều được ghi chép trong những hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Tất cả có đến ba chục ngàn hồ sơ được cất giữ ở Virginia Beach, và saün sàng được dùng làm tài liệu cho những ai muốn khảo cứu sưu tầm.Những hồ sơ đó gồm có những tờ biên bản các cuộc khám bịnh bằng Thần Nhãn, có kê khai ngày tháng rõ ràng; những thơ thỉnh cầu của bịnh nhân ở xa hoặc của thân quyến người bịnh; những bức thơ bày tỏ sự biết ơn của những bịnh nhân được chữa khỏi ở khắp nơi trên thế giới; những giấy chứng minh của các bác sĩ; và những bản tốc ký chép lại những lời của ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên. Những tập hồ sơ này gồm thành một kho văn kiện và tài liệu vĩ đại để chứng minh sự thật về hiện tượng Thần Nhãn (Clairvoyance).
Ông Cayce sinh năm 1877 tại Hopskinville, tiểu bang Kentucky, Hoa Kỳ. Ông sinh trưởng trong một gia đình nông dân nghèo và thất học. Ông theo học trường làng đến bực tiểu học, và mặc dầu trong thuở thiếu thời, ông đã tỏ ý muốn trở nên một giáo sĩ, nhưng hoàn cảnh không cho phép ông tiếp tục theo đuổi việc học vấn. Đời sống ở nông trại không thích hợp với ông; ông bèn ra ở tỉnh thành, trước hết ông làm nhân viên phụ trách cửa hàng bán sách, sau đó ông làm nhân viên một hãng bảo hiểm.
Năm ông 21 tuổi, một việc xảy ra bất ngờ làm thay đổi trọn cuộc đời ông: Ông bị tắt tiếng nói vì một chứng bệnh yết hầu. Mọi sự chạy chữa đều vô hiệu quả, và không một vị bác sĩ nào có thể chữa cho ông khỏi bịnh. Không thể tiếp tục hành nghề nhân viên bảo hiểm, ông bèn trở về nhà cha mẹ Ông. Ông ở đó gần một năm, không hoạt động gì cả và chứng bịnh của ông dường như không thể chạy chữa. Sau cùng, ông quyết định theo học nghề chụp ảnh, vì nghề này không bắt buộc phải dùng đến giọng nói. Trong khi ông đang tập sự nghề chụp ảnh, một nhà thôi miên đạo diễn tên là Hart, đi ngang qua Hopskinville và biểu diễn tài nghệ tại nhà hí viện thành phố.Nhà thôi miên Hart khi nghe nói ông Cayce bị chứng bịnh tắt tiếng, mới đề nghị chữa bịnh cho ông bằng khoa thôi miên. Ông Cayce liền vui vẻ nhận lời. Trong giấc thôi miên, ông Cayce tuân theo mệnh lệnh của ông Hart và nói chuyện như thường, nhưng trái lại, khi ông thức tỉnh thì ông lại bị tắt tiếng như trước.Trong những giấc thôi miên kế đó, nhà thôi miên bèn dẫn dụ cho ông nghe rằng: Sau khi thức tỉnh, ông sẽ có thể nói chuyện được như bình thường. Phương pháp này gọi là "Aùm thị thôi miên, " tuy rằng rất hiệu nghiệm và đã từng giúp đỡ được nhiều người thắng được một vài thói quen như tật hút thuốc quá độ chẳng hạn, lại không có kết quả đối với chứng bịnh của ông Cayce.
Ông Hart, vì phải di chuyển qua tỉnh khác theo chương trình đã sắp đặt, không thể tiếp tục những cuộc thí nghiệm của ông nữa, nhưng có một người tên là Layne ở cùng một địa phương, đã theo dõi cuộc chữa bịnh cho ông Cayce một cách thích thú. Ông Layne mới đề nghị với ông Cayce để cho ông ta thử điều trị cuống họng của ông. Ông Cayce vì muốn được khỏi bịnh bằng bất cứ phương pháp điều trị nào, liền chấp nhận.
Ông Layne mới nảy ra một sáng kiến mới, là dẫn dụ cho ông Cayce trong giấc thôi miên, hãy tự diễn tả căn bịnh của mình.Thất lạ thay, ông Cayce tuân theo lời dẫn dụ đó và làm đúng y theo lời. Bằng một giọng nói bình thường, trong khi ông chịu sự dẫn dụ thôi miên của ông Layne, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả trạng thái của những sợi dây thanh âm (cordes vocales) trong cuống họng ông. Ông nói: "A! Chúng ta có thể nhìn thấy cái thể xác này! Vào lúc bình thường, nó không thể nói được vì những thớ thịt phần dưới cuống họng bị liệt bại hết một phần, so một sự căng thẳng thần kinh gây nên. Chứng bịnh này nguyên nhân là do một trạng thái tâm lý gây ra và ảnh hưởng đến phần thể chất. Muốn chữa hết bịnh, phải dùng các dẫn dụ để làm vận chuyển sự lưu thông máu huyết ở bộ phận bị đau, trong khi người bịnh còn nằm trong trạng thái vô ý thức của giấc thôi miên."
Ông Layne liền dẫn dụ cho ông Cayce nghe rằng sự lưu thông máu huyết của ông sẽ tăng gia một cách dồi dào ở chỗ cuống họng bị đau và bịnh trạng của ông sẽ thuyên giảm. Lần lần, phần trên của bộ ngực và cuống họng của ông Cayce thay đổi màu sắc, và chuyển từ hồng nhạt sang màu đỏ thắm. Sau đó 20 phút, vẫn trong giấc ngủ thôi miên, ông Cayce bèn ho lên mấy tiếng để lấy giọng và nói: "Tốt lắm, căn bịnh đã dứt. Ông hãy dẫn dụ rằng sự lưu thông máu huyết sẽ trở lại bình thường và thể xác này hãy thức tỉnh." Ông Layne liền làm y theo lời. Ông Cayce bèn thức tỉnh và nói chuyện như thường lần đầu tiên từ trên một năm naỵ Trong những tháng sau đó, thỉnh thoảng căn bịnh ông tái phát trở lại một đôi lần. Mỗi lần như thế, ông Layne lại dẫn dụ bằng thôi miên cho máu huyết lưu thông nơi cuống họng, và chứng bịnh lại dứt.
Câu chuyện của ông Cayce có lẽ đã chấm dứt với bấy nhiêu đó, nếu ông Layne không nhìn thấy những triển vọng sâu xa của trường hợp đặc biệt này, và tìm cách khai thác trên địa hạt thực tế. Lịch sử của khoa thôi miên là điều quen thuộc đối với ông và ông đã từng biết những trường hợp tương tự đặt dưới sự điều trị của ông De Puysegur ở Pháp, ông này là vị kế nghiệp cho bác sĩ Mesmer, người đã khám phá ra khoa nhân điện học. Ông Layne nghĩ rằng nếu ông Cayce có thể nhìn thấy thể xác của những người khác và khám bịnh cho họ. Ông Layne bèn thí nghiệm điều này với chính mình ông, vì trong thời gian gần đây ông bị chứng đau bao tử. Cuộc thí nghiệm đã thành công mỹ mãn. Trong giấc thôi miên, ông Cayce diễn tả trạng thái bên trong xác thể của ông Layne và đề nghị một vài phép điều trị. Ông Layne lấy làm vui mừng vô hạn: Sự khám nghiệm của ông Cayce hoàn toàn đúng theo những triệu chứng mà chính ông đã nhận thấy và cũng đúng theo sự khám nghiệm của nhiều vị bác sĩ khác.
Hơn nữa, cách điều trị của ông Cayce đưa ra gồm có một phép ăn uống hạn chế, kiêng cữ, những thuốc men và những phép tập thể dục chưa từng đem áp dụng cho trường hợp của ông từ trước. Ông Layne bèn áp dụng theo cách điều trị ấy và trong vòng ba tuần, ông nhận thấy rằng bịnh trạng của ông đã thuyêng giảm rất nhiều. Những sự kiện trên đây là cho ông Cayce lưỡng lự phân vân không ít. Nhưng ông Layne lấy làm vô cùng hứng khởi và quyết định thử xem phép điều trị này có thể chữa khỏi bịnh cho những người khác hay không?
Hồi mới lên mười tuổi, ông Cayce bắt đầu đọc bộ Thánh Kinh (Bible), và đọc đi đọc lại hàng năm từ đầu đến cuối bộ sách ấy. Ông có ý nghĩ muốn trở nên một nhà chữa bịnh để cứu giúp các bệnh nhân đau khổ, cũng như các vị môn đồ đấng Christ hồi xưa.Về sau, ông có tham vọng trở nên một nhà truyền giáo như đã nói ở trên, nhưng hoàn cảnh của ông không cho phép.Và đến bây giờ thình lình ông nhận thấy cơ hội làm thầy chữa bịnh cho thiên hạ tự nhiên xuất hiện đến với ông. Nhưng ông còn băn khoăn lo ngại không dám nắm lấy cơ hội ấy, vì ông sợ rằng nếu trong giấc ngủ thôi miên, ông lỡ nói một điều gì có hại và nguy hiểm cho tánh mạng kẻ khác, thì sao? Nhưng ông Layne liền bảo đảm rằng ông đừng sợ gì cả; chính ông Layne đã có hiểu biết khá nhiều về Y học để có thể ngăn chận lại những phép điều trị nào xét ra có hại cho bịnh nhân. Ông Cayce liền thăm dò lại bộ Thánh Kinh để tìm lấy một đường lối hành động. Sau cùng, ông bằng lòng giúp đỡ cho những người bịnh nào muốn điều trị theo phương pháp của ông, nhưng ông nói trước một cách dứt khoát rằng đó chỉ là những cuộc thí nghiệm, và ông không đòi hỏi tiền thù lao chi cả.
Kế đó, ông Layne mới bắt đầu chép bằng tốc ký những lời mà ông Cayce thốt ra trong giấc ngủ thôi miên và gọi đó là biên bản, hay phúc trình những cuộc "Khán Bịnh Bằng Thần Nhãn." Điều lạ lùng nhất trong những cuộc khán bịnh của ông Cayce, ngoài những giờ hành nghề nhiếp ảnh, ông đã dùng những danh từ đúng đắn về khoa Sinh Lý Học và Cơ Thể Học, mặc dầu trong lúc thức tỉnh, ông không hề biết một điều gì về nghành Y học và không hề đọc các sách về Y khoa. Điều càng lạ lùng hơn nữa đối với ông Cayce, là những bịnh nhân do ông điều trị đều được thuyên giảm rất nhiều. Trường hợp của ông Layne không đủ làm cho ông chịu thuyết phục vì ông cho rằng có lẽ sự tưởng tượng đã làm cho ông Layne tưởng rằng mình khỏi bịnh.Về phần ông Cayce, việc ông đã thu hồi lại được giọng nói không thể cho là sự tưởng tượng, nhưng đó có thể chỉ là một sự ngẫu nhiên tình cờ.
Những sự nghi ngờ nó vẫn luôn ám ảnh ông trong những năm đầu khi ông mới bắt tay vào việc khán bịnh bằng Thần Nhãn, đã lần lần giải tán trước sự kiện hiển nhiên là những bịnh nhân do ông điều trị đều được khỏi bịnh, thậm chí đến cả những trường hợp được coi như là nan y và hết phương chạy chữa.

Lần lần, quyền năng phi thường của ông Cayce đã được đồn đãi khắp mọi nơi. Một ngày kia, ông được tin điện thoại của ông cựu Thanh tra Giáo dục thành phố Hopskinville mời ông đến chữa cho cô con gái của ông mới lên năm tuổi, và đau ốm đã ba năm naỵ Em ấy bị chứng cảm cúm vào năm hai tuổi và từ khi đó đến nay, em bị mất trí khôn. Những vị bác sĩ chuyên môn mà cha mẹ em đã mời đến khám bịnh cho em đều thúc thủ vô sách, không làm sao cứu em khỏi bịnh. Gần đây, em lại bị chứng phong giựt càng ngày càng dữ dội thêm, và một vị bác sĩ chuyên môn đã tuyên bố rằng đó là một chứng bịnh thuộc về óc, không thể chữa nổi. Cha mẹ em đã tuyệt vọng, và đem em trở về nhà để chờ ngày em trút linh hồn. Khi đó, một người bạn mới nói chuyện về cha mẹ em về ông Cayce và quyền năng nhiệm mầu của ông. Khi ông Cayce nghe nói về trường hợp của cô gái nhỏ này, ông bằng lòng di chuyển đến nơi để khám bịnh cho em ấy.Vì tình hình tài chánh của ông không được dồi dào lắm, nên ông phải nhận tiền lộ phí của gia đình bệnh nhân cung cấp: đó là lần đầu tiên mà ông nhận một món tiền về công việc chữa bịnh của ông để giúp đỡ kẻ khác. Ông bèn lên đường, tuy rằng với một sự băn khoăn khó nghĩ trong lòng.
Khi cô gái nhỏ được đem đến trước mặt ông, ông càng cảm thấy một cách thấm thía sự mỉa mai của vai trò của ông: Vì ông, con của một gia đình nông dân tầm thường và không biết một chữa về y học, lại tự hào có thể chạy chữa cho một đứa trẻ mà những nhà chuyên môn giỏi nhất trong xứ về nghành Y khoa đã phải chịu bó tay không chữa nổi! Ông cảm thấy hơi run rẩy khi ông nằm trên chiếc sofa trong phòng khách nhà ông Thanh tra, và ngủ mê thiếp đi. Tuy nhiên, trong giấc ngủ thôi miên, ông không còn băn khoăn nghi ngại về ông nữa. Ông Layne có mặt ở một bên để dẫn dụ cho ông, và chép bằng tốc ký những lời ông Cayce thốt ra như thường lệ.
Với một sự bình tĩnh và tự tin mà ông vẫn thường biểu lộ trong những cuộc khàn bệnh trước đây, ông Cayce mới bắt đầu diễn tả bịnh trạng của đứa trẻ. Ông cho biết rằng trước khi bị cảm cúm, em bé ấy đã bị té ngã từ trong xe văng xuống đất, và vi trùng bịnh cúm đã đột nhập vào chỗ thương tích do tai nạn gây ra; rằng điều này gây nên chứng phong giựt. Ông cho biết thêm rằng một sự điều trị thích nghi bằng phép nắn xương sẽ có thể làm giảm bớt áp lực và giúp cho em nhỏ được bình phục trở lại như thường.
Bà mẹ em bé xác nhận việc em bị ngã xe, nhưng vì không thấy có thương tích, nên bà không hề nghĩ rằng việc ngã xe lại có ảnh hưởng đến bịnh trạng của em bây giờ. Ông Layne bèn áp dụng cách điều trị cho em theo lời dặn của ông Cayce và trong vòng ba tuần, em nhỏ đã hết chứng phong giựt. Tình trạng trí khôn của em đã khá nhiều: Em nói được tên của con búp bê, món đồ chơi thích nhất của em mà em vẫn chơi trước khi bị bịnh; sau đó em gọi tên của cha mẹ em và cha

mẹ em lần đầu tiên từ nhiều năm naỵ Sau ba tháng, hai ông bà chủ nhà tuyên bố rằng cô con gái nhỏ của ông bà đã hoàn toàn bình phục và đang cố gắng vớt vát lại thời gian đã mất trong những năm đen tối vừa qua.
Những sự việc xảy ra như trường hợp này đã đem đến cho ông Cayce một đức tin rằng ông không lầm mà đem sử dụng khả năng lạ lùng của ông để giúp đỡ thế gian. Tiếng tăm của ông càng ngày càng đồn xạ Báo giới đã khám phá ra chỗ ông ở và đã phỏng vấn ông. Kể từ khi đó, hằng ngày ông đều nhận được những cú điện thoại và những bức điện tín của những bệnh nhân tuyệt vọng yêu cầu ông chữa bệnh cho họ. Chính nhờ đó mà ông nhận thấy rằng ông có thể khám bệnh xuyên qua không gian, trong khi ông ở cách xa bệnh nhân đến hằng mấy trăm dặm đường, miễn là trong giấc thôi miên, người ta nói cho ông biết tên tuổi và địa chỉ rõ ràng của bệnh nhân.
Ông Cayce thường bắt đầu các cuộc khán nghiệm bịnh nhân ở xa bằng vài lời bình phẩm về thời tiết và hoàn cảnh địa phương chỗ bịnh nhân ở, với một giọng nói thì thầm đại khái như:
"Ở đây, sáng nay gió thổi mạnh quá!"
"Đây là Winthertur ở Thụy Sĩ. À! Những bộ áo pyjama này đẹp quá!"
"Ừ! Bà mẹ đang cầu nguyện ở phòng bên!"...
Những sự tả cảnh đó về sau được xác nhận là đúng, lại càng giúp một bằng chứng xác thực về năng khiếu Thần Nhãn của ôn Caycẹ Dầu rằng bịnh nhân ở cách xa, hay ở gần một bên ông trong một gian phòng, thì ông cũng dùng một phương pháp giống nhau không có gì thay đổi. Ông chỉ cần cởi giày, lên nằm trên divan hay trên giường một cách hoàn toàn thoải mái và nghỉ ngơi. Ông nhận thấy rằng ông cần phải nằm day đầu về hướng bắc và quay về hướng nam. Ngoài ra một chỗ nằm và một cái gối để gối đầu, ông không cần dùng một món gì khác.
Những cuộc khán nghiệm có thể diễn ra ban ngày cũng như ban đêm, và bóng tối hay sáng đều không có ảnh hưởng gì khác nhau. Vài phút sau khi nằm yên chỗ, ông liền ngủ thiếp đi. Khi đó, ông Layne, hay là vợ Ông Cayce, hay bất cứ một người nào khác mà ông tin cậy và giao phó trách nhiệm này, mới đưa ra cho ông những lời dẫn dụ thích nghị Câu dẫn dụ thông thường là: "Bây giờ, ông sẽ thấy trước mặt ông (tên họ người bệnh), ở tại (địa chỉ: Tên đường thành phố, xứ) Ông sẽ khán nghiệm thân thể người ấy một cách chăm chú và cẩn thận, và ông sẽ nói cho biết bịnh trạng cùng nguyên nhân của chứng bịnh là như thế nào. Ông cũng sẽ nói cách điều trị ra sao để chữa bịnh cho cái thể xác người ấy được thuyên giảm. Và ông sẽ đáp lại những câu hỏi của tôi đưa rạ"
Vài phút sau, ông Cayce bắt đầu nói, và ông Layne hoặc cô thư ký Gladys Davis chép bằng tốc ký những lời nói của ông Caycẹ Sau đó, bản chép tốc ký được đem đánh máy lại rõ ràng. Trong phần nhiều trường hợp, một bổn sao được đưa cho người bịnh hoặc thân nhân của y, hoặc người đỡ đầu hay vị bác sĩ của đương sự, còn một bổn sao bằng giấy màu vàng thì được giữ trong hồ sơ của bệnh nhân.
Lời đồn đãi truyền khẩu và những bài tường thuật trên mặt báo chí về năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce không bao lâu đã hấp dẫn sự chú ý của những tay con buôn có óc trục lợi. Một nhà buôn lớn về ngành bông vải đề nghị trả cho ông Cayce mỗi ngày một trăm dollars liên tiếp trong hai tuần để nhờ ông "Xem" giùm giá thị trường bông vải hằng ngày. Mặc dầu lúc ấy ông đang cần dùng tiền, nhưng ông bèn từ chối. Có những người khác muốn nhờ ông chỉ giùm những chỗ chôn giấu kho tàng, hoặc chỉ con ngựa nào về nhứt để đánh trúng giải cá ngựa trong trường đuạ Có nhiều lần, ông Cayce đã chịu nghe theo lời thiên hạ thỉnh cầu và làm thử những chuyện kể trên để rút kinh nghiệm và cũng để xem kết quả ra sao. Nhiều lần ông đã thành công và nói đúng kết quả của những cuộc cá ngựa; nhưng nhiều lần ông cũng đã nói sai! Và những lần như thế, sau khi thức tỉnh ông cảm thấy mệt mỏi, bực dọc và bất mãn về mình! Có một lần, người ta thuyết phục được ông hãy thử thời vận và dùng Thần Nhãn để khám phá các mỏ dầu hỏa ở tiểu ban Texas, nhưng ông không thu được kết quả gì đáng kể và đã hoàn toàn thất bại!
Sau cùng ông nhận thấy rằng ông chỉ có thể sử dụng năng khiếu thần thông của mình một cách hữu hiệu và chắc chắn vào mục đích chữa bịnh cho nhân loại, vài chỉ vì mục đích duy nhất đó mà thôi, chớ không bao giờ nên dùng Thần Nhãn để giúp cho ai, hay cho chính mình trong việc kiếm tiền và sinh lợi! Chí đến những sự quảng cáo ồ ạt để cầu danh, ông đều dửng dưng không quan tâm đến.
Năm 1922, ông Giám Đốc tờ báo Denver Post nghe nói đến ông Cayce và mời ông đến Denver. Sau khi dự kiến một buổi khám bịnh có kết quả hiển nhiên, ông ta liền đề nghị với ông Cayce một việc sau đạy: Ông ta sẽ trả cho ông Cayce mỗi ngày một ngàn dollars, và tự đảm nhiệm lấy công việc tổ chức những cuộc trình diễn lưu động trong xứ, nếu ông Cayce bằng lòng đổi tên họ và khoác lấy một cái tên Ấn Độ, ăn mặc và bịt khăn theo lối Đông Phương, và khán bịnh bằng giấc thôi miên sau một tấm màn che khuất để tránh những cặp mắt tò mò. Nhưng ông Cayce quyết liệt từ chối.
Ông David Kahn, Giám Đốc công ty Vô Tuyến Truyền Hình ở Brunswich, và là bạn cũ của ông Cayce, trong những cuộc nói chuyện riêng tư, đã quảng cáo về việc làm của ông Cayce trong các giới bạn bè và các giới kinh doanh thương mãi; nhưng khi ông đề nghị mở một chương trình quảng cáo đại quy mô về công việc của ông Cayce trên đài vô tuyến truyền hình, thì ông Cayce liền từ chối một cách quyết liệt, ai làm bất cứ một sự quảng cáo nào về sự khán bịnh hay về những cuộc diễn thuyết công cộng của ông.
Trong các cuộc đàm thoại với những người không được biết ông nhiều, ông không bao giờ nói về năng khiếu đặc biệt của mình, nếu người ta không hỏi ông về vấn đế đó. Có nhiều người ở cùng một tỉnh nhưng không hề biết gì về ông, ngoài ra việc ông làm nghề nhiếp ảnh. Ông sống với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng ông chỉ là một khí cụ để giúp đỡ và đem lại sức khỏe cho những kể ốm đau khổ sở, và ông không bao giờ nên làm cho thiên hạ chú ý đến mình.
Trong những năm đầu, ông Cayce vẫn tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh, và luôn luôn từ chối không nhận tiền thù lao về những cuộc khám bịnh của ông. Về sau, khi số người bịnh đến nhờ ông chạy chữa càng ngày càng đông làm cho ông không thể nào tiếp tục hành nghề nhiếp ảnh được nữa, ông mới có lý do nhận tiền thù lao vì ông còn phải đùm bọc và nuôi dưỡng gia đình. Tuy thế, đối với những người nghèo không đủ sức trả tiền, ông vẫn khám bịnh giùm không lấy tiền. Không bao giờ ông Cayce đòi hỏi hoặc bắt buộc bịnh nhân phải trả tiền thù lao.
Những bổn sao các thư từ của ông hiện còn được cất giữ trong các tập hồ sơ ở Virginia Beach, nơi ông đến trú ngụ từ năm 1927, là nhữg bằng chứng hùng biện cho lòng hy sinh, vô kỷ của ông. Mặc dầu trong những bức văn thư ấy có rất nhiều sự thiếu sót về văn phạm, cách chấm câu và cách hành văn, nhưng nó biểu lộ một cách sâu xa lòng mong muốn giúp đỡ và làm giảm bớt những nỗi đau khổ của nhân loại. Trong những năm đầu tiên đó, ông Cayce luôn luôn bị dày vò bởi sự hoài nghị Có đôi khi, trong những cuộc khán binh, ông Cayce vẫn lặng thinh không nói gì trong giấc ngủ thôi miên. Có lẽ trong những lúc đó, năng khiếu Thần Nhãn của ông bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe hoặc trạng thái bất an của tâm hồn. Mặc dầu lúc thường, ông là một người dịu dàng và hiền lành, nhưng ông có những lúc nóng giận thình lình; và ông thường có sự lo âu về tiền bạc.
Một tâm trạng như thế lẽ tất nhiên làm tê liệt mất năng khiếu của ông. Trong những trường hợp khán bịnh mà không có kết quả, người ta phải đình lại một lúc khác để đợi cho tình trạng sức khỏe và tâm lý của ông được phục hồi trở lại, khi đó cuộc khán bịnh sẽ đem lại kế quả mong muốn.
Nhưng ông Cayce cũng bị xúc động một cách sâu xa nếu có bịnh nhân nào tỏ vẻ bất mãn vì cuộc khán bịnh không nói đúng theo bịnh trạng của họ, hoặc sự điều trị không có kết quả như mong muốn. Trong những trường hợp đó, ông Cayce xin lỗi một cách khiêm tốn trong những bức thơ dài, và giải thích rằng ông không hề tự hào là Thần Y có thể chữa khỏi bá bịnh; rằng có một phần chi tiết mà ông không được biết rõ, điều này làm cho những cuộc khán bịnh của ông trở nên kém hiệu lực và bất toàn; và đôi khi ông không nhìn thấy rõ ràng mọi sự, cũng như một cái máy thu thanh vô tuyến, nghe khi mờ khi tỏ, chứ không phải lúc nào cũng chạy một cách đều đặn, hoàn toàn. Và trong thơ, ông kết luận: "Mục đích duy nhất của chúng tôi là giúp đỡ ông." Và ông gửi kèm theo trong thơ một ngân phiếu hoàn nguyên số tiền mà ông đã nhận được lại cho vị thân chủ.
Thỉnh thoảng, sau nhiều tháng, chính những người thân chủ đó trở lại cho ông hay rằng một cuộc khán bịnh riêng về sau đã xác nhận những gì ông đã nói từ lúc đầu, mà họ đã nghi ngờ là không đúng như bịnh trạng của họ. Cũng có đôi khi ông Cayce nhận thấy rằng những bịnh nhân đã than phiền về sự chữa bịnh không lành, đã tỏ ra cẩu thả không chịu áp dụng đúng theo cách điều trị của ông đưa ra, chẳng hạn như họ quên ăn uống kiên cữ, hoặc không chịu uống thuốc, hoặc xao lãng về phần kỷ luật tinh thần mà ông đã buộc họ phải noi theo. Dầu sao ông cũng biết rằng những cuộc khán bịnh của ông không phải là bá phát bá trúng. Nhưng với thời gian qua, những cuộc khán bịnh của ông càng ngày càng trở nên rõ ràng và đúng đắn hơn trước, vì kinh nghiệm đã giúp cho ông biết cách sử dụng năng khiếu của ông một cách hữu hiệu hơn. Những sự thất bại hoặc sai biệt xảy ra một đôi khi, đã được bù đắp bởi những sự chữa lành bịnh một cách mầu nhiệm.
Một vị linh mục Thiên Chúa giáo người Gia Nã Đại đã được chữa khỏi bịnh động kinh; một người trò trường tỉnh ở Dayton (Ohio) đã được chữa khỏi bịnh đau khớp xương; ở New York, một viên nha y đã được chữa khỏi trong hai tuần chứng bịnh nhức đầu kinh niên đã nhiều năm; một thiếu niên ở Philadenlphia mắc chứng bịnh đau mắt có cườm, là một chứng bịnh được coi như là nan y, đã được bình phục khi một vị bác sĩ chữa cho y theo lời chỉ thị của ông Cayce.
Chính những trường hợp chữa khỏi bịnh kể trên đã xảy ra rất nhiều lân2, làm cho ông Cayce bình nhật vốn là một người khiêm tốn, do dự, và cẩn thận rất mực, phải tin tưởng nơi cái năng khiếu của ông, mặc dầu thỉnh thoảng vẫn có những sự khó khăn và một vài sự sai biệt nhỏ nhặt không đáng kể; và ông có thể tin rằng đó là một cái thiên tư đặc biệt của trời phú cho.
Năm 1942, do các báo chí đua nhau nói về thân thế và sự nghiệp của ông Cayce, tên tuổi của ông đã vang dội khắp nơi ở Hoa Kỳ. Kết quả là hằng triệu thơ từ của người trong xứ ở khắp bốn phương đều được gởi đến nhờ ông chữa bịnh, trong số đó có nhiều trường hợp rất đau thương và vô cùng khẩn cấp. Ông Cayce không bao giờ từ chối việc chạy chữa cho một bịnh bệnh nhân nào và không bao giờ ruồng bỏ một ai, đành phải định ngày khám bịnh cho từng người, và có người ông phải hẹn trước đến mười tám tháng mới đến phiên khám bịnh cho y.
Thay vì chỉ khám bịnh hai hay ba lần trong mỗi ngày, có khi ông đã khám bịnh đến tám lần, sớm mai bốn lần và bốn lần vào buổi chiều. Làm việc trong giấc ngủ, có vẻ dường như là một công việc thoải mái dễ dàng, nhưng sự thật, ông Cayce đã phung phí rất nhiều sinh lựcvà sự căng thẳng gây nên bởi sự làm việc quá sức đó đã ảnh hưởng đến sức khỏe của ông; ông từ trần vào ngày ba tháng giêng năm 1945, hưởng thọ 67 tuổi.

Cuộc đời của ông Edgar Cayce đã chấm dứt, nhưng tiếng tăm của ông không bao giờ mất. Nếu một người trở nên bất tử và lưu danh thiên cổ do những công trình phụng sự nhân loại thì người ta có thể nói rằng ông Cayce đã trở nên bất tử với thời gian vậy.

Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 18:00, 04/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ

Giải Đáp Cho Những Vấn Đề Bí Hiểm Của Đời Người

Trong khoảng hai mươi năm làm việc chữa bịnh để cứu độ thế gian, ông Cayce đã cứu chữa cho hằng mấy muôn nghìn bịnh nhân, và điều này càng xác nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông.Với năng khiếu thần thông này, ông Cayce nhìn thấu suốt tận trong ngũ tạng lục phủ của người bịnh, và những bộ phận ẩn giấu trong cơ thể con người, mà trong trường hợp thông thường người ta không nhìn thấy được. Trong nhiều năm sau, người ta mới bắt đầu nghĩ rằng nếu Thần Nhãn có thể soi thấu vào cơ thể con ngươòi, thì chắc nó cũng có thể chuyển hướng ra bên ngoài vũ trụ càn khôn để nhìn thấy những mối liên quan giữa con người và vũ trụ, và tìm sự giải đáp cho những vấn đề bí hiểm của đời người. Việc đó đã xảy ra trong trường hợp sau đây:
Ông Arthur Lammers, chủ nhân một nhà in lớn ở Dayton, tiểu bang Ohio, có nghe một người cộng sự với ông nói chuyện về ông Caycẹ Ông lấy làm thích thú và tò mò đến nỗi ông bèn lên đường đi đến tận nơi để quan sát công việc của ông Cayce ở Selma, tiểu bang Alabama, là nơi ông Cayce đang trú ngụ. Sau khi đã quan sát những cuộc khán bịnh của ông Cayce trong nhiều ngày liên tiếp, ông Lammers mới nhìn nhận sự thật về năng khiếu Thần Nhãn của ông này. Ông Lammers là một người thông minh và có kiến thức rộng. Ông bèn nghĩ rằng nếu một người có nhãn quang nhìn thấy những sự vật ẩn dấu đối với cặp mắt phàm, thì người ấy chắc có thể làm sáng tỏ những vấn đề rộng lớn hơn về vũ trụ và nhân sinh, chứ không phải chỉ nhìn thấy có sự hoạt động của lá gan hay bộ máy tiêu hóa của người bịnh mà thôi đâu. Thí dụ như: Trong tất cả mọi nghành triết học và tôn giáo, thì nghành nào gần nhất với Chân Lý? Mục đích của đời người là gì? Thuyết cho rằng linh hồn con người vốn bất diệt có đúng hay không? Nếu là đúng, sau khi chết, con người sẽ đi về đâu? Thần Nhãn của ông Cayce có thể đem đến sự giải đáp cho những vấn đề ấy chăng?
Ông Cayce không hề biết một chút gì về những vấn đề ấy. Những vấn đề trừu tượng về linh hồn và mục đích của cuộc đời,... Không hề thoáng qua trong ý của ông. Ông chỉ chấp nhận một cách âm thầm những giáo lý mà người ra giảng cho ông ở Nhà Thờ; mọi sự thảo luận hoặc so sánh những giáo lý đó với triết học, khoa học và các tôn giáo khác đều là hoàn toàn xa lạ đối với ông.

Sở dĩ ông đã chịu sự dẫn dụ trong những giấc ngủ thôi miên là vì do lòng mong muốn giúp đõ những kẻ bịnh tật đau khổ. Ông Lammers là người đầu tiên đã nghĩ đến việc dùng Thần Nhãn vào những mục đích khác hơn là chữa bịnh cho nhân loại, và điều này càng làm tăng gia lòng hứng khởi của ông Caycẹ Trong những giấc thôi miên, ngoại trừ một vài trường hợp ngoại lệ rất hiếm, ông đã luôn luôn trả lời và giải đáp đúng những câu hỏi nêu ra. Vậy thì không có lý do gì mà ông không thể giải đáp luôn cả những câu hỏi của ông Lammers về các vấn đề vũ trụ nhân sinh khác hơn là vấn đề chữa bịnh.
Ông Lammers vì bận công việc kinh doanh không thể kéo dài thời gian ở Selma, nên ông yêu cầu ông Cayce hãy về ở tại nhà ông ở Dayton trong vài tuần. Ông Cayce bằng lòng với ý nghĩ rằng có lẽ đấng Thiên Liêng muốn kêu gọi ông vào những công việc phụg sự khác nữa. Gần đây ông Lammers có chú ý đến khoa Chiêm Tinh. Ông nghĩ rằng nếu khoa Chiêm Tinh đúng với Chân lý, thì đó có thể là một nghành khoa học nối liền con người và vũ trụ mà chúng ta có thể hiểu được rõ ràng. Ông bèn có ý định bắt đầu thí nghiệm Thần Nhãn của ông Cayce về khoa này.
Một ngày nọ vào tháng 10, năm 1923, khi ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên trong một gian phòng khách sạn Phillips ở Dayton, thì người ta dẫn dụ cho ông hãy lấy một lá số Chiêm Tinh cho ông Lammers. Tuân theo như thường lệ những lời dẫn dụ mà ông nhận được, ông Cayce bèn đưa ra những chi tiết về lá số của ông Lammers bằng một vài câu vắn tắt. Và sau cùng, cũng một lối hành văn ngắn ngủi, vắn tắt như thế ông nói một câu lạ lùng: "Thuở xưa y là một tu sĩ." Câu nói tuy vắn tắt, nhưng đối với ông Lammers là người đã từng đọc nhiều và đã từng quen thuộc với những lý thuyết quan trọng về nhân sinh và định mệnh con người, câu nói ấy làm cho ông giựt mình chẳng khác nào như bị điện giựt!
Phải chăng câu ấy có nghĩa là Thần Nhãn của ông Cayce đã xác nhận như một sự thật hiển nhiên cái giả thuyết cổ xưa về vấn đề Luân Hồi?
Thay vì làm thỏa mãn sự tò mò của ông Lammers, cuộc khán nghiệm đó lại càng làm cho ông tọc mạch muốn biết thêm. Khi ông Cayce thức tỉnh, ông thấy ông Lammmers đang bàn luận sôi nổi với cô nữ bí thơ Linden Shroyer về những lời nói của ông vừa rồi. Ông Lammers tuyên bố rằng nếu người ta có thể chứng minh thuyết Luân Hồi là có thật, thì điều đó sẽ làm đảo lộn và thay đổi tất cả những quan niệm đã có từ trước về triết học, tôn giáo, và tâm lý học! Nếu ông Cayce cứ tiếp tục thí nghiệm của ông sẽ có thể tiết lộ cho ta thấy rõ ràng luật Luân Hồi hành động bằng cách nào. Thí dụ như những mối liên hệ giữa Luân Hồi và khoa Chiêm Tinh là như thế nào? Hai điều trên đây sẽ giải thích bằng cách nào về linh hồn, về định mệnh, và về đời sống con người?
Ông Lammers bèn khẩn khoản yêu cầu ông Cayce lấy làm lưỡng lự phân vân, nhưng ông vẫn nhận lời tiếp tục những cuộc khán nghiệm. Những câu hỏi của ông Lammers đưa ra đã được giải đáp một cách đứng đắn và với đầy đủ chi tiết về những tiền kiếp của ông, cùng những vấn đề bí hiểm của đời người mà ông bắt đầu khảo cứu tìm tòi. Theo những cuộc khán nghiệm đó, khoa Chiêm Tinh có chứa đựng một phần nào sự thật. Thái Dương Hệ đưa đến cho linh hồn đang tiến hóa một cơ hội học hỏi kinh nghiệm trong một chu kỳ nhất định. Con người thâu thập kinh nghiệm ở cõi trần và trên những cõi vô hình khác, mà thuở xưa người ta gọi bằng tên các cầu hành tinh làm trung tâm điểm cho những cõi ấy. Tuy nhiên, khoa Chiêm Tinh mà người ta được biết và thực hành trong thời buổi hiện tại, chỉ là gần đúng với sự thật mà thôi, chứ không phải là hoàn toàn đúng, bởi vì có nhiều yếu tố ẩn tàng mà người đời chưa khám phá ra được một cách đầy đủ trọn vẹn.
Những điều đó thật là lạ lùng đối với ông Cayce, nhưng sự tò mò khiến ông cứ tiếp tục những cuộc khán nghiệm mà ông Lammers yêu cầu. Họ tự nghĩ rằng những tài liệu mà họ muốn biết về những tiền kiếp sẽ được đầy đủ hơn nếu họ đừng đòi hỏi lấy một "Lá số, " và nếu ông Cayce nhận một sự dẫn dụ thích nghi hơn. Bởi đó người ta mới đề nghị rằng trong giấc thôi miên ông Cayce hãy đưa ra một lối dẫn dụ thích nghịVà đây là lối dẫn dụ mà ông Cayce đã đưa ra:
"Ông sẽ đứng trước mặt (tên của một người nào đó), sinh ngày... Tại... Ông sẽ nói cho biết thân thế và sự nghiệp của y và vai trò của y trong vũ trụ là như thế nào, cùng những khuynh hướng và khả năng của y trong kiếp hiện tại. Ông cũng cho biết những tiền kiếp của y ra sao với những chi tiết về tên tuổi, xứ sở và thời kỳ nào y đã trải qua những tiền kiếp đó.Và ông cũng cho biết luôn những nguyên nhân nào trong mỗi kiếp đã giúp đỡ hoặc làm trì trệ sự tiến hóa của y trong kiếp này."
Từ đó những cuộc khán nghiệm đều nhằm rõ rệt vào những tiền kiếp của đương sự. Những cuộc khán nghiệm này được gọi bằng danh từ soi kiếp, để phân biệt với danh từ khán bịnh, chỉ nhằm khán nghiệm thể xác của bịnh nhân vì mục đích chữa bịnh mà thôi. Đối với hai loại khán nghiệm kể trên, ông đều áp dụng một phương pháp giống như nhau, trừ một chi tiết này, là mỗi khi ông Cayce tuần tự soi kiếp cho nhiều người liên tiếp nhau thì ông bắt đầu cảm thấy chóng mặt dữ dội. Chính ông cũng tự khán nghiệm lấy mình để tìm ra nguyên nhân sự chóng mặt, thì ông được cho biết rằng cần phải đổi chiều hướng và quay đấu về hướng bắc, chân về hướng nam trong những cuộc soi kiếp. Còn lý do vì sao cần phải thay đổi chiều hướng như thế, thì không thấy giải thích, mà chỉ thấy nói rằng đó là một vấn đề thuận giòng "Từ điển."
Những cuộc soi kiếp cho chính ông Cayce tiết lộ rằng cách đây nhiều thế kỷ, ông đã từng làm một vị cao tăng ở các đền cổ ở bên Ai Cập và có nhiều quyền phép thần thông, nhưng ông đã bị vấp ngã vì tánh kiêu căng và thói ưa sắc dục. Trong một tiền kiếp ở Ba Tư, ông làm một y sĩ. Trong một kiếp khác, có lần ông bị thương trong một trận chiến tranh trên sa mạc và bị bỏ sót lại trên bãi cát, vì những người đồng bọn tưởng rằng ông đã chết.
Nằm một mình, không có nước uống, không lương thực và không một mái che ông đã chịu khổ rất nhiều trong ba ngày và ba đêm đến nỗi ông đã làm một cố gắng rất lớn để xuất thần ra khỏi thể xác của ông. Ông đã xuất thần được và chính nhờ việc ấy một phần nào mà ngày nay ông có cái khả năng tự thoát ly ra khỏi những giới hạn của xác thể.Tất cả những đức tánh và thói xấu của ông hiện thời đều được cân nhắc đứng đắn và đều có thể truy nguyên ra ở những kinh nghiệm trong các kiếp trước. Cuộc đời hiện tại là một sự thử thách cho linh hồn ông; ông đã có cơ hội phụng sự nhân loại một cách vị tha, để cứu chuộc những tội lỗi trong quá khứ, là thói kiêu căng, đắm mê vật chất và ưa thích điều sắc dục.
Ông Lammers nghĩ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng rất lớn, và bởi đó người ta cần thực hiện những cuộc sưu tầm rộng lớn hơn về vấn đề này. Ông yêu cầu ông Cayce hãy đem gia quyến từ Selma về ở Dayton và đề nghị chịu đài thọ mọi khoản tổn phí về sinh hoạt cho cả gia đình ông, gồm cả bà Cayce, cùng hai người con trai và cô bí thư Gladys Davis, cô này từ đó đã trở nên một người thân tín trong gia dình ông. Cả gia đình đều bằng lòng chấp thuận. Khi họ được cho biết về những sự gì xảy ra, thì họ đều có sự phản ứng giống như của ông Cayce: Lúc đầu họ còn ngạc nhiên và nghi ngại, kế đó họ càng trở nên tò mò muốn biết sự thật và sau cùng họ đều lấy làm thích thú cho đến say mệ Ông Cayce bèn soi kiếp cho mỗi người trong gia đình ông. Trong mỗi trường hợp, tâm tính của mỗi người đều được diễn tả một cách công khai và ông cho biết rằng mỗi thói hư tật xấu và mỗi đức tánh tốt đều có nguyên nhân trong những tiền kiếp. Trong cuộc soi kiếp cho một người con trai ông, ông nói: "Trong bốn tiền kiếp con là một nhà khảo cứu khoa học, con đã trở nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người nên có óc duy vật, ích kỷ và vụ lợi." Soi kiếp cho một người con khác ông nói: "Con có tánh rất nóng nảy; thói xấu đó đã gây cho con nhiều điều bất lợi trong những tiền kiếp ở Ai Cập và ở Anh Quốc. Kiếp nầy con nên tập lấy sự tự chủ và tánh kiên nhẫn."
Những sự diễn tả tánh tình đó đều hoàn toàn đúng đắn và chân thật, dầu cho đương sự là những người thân thích hay những người xa lạ như ông Lammers, cơ Linden Shroyer và những người bạn của ông Lammers, và điều đó càng làm cho ông này thêm phần hứng khởi và tin tưởng.
Nhưng ông Cayce cảm thấy thắc mắc về những điều tiết lộ đó, đến nỗi ông đâm ra nghi ngờ về ông và ông đã tự kiểm thảo lương tâm một cách ráo riết. Sau cùng ông đi đến kết luận rằng ông có thể tin cậy nơi năng khiếu Thần Nhãn của mình, bằng những cuộc khán bịnh và soi kiếp, ông đã làm một công việc phụng sự chánh đáng và thiêng liêng chớ không phải là một điều tà vạy. Nhưng những điều tiết lộ của ông lại là những điều quá mới lạ và dường như... "Phản đạo," làm sao ông có thể tin chắc rằng đó là đúng với sự thật?
Sự băn khoăn của ông có thể hiểu được dễ dàng: Ông vốn sinh trưởng trong một gia đình Cơ đốc giáo khắt khe và chính thống. Ông không hề được biết một chút gì về những giáo lý của các tôn giáo lớn trên thế giới. Trong lúc này, ông vẫn không biết gì về phần nhiều những điểm tương đồng giữa đạo Cơ đốc với những tôn giáo khác, và ông chưa từng có dịp thưởng thức cái ánh sáng đạo lý nó chiếâu diệu trong những ngọn đèn khác hơn là ngọn đèn Cơ đốc của mình. Ông hoàn toàn dốt về giáo lý căn bản của Ấn Giáo và Phật Giáo nói về vấn đề Luân Hồi.
Hơn nữa, danh từ này đối với ông, không được hấp dẫn cho lắm, vì người ta thường có một quan niệm sai lầm về thuyết Luân Hồi. Họ tưởng rằng theo thuyết ấy thì những người tội lỗi sau khi chết, có thể đầu thai trở lại làm kiếp thú, như làm thân trâu ngựa... Chính những cuộc soi kiếp đã giải tán những sự nghi ngờ này cho ông Caycẹ Trong những cuộc khán nghiệm các tiền kiếp, ông Cayce được biết rằng Luân Hồi không phải là đầu thai trở lại làm thú vật; và không phải là một điều mê tín dị đoan. Đó là một giáo lý có căn bản vững vàng về phương diện tôn giáo và triết học. Có hằng triệu người trí thức ở Ấn Độ và ở các xứ Phật giáo tin tưởng nơi thuyết ấy một cách sáng suốt thông minh, và lấy đó làm nền tảng cho mọi cách xử thế trong đời sống hằng ngày của họ. Tự nhiên là có nhiều môn phái ở Ấn Độ và ở các nước Á Châu cũng chủ trương thuyết Thoái Bộ Luân Hồi (metempsychose), tức là con người có thể tái sinh làm kiếp thú, nhưng đó chỉ là một sự chủ trương sai lầm về thuyết Luân Hồi. Vài tôn giáo cũng có những quan niệm lệch lạc về thuyết này, nhưng ta không nên để cho những sự hiểu lầm và thiên lệch đó khép chặt trí óc của ta đối với một điều Chân Lý căn bản và trọng đại.
Ông Lammers có thể bổ túc những điều được tiết lộ trong những cuộc soi kiếp. Ông giải thích rằng Luân Hồi có nghĩa là Tiến Hóa: Sự tiến hóa của linh hồn con người trải qua nhiều kiếp đầu thai liên tiếp ở cõi trần, khi thì đầu thai làm đàn ông, khi thì làm đàn bà; khi thì làm thường dân, khi thì làm vua chúa; kiếp này đầu thai làm giống dân này, kiếp kia làm giống dân khác... Cho đến khi linh hồn đạt tới mức hoàn thiện. Linh hồn con người cũng ví như một anh tài tử sân khấu đóng nhiều vai trò khác nhau và mặc những bộ y phục khác nhau từ đêm này qua đêm khác. Hoặc cũng ví như ta mặc một cái áo bằng vải trong một thời gian, và khi nó đã cũ, thì vứt bỏ để đổi lấy một cái áo khác. Nhiều bậc Hiền Triết và các nhà thông thái, trí thức siêu việt của Âu Tây cũng đã chấp nhận thuyết Luân Hồi và đã viết nhiều sách vở về vấn đề này, trong số đó có Pythagore, Platon, Plotin, Giordanno Bruno, Goethe, Whitman, Emerson, và Schopenhauer.
Ông Cayce bày tỏ ý kiến: "Những điều đó hẳn là đúng sự thật hiển nhiên rồi; nhưng còn đạo Cơ Đốc thì sao? Nếu tôi chấp nhận thuyết Luân Hồi thì phải chăng điều đó có nghĩa là tôi là phủ nhận đấng Christ thì rõ. Một luật gia trong số những người Pharisiens đã đưa ra câu hỏi đó cho đấng Christ, và Ngài đáp rằng: Ngươi hãy kính yêu Chúa ngươi một cách hết lòng và hết cả tâm hồn. Và ngươi hay thương yêu kẻ đồng loại của ngươi cũng như ngươi vậy. Hai điều răn đó là tất cả giáo luật và lời dạy của các nhà Tiên Trị" (Mathieu 22:35-40.)
Những lời dạy giản dị và sâu xa về tình bác ái đó có khác gì với lời dạy về sự tiến hóa và thuyết Luân Hồi? Và nó có khác gì với những giáo lý của bất cứ tôn giáo nào trên thế giới? Đức Phật đã dạy: "Ngươi đừng làm hại kẻ khác nếu ngươi không muốn cho kẻ khác làm hại mình." Và những Thánh Kinh của Ấn Giáo cũng dạy rằng: "Ngươi đừng làm điều gì cho người khác mà ngươi không muốn người khác làm cho ngươi."
Ấn Giáo cũng như Phật Giáo, đều không thấy có cái sự khác biệt, dị đồng giữa luật bác ái và luật tiến hóa tâm linh mà người ta gọi là Luân Hồi. Những tôn giáo ấy chỉ nhấn mạnh ở luật Luân Hồi nhiều hơn mà thôi, chớ không cho rằng hai luật ấy tương phản nhau. Nhưng ông Cayce vẫn chưa chịu thuyết phục. Năm lên 10 tuổi, người ta đã cho ông đọc bộ Thánh Kinh (Bible) và ông rất lấy làm say mệ Từ đó, ông nhất định đọc lại bộ sách ấy mỗi năm một lần, suốt đời ông. Trong những năm ấy, ông không hề thấy một lần nào trong sách đó có chữ Luân Hồi. Vậy thì tại sao bộ Thánh Kinh, và điều quan trọng hơn nữa, là đấng Christ lại không hề nói đến vấn đề này?
Ông Lammers nghĩ rằng: "Có lẽ đấng Christ có nói về vấn đề Luân Hồi."
Trước hết, ta nên nhớ rằng đấng Christ đã truyền dạy cho các vị môn đồ nhiều giáo lý mà Ngài không đem giảng dạy cho quần chúng. Và dầu cho Ngài có dạy thuyết Luân Hồi cho một số đông người, ta đừng quên rằng trải qua nhiều thế kỷ, phần chánh giáo của Ngài đã chịu nhiều sự biến thiên dời đổi do những sự diễn đạt của người đương thời và do sự phiên dịch qua nhiều thứ tiếng. Bởi vậy, có thể rằng nhiều giáo lý nguyên thủy của Ngài đã bị thất truyền. Tuy nhiên, ở một vài đoạn trong Thánh Kinh, người ta thấy có sự ngụ ý về vấn đề Luân Hồi. Đấng Christ có lần nói với các môn đồ rằng Thánh Jean-Bastiste tức là Elie tái sinh (Mathieu 17:12-13). Ngài không có dùng chữ Luân Hồi tái sinh, nhưng Ngài lại nói một cách rõ ràng không úp mở, rằng "Elie đã trở lại... Và khi đó các môn đồ hiểu rằng Ngài nói với họ về Thánh Jean-Bastistẹ" Trong một đoạn khác, các môn đồ hỏi Ngài về một người mù: "Bạch Sư Phụ, ai đã gây tội lỗi? Chính người này hay là cha mẹ y đã phạm tội, khiến cho y sinh ra đã bị mù?" Nhiều đoạn khác trong Thánh Kinh cũng ám chỉ, hoặc hàm xúc ý nghĩa về Luân Hồi. Ta hãy đọc trong thiên Apocalypse, Chương mười ba, câu thứ mười: "Kẻ nào cầm tù kẻ khác sẽ bị kẻ khác cầm tù; kẻ nào sử dụng gươm đao sẽ chết vì gươm đao."
Câu ấy ám chỉ rằng có một định luật quả báo hành động từ kiếp này sang kiếp khác. Có điều chắc chắn là phe chính thống của Cơ Đốc giáo đã lần lần góp nhặt và tu chỉnh những phần giáo lý của đấng Christ không có nói về vấn đề Luân Hồi; nhưng làm sao người ta có thể chắc chắn rằng sự diễn đạt và chọn lọc của phe chính thống đối với những giáo lý nguyên thủy là hoàn toàn vô tư và không thiên lệch? Nghiên cứu tiểu sử các vị cố đạo Gia Tô thời cổ, người ta thấy có nhiều vị trong số đó đã nhìn nhận thuyết Luân Hồi trong những tác phẩm của họ, và đã công khai giảng dạy thuyết ấy, như Origene, Jutin Thánh Jerome, Clement d' Alexandrie, Plotin và nhiều vị khác nữa. Những vị này đã từng sống vào thời kỳ gần với thời đại của đấng Christ. Phải chăng các vị ấy đã biết và truyền bá những phần giáo lý bí truyền có từ nghìn xưa, mà đấng Christ chỉ dạy riêng cho 12 vị tông đồ thân tín của Ngài mà thôi?
Theo ông Lammers, thì đức giám mục Mercier tuy không tin tưởng nơi thuyết Luân hồi, nhưng đã tuyên bố rằng thuyết ấy không trái với những giáo điều căn bản của đạo Gia Tô.
Những điều kể trên đã giải tán bớt những nỗi thắc mắc băn khoăn của ông Cayce, vì ông đã tưởng rằng ông dùng những quyền năng lạ lùng của mình một cách trái Đạo, tức là tương phản với tôn giáo gốc của ông. Ngoài ra, ông cũng còn có một vài điểm thắc mắc nghi ngờ về quyền năng của mình, nhưng điều này lại có một tánh cách khoa học. Một thí dụ: Làm sao giải thích sự gia tăng dân số lớn lao trên thế giới hiện nay nếu người ta chấp nhận rằng tất cả những linh hồn đều đã có sống trên mặt đất? Vậy thì số sai biệt phụ trội đó ở đâu mà rả Tất cả gia đình ông Cayce, cùng ông Lammers, các cô bí thư Gladys Davis và Linden Shroyer đều thường họp mặt trong phòng khách để thảo luận về những vấn đề ấy.Khi tất cả mọi người đều cạn ý kiến, thì người ta mới nhớ đến sự khán nghiệm bằng năng khiếu Thần Nhãn của ông Cayce để tìm ra sự giải đáp; và khi những cuộc khán nghiệm đó có những điều đáng ngờ vực, thì họ tham khảo tài liệu ở các sách báo trong thư viện quốc gia.
Nói về vấn đề gia tăng dân số trên thế giới, thì tìm ra câu giải đáp cũng không phải là một điều khó. Một người trong nhóm nói rằng dầu sao, chúng ta có chắc rằng quả thật có sự gia tăng dân số hay không? Những cuộc khán nghiệm đã qua có nói về những nền văn minh cổ xưa ở Ai Cập, và ở châu Atlantide nay đã biệt tích. Ở Cao Miên, Mễ Tây Cơ, Ai Cập và ở các xứ Đông Phương, những tàn tích khảo cổ đã xác nhận rằng những nền văn minh lớn cổ xưa đã từng xuất hiện trên những vùng lãnh thổ rộng lớn, mà ngày nay chỉ còn là những bãi sa mạc. Như thế người ta có thể quan niệm được rằng ở vào những thời kỳ khác nhau trong lịch sở, có những lúc mà dân số trồi sụt không đồng đều, nhưng vẫn không hề thay đổi linh hồn trong vũ trụ.Có thể rằng hằng triệu linh hồn vẫn phảng phất trên các cõi vô hình trong những thời kỳ mà hoàn cảnh không thuận tiện cho họ đầu thai xuống cõi trần.
Tuy ông Cayce vẫn có óc hoài nghi, nhưng ông đã hài lòng về câu giải đáp hữu lý trên đây. Nhưng còn châu Atlantide cũng lại là một vấn đề nan giải khác nữa. Làm sao chúng ta có thể biết rằng châu Atlantide là có thật? Hay đó chỉ là chuyện hoang đường? Những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Cayce đã đưa ra câu giải đáp cho vấn đề ấy một cách tường tận tỉ mì và với rất nhiều chi tiết:
Nhà triết học Platon là người đầu tiên ở phương Tây đã tường thuật sự hiện diện của châu Atlantide, nay đã chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương. Và mặc dầu quần chúng ngày nay không chý ý đến, nhưng những nhà địa chất học cũng đã từng quan tâm về vấn đề này. Họ vẫn không đồng ý với nhau, người thì phủ nhận, kẻ thì quả quyết sự hiện diện của châu Atlantidẹ Dầu sao có một số lớn sách vở của những tác giả uyên bác đã nói đến vấn đề này và đã đưa ra rất nhiều bằng chứng lịch sử, văn hóa và khoa học, bổ trợ lẫn cho nhau. Ông Cayce đã đọc một quyển nhan đề "Châu Atlantide, một thế giới của thời kỳ tiền sử" của tác giả Ignatius Donnelly, và rất ngạc nhiên mà nhận thấy rằng nhữõng cuộc khán nghiệm của ông đã diễn tả đúng y như những bằng chứng căn bản nêu trong quyển sách ấy.
Những cuộc thảo luận và khảo cứu tài liệu ở các sách vở về lịch sử, khoa học, tôn giáo, đạo lý cổ truyền, về châu Atlantide và về khía cạnh tâm lý của khoa thôi miên, là những vấn đề đã được nêu ra trong các cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn, đã giúp cho ông Cayce có được một tầm kiến thức rộng rãi về văn hóa và lịch sử mà ông vẫn thiếu sót. Lần lần, ông bớt sợ hãi và thắc mắc về những điều mà ông thốt ra trong giấc ngủ thôi miên, ông cảm thấy rằng những điều ấy có thể chứa đựng một phần nào sự thật. Với một sự tọc mạch xen lẫn với một khối óc phê bình, ông bắt đầu phân tách những cuộc khán nghiệm để kiểm soát cho nó được hoàn toàn đúng đắn. Trước hết ông nhận thấy rằng những cuộc khán nghiệm ấy đều có mạch lạc và liên đới lẫn nhau. Không bao giờ một cuộc khán nghiệm này lại tương phản với một cuộc khán nghiệm khác, dầu là cách nhau bao xa cũng vậy. Bởi đó, một người có thể được khán nghiệm một lần thứ nhì, nhiều tháng hoặc nhiều năm sau lần thứ nhất: Những tài liệu đều ăn khớp với nhau và nối tiếp theo nhau một cách đúng đắn, chẳng khác nào như người ta lật một quyển sách ở chỗ trang đã được làm dấu saün, để đọc tiếp theo đoạn sách đã bỏ dở kỳ trước. Phần nhiều những cuộc soi kiếp đưa ra những tài liệu tổng quát về những thời kỳ cổ xưa, như ở Ai Cập và châu Atlantide.
Khi người ta đem đối chiếu những cuộc soi kiếp đó với nhau, thì thấy rằng những chi tiết rời rạc và thiếu sót đã bỏ khuyết lẫn nhau và trở nên hoàn bị hơn: Mỗi cuộc soi kiếp lập lại một phần những gì đã được nói ra trong một lần trước, hoặc thêm vào một chi tiết mới cho toàn thể câu chuyện.

Không cuộc soi kiếp đều hòa hợp lẫn nhau, mà còn xác nhận lẫn nhau trên nhiều điểm về những sự việc được ghi chép trong lịch sử, dầu đó là những sự việc bí ẩn tối tăm, thuộc về phần ngoại sử. Thí dụ: Một trong những cuộc soi kiếp nói rằng một người nọ, trong một tiền kiếp, đã từng làm một người "Phóng ghế." Ông Cayce không hề biết "Phóng ghế" nghĩa là gì, và khi tra cứu tự điển, ông mới thấy rằng danh từ đó ám chỉ một phong tục cổ xưa của dân miền Bắc Mỹ: Người ta trói những mụ phù thủy trên những chiếc ghế đẩu và cầm chân ghế chổng ngược để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh.
Một thí dụ khác: Trong cuộc soi kiếp cho một người thanh niên, ông Cayce nói rằng trong một kiếp trước, y đã sống ở bên Pháp, tại đây y gặp gỡ và làm bạn với nhà bác học Mỹ Robert Fulton và đã giúp đỡ người này trong sự thực hiện một vài phát minh khoa học. Ông Cayce biết rõ Robert Fulton nhưng ông không tin rằng ông này đã sống ở nước ngoài, ngoại trừ nước Mỹ. Sau khi tra cứu một quyển tự điển về tiểu sử các nhân vật ông mới biết rằng ông Fulton đã có ở bên Pháp nhiều năm, và đã được nhiều người quen biết giúp đỡ và khuyến khích trong nghành hoạt động của ông.
Ngoài ra những sự xác nhận lịch sử lạ lùng nói trên về những tiền kiếp, còn có rất nhiều bằng chứng khác về kiếp hiện tại. Ông Cayce biết rằng những sự phân tách tâm lý trong những cuộc soi kiếp của ông đều đúng, không những đối với ông và những người trong gia đình, mà cũng đúng đối với những người hoàn toàn xa lạ. Trong những cuộc soi kiếp cũng như trong những cuộc khán bịnh, dầu cho đương sự có quen biết hay không đối với ông Cayce, điều đó không có quan hệ gì cả. Họ ció thể là những người hoàn toàn xa lạ hoặc ở bất cứ nơi nào trên thế giới: Nếu ông có được đầy đủ tên họ, ngày sinh và nơi sinh của những người ấy, ông có thể diễn tả một cách đúng đắn những hoàn cảnh hiện tại cùng những điều bí ẩn trong tâm tính của họ. Ông cũng nói luôn cả những đức tính, khả năng cùng những khuyết điểm của họ, và truy nguyên ra tất cả những điều đó ở các tiền kiếp.
Những cuộc soi kiếp cũng đúng dưới một khía cạnh khác. Ông Cayce đã có thể kiểm điểm lại những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lô về tánh chất và khả năng nghề nghiệp tương lai của những đứa trẻ con: Một cuộc soi kiếp ngày sinh của một đứa trẻ tai. Norfolk cho biết rằng sau này nó sẽ là một đứa trẻ bướng bỉnh, cứng đầu và khó dạy. Khi nó lớn lên, những tính nết đó càng ngày càng biểu lộ một cách rõ rệt, và cha mẹ nó cũng không thể làm cách nào để sửa đổi được.
Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 18:02, 04/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ
Trong trường hợp lý thú hơn nữa là của một đứa trẻ khác mà cuộc soi kiếp cho biết rằng về sau y có thể trở nên một y sĩ có tài. Những thói xấu mà cuộc soi kiếp trước cũng đã bắt đầu biểu lộ sớm, cùng một lượt với sự thích thú đặc biệt về nghành y học. Vào năm tám tuổi, y đã bắt đầu mổ xác những con thú đã chết để xem cơ thể bên trong con thú như thế nào. Chưa đầy mười tuổi, y đã xem một cách say mê những bộ sách tự điển Y Khoa, và năm mười hai tuổi, y cho cha mẹ biết rằng y có ý muốn sẽ vào trường Đại Học John Hopkins để theo nghành Y khoa. Cha của đứa trẻ là một nhà kinh doanh thương mại ở New York; mẹ y là một nữ tài tử. Lúc đầu, cha mẹ y đều phản đối ý định học Y khoa của y và khuyên hãy bỏ ý định ấy. Nhưng đứa trẻ cương quyết giữ lập trường và sau cùng đã thắng mọi trở lực. Hiện nay y đang học lớp dự bị về khoa Lý Hóa Sinh tai. một trường Đại Học lớn ở miền đông Hoa Kỳ. Trường hợp này chứng tỏ một lần nữa về năng khiếu Thần Nhãn thật sự của ông Cayce, vì ông đã nhìn thấy kiếp trước của đứa trẻ và chắc chắn rằng những khả năng đặc biết của y sẽ biểu lộ ra ở kiếp này.
Những thí dụ kể trên chỉ rằng những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một giá trị rất lớn về sự tiên đoán tương lai, không những của trẻ sơ sinh mà cũng của những người lớn. Một cô điện tín viên ở nhà Bưu điện thành phố New York lấy làm vô cùng ngạc nhiên về những bức điện tín lạ lùng mà cô đã đánh đi nhiều lần về Virginia Beach. Cô ấy mới hỏi thăm về ông Cayce và quyết định yêu cầu ông soi kiếp cho cộ Nhờ đó, cô biết rằng cô sẽ theo đuổi nghề nghiệp điện tín viên, và tốt hơn cô nên học về nghành vẽ quảng cáo, vì trong nhiều kiếp trước, cô đã là một nghệ sĩ có tài về nghành này. Cô ấy không hề có ý nghĩ theo đuổi một nghệ thuật nào, dầu là kỹ nghệ họa hay bất cứ nghành nào khác, nhưng cô ấy có đủ can đảm để học thử và xin ghi tên học ở một trường nọ. Cô lấy làm vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng cô có năng khiếu và đã thành công rất mau chóng với nghành kỹ nghệ họa, đồng thời cô cũng được cải tiến rất nhiều về nhân cách của mình.
Với thời gian trôi qua, ông Cayce càng nhận thấy rằng những cuộc soi kiếp của ông đã giúp ích cho rất nhiều người. Ông càng vững đức tin hơn trước, khi thấy rằng công việc của ông làm là chánh đáng vì nó gây nên những kết quả tốt đẹp. Có nhiều người được hướng dẫn theo những nghề nghiệp thích hợp với họ; những người khác nhận được những lời chỉ giáo san bằng mọi sự khó khăn trong đời sống gia đình; những người khác nữa đã tìm cách tự biết mình và tập hòa mình một cách thích nghi với đời sống xã hội.
Những điều kể trên đã lần lần thuyết phục ông Cayce về tánh cách chân thật và xác đáng của những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn cũng như của sự giải thích mà nó đưa ra về định mệnh của con người. Nhưng điều nó làm cho ông tin tưởng hơn hết là cái tinh thần Gia Tô giáo thâm sâu, tiềm tàng trong những điều mà cuộc soi kiếp đã tiết lộ cho ông biết; và hơn nữa, cái tinh thần Gia Tô giáo đó lại được đưa ra một cách dễ dàng và thích nghi trong khuôn khổ của thuyết Luân Hồi.
Một cuộc soi kiếp ít khi nào mà không nêu ra một đoạn sách trong Thánh Kinh hay một điều giảng dạy của đấng Christ. Những câu dẫn chứng thông thường nhất là những lời dạy của đấng Christ như sau: "Ngươi gặt hái những gì ngươi đã gieo" và "Hãy làm cho kẻ khác những gì ngươi muốn kẻ khác làm cho ngươi." Đôi khi đó là những câu chú thích theo đúng nguyên văn hoặc phác họa thêm ít nhiều tư tưởng theo nguyên văn, chẳng hạn như:
"Ngươi chớ lầm lạc: Không ai có thể kiêu ngạo Chúa Trời! Vì ai gieo giống nào sẽ gặt giống nấy." Và: "Con người luôn luôn là cái hậu quả của chính mình. Ngươi hãy làm điều lành cho những kẻ đã phỉ báng nhục mạ ngươi, rồi ngươi sẽ cứu chuộc được những điều tội lỗi mà chính ngươi đã gây ra cho kẻ khác."
Những lời dẫn chứng kể trên là để răn dạy những người bị bịnh tật đau khổ, do hậu quả của những điều tội lỗi mà họ đã gây ra trong một kiếp trước.
Khi sự hứng khởi nồng nhiệt lúc ban đầu đã lắng dịu, thì nhóm người chung quanh ông Cayce mới bắt đầu đặt những câu hỏi về những điều đã tiết lộ trong các cuộc soi kiếp của chính họ. Trước hết họ muốn biết tại sao có một vài thời kỳ trong lịch sử luôn luôn tái diễn trở đi trở lại trong các cuộc soi kiếp. Nhiều người lại có chung một bối cảnh lịch sử giống như nhau; nói tóm lại, những điều diễn tả trong các cuộc soi kiếp hình như đều rập theo một khuôn khổ. Các cuộc soi kiếp thường nêu ra một loạt các thời kỳ sau đây: Thời đại Atlantide, Đế quốc La Mã, Thời kỳ Thánh Chiến (Croisades) và lúc khởi đấu thời kỳ khai mở thuộc địa ở Bắc Mỹ. Một loạt khác gồm có: Châu Atlantide, Ai Cập, La Mã, nước Pháp thời Louis 14, 15 và 16, và Giặc Phân Ly (Secession) ở Hoa Kỳ. Lẽ tự nhiên, cũng có những trường hợp khác, gồm có Trung Hoa, Ấn Độ, Cao Miên, Pérou, Bắc Âu, Phi Châu, Trung Mỹ, Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bổn, và nhiều xứ khác; nhưng phần nhiều các cuộc soi kiếp đều noi theo một khuôn khổ lịch sử như nhau.
Theo ông Cayce, lý do của sự kiện trên là vì những linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử nhất định, về sau thường chuyển kiếp đầu thai chung một lượt ở một thời kỳ khác. Trong những thế kỷ ở khoảng giữa, thì những nhóm linh hồn khác lại chuyển kiếp xuống trần theo đúng phiên bản của họ. Sự thay phiên đầu thai từng nhóm một một cách có quy củ, trật tự như vậy cũng giống như sự thay phiên từng toán thợ làm việc trong một cơ xưởng. Bởi đó, phần nhiều những linh hồn đang sống trên thế gian hiện nay, đều đã cùng đầu thai với nhau một lượt ở những thời kỳ quá khứ trong lịch sử. Ngoài ra, những linh hồn có sự liên lạc gia đình, bè bạn hoặc đồng lý tưởng với nhau, có thể đã cùng có những nhân duyên với nhau trong những kiếp trước.
Một câu hỏi khác được nêu ra: "Những tài liệu đó do đâu mà có?" Câu trả lời là: Ông Cayce nằm trong giấc ngủ thôi miên, có thể thâu thập những tài liệu đó ở hai nơi. Một là trạng thái vô thức của người đang được soi kiếp. Trạng thái vô thức này giữ lại ký ức của tất cả những kinh nghiệm mà đương sự đã trải qua, không những trong kiếp này mà cũng gồm luôn những kinh nghiệm ở những kiếp trước. Những ký ức thuộc về kiếp trước được che khuất, ẩn tàng trong những chỗ thâm sâu kín đáo nhất của tiềm thức, ngoài vòng hiểu biết và thực nghiệm của khoa Tâm lý học hiện đại.
Ngoài ra, tiềm thức của một người là một lĩnh vực dễ thăm dò bằng tiềm thức của một người khác, hơn là bằng trạng thái ý thức, chẳng khác nào như một cảnh hỗn độn của một thành phố lớn, người ta có thể đi từ chỗ này đến chỗ kia bằng đường xe điện ngầm (metro) một cách dễ dàng mau chóng hơn là bằng những phương tiện khác ở trên mặt đất. Bởi lẽ đó, trong trạng thái thôi miên, linh hồn ông Cayce tiếp xúc với linh hồn đương sự một cách trực tiếp bằng tiềm thức. Sự giải thích này có thể được chấp nhận một cách dễ dàng; nó phù hợp, ít nhất là một phần nào, với những sự phát minh của khoa phân giải tâm lý (psychanalyse) về cuộc đời và trạng thái vô thức.
Nhưng còn cái nguồn gốc thứ hai đã giúp tài liệu cho ông Cayce, thì dường như rất lạ lùng. Những cuộc soi kiếp gọi đó là những " ký ức của không gian" (Clichés Akashiques). Như thường lệ, mỗi khi nói đến một danh từ lạ và khó hiểu, ông Cayce đánh vần từng chữ trong giấc thôi miên của ông: Akasha: Danh từ; Akashique: Tĩnh từ. Nói tóm tắt, ông Cayce giải thích danh từ ấy như sau:
Akasha là danh từ Phạn nhữ (sanskrit) dùng để chỉ chất dĩ thái tinh hoa căn bản của Vũ Trụ. Chất ấy có cái tác dụng như một cái phim ảnh hay một cuốn phim chiếu bóng, trên đó được ghi nhận một cách rõ ràng không bao giờ mất những âm thanh, ánh sáng, cùng mọi hành vi, tư tưởng của con người và tất cả mọi sự gì ra trong vũ trụ kể từ thuở Vô Cực. Chính nhờ đó sự ghi nhận trong ký ức của không gian đó mà những bị có Thần Nhãn có thể nhìn thấy dĩ vãng như đọc một quyển sách phơi bày từng trang trước mặt họ, dầu cho những sự việc xảy ra đã cách xa hằng bao nhiêu thời gian trong quá khứ. Chất Akasha cò thể được coi như một cái máy chụp ảnh vĩ đại của Vũ Trụ. Cái khả năng thấy ký ức của Thiên Nhiên trên chất Akasha đó vốn tiềm tàng ở mọi người trong chúng ta: Nó tùy nơi mực độ nhậy cảm của mỗi người, và tùy nơi chúng ta có thể đặt mình vào một trạng thái thụ cảm thích nghi, cũng ví như khi chúng ta bắt đúng luồn sóng vô tuyến trên máy thu thanh để nghe âm nhạc vậy. Trong khi thức tỉnh, ông Cayce không có thể đặt mình vào trạng thái thụ cảm thích nghi, để "Bắt đúng luồn sóng" như đã kể trên, nhưng trái lại trong giấc ngủ thôi miên ông có thể làm được điều ấy.
Trong tất cả những điều bí ẩn mà ông Cayce đã thốt ra trong giấc thôi miên, thì đó là điều mà ông cho là lạ lùng nhất. Tuy thế, đáp lại những câu hỏi hoài nghi về vấn đề này, ông đều luôn luôn trả lời như nhau, có khi thì dùng những danh từ giống nhau, có khi thì thêm vào những chi tiết phụ thuộc. Có nhiều khi, ông nói thêm rằng những sự ghi nhận trên chất Akasha cũng có thể gọi là "Ký ức của Vũ Trụ" hay "Quyển sách Thiên nhiên."

Ông Cayce cũng đưa ra những sự giải thích đã có từ nhiều thế kỷ trước về chất Akashạ Nền Triết học cổ Ấn Độ đã từng nói rằng căn bản của vật chất vốn hư không; vật chất là sự kết tinh của một sức mạnh gọi là sinh lực; và cũng nói về sự chuyển di tư tưởng bằng phương pháp Thần giao cách cảm: Và những điều này gần đây đã được khoa học Âu Tây xác nhận. Vậy tại sao chúng ta không có một thái độ cởi mở để chấp nhận ít nhất là tiềm năng của chất Akasha, cũng là một quan niệm khác của Triết học Ấn? Sự giải thích bằng trạng thái vô thức có thể chấp nhận được trong việc soi kiếp cho những người khác, nhưng làm sao giải thích hiện tượng này là ông Cayce đã nói rất nhiều chi tiết đầy đủ, nó tuôn tràn một cách dồi dào như suối chảy trong những cuộc khán nghiệm sưu tầm về những thời đại cổ xưa ở châu Atlantide, Ai Cập, và thời kỳ của đức Chúa Jesus?
Có thể nào ông đã góp nhặt tài liệu trong tiềm thức của những người đã từng sống vào những thời kỳ đó chăng? Mặc dầu họ không phải là những người đến nhờ ông soi kiếp? Hay ông Cayce đã khám phá ra những điều đó trong ký ức của Lịch Sử, được ẩn dấu tiềm tàng và giữ gìn nguyên vẹn trong những cõi vô hình huyền bí của Vũ Trụ? Sau cùng ông Cayce đã chấp nhận quan niệm về chất Akasha, không phải vì ông có một bằng chứng tuyệt đối về đều ấy, mà bởi vì nó đã được xác nhận trong những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn; và những cuộc khán nghiệm của ông về tất cả mọi vấn đề từ trước đến nay đều đúng đắn và hoàn toàn đáng tin cậy.
Có lẽ sự dùng Thần Nhãn để nhìn thấy những sự việc đã xảy ra trong quá khứ cũng có thể được giải thích bằng những cách khác; và cũng có lẽ trong tương lai, một nhà bác học hiện đại nào đó có thể chứng minh sự thật về chất Akasha, và điều này rốt cuộc cũng không phải bí mật lạ lùng gì hơn những hiện tượng đã có, chẳng hạn như luồng sóng vô tuyến, tánh chất phóng quang của chất radium, nguyên tử lực, hoặc trí nhớ của bộ Óc con người, và sự truyền cảm của bộ Thần kinh hệ. Dầu sao, những cuộc soi kiếp của ông Cayce và sự đúng đắn một lạ lùng của nó là một sự thật hiển nhiên. Trong khoảng 22 năm trường, bắt đầu từ năm 1923 trở đi là năm mà ông Cayce bắt đầu soi kiếp và khán bịnh bằng Thần Nhãn, cho đến năm 1945 là năm ông từ trần, ông đã soi kiếp cho tất cả độ 2.500 người. Cũng như những cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn, những cuộc soi kiếp đều được ghi chép trong các tập hồ sơ và được giữ gìn cẩn thận. Nhiều thơ từ văn kiện đã chứng minh cho sự đúng đắn của nhiều cuộc soi kiếp, mỗi khi có đủ bằng chứng xác nhận về sự đúng đắn của những điều đã tiết lộ. Những người nào muốn tìm biết sự thật về những điều này vẫn còn có thể chất vấn nhiều người hiện nay còn sống và đã từng được ông Cayce soi kiếp cho họ.
Như vậy, nếu chúng ta có thể tin tưởng nơi tánh cách chân thật của những tập hồ sơ văn kiện lạ lùng đó và sự giải đáp của nó về những bài toán bí hiểm của cuộc đời, thì ta đã có trong tay một số tài liệu khổng lồ và hiếm có về vấn đề này. Trước hết chúng ta có một số bằng chứng cụ thể hiển nhiên về luật Luân Hồi, là một nguyên tắc tiến hóa căn bản của con người. Và tất cả những yếu tố kể trên cũng chưa đủ để hoàn toàn thuyết phục chúng ta, thì ít nhứt nó cũng đáng để cho chúng ta chú ý vì mục đích khảo cứu và sưu tầm khoa học. Có biết bao nhiêu những cuộc phát minh lớn lao vĩ đại, lúc ban đầu cũng chỉ căn cứ trên những giải thuyết lạ lùng và khó tin. Khi người ta hỏi nhà bác học Einstein bằng cách nào ông ta đã phát minh ra thuyết Tương Đối luận, ông đáp:
- Tôi chỉ thử đặtt một nghi vấn về một định lý.
Ngoài ra, chúng ta còn có một số tài liệu rất dồi dào về tâm lý, y lý và triết lý, nó d8em đến cho ta một tầm kiến thức rộng rãi và khác hẳn về cuộc đời.
Trong khoảng hai mươi hai năm đó có biết bao nhiêu người đau khổ tuyệt vọng đã tìm đến ông Cayce và đã được ông săn sóc giúp đỡ do sự hiểu biết thâm sâu và năng khiếu Thần Nhãn của ông. Họ bị đủ thứ đau khổ bịnh tật về thể xác lẫn tinh thần, và tất cả đều muốn tìm sự giải đáp cho câu hỏi sau đây:
" Tại sao sự đau khổ này lại đến cho tôi?"
" Nguyên nhân vì đâu mà tôi bị sự đau khổ này?"
Không phải tất cả những trường hợp đó đều là nguy cấp hay tuyệt vọng. Có nhiều người xem ra thì những kiếp trước họ cũng tầm thường như kiếp này, vì không có gì đặc biệt. Nhưng, dầu cho sự đau khổ của họ nặng hay nhẹ, các cuộc soi kiếp đã chỉ cho thấy rằng cái thân phận và hoàn cảnh hiện thời của họ là cái kết tinh của bao nhiêu nhân và quả nối tiếp lẫn nhau như những cái khoen của một sợi dây xích và bắt đầu từ nhiều thế kỷ trước. Tất cả đều đã được chỉ cho thấy rằng những bịnh tật, thống khổ của họ bây giờ đều có nguyên nhân xa hay gần, do sự hành động của một định luật căn bản gọi là Luật Nhân Quả.
Những gì họ đã nghe và học hỏi đã làm cho họ thay đổi cuộc đời; sự hiểu biết thâm sâu về bài học Nhân Quả đã giúp cho họ một nguồn an ủi cùng tìm thấy sự thăng bằng và an tịnh của tâm hồn.
Nếu người ta chấp nhận tánh cách chân thật của những cuộc soi kiếp, người ta cũng phải nhìn nhận sự kiện này là nó đã làm đảo lộn trí óc và quan niệm của họ về cuộc đời. Tầm quan trọng của sự việv kể trên không phải là nó đem đến cho ta một giả thuyết mới: đó là một lý thuyết rất cổ xưa và đã từng là một điều tín ngưỡng của nhiều dân tộc rải rác ở nhiều miền lục địa trên quả địa cầu. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce có một tầm quan trọng vì hai điều này:
Điều thứ nhất: đây là lần đầu tiên ở Âu Mỹ mà người ta đã có được những bản phúc trình đúng đắn mạch lạc, rõ ràng và đáng tin cậy về những kiếp trước của một số nhiều người.
Điều thứ hai: đây là lần đầu tiên trong lịch xử thế giới, những bản phúc trình đó được ghi chép và sắp thành hồ sơ có ngăn nắp, trật tự, để cho mọi người có thể tra cứu, sưu tầm. Ngoài ra, những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã hợp nhứt triết lý Đông Tây càng thêm phần sinh sắc.Nhờ đó, chúng ta đã có một sự tổng hợp rất cần thiết giữa hai quan điểm triết học khác nhau của Đông Phương và Tây Phương.
Những cuộc soi kiếp bằng Thần Nhãn của ông Cayce cũng đã tổng hợp khoa học cà tôn giáo bằng cách chỉ cho ta thấy rằng cõi giới tinh thần được cai quản bởi những định luật Nhân Quả một các đúng đắn cũng y như cõi giới vật chất. Nó cho ta thấy rằng sự đau khổ của con người không phải là do một sự rủi ro tình cờ theo quan niệm duy vật, mà là do bởi những tư tưởng và cách hành động sai lầm trong quá khứ. Nó chỉ rằng những sự sai biệt và bất đồng giữa thân thế, hoàn cảnh và khả năng của người đời không phải là do ý muốn độc đoán của Thượng Đế hay là do ảnh hưởng mù quáng của sự di truyền, mà nó chỉ là cái kết quả của những hành động và cách xử thế của con người trong kiếp trước.
Mọi sự đắng cay, thất bại, buồn rầu đều có một ý nghĩa và mục đích giáo hóa chúng ta về đướng xử thế; những bệnh tật tai ương xảy đến cho ta đều có một nguyên nhân sâu xa về tinh thần. Và tất cả những sự quằn quại đau khổ đều là những bài học quý mà chúng ta thọ lãnh trên trường học lớn của thế gian, ngõ hầu trong tương lai nó sẽ đưa chúng ta đến cái mục đích Minh Triết và Toàn Thiện.

Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 18:48, 04/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ

Vài Loại Quả Báo Xác Thân


Những người tàn tật, đui què, câm điếc, những người bị các chứng nan y, đó là những thí dụ rõ rệt nhứt về sự đau khổ của người đời. Đứng trước những cảnh đau khổ đó, chúng ta cảm thấy một lòng trắc ẩn sâu xa và thấm thía. Khi mà một trong những cảnh khổ đó xảy đến cho ta, khi chúng ta gặp phải những cảnh ngộ đắng cay, trái ngược, chúng ta có lẽ đâm ra hoài nghi về lòng nhân từ bác ái của đấng Tạo Hóa. Có lẽ chúng ta sẽ tự hỏi: "Tại sao tôi bị sự đau khổ này? Và tại sao cảnh khổ này lại xảy đến cho tôi?"
Anh X... Là một người hiền lành và đức hạnh hơn người. Anh đã bị mất hết gia tài, sản nghiệp và tất cả mấy đứa con anh đều chết hết; anh chịu đựng những cảnh khổ đó một cách kiên nhẫn và không phàn nàn rên siết. Nhưng khi anh bị một chứng bịnh kỳ quái làm toàn thân anh đều nổi các mụt nhọt lở loét, ghê tởm, thì anh X... Bèn nguyền rủa Thượng Đế lần đầu tiên, và cũng lần đầu tiên, anh la lên trong cơn tuyệt vọng để tìm biết lý do những sự đau khổ đã xảy đến: "Ai có thể nói cho tôi biết, rồi tôi sẽ im lặng và an phận. Tôi đã gây nên những tội lỗi gì?"
Nói rằng nguyên nhân sự đau khổ là do bởi những hành động sai lầm, tội lỗi gây ra, thì người thời nay thường cho đó là một điều dị đoan, di sản của những tôn giáo cổ xưa đã lỗi thời. Ít người chịu suy nghĩ và nhìn nhận điều đó. Tuy vậy, theo những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì tội lỗi và đau khổ đi liền với nhau như bóng với hình, và giữa Nhân với Quả vốn có một sự liên quan chắt chẽ.
Để hiểu rõ cái quan niệm trên, nó làm nền tảng cho những cuộc soi kiếp của ông Cayce, ta cần hiểu ý nghĩa của danh từ Karma, là danh từ duy nhất giải thích ý nghĩa về vấn đề Nhân Quả. Karma là một danh từ Phạn ngữ, có nghĩa là hành động. Nhưng theo ý nghĩa về triết học, thì nó định nghĩa Luật Nhân Quả, là một định luật cai quản và chi phối mọi hình thức sinh hoạt trong Trời Đất. Ông Emerson là người đã từng hấp thụ và tin tưởng nền Triết học Ấn Độ, gọi đó là Luật Thừa Trừ. Đấng Christ cũng đã nói về luật ấy một cách gọn gàng giản dị trong câu: "Ngươi sẽ gặt những gì ngươi đã gieo." Định lý khoa học của Newton nói rằng: "Mỗi hành động đều gây nên một phản ứng tương đương và ngược chiều," áp dụng trên cả hai phương diện vật chất lẫn tinh thần.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce làm cho người ta thích thú say mê vì nó khám phá ra tận nguồn gốc của những bịnh tật đau khổ trong kiếp hiện tại, truy nguyên ra từ những hành động ở những kiếp quá khứ, và làm sáng tỏ một cách rõ ràng cái quan niệm trừu tượng về Nhân Quả. Một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những trường hợp đã khán nghiệm co biết rằng có nhiều loại quả báo khác nhau. Một trong những loại đó có thể gọi là "Quả Báo Dội Ngược," nghĩa là một hành động gây tổn thương cho kẻ khác, kết quả sẽ dội ngược trở về bản thân của đương sự.
Trong những tập hồ sơ của ông Cayce, có nhiều thí dụ về loại quả báo này, mà một trường hợp được kể ra như sau:
Một vị giáo sư dạy nhạc, lúc mới sinh ra đã bị mù mắt, có nghe nói về ông Cayce trong một chương trình phát thanh "Những Sự Mầu Nhiệm." Ông bèn đến nhờ ông Cayce khán bịnh và sau một thời gian chạy chữa theo sự chỉ dẫn của ông Cayce, ông ta cảm thấy khá nhiều. Ba tháng sau, ông đã thuyên giảm được 10 phần trăm về con mắt bên trái, mà các nhà chuyên môn về bịnh đau mắt cho là đã hoàn toàn hỏng. Kế đó, một cuộc soi kiếp cho thấy rõ ràng tất cả bốn tiền kiếp của ông ta: Kiếp thứ nhất ở Bắc Mỹ hồi thời kỳ Chiến tranh Phân Ly (Secession); kiếp thứ nhì ở Pháp hồi thời kỳ Giặc Thánh Chiến (Croisades); kiếp thứ ba ở Ba Tư vào khoảng 1.000 năm trước Tây lịch; và kiếp thứ tư ở Châu Atlantide trước khi xảy ra cuộc Đại Hồng Thủy. Chính trong kiếp thứ ba ở Ba Tư, ông ta đã gây nên cái nhân ác nó báo ứng bằng sự mù mắt của ông ta trong kiếp này. Hồi đó, ông ta có chân trong một bộ lạc dã man có tục lấy dùi sắt nhọn nung đỏ châm vào mắt những tù binh, và chính ông ta là đao phủ quân hành tội các tù nhân bằng cách đó.
Một thí dụ thứ hai đáng được ghi nhớ là trường hợp của một thiếu nữ làm nghề sửa móng tay, bị chứng liệt bại cả hai chân từ khi mới lên một tuổi. Cô này không thể đi đứng gì được, nếu cô không dùng nạng chống và những dụng cụ nối xương nhân tạo. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng nguyên nhân của bịnh trạng cô bây giờ là do một tiền kiếp ở Châu Atlantidẹ Trong kiếp đó, cô đã dùng những phép thuật tà đạo để làm cho kẻ khác bị yếu mềm cả tay chân, trở nên bất lực và chịu để cho cô sai khiến. Bởi vậy trong kiếp này cô phải chịu quả báo về sự tổn thương mà cô đã gây ra cho kẻ khác. (Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce thường dùng chữ "Linh hồn" để chỉ đương sự, vì con người vốn là một linh hồn bất tử đầu thai từ kiếp này sang kiếp khác để học hỏi những bài học kinh nghiệm cần thiết trên đường tiến hóa đưa đến mức Toàn Thiện.)
Một thí dụ thứ ba về quả báo dội ngược được kể ra như sau:
Một người đàn bà 40 tuổi từ lúc nhỏ bị một chứng bịnh kỳ lạ. Mỗi khi cô ăn một vài thức ăn như bánh mì, hoặc chất ngũ cốc, thì bị nhảy mũi dữ dội như bị chứng sổ mũi hoặc cảm cúm. Khi cô dùng đến một vài thứ đồ vật dụng, nhất là đồ bằng da hay bằng chất nhựa (plastique, ) thì lại cảm thấy đau nhói dữ dội ở bên hông trái. Cô đã đi khám bịnh với nhiều bác sĩ, nhưng không có kết quả, và cho biết rằng cô chỉ thấy bớt trong những cuộc chữa bịnh bằng thôi miên lúc 25 tuổi. Sự thuyên giảm đó kéo dài được sáu năm, nhưng triệu chứng cũ lại tái phát. Cô đến nhờ ông Cayce chữa bịnh. Cuộc soi kiếp tiết lộ rằng:
"Trong một tiền kiếp, linh hồn này làm nghề bào chế sư, y đã dùng nhiều chất hóa học để gây tổn thương cho kẻ khác. Bởi đó y bị hành xác bằng những chất hóa học trong kiếp này. Linh hồn này cũng đã dùng một vài chất độc để làm cho kẻ khác bị nghẹt thở, bởi đó ngày nay ông bị nhiễm độc bởi một vài chất kim khí, chất nhựa, và đồ da thuộc bằng chất hóa học... "
Một loại quả báo thứ nhì trên địa hạt vật chất có thể được gọi là quả báo về xác thân, theo đó sự lạm dụng cơ thể trong một kiếp sẽ gây nên quả báo thích nghi trong một kiếp sau. Đây là một ví dụ:
Một người đàn ông 35 tuổi, từ thuở nhỏ đã bị chứng đau ruột và bộ máy tiêu hóa. Y phải ăn uống kiêng cữ gắt gao và chỉ dùng được một vài thức ăn giản dị mà thôi, và mặc dầu như thế, y cũng tiêu hóa các bữa ăn của y một cách khó khăn, sau nhiều giờ vất vả và mệt nhọc. Chứng bịnh này gây cho y rất nhiều điều bất tiện, và gây trở ngại không ít trong đời sống ngoài xã hội. Cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết nguyên nhân của bịnh trạng này là trong một tiền kiếp dưới trào vua Louis 13 bên Pháp, y làm chức hầu cận của nhà vuạ Y thừa hành chức vụ một cách tận tâm và chu đáo, nhưng y có tật tham ăn và ăn uống quá độ. Trong một kiếp trước nữa, khi y làm nghề y sĩ dưới triều vua nước Ba Tư, y cũng ăn uống vô tiết độ. Như thế trong hai kiếp, y đã phạm cái lỗi về tâm lý là lạm dụng sự ăn uống để tìm khoái lạc của nhục thể. Điều này làm đảo lộn sự quân bình trong trạng thái tâm lý của y, và phải được thừa trừ bằng một cách nào đó trong kiếp hiện tại. Quả báo về xác thân làm cho y bị đau bộ máy tiêu hóa, và bắt buộc y phải hạn chế ăn uống trong kiếp này.
Một loại quả báo thứ ba về thân xác mà người ta thường thấy trong nhũng cuộc soi kiếp của ông Cayce, có thể gọi là "Quả báo Tượng Trưng." Đây là một loại quả báo rất lạ kỳ và thú vị nhứt trong các loại quả báo về thể xác. Một trường hợp của loại quả báo này được kể ra như sau:
Ông Cayce có soi kiếp cho một người thanh niên bị bịnh thiếu máu từ thuở nhỏ. Y là con của một vị bác sĩ, bởi đó y đã được săn sóc thuốc thang và chạy chữa đủ cách, nhưng vẫn vô hiệu quả. Một chứng bịnh nan y như thế hẳn là phải có một nguyên nhân rất sâu xạ Cuộc soi kiếp cho biết rằng trong một tiền kiếp ở xứ Perou, đã năm kiếp về trước, linh hồn này làm tướng đem quân chiếm đoạt xứ ấy một cách bạo tàn. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói: "Cuộc chiến tranh đó đã làm cho bao nhiêu đầu rơi máu chảy, gây nên một thảm họa lưu huyết rất lớn. Bởi đó trong kiếp hiện tại của linh hồn nầy, y bị bịnh mất máu, không sao chạy chữa."
Chúng ta sẽ hiểu rõ ý nghĩa câu này hơn, nếu chúng ta so sánh với trường hợp quả báo vềt thể xác, vì tội lỗi của người này không phải do sự lạm dụng một bộ phạm nào trong cơ thể của ỵ Đây cũng không phải là một trường hợp "Quả báo dội ngược," vì nếu như thế thì người thanh niên này có lẽ đã là nạn nhân của một cuộc tàn sát hung bạo, chẳng hạn như y có thể là một người lính Ba Lan bị quân Đức Quốc Xã của Hitler sát hại.
Trái lại, ở đây chúng ta thấy nghiệp báo ứng vào chính thể xác của y: Nó trở thành một vật khí dụng cho y dùng để trả quả. Bịnh mất máu làm cho cơ thể yếu đuối suy nhược suốt một đời, chính là một cơ hội trả quả nặng nề đau đớn hơn và có một ý nghĩa giáo dục rộng rãi hơn là một cái chết vì đao kiếm trên bãi chiến trường. Linh hồn này đã làm đổ máu cả một dân tộc để làm thỏa mãn tham vọng chinh phục đất đai. Trong kiếp này sự yếu đuối bất lực so bịnh thiếu máu gây nên làm cho y chịu quả báo một cách tượng trưng.
Điều này có vẻ hình như hoang đường, nếu chúng ta không quen với những quan niệm thuộc về loại đó, qua sự phát minh gần đây về những sự tương quan giữa linh hồn và thể xác theo khoa Tâm Bịnh Học (Psychosomatique).
Trước đây không lâu, người ta vẫn tưởng rằng tất cả mọi chứng bịnh đều so những nguyên nhân về sinh lý. Những sự tiến bộ của khoa chữa bịnh tinh thần (Psychiatrie) đã chỉ rằng ít nhất có vài bịnh trạng nguyên nhân là do bởi những sự xáo trộn tinh thần hoặc xúc động tình cảm gây nên. Từ sự khám phá này mới nảy sinh một ngành Y học mới, gọi là khoa Tâm bịnh học (Psychosomatique, do hai danh từ Hy Lạp: Psyche là linh hồn, và soma là xác thể), khoa này cũng đạt được những kết quả hiển nhiên và không thể chối cãi về sự liên quan giữa xác thể và linh hồn.
Khoa Tâm bịnh học đã chứng minh rằng những sự căng thẳng về tình cảm nếu không biểu lộ được bằng lời nói hay hành động, thường tự biểu lộ nơi thể xác một cách tượng trưng bởi một thứ "Tiếng nói của cơ thể."
Thí dụ: Nếu người bịnh không nuốt được một cách trôi chảy trong bữa ăn mà người ta không tìm thấy có một nguyên nhân nào thuộc về cơ thể, thì đó có thể là một cái gì trong đời của bịnh nhân mà y "Không thể nuốt được." Sự buồn mửa, nếu không phải là do bịnh tật của cơ thể sinh ra, có nghĩa là người bịnh còn mang trong lòng một cái hận nào đó trong đời sống tình cảm của y.
Dường như có một sự tương quan chặt chẽ giữa "Tiếng nói của cơ thể" theo khoa Tâm bịnh học, và điều mà người ta gọi là "Quả báo tượng trưng." Trong các trường hợp sau này, dường như đương sự có một ý thức sâu xa thâm trầm về tội lỗi của mình, và cái ý thức đó biểu lộ ra nơi một bộ phận trong cơ thể. Sự chọn lựa một bộ phận nào sẽ tùy nơi cái ý nghĩa tượng trưng của bộ phận ấy. Dưới đây là một vài thí dụ điển hình trong số rất nhiều trường hợp quả báo tượng trưng mà người ta tìm thấy trong các tập hồ sơ của ông Cayce.
Một người bị chứng bệnh suyễn kinh niên, trong lúc soi kiếp được nghe ông Cayce nói rằng: "Anh đã từng đè nén, áp bức kẻ khác, lẽ tự nhiên, nhân quả báo ứng, có lúc anh phải cảm thấy nghẹn ngào khó thở, cũng như chính anh bị kẻ khác đè nén và áp bức vậy."
Một người điếc bị cảnh báo rằng: "Như vậy anh đừng bịt lỗ tai làm ngơ trước sự đau khổ của những người cầu xin anh giúp đỡ." Cuộc soi kiếp cho biết người điếc này là một người dòng sang, quý tộc dưới thời Cách Mạng Pháp, nhưng thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những tiếng kêu rên siết và những cảnh lầm than khốn khổ của người đương thời.
Một người bị chứng bịnh lao trong tủy xương sống, được biết cho rằng: "Linh hồn này đã từng gây chướng ngại khó khăn cho kẻ khác. Nên bây giờ y phải chịu những khó khăn chướng ngại đó trong thân thể của ỵ"
Một người bị chứng bịnh rút gân, làm cho hai chân y bị teo bắp thịt, càng ngày càng nhỏ dần, được cho biết rằng: "Đây không phải là bịnh rút gân và teo bắp thịt mà thôi đâu; đó là hậu quả của những gì maà anh đã làm cho kẻ khác trong những kiếp trước."

Trường hợp lạ lùng nhất về quả báo tượng trưng trong các tập hồ sơ Cayce là trườnghợp của một trẻ em mười một tuổi có tật Đới dầm từ khi mới lên hai tuổi. Trường hợp này được kể ra một cách đầy đủ chi tiết hơn, vì tánh cách đặc biệt của sự điều trị cho em bé ấy.
Người thiếu niên này hồi nhỏ rất hiền lành, được cha mẹ y nuôi nấng dễ dàng cho đến khi người mẹ sinh thêm một đứa em gái nhỏ: Từ khi đó, y bắt đầu Đới dầm trên giường trong giấc ngủ. Y Đới dầm như vậy đều đều mỗi đêm. Cha mẹ y nghĩ rằng có lẽ y cảm thấy bị bỏ rơi khi người mẹ sinh thêm một em nhỏ nữa, nên tiềm thức của y khiến cho y tái diễn thói quen của tuổi sơ sinh để làm cha mẹ y phải chú ý và săn sóc y như thuở ban đầu. Cha mẹ y bèn hết sức cố gắng để tỏ cho y biết rằng tình thương của cha mẹ vẫn không thay đổi vì đứa em gái nhỏ mới sinh, và y vẫn được thương yêu săn sóc như trước, nhưng vẫn không có kết quả.
Khi đứa trẻ lên ba tuổi, cha mẹ y bèn nhờ một vị bác sĩ chuyên môn về bịnh thần kinh chạy chữa cho ỵ Sau một năm thuốt thang điều trị, y vẫn không thuyên giảm chút nào, và cha mẹ đành phải chịu vậy. Suốt năm năm trường, y vẫn tiếp tục Đới dầm mỗi đêm. Cha mẹ y chạy đủ thầy chuyên môn và thử đủ mọi cách điều trị chứng bịnh vẫn trơ trơ không sao chữa khỏi. Y vẫn Đới dầm lên cho đến năm tám tuổi. Một lần nữa cha mẹ y lại chạy chữa với một bác sĩ khác, và cuộc điều trị kéo dài suốt hai năm, nhưng vẫn không hiệu quả. Khi y lên mười tuổi, thấy rằng cuộc điều trị vẫn không ăn thua gì, cha mẹ y mới thôi và đành chịu phép. Khi y lên mười một tuổi, cha mẹ y nghe nói về thuật chữa bịnh của ông Caycẹ Người cha bèn yêu cầu ông Cayce khán bịnh về trường hợp kì lạ này của đứa trẻ. Ông Cayce bèn dùng Thần Nhãn để soi kiếp cho đứa trẻ thì thấy rằng trong kiếp trước, y là một người giáo sĩ đạo Gia Tô trong hồi xử án những kẻ theo tà giáo. Chức vụ của y là trị tội những mụ đồng bóng, phù thủy bằng cách trói họ trên những chiếu ghế đẩu, rồi cầm chân ghế chổng ngược đầu để nhận chìm họ xuống ao nước lạnh. Sau khi tìm ra cái lý do nhân quả nói trên, cuộc soi kiếp cho biết bịnh ấy có hy vọng chữa khỏi. Cha mẹ đứa trẻ được cho biết là hãy áp dụng phương pháp ám thị cho y trong giấc ngủ, và sự ám thị này phải thuộc về tinh thần chớ không phải về thể xác.
Vài hôm sau, khi về đến nhà, ban đêm người mê bèn đến ngồi cạnh giường con trai bà. Đợi đến lúc y đã ngủ mê, bà mới bắt đầu nói bằng một giọng trầm trầm và chậm rãi những lời này: "Con là một người hiền lành tốt bụng. Con sẽ làm cho nhiều người được sung sướng. Con sẽ giúp đỡ tất cả những người con gặp trên đường đời của con. Con rất hiền lương và tốt bụng." Bà lặp đi lặp lại nhiều lần câu ấy nhiều lần, và thay đổi với những danh từ khác nhâu, tuy rằng với bấy nhiêu ý tưởng đó trong chừng mười phút trở lại, trong khi con bà đang ngủ mệ Đêm đó, lần đầu tiên từ chín năm nay, đứa trẻ không Đới dầm như môi khị Trong nhiều tháng, bà mẹ vẫn theo đuổi phương pháp ámthị đó và cũng vẫn dùng bấy nhiêu lời tương tự. Đứa trẻ không Đới dầm một lần nào trong suốt mấy tháng đó. Lần lần, bà mẹ thấy rằng bà chỉ cần ám thị ba ngày một lần, rồi sau đó mỗi tuần một lần là đủ; và sau cùng, sự ám thị cũng không còn cần thiết nữa: Con bà đã hoàn toàn khỏi bịnh.
Trường hợp này có nhiều điểm lý thú. Trước hết là cuộc ám thị vừa áp dụng đầu tiên, đã làm dứt hẳn một chứng bịnh kinh niên trong chín năm. Và nếu người mẹ là một người đàn bà không có học thức và đức hạnh; thì có lẽ người ta cho rằng đó là chuyện nói thừa; nhưng bà là một nữ luật sư ở Tòa Án, bà không phải là một người tin nhảm hay dị đoan mê tín, và không có tâm địa bất lương.
Điểm thứ hai là trong sự ám thị đó, bà mẹ không hề bảo con là đừng Đới dầm. Sự ám thị đó không nhằm vào cái ý thức về vào cái ý thức tâm linh của người thiếu niên. Nói một cách khác, sự ám thị nhắm vào cái ý thức về sự tội lỗimà y đã làm trong kiếp trước, nó đã biểu lộ ra một cách tượng trưng trong thể xác của y do đường tiểu tiện, thận và bọng Đới. Kiếp trước y đã nhận người khác xuống ao nước lạnh, hoặc chịu trách nhiệm về cái hành động tàn ác đó; kiếp này, y cảm thấy trong chỗ kín đáo, u uẩn của tiềm thức, rằng y phải trả cái nghiệp ác đó, và cái quả báo đã ứng hiện vào xác thân của y một cách tượng trưng. Mặc dầu trong kiếp này, y không có làm hại ai, nhưng một lớp kín đáo trong tiềm thức làm cho y nghi ngờ về lòng tốt của mình, vì y còn mang nặng trong lòng cái kỷ niệm về sự trừng phạt nặng nề đau khổ mà y đã gây cho kẻ khác trong kiếp trước. Sự ám thị của bà mẹ đã thức động đến cái lớp kín đáo u uẩn đặc biệt đó, làm cho y hiểu rằng sự tội lỗi của y có thể xóa bỏ được bằng những hành động và cử chỉ hiền lương, tốt lành, và bởi đó, cái quả báo tượng trưng kia sẽ không còn là cần thiết nữa.
Từ đó người thiếu niên đã bắt đầu sống một cuộc đời mới. Y được mọi người thương mến, y là một người học trò tốt và tỏ ra có khả năng lãnh đạo. Tâm tình tánh chất của y đã thay đổi. Trong một cuộc giảo nghiệm về khả năng tại Viện Đào Tạo Nhân Cách Johnson Ó Connor, y đã được liệt vào hạng những người có triển vọngï thành công về sự giao tế ngoài xã hội. Người mẹ y cho rằng sự thay đổi cá tính của y một phần nhờ bởi sự điều trị thần kinh, và một phần nhờ bởi cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của ông Caycẹ Hiện nay, vào năm 18 tuổi, theo ý kiến của cha mẹ y, thì người thiếu niên có một đức tính căn bản là rộng rãi khoan dung đối với mọi người. Đối với thói hư tật xấu cua người đời, y đều tìm cách bào chữa và tìm ra một sự giải thích về tâm lý để khoan dung và tha thứ cho họ. Dường như tánh độc ác, khắc nghiệt của y trong kiếp trước, mà chứng bịnh Đới dầm là một hình phạt tượng trưng, đã được biến đổi thành một đức tánh khoan dung nhân hậu trong kiếp này. Nhờ đó cán cân nhân quả đã được lập lại sự cân bằng, và căn bịnh quả báo của y cũng đã dứt tuyệt.
Nếu chúng ta xét lại những trường hợp nhân quả báo ứng trên, chúng ta có thể thấy rõ một vài nguyên tắc hành động chung của Luật Nhân Quả. Trong những cuộc khán nghiệm và soi tiền kiếp của ông Cayce, ông đã chỉ cho ta thấy rằng mọi hành động trong quá khứ đều gây nên một nghiệp quả hiển nhiên và cụ thể trong hiện tại. Nhưng cái nghiệp quả đó không phải lúa nào cũng báo ứng một cách thật đúng khớp với cái nguyên nhân gây ra, cũng như vay nửa cân trả tám lạng. Thí dụ như trường hợp người nhạc sư bị mù mắt. Kiếp trước ông ta đã lấy dùi sắt nhọn nướng đỏ chọc vào mắt kẻ tù binh; nhưng kiếp này ông ta không có sinh vào làm dân của một bộ lạc dã man đến rồi đến phiên ông bị bắt làm tù binh của bộ lạc cừ địch tàn bạo, dùng dùi sắt nướng đỏ chọc vào mắt ông tạ Ông ta sinh ra đã bị mù lòa, và sinh trưởng trong một xã hội văn minh tân tiến của thế kỷ hai mươi. Những sự việc xảy ra trong kiếp này của ông ta không hoàn toàn đúng hẳn như trong kiếp trước.
Thí dụ trên và nhiều thí dụ khác cũng một loại, đã đưa chúng tôi đến cái kết luận chung như sau: "Luật Nhân Quả là một định luật tâm lý, nó hành động trước hết trên địa hạt tâm lý, những hoàn cảnh vật chất chỉ là một phương tiện để đạt tới cái mục đích tâm lý đó mà thôi. Bởi đó, sự báo ứng của nghiệp quả trên bình diện vật chất không hẳn phải là thật đúng khớp và ăn rập theo khuôn mẫu với cái nguyên nhân đã gây ra từ trước, mà chỉ là đúng một cách phỏng chừng. Trên bình diện tâm lý, nghiệp quả báo ứng mới thật đúng khớp hơn, và đầy đủ trọn vẹn hơn." Một nguyên tắc đại cương khác dường như căn cứ trên vấn đề khí cụ của nghiệp quả. Trong các tập hồ sơ Cayce, người ta không hề thấy có trường hợp nào mà sự đau khổ trong kiếp hiện tại lại gây ra bởi một nạn nhân cũ của đương sự trong kiếp trước, và đã gặp lại y trong kiếp này. Trong trường hợp của vị nhạc sư mù từ lúc mới sinh: Không có điều gì chỉ rằng cha mẹ Ông ta vốn là những nạn nhân cũ trong kiếp trước, nay đầu thai lại để hành phạt ông tạ Cô thiếu nữ làm nghề sửa móng tay bị bịnh liệt bại hai chân từ thuở nhỏ không phải là bị trả thù bởi những nạn nhân cũ của cô trước kia ở châu Atlantide.
Nói tóm lại, quả báo xảy đến thường là không phải do chính nạn nhân cũ của đương sự gây ra, mà có thể do những người khác, những người này chỉ là những khí cụ của nghiệp quả, cũng chẳng khác nào như những người tay sai đi đòi nợ, để cho y trả những món nợ cũ. Và những người "Tay sai" này cũng chỉ hành động một cách vô ý thức, chứ không hề biết gì cả về cái vai trò "Thiên Lôi" hay "Hung Thần" của mình, tức là cái vai trò làm khí cụ của nghiệp quả.

Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 18:51, 04/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ

Quả Báo Của Sự Chế Nhạo

Theo giáo lý Gia Tô, thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy điều tội lớn nhất của con người. Cũng như những tính điều khác trong đạo Gia Tô điều này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thật tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế diễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời dèm pha, chỉ trích, chê bai dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ mang đến cái quả báo dội ngược: Người chế nhạo sẽ bị một thứ bịnh tật, tai ương, đau khổ giống như của người bị y chế diễu! Những hồ sơ Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những hành động chế nhạo kể trên. Có điều hơi lạ, là sáu trường hợp trong số đó xảy ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tộ Về điểm này một lần nữa, chúng ta lại thấy những nhóm linh hồn thuộc về một thời kỳ lịch sử, tái sinh trở lại cõi trần đồng một lượt ở một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về bịnh bại liệt.
Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con; chồng bà ấy làm một nghề tự dọ Năm ba mươi sáu tuổi bà bị bại liệt cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được. Từ khi đó, bà vẫn ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người đỡ mỗi khi muốn cử động. Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bịnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời Đế Quốc La Mã. Hồi đóm bà là một người trong dòng dõi quý tộc của triều đại vua Néron và trực tiếp tham gia khủng bố những người theo đạo Gia Tộ Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này đã cười khi thấy những người bị hành hình trong vũ trường, và bây giời y phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!"
Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị bệnh bại liệt từ lúc sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bịnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được nhờ nuôi gà vịt kiếm lời. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế Chiến Thứ Nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này bị đau nặng và vừa khi khỏi bịnh xong thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc y trong nhà thương! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là đời sống cô độc ở quê, và một lần té ngã trên những bực thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: Người ta không thể tưởng một cuộc đời đau khổ hơn nữa! Nguyên nhân của bệnh trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp nói: "Linh hồn này thuộc về giòng dõi nhà vua Palatius, và thường đến vũ trường xem những cuộc đấu võ giữa hai tội nhân, hoặc giữa một tội nân với một thú dữ. Sự đau khổ hiện thời một phần lớn là vì bởi y đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yết đuối bất lực của những kẻ tù nhân bị thú dữ xé xác trong vũ trường!"
Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Cuộc soi kiếp cho biết: "Linh hồn này thuở xưa làm lính đao phủ quân của nhà vua, và đã cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ dấu sợ sệt hoặc những người bị ngã quị trong võ trường dưới ngọn đao hành tội của ỵ Y đã gây ác quả không phải vì y làm phận sự của người đao phủ, mà vì y đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, một xác thể tàn tật đem cho y cái kinh nghiệm cần thiết để làm thức động Chân Tánh và phát triển những sức mạnh tâm linh tiềm tàng của ỵ"
Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bịnh liệt bại. Một là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương háng. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bịnh trạng của cô được truy nguyên ra ở một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc giồngquý tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành đội người Gia Tô Giáo trong các vũ trường. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!
Đây là một trường hợp khác: Một thiếu nữ kia mới mười tám tuổi đáng lẽ ra có một vẻ đẹp quyến rũ, nếu cô không bị phát phì! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do bộ hạch óc làm việc quá độ. Cuộc khán bịnh bằng Thần Nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của hạch và phát phì của cô ta là một chứng bịnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mã, có tiếng về khoa điền kinh và vẻ đẹp cân đối của thân hình. Nhưng y hay chế nhạo những tay lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ.
Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mười mốt tuổi, theo đạo Gia Tộ Cha mẹ y muốn cho y sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng y thấy rằng nghề ấy không đúng với sở thích của ỵ Y bèn từ chối không chịu nghe theo. Tật xấu lớn nhất của y là tật đồng tình luyến ái (yêu bạn trai hay bạn gái cùng đồng một nam tính hay nữ tính với mình: Homosexualité). Y bèn yêu cầu ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong một tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp y là một họa sĩ chuyên môn về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút chì sắc sảo và linh động, y hay vẽ những cảnh tượng luyến ái giữa những người đồng tình với nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp luận như sau: "Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về cái tật nào, thì chính anh sẽ mắc phải cái tật đó!"
Trường hợp thứ tư là của một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho y bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn nói rằng y sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc y vẫn sống sót. Y hoàn toàn bại liệt cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó y không hề rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc y được 33 tuổi, 17 năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ y yêu cầu ông Cayce soi kiếp cho ỵ Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai tiền kiếp: Một kiếp hồi thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ, trong khi đó y phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu tú và can đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này y có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào lúc bắt đầu Tây lịch kỷ nguyên, y đã tạo ra cái nguyên nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó y là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy những sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Y đã từng đấu sức trong vũ trường, và về sau y nhìn xem những kẻ địch thủ của y đối chọi với các thú dữ. Y đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng y không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này y nhìn thấy sự đau khổ ở chính mình, và y cũng phải tập nhìn nó một cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn: Quả báo này có cái tác dụng sâu xa là nhờ sự đau khổ, y sẽ cảm thấy rằng sự tín ngưỡng tôn giáo mà y diễu cợt nhạo báng trước kia, nay đã đột khởi ở trong linh hồn y để bù lại những gì y đã tạo ở kiếp trước.
Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bịnh lao xương háng, một người phát phì, một người có tật đồng tính luyến ái, một người dập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bịnh di truyền. Trong mỗi trường hợp, bịnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm lên 36 tuổi. Trong một trường hợp, bịnh tật do tai nạn xe hơi gây nên, Dầu rằng thế nào, đằng sau cái nguyên nhân hiển hiện, còn ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Cái định mệnh lạ lùng nó đặt để rằng trong một tai nạn xe cộ, có người thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da, thường được coi như một sự may rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự hành động của một bàn tay vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất thình lình, và như thế những quả báo xảy đến đều đúng luật công bình, không mảy may sơ sót.
Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một viếc không quan trọng như là một tiếng cười, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả có sự công bằng.
Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là y kết án người này về những hoàn cảnh trái ngược của họ mà y không hề hiểu biết được cái lý do ẩn tàng. Y khinh bỉ cái quyền tự do của người khác, dầu cho đó là cái tự do lỗi lầm mà mỗi người đều có thể rút những bài học kinh nghiệm lấy cho mình. Y chà đạp, dày xéo cái nhân vị, cái giá trị và tính cách thiêng liêng của mỗi linh hồn, dầu rằng linh hồn ấy có rơi vào sự đớn hèn, da đọa hay lố bịch chăng nữa. Ngoài ra, y còn tự tôn và cho rằng mình cao hơn kẻ mà y chế diễu đùa cợt. Trong sự chế diễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rá6t bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa với tình bác ái đại đồng giữa nhân loại và vạn vật. Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi người thốt ra những lời này: "Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi vì cái lưỡi."
"Người chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy."
Đức Jesus cũng nói rằng: "Kẻ nào mắng người khác là "Đồ ngu!" sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa Địa ngục!"
Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.
Vài Cảm Tưởng Về Luật Quả Báo

Những tập hồ sơ Cayce trình bày cho ta thấy biết bao nhiêu những sự đau khổ của người đời, có thể phân tách ra từng nhiều loại, đau khổ bệnh tật về thể xác lẫn cả về tinh thần. Những hồ sơ đó làm nổi bật những khía cạnh trừng ph5t của Luật Nhân Quả, bởi vì những người đến nhờ ông Cayce giúp đỡ, trước hết là những người đau khổ về bịnh tật. Một người đầy đủ sức khỏe không có lý do đến viếng một bác sĩ; và một người sung sướng ít khi thấy cần phải tìm hiểu về mục đích rốt ráo và ý nghĩa của cuộc đời. Chính vì đó mà phần lớn những cuộc khán nghiệm bằng Thần Nhãn của ông Cayce được thực hiện cho những người bị thắc mắc đau khổ về những bịnh tật khó khăn, hoặc có khi là những sự đau khổ tinh thần rất lớn, mà không có một vị y sĩ, một nhà tâm lý, hay một vị mục sư nào có thể tìm ra cách giải quyết.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce đã thấy giá trị của sự đau khổ trên phương diện luân lý và tinh thần; nhờ thấy rõ lý do và nguyên nhân sự đau khổ, nên nó không còn là một điều khủng khiếp và rùng rợn đối với chúng tạTrái lại, những cuộc soi kiếp đó đã khuyến khích, an ủi, giúp nguồn cảm hứng và xoa dịu những tâm hồn đau khổ một cách sâu xa thâm trầm. Tuy nhiên, một tập hồ sơ thâm trầm của Cayce không phải chỉ gồm có những trường hợp chữa bịnh và giúp đỡ những kẻ bịnh tật khốn khó mà thôi. Trong những Chương sau, chúng ta sẽ thấy sự hành động của Luật Nhân Quả trong việc đào tạo khả năng, đức tính, thiên tài, và những bẩm tính cùng tư chất đủ mọi loại trong con người, làm căn bản cho sự khám phá ra những tài năng ẩn tàng cùng là vấn đề hướng nghiệp, ngõ hầu giúp cho thiên hạ tìm thấy con đường hành động của mình để có thể thành công ở đời.
Một hoàn cảnh tốt và một thân thể kiện toàn là do những nghiệp quả tốt đưa đến. Nhưng những cuộc soi kiếp thường không giải thích về nguyên nhân của những quả báo tốt lành, vì người ta cho rằng không phải những người được yên lành sung sướng, mà chỉ có những trường hợp đau khổ mới là đáng được chú ý. Những người được soi kiếp cũng đồng quan niệm với cái khuynh hướng chung của mọi người, là một số phận tốt lành hạnh phúc không cần phải giải thích lý do; mọi người đều cho rằng mình có quyền được hưởng một số phận yên lành tốt đẹp. Chỉ khi nào bị điêu linh khốn khổ, tai họa dập dồn, thì người ta mới bắt đầu tự hỏi lại sao họ lại bị như thế!
Một thân hình tốt đẹp cũng là do nghiệp quả tốt gây nên. Những cuộc soi kiếp thỉnh thoảng cũng cho biết rằng một thân hình cân đối mỹ lệ trong kiếp này là kết quả của sự săn sốc giữ gìn thân thể trong kiếp trước. Trong một cuộc soi kiếp, ông Cayce có đưa ra một trường hợp lý thú về sắc đẹp do một lý do nghiệp quả khác hẳn. Đó là trường hợp của một người đàn bà là kiểu mẫu đẹp có tiếng ở New York. Cô có hai bàn tay tuyệt đẹp, và được các hãng buôn mời chụp ảnh làm kiểu mẫu để quảng cáo cho những món hàng trang sức như thuốc nhuộm móng tay, dầu thơm, và đồ nữ trang. Quả báo tốt lành khiến cho cô có sắc đẹp trong kiếp này được truy nguyên từ một kiếp trước trong một tu viện ở Anh Quốc. Trong tu viện, cô đành trọn cuộc đời và dùng hai bàn tay để làm những công việc hèn mọn và thấp thỏi nhất với một tinh thần phụng sự và hoàn toàn hiến dâng. Cái chí nguyện tâm linh ấy đã đem đến cho cô trong kiếp nầy một thân hình mỹ lễ với hai bàn tay đẹp đẽ khác thường. Đây là một triển vọng đáng khuyến khích cho những ai mong muốn có sắc đẹp!
Những quả báo đau khổ xảy đến cho ta có lẽ gây cho ta một ấn tượng sâu xa thấm thía hơn là những quả báo tốt lành, nhứt là nó lại càng thấm thía hơn và cần thiết hơn ở vào thời buổi hỗn loạn và suy đồi hiện naỵ Người thời nay trí khôn đã mở rộng, khoa học càng ngày càng phát triển, cuộc đời tinh thần của họ cần căn cứ trên một nền tảng thông minh có thể làm thỏa mãn được lý trí.
Một phép xử thế đúng đắn, hạp với lẽ Đạo là cần thiết để đem đến cho con người một đời sống hạnh phúc, an vui và giải thoát. Người ta sẽ nhận thấy tầm quan trọng lớn lao của điều này khi người ta hiểu rõ những định luật Nhân Quả và Luân Hồi. Bởi đó, giáo lý Minh Triết cổ truyền đem đến cho ta một phương thuốc bổ khỏe, thần hiệu để chữa khỏi chứng bịnh liệt nhược tinh thần của nhiều giáo phái hiện naỵ Có lẽ những sự hành phạt đau khổ của luật quả báo mà chúng tôi trình bày trong quyển sách này sẽ không làm nản lòng quá mức những người nào chấp nhận định luật Luân Hồi; trái lại nó còn đem cho họ một niềm hy vọng một sự yêu đời và một đức tinh mới mẻ căn cứ trên sự tin tưởng ở định luật công bình của Vũ Trụ, nó cai quản mọi sự trên thế gian.
Những thí dụ kể trên có lẽ sẽ làm cho chúng ta dè dặt cẩn thận hơn trong những hoạt động và cử chỉ của đời sống hằng ngày. Khi chúng ta biết rằng sự tàn nhẫn độc ác có thể gây nên quả báo đui mù tàn tật, bịnh mất máu, bịnh xuyễn hay bịnh liệt bại; sự hoang dâm có thể gây nên chứng bịnh động kinh (épilepsie); sự áp chế đè nén kẻ khác có thể đem đến bịnh liệt bại; thì những điều đó có thể làm cho chúng ta dễ quay đều hướng thiện và cố gắng sống một đời sống tốt lành. Ngoài ra, những trường hợp kể trên đem đến sự giải thích về tình trạng thê thảm của hằng triệu người đau khổ về bịnh tật trên thế gian. Chúng ta không thấy những kẻ tật nguyền, què quặt, đui mù, câm điếc, điên khùng, những người bị các chứng bịnh nan y, liệt bại, động kinh cùi phong, những người cụt tay, cụt chân vì tai nạn hay chiến tranh... Những người xấu số đáng thương ấy, chúng ta không nhìn thấy vì họ Ở ẩn trú trong nhà, hoặc nằm trong các bịnh viện. Chúng ta chỉ tình cờ gặp họ một đôi khi ở ngoài đường phố, và không biết rõ tổng số những người bịnh tật đau khổ ấy lên đến bao nhiêu!
Nhưng họ gồm một thành phần rất đông đảo, và số phận của họ rất thảm thương. Sự giải thích thông thường của những giáo sĩ đạo Gia Tô về những thảm trạng đau thương ấy là: "Đó là ý muốn của Chúa Trời!" Nhưng thật khó mà dung hòa cái ý niệm một đấng Cha Lành đầy lòng từ bi bác ái mà lại tạo ra những cảnh đau khổ lầm than đó cho những đức con vô tội của Ngài. Về điểm này, người ta lại nói rằng ý muốn của Chúa Trời là một điều bất khả tư nghị, không thể cân nhắc đo lường, và không thể hiểu được! Nhưng rốt cuộc câu ấy vẫn không giải quyết được sự mâu thuẫn nói trên.
Thuyết Luân Hồi đã đưa ra sự giải thích cho vấn đề bí hiểm đó bằng cách chỉ rằng sự vật diễn ra trong vũ trụ không bao giờ do sự ngẫu nhiên tình cờ, mà là do sự hành động của một định luật thiên nhiên rất công bình và hợp lý. Đó là một định luật căn bản trong Trời Đất, theo đó thì những người đau khổ bịnh tật vốn là do những nguyên nhân của họ đã gây ra trong quá khứ, và bây giờ họ phải gánh lấy hậu quả; không một ai có thể bị những cảnh lầm than khốn đốn nếu đó không phải là do những nguyên nhân xa gần mà họ đã tạo nên trong những kiếp quá khứ. Người Tây phương không thể chấp nhận quan niệm về Luân Hồi một cách dễ dàng vì nó khó tin và không thể đem ra thí nghiệm một cách khoa học, hoặc không có gì làm bằng chứng.
hTuy nhiên, trong đời có biết bao nhiêu những chuyện khó tin mà chúng ta không hề nghĩ đến! Từ một cái trứng bé nhỏ chui ra một con nòng nọc, nó lội nước như một con cá, rồi lớn dần và rụng đuôi để trở thành con cóc. Một con sâu kết một kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén một cái kén bằng tơ và sau đó ít lâu nó từ trong cái kén chui ra và trở thành một con bươm bướm màu mè sặc sỡ. Đó chỉ là một vài thí dụ lạ lùng để chỉ cho ta thấy rằng sự sống của một sinh vật có thể thay hình đổi dạng nhiều lần liên tiếp mà vẫn không mất cái cá tính riêng của nó; và chúng ta chấp nhận điều ấy một cách tự nhiên. Nếu ta suy nghĩ kỹ, có lẽ chúng ta sẽ thấy rằng những thí dụ đó cũng không khác gì hơn là việc linh hồn những thể xác khác nhau mà vẫn giữ nguyên vẹn cá tính của nó.
Những cuộc soi kiếp của ông Cayce mà ta có thể chấp nhận được về phương diện tâm lý và luân lý đã giúp cho chúng ta giải tán được sự hoài nghị Những tài liệu lạ lùng đó là một bằng chứng để giúp cho chúng ta có một tầm hiểu biết sâu xa hơn. Có lẽ nó giúp đỡ cho chúng ta thấy rằng ngoài ra những kiếp sống tầm thường, bẩn chật, gò bó của chúng ta trên cái thế giới nhỏ hẹp này, còn có một tầm sinh hoạt rộng lớn bao la hơn nữa, và cuộc đời còn có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm hơn những gì mà chúng ta đã có thể tưởng tượng từ trước đến naỵ

Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com

TL: Nhớ lại tiền kiếp

Đã gửi: 18:53, 04/06/12
gửi bởi Tây Đô đạo sĩ

Quả Báo Treo

Một điều lạ lùng mà người ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như chúng tôi đã nêu trên, là có đôi khi những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân được tạo ra. Người ta tự hỏi tại sao lại có sự đình chỉ đó, và tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?
Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là: Linh hồ đã gây nhân tạo nghiệp, phải đợi đến khi có một hoàn cảnh và thời giờ thuận tiện cho quả kia kết thành hình. Có khi phải đợi nhiều thế kỷ mới có một cơ hội thuận tiện và trong khi chờ đợi, thì khoảng thời gian đó được sử dụng để cải thiện cho tâm tính của đương sự. Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo treo này trong những tập hồ sơ Cayce về những linh hồn trước kia đã sống ở Châu Atlantide.
Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay hoàn toàn phủ nhận sự hiện diện của Châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa chìm dưới đáy biển Đại Tây Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin ở sự kiện lấy trước những bằng chứng lịch sử, khoa học và văn hóa. Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách "Crisias Timeus" của Platon trong đó tác giả tường thuật những điều ông đã nghe nói về Châu Atlantidẹ Một trong những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp (câble sous marin) đặt ngầm dưới biển Đại Tây Dương bị đứt và chìm xuống đáy biển ở một bề sâu 3.000 thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó quến theo những mẫu phún thạch (lavạ) Khi người ta quan sát bằng kiếng hiển vi thì thấy rằng những mẫu phún thạch này ngày xưa đã từng đông đặc lại trên đất liền, trước khi chìm xuống đáy biển.
Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhứt, thì trước hết là những chuyện giai thoại về cuộc Đại Hồng Thủy. Người ta gặp chuyện những giai thoại này không những trong bộ Thánh Kinh (Bible), mà còn trong những truyện Thần Thoại tôn giáo và lịch sử của hầu hết tất cả những dân tộc cổ xưa trên thế giới.
Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương tiện giao thông giữa hai lục địa Mỹ Châu và Phi Châu.
Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng nơi sự hiện diện của Châu Atlantide, nhưng vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận chắc chắn. Dầu sao, nếu ta có phải tin nơi những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì châu Atlantide đã từng có một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa. Theo ông Cayce một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Kim Tự Tháp lớn ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantidẹ Ông Cayce cho biết rằng những tài liệu đó được đem chôn giấu trong Kim Tự Tháp, do những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng 9.500 năm trước Tây Lịch kỷ nguyên. Ông Cayce cũng có nói rằng đảo Bimini, ở ngoài khơi tiểu bang Florida bên Hoa Kỳ, nguyên là đỉnh ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante, mái bầu của ngôi đền được xây cất với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng mặt trời. Những cuộc soi kiếp cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới một trình độ khoa học tiến bộ hơn của chúng ta ngày naỵ Họ đã từng phát triển tới một mực rất cao các nghành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng mãnh lực của Mặt Trời và nguyên tử lực. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lực, thắp sáng, và chuyển vận tiến bộ hơn của chúng ta ngày nay.
Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lập đi lập lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi miên và mãnh lực của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến chúng làm việc một cách nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữ và thỏa lòng háo sắc của họ Nïười ta sẽ hiểu rằng những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái Đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển, và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa Huyền Môn. Cuộc thử thách hữu hiệ nhứt để biết xem một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa, là đặt trước mặt y những món cao lương mỹ vị mà y ưa thích, để xem y có biết tự chủ hay không. Người ta không thể biết đượ rằng một người đã hoàn toàn tự chủ về đường sắc dục hay chưa, nếu y không gặp cơn thử thách: Bị cám dỗ mà vẫn không động lòng như Thánh Antoine ngày xưa vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu!
Cũng giống như thế, những linh hồn đã lạm dụng những quyền năng phi thường và mầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, không chắc là đã từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và cải tạo tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời đại này, để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích kỷ hại nhân như thuở xưa kia.
Sự tiến bộ từng chu kỳ của Lịch sử đã làm cho thế kỷ 20 trở nên thời kỳ phát triển khoa học kể trên; bởi đó những cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ cho biết rằng có rất nhiều dân Atlantide thời cổ nay đã đầu thai chuyển kiếp vào thời kỳ hiện tại. Những sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật có thể hiểu được bằng hai cách: Trước hết, đó là do kết quả của những kinh nghiệm về mọi phát minh khoa học mà những linh hồn mới đầu thai đã mang lại từ những kiếp quá khứ của châu Atlantide ngày xưa; thứ hai, thời kỳ này là giai đoạn thử thách cho những linh hồn đó để xem trong những thế kỷ trung gian, họ đã thâu thập được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống chỏi lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo của thế hệ văn minh khoa học vật chất đưa đến. Bởi đó, cái yếy tố căn bản nó quyết định vấn đề "Quả báo treo" dường như là những linh hồn đã gây sự nghiệp quả xấu phải chờ đầu thai vào một thời kỳ thuận tiện, có một nền văn minh tiến bộ thích nghị Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử, và việc luân phiên của những nhóm linh hồn trong việc chọn lựa những thời kỳ đầu thai chuyển kiếp xuống Trần.
Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên Địa Cầu cũng đầu thai trở lại thế gian theo từng đợt hay từng nhóm, cũng ví như những luồng sóng dập dồn từng thời kỳ, theo định luật Tuần Hoàn của vũ trụ. Tuy nhiên, có nhiều đoạn trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ rằng sự chuyển kiếp của những nhóm thiểu số trong những luồng sóng lớn đó, và thậm chí sự đầu thai của từng cá nhân trong những nhóm ấy, có thể không phải là do tiền định một cách chặt chẽ và máy móc theo từng chu kỳ nhất định. Những linh hồn và từng nhóm linh hồn không phải tái sinh trở lại một cách đều đặn như một việc đã định saün. Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của Cơ Trời máy Tạo, con người vốn có quyền tự do ý chí, và một cá nhân hay một nhóm người đều có quyền tự do chọn lựa những thời kỳ đầu thai tùy theo ý muốn.
Điều này lại đưa đến một sự phức tạp mới nữa: Nếu một linh hồn cần phát triển một đức tính trong những giao tế của y với một linh hồn hay một nhóm linh hồn khác, có lẽ y sẽ cần trì hoãn sự đầu thai của y trong một thời gian để đợi đến một thời kỳ được chọn lựa cho sự đầu thai chung của những linh hồn ấy. Và nếu đó là một sự trì hưỡn lâu dài, thì trong khi chờ đợi, linh hồn ấy có thể dùng thời gian để cố gắng phát triển một vài đức tính mới, hoặc một khía cạnh mới nào đó về sự tiến hóa của y, và bởi đó mới có cái hiện tượng "Quả báo treo."
Những sự kiện kể trên nhắm vào những yếu tố bên ngoài của quả báo treo; nhưng ngoài ra còn có những yếu tố bên trong. Một sự kiện tâm lý sau đây còn có một tầm quan trọng tương đương, nếu không nói là lớn hơn; đó là sức mạnh tinh thần cần thiết để chịu đựng những quả báo xảy đến. Linh hồn phải trả quả cần có cơ hội thâu thập những đức tính cần thiết để đương đầu với quả báo khi nó xảy đến; chứ nếu không thì quả báo nặng nề quá sức chịu đựng cò thể làm cho đương sự bị đè bẹp, thay vì giúp ích cho sự tiến hóa của y.
Nhiều người bịnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc bịnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trở về trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự trì hoãn lâu dài như thế. Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong Chương Năm. Cô này hỏi: "Tại sao linh hồn lại đợi cho đến kiếp này mới trả xong nghiệp quả đã gây ra từ thời Đế Quốc La Mã?" Cô ấy được trả lời như sau: "Bởi vì linh hồn ấy không đủ sức trả quả sớm hơn."
Câu chuyện ấy chỉ rõ rằng nếu một linh hồn không đủ sức trả quả sớm hơn, đó là vì bởi một lý do bên trong hơn là lý do bên ngoài. Trong trường hợp đó, cũng như những trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian chỉ rằng những kiếp này là những kinh nghiệm cần thiết để giúp cho đương sự có cơ hội thu thập thêm một vài đức tính tốt và để tiến hóa thêm.
Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên 16 tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do y đã gieo trong thời kỳ đế quốc La Mã. Tuy nhiên, một kiếp đầu thai vào thời kỳ Cách Mạng ở Bắc Mỹ đã giúp cho họ có cơ hội phát triển một vài đức tính như can đảm, yêu đời, và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó là những điều mà y cần dùng để chịu đựng cảnh khổ trong kiếp hiện tại, khi quả đã chín mùi và đến kỳ phải trả.
Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này:
Một người kia vay năm triệu đồng của ngân hàng để kinh doanh sự nghiệp. Y không thể nào trả hết số tiền đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng sau.Vì lẽ đó, y xin hẹn đến một kỳ hạn nào đó, thí dụ là ba năm để cho y có thời giờ dành dụm lần hồi cho đủ số trước khi trả dứt làm một lần. Ngân hàng không thể bắt y phải trả dứt trong một tuần lễ, vì lẽ tất nhiên là y không đủ sức trả gấp, và đòi nợ một cách gắt gao như thế thật là không có ích gì. Có thể rằng trên địa hạt tâm linh, sự trì hoãn thời kỳ phải trả quả, gọi là quả báo treo, cũng diễn ra với một tinh thần đó.
Nếu một ngày kia thuyết Luân Hồi được một số đông người thừa nhận và nếu quan niệm về Nhân Quả được quần chúng Phương Tây cũng như Đông Phương hiểu rõ, ít nhất trên nguyên tắc đại cương, thì vấn đề quả báo treo có lẽ sẽ trở nên một đầu đề lo sợ cho rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một hành động hung dữ độc ác trong quá khứ có thể bị quả báo đui mù, tàn tật trong một kiếp tương lai xa hay gần, làm cho người ta cảm thấy băn khoăn lo sợ. Đối với những người nhậy cảm và nhiều tưởng tượng, thì một món nợ nhân quả mà họ không được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng trên xà nhà và chực rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào. Quả báo treo có thể trở nên một sự đe dọa khủng khiếp rùng rợn trong những năm đầu của thế hệ phổ biến về thuyết Luân Hồi, cũng như Quỷ Satan và lửa Hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa sợ hãi cho người đời trong thế hệ đã qua!
Để chống lại khuynh hướng sợ sệt đó những nhà lãnh đạo các phái Tư Tưởng Mới có thể đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo treo, cũng như phong trào Khoa Học Công Giáo (Science Chrétenne) phủ nhận tội lỗi, bịnh tật, sự chết, sự lầm lạc và cõi vật chất. Những sự phủ nhận đó có một sức dẫn dụ rất mạnh và có thể đưa đến những kết quả khá lành mạnh về đường tâm linh. Tuy nhiên, phủ nhận vật chất, thế gian, tội lỗi và quả báo, không có nghĩa là giải quyết được vấn đề! Bổn phận của chúng ta không phải là dấu diếm sự thật, cũng như con chim đà điểu vùi đầu xuống đống cát; mà là thắng đoạt, chế ngự và tổ chức lại cõi đời vật chất theo những lý tưởng tâm linh cao cả. Phủ nhận Luật Quả Báo chẳng khác nào như không nhìn nhận những món nợ mà mình phải trả, và những bài học mà mình phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dâu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần, không thể gây cho người khác lòng mến phục.
Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự tìm cách trốn tránh trách nhiệm. Nhưng chúng tôi không muốn nói rằng sự dẫn dụ (suggestion) là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bịnh trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của một trẻ em bị chứng bệnh Đới dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan ý thức về tội lỗi in sâu trong tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi bịnh.
Nếu những nhà chữa bịnh tinh thần muốn chữa các chứng bịnh về nhân quả, thì phương pháp điều trị là làm cho bịnh nhân thành thực nhìn nhận những tội lỗi cũ; bày tỏ một ý muốn chân thành cứu chuộc những tội lỗi và sau cùng, tỏ ra một sự cương quyết làm việc phải và hướng thiện theo đường lối ngược chiều với tội lỗi đã gây ra. Như vậy, các quả báo sẽ lần lần tiêu tan, và bịnh sẽ thuyên giảm.
Nếu chúng ta chấp nhận thuyết Luân Hồi, thì ta phải nhìn nhận rằng nhân loại chưa được tiến hóa cao về phương diện tâm linh, và bởi đó con người phải chịu quả báo xấu xa trong những kiếp tương lai. Nhưng điều đó không là cho ta quá băn khoăn lo sợ, vì hai lý do:
Một là: "Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!" (A chaque jour suffit sa peinẹ) Câu tục ngữ này có nghĩa là: Ta nên sống mỗi ngày một cách bình tĩnh và không nên quá băn khoăn lo lắng. Chẳng những thế, mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn kiếp của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng số phận của mỗi người là rất công bình, và ta có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không bao giờ ta phải trả một quả báo nào mà ta không đủ sức chịu đựng.
Hai là: Dầu cho ta có tin ở Luật Nhân Quả hay không, ta cũng phải thấy rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết một cách chắc chắn. Và ta biết rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chớ không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của chúng ta cũng sẽ giảm bớt, vì lý do giản dị là quả báo xảy đến chỉ do một định luật Công Bằng. Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu một sự việc xảy đến một cách công bình, để cho ta học một bài học hay và mở rộng tầm kiến thức của mình thì đó không phải là một điều đáng sợ. Một người lương thiện nếu mắc nợ thì lo trả; y làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để trả góp đúng kỳ hạn vào đầu tháng. Y không phải lúc nào cũng lo lắng sợ sệt cái ngày trả nợ sẽ đến. Y đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần.
Vì bởi tầm ý thức của chúng ta có giới hạn, nên chúng ta không biết được rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong thời kỳ dĩ vãng xa xăm. Nhưng chúng ta nên có cái thái độ thẳn thắn của một người lương thiện, để chấp nhận những món nợ của chúng ta với một sự thiện chí và thành thật muốn trả nợ.
Sự chấp nhận định luật Nhân Quả và đức tin nơi một sự Công Bằng Thiêng Liêng, phải là cái thái độ của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến. Trong một Vũ Trụ công bằng, trật tự và tốt lành, mà định luật Luân Hồi đã tiết lộ cho chúng ta thấy, thì tuyệt nhiên ta không có gì cần phải sợ sệt hết cả.

Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời - RFViet.com