Nhập Định
Đã gửi: 15:49, 22/12/12
Nhập định
Sưu tầm
Bề mặt ngã chấp <==
1. VƯỢT SẮC ẤM
Người tu thiền đến giai đoạn khi dụng công không còn vọng tưởng. Có thể kéo dài trạng thái tĩnh lặng hoàn toàn không vọng tưởng này suốt vài tiếng đồng hồ, lúc đó, Ý thức tự nhiên bỏ bớt Sắc ấm chỉ còn trụ vào Thọ ấm và Tưởng ấm.
Còn cái Chú Ý đã bắt đầu lọt sâu một chút vào Vô thức. Vì Ý thức đã bỏ bớt Sắc ấm nên hành giả không còn thấy có thân nữa, chỉ nghe một sự thanh tịnh không hình không tướng mà thôi.
Và cũng vì Ý thức bỏ bớt Sắc ấm trụ mạnh nơi Thọ và Tưởng ấm nên hai ấm này có sức mạnh hơn bình thường. Lúc đó, Thọ ấm khởi lên hỷ lạc mạnh mẽ tràn ngập cả tâm hồn. Tưởng ấm cũng dễ khởi lên những hình ảnh lạ như hoa sen, hào quang, Đức Phật, cõi trời, xuất hồn... Nếu hành giả đắm luyến nơi cảm giác hỷ lạc tức là kẹt lại Thọ ấm, ái kiến sẽ tăng trưởng (Thọ luôn luôn sinh ra ái), đường giải thoát bị ngăn chặn. Thế nên, tuy có cảm giác hỷ lạc khởi lên, hành giả không nên chú ý.
Nếu hành giả đắm luyến nơi hình ảnh lạ như hào quang, Đức Phật, cõi trời, xuất hồn... sẽ khởi sinh tà kiến, cho mình chứng đắc, lấy những hình ảnh đó làm sở đắc, quên đi mục đích giải thoát cuối cùng.
Khi vượt được Sắc ấm, trạng thái định này được gọi là Không Vô biên xứ định. Mức độ định này tương đương với sơ thiền. Tuy nhiên giữa Định và Thiền có khác nhau về cách dụng công. Ở phương pháp tu định, nhờ chánh niệm tỉnh giác thuần thục, vọng tưởng không khởi, hành giả tự nhiên bước vào Không Vô biên xứ định. Lúc đó cái Chú Ý ở trong Vô thức ,cái biết dường như không trụ vào đâu, nhưng thật ra đã theo cái Chú Ý để quay vào Vô thức.
Còn nơi sơ thiền, hành giả nhiếp tâm trong hơi thở và CÁI BIẾT trụ vào hơi thở tại ống mũi.
Nếu cái biết không trụ, gọi là tu định.
Nếu cái biết có trụ vào hơi thở, gọi là tu thiền.
Tuy nhiên hơi thở lúc này nhỏ nhiệm như một sợi chỉ, êm ái, sáng tỏ. Tâm thay vì trải rộng, đã thu thật nhỏ vào hơi thở, giống như một mũi khoan xuyên qua từng ấm. Cái ưu điểm của phương pháp nhiếp tâm vào hơi thở là khống chế được sự quậy phá của Tưởng ấm, không cho Tưởng ấm hiện ra những ảo ảnh. Còn tu định, tâm không trụ vào một điểm nào, trải rộng thênh thang, nhưng khó khống chế được sự quậy phá của Tưởng ấm.
Chúng ta gọi là Vượt Sắc ấm ở phần thô, còn cái Sắc ấm siêu hình (linh hồn) thì vẫn còn tồn tại. Phải Vượt khỏi Hành ấm thì linh hồn mới hết.
2. VƯỢT THỌ ẤM
Khi hành giả tiếp tục kéo dài ngồi bất động trong tư thế kiết già, không để ý vào hỷ lạc của Thọ ấm, không bị những ảo ảnh của Tưởng ấm hiện ra, cuối cùng Ý thức sẽ bỏ luôn Thọ ấm, chỉ còn trụ ở Tưởng ấm.
Vì Ý thức đã bỏ Thọ ấm nên lúc này hỷ lạc biến mất, chỉ có cái an vui tế nhị của sự thanh tịnh.
Cái an vui tế nhị này cũng là thuộc về Thọ ấm ở phần sâu. Hành giả được gọi là vượt Thọ ấm, thực ra chỉ là vượt Thọ ấm phần thô bên ngoài Ý thức conscious, còn cái Thọ ấm vi tế khuất sâu trong Vô thức vẫn chưa hết.
Ở đây, cái Chú Ý chìm thêm một chút vào Vô thức, còn cái Ý thức vẫn trải rộng hơn, vẫn còn phủ Tưởng ấm. Chúng ta nên nhớ, cái Chú Ý tập trung vào một đối tượng hẹp, còn cái Ý thức thì trải một vùng rộng chung quanh cái Chú Ý. Ví dụ khi cái CHÚ Ý còn chạy theo cảnh, theo vọng tưởng thì Ý thức tỏa rộng ở Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, năm thức trước. Khi cái Chú Ý chìm sâu một chút vào Vô thức của Sơ thiền thì Ý thức cũng lui theo và bỏ bớt Sắc ấm. Khi cái Chú Ý chìm sâu thêm một chút nữa thì Ý thức lại đi theo mà bỏ bớt Thọ ấm để chỉ còn lại Tưởng ấm. Chúng ta nói là còn lại Tưởng ấm không có nghĩa là Tưởng ấm còn hoạt động. Tưởng ấm phải luôn luôn dừng hoạt động thì cái Chú Ý mới chìm vào Vô thức được. Nhưng dù Tưởng ấm dừng hoạt động, Ý thức vẫn còn bao phủ phạm vi của Tưởng ấm và bao phủ cả các thần kinh giác quan. Do đó, giai đoạn này, dù ở trong định, Hành giả vẫn còn nghe âm thanh bên ngoài (dù không CHÚ Ý theo), vẫn còn thấy cảnh sắc (dù không cố ý nhìn).
Do Tưởng ấm còn nên các ảo ảnh vẫn có thể còn xuất hiện. Nếu trong Ký ức của Hành giả còn chứa những ước mơ được thấy Phật, thánh, tiên thì Tưởng ấm sẽ hiện ra những hình ảnh đó và kéo cái Chú Ý của Hành giả đi ra khỏi Vô thức trở lại.
Ở giai đoạn vượt Thọ ấm này, Hành giả đã khá tự tại, phong cách ung dung đĩnh đạc, tâm hồn rất thanh thản, ái kiến (Tình cảm) lắng dịu vì không có thọ để kích động ái; đạo đức tương đối hoàn chỉnh. Ngang đây, Hành giả đã tăng trưởng trực giác, có thể đoán biết một số chuyện quá khứ vị lai khái quát, nhưng không chi tiết lắm, có thể đoán biết một phần ý nghĩ thô của người khác, có thể dùng năng lực bằng tay chữa một số bệnh thông thường. Hành giả cũng có thể ngồi kiết già bất động chờ cái chết đến, nhưng chưa có thể chết theo ý muốn, chỉ thụ động chờ mà thôi, dĩ nhiên là biết trước lúc chết.
Đây là nhị thiền, Thức vô biên xứ định.
Nếu Hành giả dùng hơi thở làm phương tiện thì lúc này cái Chú Ý dồn hết vào hơi thở; cả cái Chú Ý và hơi thở đều nhỏ như một sợi tơ và rất vi diệu, đó gọi là Nhị thiền.
Nếu Hành giả không chú ý vào hơi thở, chỉ an trụ trong trạng thái rỗng rang thanh tịnh tự nhiên thì sẽ thấy tâm mình phủ trùm cả trời đất. Đó gọi là Thức Vô Biên Xứ Định .
Khái niệm về thiền và định theo kinh Phật có thể được hiểu như sau: Thiền là xoay lại giữ sự thanh tịnh nơi chính mình, thường là phải dùng thêm phương tiện hơi thở. Định là thả tâm phủ trùm pháp giới. Thiền chú trọng nơi phẩm, Định chú trọng nơi lượng.
Thường thì đến những giai đoạn này, Hành giả cảm thấy mình không phải dụng công nữa mà tâm vẫn tự nhiên thanh tịnh nhẹ nhàng. Vì thế dễ phát sinh tâm tự mãn thầm kín. Cần phải có thiện tri thức hướng dẫn để Hành giả biết mình còn kém, bỏ tâm tự mãn và cố gắng dụng công tiếp.
3. VƯỢT TƯỞNG ẤM
Ở Nhị Thiền, Ý thức còn hiện diện nơi Tưởng ấm. Nếu hành giả an trụ Nhị thiền thật lâu từ một ngày đến bảy ngày, Tưởng ấm sẽ được vượt qua.
Vì các thần kinh giác quan thuộc về Ý thức, nên khi vượt khỏi Tưởng ấm, ra khỏi Ý thức Hành giả không còn nghe thấy ngoại cảnh bên ngoài. Đây là chỗ mà một đạo sĩ Ấn Độ khoe rằng :
"Khi nhập định tôi không còn nghe thấy tiếng của năm trăm cỗ xe bò đi ngang".
Khi vượt khỏi Tưởng ấm, Ý thức sẽ nhập vào cõi tâm Vô thức của Hành ấm ! Lúc này những hoạt động bí mật kỳ lạ của Hành ấm được khám phá rõ ràng Hành giả biết rõ mọi hiện tượng như mộng du, đồng cốt, giáng cơ... đều do Hành ấm đạo diễn. Do đó những tà kiến sai lầm bị phá vỡ rất nhiều.
Ở giai đoạn này Hành ấm phát huy đại thần lực; Hành giả có thể đằng vân, phi hành, biến hóa, phân thân, ẩn thân, hóa ra lửa, hiện ra hào quang, làm thành mưa bão... Năng lực của Hành ấm phá vỡ những quy luật của vật lý thông thường.
Qua đây chúng ta có thể giả thuyết rằng phải chăng những người ngoài hành tinh với dĩa bay của họ đã áp dụng được nguyên tắc của tâm Vô thức nên họ có những phương pháp di chuyển vượt khỏi tầm hiểu biết của khoa học hiện nay. Những tài liệu gần đây cho thấy rằng trong các cuộc tiếp xúc với người ngoài trái đất (điển hình là họa sĩ Nga Malachev), họ đều có một khả năng tâm linh rất mạnh. Phải chăng nơi hành tinh của họ pháp môn thiền định đã phổ cập đến cao độ ? Phải chăng những tính chất siêu việt của Hành ấm được áp dụng vào kỹ thuật ? Phải chăng nền văn minh của họ là sự phát triển đồng bộ duy nhất của cả ba mặt: khoa học, thiền định và đạo đức ?
Trở lại vấn đề, khi mà Ý thức conscious đã vượt ra khỏi Tưởng ấm thì có nghĩa là cái CHÚ Ý đã vào sâu trong Hành ấm ở Vô thức. Đến đây mới đáng gọi là nhập định thật sự vì Hành giả không còn thấy, không còn nghe, không còn tiếp xúc với ngoại cảnh. Những ý niệm sâu kín của Hành ấm bị hóa giải nên tâm cực kỳ yên tĩnh.
Do hoàn toàn không còn bị Tưởng ấm làm ngăn ngại nên Hành ấm và Thức ấm phát huy đại thần lực tiềm tàng của mình. Thức ấm có thể biết rất nhiều chuyện nếu muốn, có thể nhớ vài kiếp quá khứ và tiên tri chuyện cả trăm năm sau; có thể đoán biết tâm của chúng sinh dù ở cách xa; còn Hành ấm, tuy đã có thể khởi thần thông biến hóa, nhưng vì cái Chú Ý đang trụ ở đây và có vẻ đang canh giữ nên Hành ấm vẫn còn thụ động. Hành giả thích ngồi nhập định bất động hơn là khởi dụng làm chuyện này chuyện nọ.
Ở trình độ này, Hành giả có thể dùng sức định để tự tử, nghĩa là muốn sống hay chết tùy ý. Ngoài ra, nếu có tác ý Hành giả có thể lưu lại nhục thân không hoại rất lâu, nhà sư Vũ Khắc Minh Việt Nam hoặc các vị sư Trung Hoa, Tây Tạng thường lưu lại nhục thân như thế.
Trình độ này là Vô Sở Hữu Xứ Định hoặc tương đương với giai đoạn đầu của Tam Thiền . Vì Vô thức rất là dài nên rất khó vượt qua hết hẳn. Hành giả an trụ cái Chú Ý vào cuối Hành ấm nên Ý thức đã bỏ hẳn Tưởng ấm, nếu muốn, chúng ta có thể nói rằng ý thức đã nhập vào Vô thức. Lúc này, Tình cảm đã bị kiểm soát hoàn toàn, những thương ghét của trần gian không còn tồn tại trong tâm nữa.
Lúc này, Hành giả đã chuyển sang một nhãn quan mới, một “hệ” mới để nhìn vạn hữu. Hành giả thấy vạn hữu như là hư vô. Tâm tham đắm trần gian dường như đã hết. Chúng ta dùng chữ “dường như”, vì ở trong Ký ức vẫn còn lưu lại những ý niệm tham đắm từ quá khứ và có thể khởi ra lại nếu gặp sự kích động nào đó.
4. VƯỢT HÀNH ẤM
Khi chưa vượt khỏi Hành ấm, hành giả vẫn còn biểu lộ nhiều hình thức chấp ngã vì Hành ấm là gốc của Bản ngã.
Ví dụ, hành giả thích khoe khoang thần thông, còn những ước muốn thầm kín. Nhưng khi vượt khỏi Hành ấm, chỉ còn Thức ấm, hành giả là những người đạo đức tuyệt vời vì gốc của Bản ngã đã bị vượt qua. Dĩ nhiên Thức ấm còn thì nhân luân hồi chưa hết, nhưng đến đây, hành giả đã xứng đáng được xưng tụng là một vị Thánh cao cả giữa trần gian. Đây là một ẩn sĩ chân chính không còn khoe khoang phô trương, không còn một ham muốn nhỏ nhặt nào cho tự kỷ.
Lúc này Thức ấm phát huy đại dụng, trùm phủ cả không gian địa cầu hoặc cả một hệ tinh. Hành giả có thể nhớ lại một số kiếp quá khứ và thấy trước một số kiếp vị lai. Hành giả có thể tìm hiểu bất cứ chuyện gì xảy ra trên cuộc đời, bởi vì Thức ấm là cái biết trực giác soi thấu mọi ngõ ngách của trần gian.
Vì Hành ấm không còn bị cái Chú Ý canh giữ nên có thể tích cực khởi đại dụng. Hành giả có thể tự tại phi hành, biến hóa. Chúng ta gọi là vượt qua Hành ấm không có nghiã là không còn Hành ấm, mà có nghĩa là Hành ấm đã thuần hóa không khởi ý niệm nữa nên cái Chú Ý đã không còn cần thiết đứng ở đấy. Chúng ta nên nhớ rằng Hành ấm không phải khởi từng ý niệm một lúc mà khởi vài ngàn ý niệm đồng thời. Thế nên khi Hành ấm đã yên lắng thì đó là một sự kiên phi thường.
Nếu lúc này Hành giả buông bỏ cái CHÚ Ý khiến tâm trùm phủ thênh thang thì gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Ngang cái định vĩ đại này, vì cái Chú Ý không còn nên Hành giả không còn đường để đi tới nữa. Đó là chỗ dừng lại của ông Uất đầu lam Phất mà đức Phật đã đạt được và mơ hồ cảm nhận nó chưa phải cứu kính.
Nếu Hành giả tiếp tục giữ hơi thở, cái Chú Ý bám vào hơi thở thì còn có thể tiến hơn nữa.
Ở giai đoạn vượt khỏi Hành ấm này, Hành giả lại chuyển sang một nhãn quan khác, một “hệ” khác nữa. Hành giả thấy vạn hữu, dù là cây đá, cũng đều làm bằng chất liệu của tâm, tất cả đều là tâm. Vì thế, chỉ bằng tâm của mình, hành giả có thể tác động vào thế giới vật chất bên ngoài, có thể bay lên cao, có thể tàng hình, di chuyển mọi vật từ xa, hiện mọi cái từ có thành không, từ không thành có. Hành giả không còn nhận biết vạn hữu bằng giác quan tai mắt nữa mà bằng tâm Vô thức vi diệu của mình, ngồi ở đây mà biết cả mười phương tám hướng.
5. NHẬP BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI (VƯỢT THỨC ẤM)
Ở Tam thiền, chưa vượt qua cõi tâm Vô thức, hơi thở hành giả nhỏ như một hạt bụi. Hành giả tiếp tục giữ kỹ hơi thở và an trụ tam thiền suốt bảy ngày, hoặc một tháng, hoặc ba tháng, tùy theo căn cơ sai biệt. Cuối cùng, dù luôn luôn giữ hơi thở, hơi thở biến mất.
Hơi thở biến mất, CÁI BIẾT biến mất và Bản ngã biến mất. Thức ấm đã bị vượt qua.
Bản thể tuyệt đối hiện bày.
Dùng ngôn ngữ để diễn tả Bản thể tuyệt đối là một việc làm vô cùng sai lầm. Sự thanh tịnh cực độ của Bản thể không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vì có quá nhiều người hiểu lầm Niết Bàn của Đạo Phật nên chúng ta gượng gạo diễn tả vài tính chất của Niết Bàn, mong quý độc giả thông cảm, dùng trực giác để thầm cảm thông.
Khi Thức ấm còn thì CÁI BIẾT còn.
Khi Thức ấm đã vượt qua được thì CÁI BIẾT cũng biến mất. Tuy nhiên lúc này cái CẢM ỨNG của Bản thể sẽ xuất hiện.
BIẾT là gì ? CẢM ỨNG là gì ?
Có hai cái BIẾT khác nhau, cái BIẾT của Ý thức và cái BIẾT của Vô thức, dù cả hai đều thuộc về Thức ấm.
Ý thức biết nhờ suy luận, phân biệt, học hỏi và giác quan tiếp xúc.
Vô Thức biết nhờ trực giác, không cần suy luận, không cần giác quan.
Tuy nhiên, gọi là BIẾT khi có người BIẾT và đối tượng BIẾT. Ở đây ngã và pháp được tồn tại song song. Có Ngã BIẾT và có cái Pháp bị BIẾT. Ngã và Pháp là hai mặt đối lập. Có Ngã tức là có Pháp, có Pháp tức là có Ngã.
Còn Cảm Ứng, cũng tạm gọi như là tính chất nhận biết của Bản thể, nhưng ở đây không có người Biết và Đối tượng bị Biết.
Nơi Bản thể, Ngã và Pháp không còn tồn tại. Tất cả vạn hữu đều chung đồng quy tụ nơi Bản thể Tuyệt Đối. Khi nhập Bản thể, vị đó đã trở thành vạn hữu. Vị đó cũng là trăng, là sao; vị đó cũng là mây, là gió, vị đó cũng là núi, là sông; vị đó cũng là con kiến bò, là chiếc lá rơi... Nghĩa là tất cả đều chung đồng không còn chia cách.
Bình thường vị đó ở trong thể tịch lặng tuyệt đối, không một điều gì có thể lay động chánh định tối thượng này. Vì thế Đức Phật đã tuyên bố:
"Khi ta nhập định, ta không nghe cả tiếng sét đánh chết con bò gần đấy!"
Tuy nhiên, khi cần tìm hiểu điều gì, vị ấy hướng tâm đến đó, lập tức cái cảm ứng xuất hiện.
Ví dụ, một bậc thầy chứng đạo, muốn tìm hiểu việc làm của một người đệ tử ở xa, vị đó nhập định vào Bản thể. Lập tức vị đó trở thành duy nhất với đệ tử, biết rõ mọi ý nghĩ việc làm của đệ tử. Cái Biết mà người Biết và đối tượng bị Biết đã trở thành duy nhất, gọi là CẢM ỨNG. Tuy vẫn biết mà Ngã và Pháp không còn.
Cái cảm ứng này không bị thời gian và không gian chia cách.
Ví dụ, khi cần tìm hiểu đời sống của Đức Phật, vị đạt đạo nhập định vào Bản thể, lập tức vị đó trở thành duy nhất với Đức Phật trong thời tại thế cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm. Nơi sự duy nhất này, vị đó sống trở lại, cảm nhận trở lại những gì Đức Phật đã trải qua trong suốt kiếp sống cuối cùng của mình. Từ khi đản sinh, trưởng thành, xuất gia, tu tập, thành đạo, độ sinh, nhập diệt. Và vị đó sẽ thấy rằng Đức Phật, trên bước đường hoằng hóa, gặp khó khăn chống đối gấp mười lần những gì kinh sách kể lại.
Thực ra khi còn an trụ ở Thức ấm, nếu không có vị thầy kinh nghiệm hướng dẫn, Hành giả sẽ lầm tưởng đó là Niết Bàn vì cảnh giới của Thức ấm và Niết Bàn Tuyệt Đối không có ranh giới rõ rệt. Nó giống như dòng sông đã đổ về tới cửa biển chứ chưa phải là biển, cũng mênh mông hùng vĩ nhưng chưa phải là khơi xa.
Chúng ta ví dụ vọng tưởng như những mạch nước nhỏ, Sơ thiền như dòng suối, nhiều dòng suối dồn lại thành dòng sông của Nhị thiền, nhiều dòng sông dồn lại thành con sông lớn của Tam thiền, và sự an trụ Thức ấm cuối cùng chính là chỗ dòng sông lớn đã về đến cửa biển .
Khi bỏ cửa biển để vào hẳn đại dương của Bản Thể Tuyệt Đối, Hành giả trở thành một Đấng Giác Ngộ ALaHán siêu việt cả tam giới, giải thoát sinh tử luân hồi. Thường thì đức phật lấy Tam Minh hay Lục Thông để xác định sự giải thoát. Vị đó phải đủ khả năng nhớ lại vô lượng kiếp của mình -Túc Mạng Minh- , quan sát được những kiếp luân hồi của mọi chúng sinh và thấy rõ sự chi phối rất chặt chẽ của luật Nghiệp báo lên tất cả vạn hữu - Thiên Nhãn Minh - có khả năng phi hành biến hoá tự tại như phân một thân thành ngàn thân, biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia, hiện ra lửa ra nước...
Chúng ta xét lại quá trình dài của sự tu hành và thấy rằng chính cái Chú Ý được đưa về đâu sẽ là đầu mối của mọi việc. Nếu cái Chú Ý chạy ra ngoài hoặc chạy theo vọng tưởng thì đó là sự mê muội. Nếu cái Chú Ý bắt đầu lui lại để tách khỏi vọng tưởng thì đó là bắt đầu sự tu hành. Tuy nhiên không phải cái Chú Ý luôn luôn dễ được điều khiển, hay nói đúng hơn, cái Ý Niệm Chủ Tể điều khiển cái CHÚ Ý không phải luôn luôn giữ vững lập trường ban đầu. Do sự hoạt động chằng chịt phức tạp bên trong Vô thức tác động khiến cho cái Ý Niệm-Chủ Tể khi muốn thế này khi muốn thế khác. Ví dụ, trong lúc hứng khởi phát tâm tu hành, Ý Niệm -Chủ tể đưa cái Chú Ý lui khỏi vọng tưởng, nhưng sau đó, Ký ức chứa đầy sự ham vui đã tác động đến và Ý Niệm -Chủ -Tể lại đưa cái Chú Ý chạy ra ngoại cảnh. Thế nên một người giữ được lập trường tu hành một cách vững vàng có nghĩa là Ký ức của người ấy đã nhiều lần ghi dấu sự cương quyết thoát khỏi cám dỗ, dể duôi, sân hận... Chúng ta phải tích lũy công hạnh giữ gìn sự vô nhiễm lâu ngày để tạo thành những chủng tử tốt ghi trong Ký ức. Đó là một trong những yếu tố cực kì quan trọng trong việc tu hành.
Ngoài ra sự chi phối của nghiệp là vô cùng lớn với Ý Niệm-Chủ Tể. Sự kính trọng Bậc Thánh, sự giúp đỡ người chân tu, tâm từ bi thương yêu chúng sinh, lòng khiêm hạ... chính là những cái nhân để tạo thành một Ý Niệm-Chủ Tể tốt đẹp và kiên trì trong việc giữ cái Chú Ý lui ra sau.
Chúng ta thấy có người dễ tu, có người khó tu chính là do nhiều yếu tố phức tạp bên trong Vô thức đã tạo nên một Ý-Niệm - Chủ -Tể như thế nào. Ví dụ như có một người tinh thần bạc nhược, làm cái gì cũng hay bỏ dở. Người đó cũng biết nhược điểm của mình và muốn khắc phục, nhưng không thể làm được vì không thể hiểu tại sao không thể cuơng quyết được. Hay nói đúng hơn là cái Ý Niệm - Chủ Tể không đưa cái Chú Ý vào việc gì lâu bền được. Người đó tự thấy hổ thẹn. Những người khác thì chê trách. Nhưng không ai làm gì khác hơn được. Gặp trường hợp như vậy, chúng ta đừng ở đó mà chê trách, phải khuyên người đó gây nhân lành mới. Nhân mới là kiên trì từng chút làm việc thiện, kiên trì từng chút lễ phật mỗi ngày. Qua vài năm sau, sự kiên trì mới bắt đầu trở thành tính chất trong tâm.
Sự tu hành cũng thế, muốn thành tựu sự tinh tấn bền bĩ, biết bao nhiêu công hạnh phải được xây đắp lâu dài. Người chưa đủ phước tự nhiên thiếu sự tinh tấn, muốn tinh tấn lắm mà không cách nào làm được. Đừng trách họ, hãy giúp họ gây tạo nhân lành để sửa lại sự khiếm khuyết đó .
6. XUẤT NHẬP ĐỊNH LÀ GÌ ?
Mỗi vị tu hành tùy theo trình độ của mình mà có sức định sâu cạn khác nhau. Có người vượt được Thọ ấm, có người vượt được Tưởng ấm. Cũng có vị đã vượt hẳn Năm Ấm và trở thành bậc Giác ngộ đồng với chư Phật.
Người đã vượt khỏi Năm Ấm có thể tùy ý nhập định bỏ Năm Ấm để an trụ Bản thể, hoặc từ Bản thể lui trở lại sống với Năm Ấm một cách tự tại.
Khi vượt Năm Ấm để an trụ Bản thể, chúng ta gọi là nhập định. Còn từ Bản thể lui lại sử dụng Năm Ấm, chúng ta gọi là xuất định.
Có một số người tu thiền chủ trương không xuất không nhập. Đây là người đang tu chánh niệm tỉnh giác, cố gắng giữ sự tỉnh giác thường xuyên trong mọi oai nghi. Như vậy họ cảm thấy không có gì để nhập hay xuất. Tuy nhiên, nếu họ giữ được chánh niệm lâu ngày vọng tưởng không khởi, dần dần họ sẽ vượt qua từng ấm một cách rõ rệt. Họ sẽ có khả năng nhập định để vượt một vài ấm hoặc lui lại xuất định để sử dụng các ấm đó bình thường. Ví dụ, khi họ nhiếp tâm sâu thẳm, họ không còn thấy có thân (vượt Sắc ấm), chỉ còn một cái tâm thanh tịnh không hình không tướng. Nhưng họ có thể lui lại trải Ý thức ra Sắc ấm và thấy có thân như cũ. Đó cũng là nhập xuất định ở mức độ cạn. Ví dụ, một người nhiếp tâm sâu thẳm, vượt khỏi Tưởng ấm, không còn nghe thấy ngoại cảnh, nhập vào Vô thức. Và vị này cũng có thể lui lại, trải Ý thức ra ba ấm Sắc, Thọ, Tưởng để sống bình thường như mọi người.
Người chưa có kinh nghiệm vượt khỏi các ấm thì không hề có khái niệm nhập xuất định. Họ cố gắng giữ được chánh niệm không nhập không xuất lâu ngày cũng tốt
Sưu tầm

Bề mặt ngã chấp <==
1. VƯỢT SẮC ẤM
Người tu thiền đến giai đoạn khi dụng công không còn vọng tưởng. Có thể kéo dài trạng thái tĩnh lặng hoàn toàn không vọng tưởng này suốt vài tiếng đồng hồ, lúc đó, Ý thức tự nhiên bỏ bớt Sắc ấm chỉ còn trụ vào Thọ ấm và Tưởng ấm.
Còn cái Chú Ý đã bắt đầu lọt sâu một chút vào Vô thức. Vì Ý thức đã bỏ bớt Sắc ấm nên hành giả không còn thấy có thân nữa, chỉ nghe một sự thanh tịnh không hình không tướng mà thôi.
Và cũng vì Ý thức bỏ bớt Sắc ấm trụ mạnh nơi Thọ và Tưởng ấm nên hai ấm này có sức mạnh hơn bình thường. Lúc đó, Thọ ấm khởi lên hỷ lạc mạnh mẽ tràn ngập cả tâm hồn. Tưởng ấm cũng dễ khởi lên những hình ảnh lạ như hoa sen, hào quang, Đức Phật, cõi trời, xuất hồn... Nếu hành giả đắm luyến nơi cảm giác hỷ lạc tức là kẹt lại Thọ ấm, ái kiến sẽ tăng trưởng (Thọ luôn luôn sinh ra ái), đường giải thoát bị ngăn chặn. Thế nên, tuy có cảm giác hỷ lạc khởi lên, hành giả không nên chú ý.
Nếu hành giả đắm luyến nơi hình ảnh lạ như hào quang, Đức Phật, cõi trời, xuất hồn... sẽ khởi sinh tà kiến, cho mình chứng đắc, lấy những hình ảnh đó làm sở đắc, quên đi mục đích giải thoát cuối cùng.
Khi vượt được Sắc ấm, trạng thái định này được gọi là Không Vô biên xứ định. Mức độ định này tương đương với sơ thiền. Tuy nhiên giữa Định và Thiền có khác nhau về cách dụng công. Ở phương pháp tu định, nhờ chánh niệm tỉnh giác thuần thục, vọng tưởng không khởi, hành giả tự nhiên bước vào Không Vô biên xứ định. Lúc đó cái Chú Ý ở trong Vô thức ,cái biết dường như không trụ vào đâu, nhưng thật ra đã theo cái Chú Ý để quay vào Vô thức.
Còn nơi sơ thiền, hành giả nhiếp tâm trong hơi thở và CÁI BIẾT trụ vào hơi thở tại ống mũi.
Nếu cái biết không trụ, gọi là tu định.
Nếu cái biết có trụ vào hơi thở, gọi là tu thiền.
Tuy nhiên hơi thở lúc này nhỏ nhiệm như một sợi chỉ, êm ái, sáng tỏ. Tâm thay vì trải rộng, đã thu thật nhỏ vào hơi thở, giống như một mũi khoan xuyên qua từng ấm. Cái ưu điểm của phương pháp nhiếp tâm vào hơi thở là khống chế được sự quậy phá của Tưởng ấm, không cho Tưởng ấm hiện ra những ảo ảnh. Còn tu định, tâm không trụ vào một điểm nào, trải rộng thênh thang, nhưng khó khống chế được sự quậy phá của Tưởng ấm.
Chúng ta gọi là Vượt Sắc ấm ở phần thô, còn cái Sắc ấm siêu hình (linh hồn) thì vẫn còn tồn tại. Phải Vượt khỏi Hành ấm thì linh hồn mới hết.
2. VƯỢT THỌ ẤM
Khi hành giả tiếp tục kéo dài ngồi bất động trong tư thế kiết già, không để ý vào hỷ lạc của Thọ ấm, không bị những ảo ảnh của Tưởng ấm hiện ra, cuối cùng Ý thức sẽ bỏ luôn Thọ ấm, chỉ còn trụ ở Tưởng ấm.
Vì Ý thức đã bỏ Thọ ấm nên lúc này hỷ lạc biến mất, chỉ có cái an vui tế nhị của sự thanh tịnh.
Cái an vui tế nhị này cũng là thuộc về Thọ ấm ở phần sâu. Hành giả được gọi là vượt Thọ ấm, thực ra chỉ là vượt Thọ ấm phần thô bên ngoài Ý thức conscious, còn cái Thọ ấm vi tế khuất sâu trong Vô thức vẫn chưa hết.
Ở đây, cái Chú Ý chìm thêm một chút vào Vô thức, còn cái Ý thức vẫn trải rộng hơn, vẫn còn phủ Tưởng ấm. Chúng ta nên nhớ, cái Chú Ý tập trung vào một đối tượng hẹp, còn cái Ý thức thì trải một vùng rộng chung quanh cái Chú Ý. Ví dụ khi cái CHÚ Ý còn chạy theo cảnh, theo vọng tưởng thì Ý thức tỏa rộng ở Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, năm thức trước. Khi cái Chú Ý chìm sâu một chút vào Vô thức của Sơ thiền thì Ý thức cũng lui theo và bỏ bớt Sắc ấm. Khi cái Chú Ý chìm sâu thêm một chút nữa thì Ý thức lại đi theo mà bỏ bớt Thọ ấm để chỉ còn lại Tưởng ấm. Chúng ta nói là còn lại Tưởng ấm không có nghĩa là Tưởng ấm còn hoạt động. Tưởng ấm phải luôn luôn dừng hoạt động thì cái Chú Ý mới chìm vào Vô thức được. Nhưng dù Tưởng ấm dừng hoạt động, Ý thức vẫn còn bao phủ phạm vi của Tưởng ấm và bao phủ cả các thần kinh giác quan. Do đó, giai đoạn này, dù ở trong định, Hành giả vẫn còn nghe âm thanh bên ngoài (dù không CHÚ Ý theo), vẫn còn thấy cảnh sắc (dù không cố ý nhìn).
Do Tưởng ấm còn nên các ảo ảnh vẫn có thể còn xuất hiện. Nếu trong Ký ức của Hành giả còn chứa những ước mơ được thấy Phật, thánh, tiên thì Tưởng ấm sẽ hiện ra những hình ảnh đó và kéo cái Chú Ý của Hành giả đi ra khỏi Vô thức trở lại.
Ở giai đoạn vượt Thọ ấm này, Hành giả đã khá tự tại, phong cách ung dung đĩnh đạc, tâm hồn rất thanh thản, ái kiến (Tình cảm) lắng dịu vì không có thọ để kích động ái; đạo đức tương đối hoàn chỉnh. Ngang đây, Hành giả đã tăng trưởng trực giác, có thể đoán biết một số chuyện quá khứ vị lai khái quát, nhưng không chi tiết lắm, có thể đoán biết một phần ý nghĩ thô của người khác, có thể dùng năng lực bằng tay chữa một số bệnh thông thường. Hành giả cũng có thể ngồi kiết già bất động chờ cái chết đến, nhưng chưa có thể chết theo ý muốn, chỉ thụ động chờ mà thôi, dĩ nhiên là biết trước lúc chết.
Đây là nhị thiền, Thức vô biên xứ định.
Nếu Hành giả dùng hơi thở làm phương tiện thì lúc này cái Chú Ý dồn hết vào hơi thở; cả cái Chú Ý và hơi thở đều nhỏ như một sợi tơ và rất vi diệu, đó gọi là Nhị thiền.
Nếu Hành giả không chú ý vào hơi thở, chỉ an trụ trong trạng thái rỗng rang thanh tịnh tự nhiên thì sẽ thấy tâm mình phủ trùm cả trời đất. Đó gọi là Thức Vô Biên Xứ Định .
Khái niệm về thiền và định theo kinh Phật có thể được hiểu như sau: Thiền là xoay lại giữ sự thanh tịnh nơi chính mình, thường là phải dùng thêm phương tiện hơi thở. Định là thả tâm phủ trùm pháp giới. Thiền chú trọng nơi phẩm, Định chú trọng nơi lượng.
Thường thì đến những giai đoạn này, Hành giả cảm thấy mình không phải dụng công nữa mà tâm vẫn tự nhiên thanh tịnh nhẹ nhàng. Vì thế dễ phát sinh tâm tự mãn thầm kín. Cần phải có thiện tri thức hướng dẫn để Hành giả biết mình còn kém, bỏ tâm tự mãn và cố gắng dụng công tiếp.
3. VƯỢT TƯỞNG ẤM
Ở Nhị Thiền, Ý thức còn hiện diện nơi Tưởng ấm. Nếu hành giả an trụ Nhị thiền thật lâu từ một ngày đến bảy ngày, Tưởng ấm sẽ được vượt qua.
Vì các thần kinh giác quan thuộc về Ý thức, nên khi vượt khỏi Tưởng ấm, ra khỏi Ý thức Hành giả không còn nghe thấy ngoại cảnh bên ngoài. Đây là chỗ mà một đạo sĩ Ấn Độ khoe rằng :
"Khi nhập định tôi không còn nghe thấy tiếng của năm trăm cỗ xe bò đi ngang".
Khi vượt khỏi Tưởng ấm, Ý thức sẽ nhập vào cõi tâm Vô thức của Hành ấm ! Lúc này những hoạt động bí mật kỳ lạ của Hành ấm được khám phá rõ ràng Hành giả biết rõ mọi hiện tượng như mộng du, đồng cốt, giáng cơ... đều do Hành ấm đạo diễn. Do đó những tà kiến sai lầm bị phá vỡ rất nhiều.
Ở giai đoạn này Hành ấm phát huy đại thần lực; Hành giả có thể đằng vân, phi hành, biến hóa, phân thân, ẩn thân, hóa ra lửa, hiện ra hào quang, làm thành mưa bão... Năng lực của Hành ấm phá vỡ những quy luật của vật lý thông thường.
Qua đây chúng ta có thể giả thuyết rằng phải chăng những người ngoài hành tinh với dĩa bay của họ đã áp dụng được nguyên tắc của tâm Vô thức nên họ có những phương pháp di chuyển vượt khỏi tầm hiểu biết của khoa học hiện nay. Những tài liệu gần đây cho thấy rằng trong các cuộc tiếp xúc với người ngoài trái đất (điển hình là họa sĩ Nga Malachev), họ đều có một khả năng tâm linh rất mạnh. Phải chăng nơi hành tinh của họ pháp môn thiền định đã phổ cập đến cao độ ? Phải chăng những tính chất siêu việt của Hành ấm được áp dụng vào kỹ thuật ? Phải chăng nền văn minh của họ là sự phát triển đồng bộ duy nhất của cả ba mặt: khoa học, thiền định và đạo đức ?
Trở lại vấn đề, khi mà Ý thức conscious đã vượt ra khỏi Tưởng ấm thì có nghĩa là cái CHÚ Ý đã vào sâu trong Hành ấm ở Vô thức. Đến đây mới đáng gọi là nhập định thật sự vì Hành giả không còn thấy, không còn nghe, không còn tiếp xúc với ngoại cảnh. Những ý niệm sâu kín của Hành ấm bị hóa giải nên tâm cực kỳ yên tĩnh.
Do hoàn toàn không còn bị Tưởng ấm làm ngăn ngại nên Hành ấm và Thức ấm phát huy đại thần lực tiềm tàng của mình. Thức ấm có thể biết rất nhiều chuyện nếu muốn, có thể nhớ vài kiếp quá khứ và tiên tri chuyện cả trăm năm sau; có thể đoán biết tâm của chúng sinh dù ở cách xa; còn Hành ấm, tuy đã có thể khởi thần thông biến hóa, nhưng vì cái Chú Ý đang trụ ở đây và có vẻ đang canh giữ nên Hành ấm vẫn còn thụ động. Hành giả thích ngồi nhập định bất động hơn là khởi dụng làm chuyện này chuyện nọ.
Ở trình độ này, Hành giả có thể dùng sức định để tự tử, nghĩa là muốn sống hay chết tùy ý. Ngoài ra, nếu có tác ý Hành giả có thể lưu lại nhục thân không hoại rất lâu, nhà sư Vũ Khắc Minh Việt Nam hoặc các vị sư Trung Hoa, Tây Tạng thường lưu lại nhục thân như thế.
Trình độ này là Vô Sở Hữu Xứ Định hoặc tương đương với giai đoạn đầu của Tam Thiền . Vì Vô thức rất là dài nên rất khó vượt qua hết hẳn. Hành giả an trụ cái Chú Ý vào cuối Hành ấm nên Ý thức đã bỏ hẳn Tưởng ấm, nếu muốn, chúng ta có thể nói rằng ý thức đã nhập vào Vô thức. Lúc này, Tình cảm đã bị kiểm soát hoàn toàn, những thương ghét của trần gian không còn tồn tại trong tâm nữa.
Lúc này, Hành giả đã chuyển sang một nhãn quan mới, một “hệ” mới để nhìn vạn hữu. Hành giả thấy vạn hữu như là hư vô. Tâm tham đắm trần gian dường như đã hết. Chúng ta dùng chữ “dường như”, vì ở trong Ký ức vẫn còn lưu lại những ý niệm tham đắm từ quá khứ và có thể khởi ra lại nếu gặp sự kích động nào đó.
4. VƯỢT HÀNH ẤM
Khi chưa vượt khỏi Hành ấm, hành giả vẫn còn biểu lộ nhiều hình thức chấp ngã vì Hành ấm là gốc của Bản ngã.
Ví dụ, hành giả thích khoe khoang thần thông, còn những ước muốn thầm kín. Nhưng khi vượt khỏi Hành ấm, chỉ còn Thức ấm, hành giả là những người đạo đức tuyệt vời vì gốc của Bản ngã đã bị vượt qua. Dĩ nhiên Thức ấm còn thì nhân luân hồi chưa hết, nhưng đến đây, hành giả đã xứng đáng được xưng tụng là một vị Thánh cao cả giữa trần gian. Đây là một ẩn sĩ chân chính không còn khoe khoang phô trương, không còn một ham muốn nhỏ nhặt nào cho tự kỷ.
Lúc này Thức ấm phát huy đại dụng, trùm phủ cả không gian địa cầu hoặc cả một hệ tinh. Hành giả có thể nhớ lại một số kiếp quá khứ và thấy trước một số kiếp vị lai. Hành giả có thể tìm hiểu bất cứ chuyện gì xảy ra trên cuộc đời, bởi vì Thức ấm là cái biết trực giác soi thấu mọi ngõ ngách của trần gian.
Vì Hành ấm không còn bị cái Chú Ý canh giữ nên có thể tích cực khởi đại dụng. Hành giả có thể tự tại phi hành, biến hóa. Chúng ta gọi là vượt qua Hành ấm không có nghiã là không còn Hành ấm, mà có nghĩa là Hành ấm đã thuần hóa không khởi ý niệm nữa nên cái Chú Ý đã không còn cần thiết đứng ở đấy. Chúng ta nên nhớ rằng Hành ấm không phải khởi từng ý niệm một lúc mà khởi vài ngàn ý niệm đồng thời. Thế nên khi Hành ấm đã yên lắng thì đó là một sự kiên phi thường.
Nếu lúc này Hành giả buông bỏ cái CHÚ Ý khiến tâm trùm phủ thênh thang thì gọi là Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ Định. Ngang cái định vĩ đại này, vì cái Chú Ý không còn nên Hành giả không còn đường để đi tới nữa. Đó là chỗ dừng lại của ông Uất đầu lam Phất mà đức Phật đã đạt được và mơ hồ cảm nhận nó chưa phải cứu kính.
Nếu Hành giả tiếp tục giữ hơi thở, cái Chú Ý bám vào hơi thở thì còn có thể tiến hơn nữa.
Ở giai đoạn vượt khỏi Hành ấm này, Hành giả lại chuyển sang một nhãn quan khác, một “hệ” khác nữa. Hành giả thấy vạn hữu, dù là cây đá, cũng đều làm bằng chất liệu của tâm, tất cả đều là tâm. Vì thế, chỉ bằng tâm của mình, hành giả có thể tác động vào thế giới vật chất bên ngoài, có thể bay lên cao, có thể tàng hình, di chuyển mọi vật từ xa, hiện mọi cái từ có thành không, từ không thành có. Hành giả không còn nhận biết vạn hữu bằng giác quan tai mắt nữa mà bằng tâm Vô thức vi diệu của mình, ngồi ở đây mà biết cả mười phương tám hướng.
5. NHẬP BẢN THỂ TUYỆT ĐỐI (VƯỢT THỨC ẤM)
Ở Tam thiền, chưa vượt qua cõi tâm Vô thức, hơi thở hành giả nhỏ như một hạt bụi. Hành giả tiếp tục giữ kỹ hơi thở và an trụ tam thiền suốt bảy ngày, hoặc một tháng, hoặc ba tháng, tùy theo căn cơ sai biệt. Cuối cùng, dù luôn luôn giữ hơi thở, hơi thở biến mất.
Hơi thở biến mất, CÁI BIẾT biến mất và Bản ngã biến mất. Thức ấm đã bị vượt qua.
Bản thể tuyệt đối hiện bày.
Dùng ngôn ngữ để diễn tả Bản thể tuyệt đối là một việc làm vô cùng sai lầm. Sự thanh tịnh cực độ của Bản thể không thể diễn tả bằng ngôn ngữ. Tuy nhiên, vì có quá nhiều người hiểu lầm Niết Bàn của Đạo Phật nên chúng ta gượng gạo diễn tả vài tính chất của Niết Bàn, mong quý độc giả thông cảm, dùng trực giác để thầm cảm thông.
Khi Thức ấm còn thì CÁI BIẾT còn.
Khi Thức ấm đã vượt qua được thì CÁI BIẾT cũng biến mất. Tuy nhiên lúc này cái CẢM ỨNG của Bản thể sẽ xuất hiện.
BIẾT là gì ? CẢM ỨNG là gì ?
Có hai cái BIẾT khác nhau, cái BIẾT của Ý thức và cái BIẾT của Vô thức, dù cả hai đều thuộc về Thức ấm.
Ý thức biết nhờ suy luận, phân biệt, học hỏi và giác quan tiếp xúc.
Vô Thức biết nhờ trực giác, không cần suy luận, không cần giác quan.
Tuy nhiên, gọi là BIẾT khi có người BIẾT và đối tượng BIẾT. Ở đây ngã và pháp được tồn tại song song. Có Ngã BIẾT và có cái Pháp bị BIẾT. Ngã và Pháp là hai mặt đối lập. Có Ngã tức là có Pháp, có Pháp tức là có Ngã.
Còn Cảm Ứng, cũng tạm gọi như là tính chất nhận biết của Bản thể, nhưng ở đây không có người Biết và Đối tượng bị Biết.
Nơi Bản thể, Ngã và Pháp không còn tồn tại. Tất cả vạn hữu đều chung đồng quy tụ nơi Bản thể Tuyệt Đối. Khi nhập Bản thể, vị đó đã trở thành vạn hữu. Vị đó cũng là trăng, là sao; vị đó cũng là mây, là gió, vị đó cũng là núi, là sông; vị đó cũng là con kiến bò, là chiếc lá rơi... Nghĩa là tất cả đều chung đồng không còn chia cách.
Bình thường vị đó ở trong thể tịch lặng tuyệt đối, không một điều gì có thể lay động chánh định tối thượng này. Vì thế Đức Phật đã tuyên bố:
"Khi ta nhập định, ta không nghe cả tiếng sét đánh chết con bò gần đấy!"
Tuy nhiên, khi cần tìm hiểu điều gì, vị ấy hướng tâm đến đó, lập tức cái cảm ứng xuất hiện.
Ví dụ, một bậc thầy chứng đạo, muốn tìm hiểu việc làm của một người đệ tử ở xa, vị đó nhập định vào Bản thể. Lập tức vị đó trở thành duy nhất với đệ tử, biết rõ mọi ý nghĩ việc làm của đệ tử. Cái Biết mà người Biết và đối tượng bị Biết đã trở thành duy nhất, gọi là CẢM ỨNG. Tuy vẫn biết mà Ngã và Pháp không còn.
Cái cảm ứng này không bị thời gian và không gian chia cách.
Ví dụ, khi cần tìm hiểu đời sống của Đức Phật, vị đạt đạo nhập định vào Bản thể, lập tức vị đó trở thành duy nhất với Đức Phật trong thời tại thế cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm. Nơi sự duy nhất này, vị đó sống trở lại, cảm nhận trở lại những gì Đức Phật đã trải qua trong suốt kiếp sống cuối cùng của mình. Từ khi đản sinh, trưởng thành, xuất gia, tu tập, thành đạo, độ sinh, nhập diệt. Và vị đó sẽ thấy rằng Đức Phật, trên bước đường hoằng hóa, gặp khó khăn chống đối gấp mười lần những gì kinh sách kể lại.
Thực ra khi còn an trụ ở Thức ấm, nếu không có vị thầy kinh nghiệm hướng dẫn, Hành giả sẽ lầm tưởng đó là Niết Bàn vì cảnh giới của Thức ấm và Niết Bàn Tuyệt Đối không có ranh giới rõ rệt. Nó giống như dòng sông đã đổ về tới cửa biển chứ chưa phải là biển, cũng mênh mông hùng vĩ nhưng chưa phải là khơi xa.
Chúng ta ví dụ vọng tưởng như những mạch nước nhỏ, Sơ thiền như dòng suối, nhiều dòng suối dồn lại thành dòng sông của Nhị thiền, nhiều dòng sông dồn lại thành con sông lớn của Tam thiền, và sự an trụ Thức ấm cuối cùng chính là chỗ dòng sông lớn đã về đến cửa biển .
Khi bỏ cửa biển để vào hẳn đại dương của Bản Thể Tuyệt Đối, Hành giả trở thành một Đấng Giác Ngộ ALaHán siêu việt cả tam giới, giải thoát sinh tử luân hồi. Thường thì đức phật lấy Tam Minh hay Lục Thông để xác định sự giải thoát. Vị đó phải đủ khả năng nhớ lại vô lượng kiếp của mình -Túc Mạng Minh- , quan sát được những kiếp luân hồi của mọi chúng sinh và thấy rõ sự chi phối rất chặt chẽ của luật Nghiệp báo lên tất cả vạn hữu - Thiên Nhãn Minh - có khả năng phi hành biến hoá tự tại như phân một thân thành ngàn thân, biến mất chỗ này hiện ra chỗ kia, hiện ra lửa ra nước...
Chúng ta xét lại quá trình dài của sự tu hành và thấy rằng chính cái Chú Ý được đưa về đâu sẽ là đầu mối của mọi việc. Nếu cái Chú Ý chạy ra ngoài hoặc chạy theo vọng tưởng thì đó là sự mê muội. Nếu cái Chú Ý bắt đầu lui lại để tách khỏi vọng tưởng thì đó là bắt đầu sự tu hành. Tuy nhiên không phải cái Chú Ý luôn luôn dễ được điều khiển, hay nói đúng hơn, cái Ý Niệm Chủ Tể điều khiển cái CHÚ Ý không phải luôn luôn giữ vững lập trường ban đầu. Do sự hoạt động chằng chịt phức tạp bên trong Vô thức tác động khiến cho cái Ý Niệm-Chủ Tể khi muốn thế này khi muốn thế khác. Ví dụ, trong lúc hứng khởi phát tâm tu hành, Ý Niệm -Chủ tể đưa cái Chú Ý lui khỏi vọng tưởng, nhưng sau đó, Ký ức chứa đầy sự ham vui đã tác động đến và Ý Niệm -Chủ -Tể lại đưa cái Chú Ý chạy ra ngoại cảnh. Thế nên một người giữ được lập trường tu hành một cách vững vàng có nghĩa là Ký ức của người ấy đã nhiều lần ghi dấu sự cương quyết thoát khỏi cám dỗ, dể duôi, sân hận... Chúng ta phải tích lũy công hạnh giữ gìn sự vô nhiễm lâu ngày để tạo thành những chủng tử tốt ghi trong Ký ức. Đó là một trong những yếu tố cực kì quan trọng trong việc tu hành.
Ngoài ra sự chi phối của nghiệp là vô cùng lớn với Ý Niệm-Chủ Tể. Sự kính trọng Bậc Thánh, sự giúp đỡ người chân tu, tâm từ bi thương yêu chúng sinh, lòng khiêm hạ... chính là những cái nhân để tạo thành một Ý Niệm-Chủ Tể tốt đẹp và kiên trì trong việc giữ cái Chú Ý lui ra sau.
Chúng ta thấy có người dễ tu, có người khó tu chính là do nhiều yếu tố phức tạp bên trong Vô thức đã tạo nên một Ý-Niệm - Chủ -Tể như thế nào. Ví dụ như có một người tinh thần bạc nhược, làm cái gì cũng hay bỏ dở. Người đó cũng biết nhược điểm của mình và muốn khắc phục, nhưng không thể làm được vì không thể hiểu tại sao không thể cuơng quyết được. Hay nói đúng hơn là cái Ý Niệm - Chủ Tể không đưa cái Chú Ý vào việc gì lâu bền được. Người đó tự thấy hổ thẹn. Những người khác thì chê trách. Nhưng không ai làm gì khác hơn được. Gặp trường hợp như vậy, chúng ta đừng ở đó mà chê trách, phải khuyên người đó gây nhân lành mới. Nhân mới là kiên trì từng chút làm việc thiện, kiên trì từng chút lễ phật mỗi ngày. Qua vài năm sau, sự kiên trì mới bắt đầu trở thành tính chất trong tâm.
Sự tu hành cũng thế, muốn thành tựu sự tinh tấn bền bĩ, biết bao nhiêu công hạnh phải được xây đắp lâu dài. Người chưa đủ phước tự nhiên thiếu sự tinh tấn, muốn tinh tấn lắm mà không cách nào làm được. Đừng trách họ, hãy giúp họ gây tạo nhân lành để sửa lại sự khiếm khuyết đó .
6. XUẤT NHẬP ĐỊNH LÀ GÌ ?
Mỗi vị tu hành tùy theo trình độ của mình mà có sức định sâu cạn khác nhau. Có người vượt được Thọ ấm, có người vượt được Tưởng ấm. Cũng có vị đã vượt hẳn Năm Ấm và trở thành bậc Giác ngộ đồng với chư Phật.
Người đã vượt khỏi Năm Ấm có thể tùy ý nhập định bỏ Năm Ấm để an trụ Bản thể, hoặc từ Bản thể lui trở lại sống với Năm Ấm một cách tự tại.
Khi vượt Năm Ấm để an trụ Bản thể, chúng ta gọi là nhập định. Còn từ Bản thể lui lại sử dụng Năm Ấm, chúng ta gọi là xuất định.
Có một số người tu thiền chủ trương không xuất không nhập. Đây là người đang tu chánh niệm tỉnh giác, cố gắng giữ sự tỉnh giác thường xuyên trong mọi oai nghi. Như vậy họ cảm thấy không có gì để nhập hay xuất. Tuy nhiên, nếu họ giữ được chánh niệm lâu ngày vọng tưởng không khởi, dần dần họ sẽ vượt qua từng ấm một cách rõ rệt. Họ sẽ có khả năng nhập định để vượt một vài ấm hoặc lui lại xuất định để sử dụng các ấm đó bình thường. Ví dụ, khi họ nhiếp tâm sâu thẳm, họ không còn thấy có thân (vượt Sắc ấm), chỉ còn một cái tâm thanh tịnh không hình không tướng. Nhưng họ có thể lui lại trải Ý thức ra Sắc ấm và thấy có thân như cũ. Đó cũng là nhập xuất định ở mức độ cạn. Ví dụ, một người nhiếp tâm sâu thẳm, vượt khỏi Tưởng ấm, không còn nghe thấy ngoại cảnh, nhập vào Vô thức. Và vị này cũng có thể lui lại, trải Ý thức ra ba ấm Sắc, Thọ, Tưởng để sống bình thường như mọi người.
Người chưa có kinh nghiệm vượt khỏi các ấm thì không hề có khái niệm nhập xuất định. Họ cố gắng giữ được chánh niệm không nhập không xuất lâu ngày cũng tốt