CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM
Đã gửi: 21:09, 24/02/10
CUỘC CHIẾN TÂM LINH NGÀN NĂM CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM .
Loạt bài khảo cứu Lịch sử của dienbatn .
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Thơ của một ẩn sĩ .
Lời nói đầu : Chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội , dân tộc Việt Nam ta đã trải qua một chặng đường rất dài đầy đau thương nhưng vô cùng oanh liệt trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng Đất nước . Trong cuộc chiến ngàn năm đó , cuộc chiến về Tâm linh cũng cực kỳ quan trọng , nhiều khi mang tính chất sống còn . Rất nhiều tài liệu đã viết về vấn đề này , dienbatn chỉ xin hệ thống lại để chúng ta có thể nhận thấy tính chất quan trọng của cuộc chiến Tâm linh này . Thân ái . dienbatn .
1/Bài tham khảo thứ nhất :
NHẬN DIỆN CAO BIỀN .
Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 339, tháng 9-2009
Đỗ Thiếu Khang
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, chúng ta cũng nên biết về một nhân vật có nhiều quan hệ với đất La Thành của ngàn năm trước. Đó là quan “toàn quyền” Cao Biền, một thầy “phù thuỷ” chính hiệu ở tầm cao “chót vót”, một thầy địa lý “siêu hạng”! Bóng dáng ông dường như vẫn còn lởn vởn trong tâm lý dân gian hễ gặp dịp là lại bùng lên: nơi này có “trấn yểm”, nơi kia có “lời phán” của Cao Biền… Chuyện đâu xa, đền Quán Đôi (Hà Nội) từ lâu vốn vắng khách, năm 2006 nhờ vụ “cọc gỗ lim trấn yểm” dưới lòng sông Tô Lịch của Cao Biền, đền bỗng trở nên nhộn nhịp.
Dấu ấn của Cao Biền ở Giao Châu .
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
Đánh lui quân Nam Chiếu .
Nam Chiếu là vương quốc của người Bạch và người Di (nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay) đã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ VII và thể kỷ IX sau Công nguyên.
Người Bạch là cư dân nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhị Hải. Mỗi bộ lạc của người Bạch là một tiểu Vương quốc, được gọi là chiếu; tất cả có 6 chiếu: Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá; trong 6 chiếu đó Mông Xá ở về phía Nam. Vì thế năm 737 khi vua của chiếu Mông Xá là Bì La Cáp lần lượt thống nhất các chiếu kia thành lập một vương quốc mới thì đặt tên là Nam Chiếu.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
“Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn… Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông Quốc rồi lại đổi lại là Đại Lễ…”
Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam, xuống Lào, vào Thái Lan, rồi ngược về phía bắc tới Tứ Xuyên (Trung Quốc). Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh (Trung Quốc). Năm Kỷ Dậu (829), quân Nam Chiếu chiếm đóng Thành Đô (Trung Quốc).
Năm 865 (Ất Dậu), Cao Biền được Đường Ý Tông cử làm đại tướng cùng giám quận Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để dẹp quân Nam Chiếu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Năm Bính Tuất – 866 (Đường Hàm Thông, thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô Thống Giao Châu, Giám trận nhà Đường là Trần Sắc sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sống sót chạy vào Châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây Châu Thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc, khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người ”.
Từ đó nhà Đường đổi Giao Châu thành Tĩnh Hải Quân Tiết Trấn và để Cao Biền ở lại làm Tiết Độ Sứ.
Đắp thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Thành này ban đầu do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường Đại Tông – Lý Dự; năm 791 Triệu Xương đắp thêm; năm 808 Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hàm Thông thứ 6 (866) đời Đường Ý Tông – Lý Thôi, Cao Biền đắp lại có quy mô to lớn hơn gọi là Đại La:
“Thành có chu vi 1.982,5 trượng (H”6,6km), cao 2,6 trượng (H”8,67m), chân thành rộng 2,5 trượng (H”8,33m), nữ tường (bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn) 4 mặt cao 5,5 thước (H”1,83m), với 55 lầu vọng dịch, 6 nơi úng môn (thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành), 3 hào nước, 34 đường đi. Cao Biền còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (H”7,09km), đê cao 1,5 trượng (H”5,00m), chân đê rộng 2 trượng (H”6,66m).”
Dùng “thần quyền” và “tâm linh” nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Vốn là một tông đồ tầm cỡ của Đạo giáo, khi cai trị Giao Châu, trước ý chí quật cường của người Việt, bên cạnh việc dùng sức mạnh quân đội cùng hệ thống cai trị vô cùng ngặt nghèo, Cao Biền còn lợi dụng “thần quyền”, lợi dụng “tâm linh”, dựng lên những truyện thần kỳ nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Được thần thánh giúp đỡ.
Khi đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở, tưởng như công việc không thành. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp quả nhiên thành đắp được, sau khi đắp xong Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Kết nghĩa với anh em với thần thánh.
Ở làng Nam Trì (xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên ngày nay) có miếu thờ Lữ Gia (Thừa tướng thời Triệu Đà – Bắc thuộc lần thứ I) người Nam Trì gọi là Bảo Công và tướng Danh Lang (em kết nghĩa của Lữ Gia) được gọi là Lang Công. Theo Ngọc phả Thần tích do Hàn Lâm Đông Các Đại Học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân (1572) triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất thì:
Một lần qua đây, Cao Biền đã đến miếu tế lễ và cầu khấn rằng: “Nay ta cầm quân đi đánh giặc Nam Chiếu, hai vị thần có anh linh thì âm phù cho ta thắng giặc. Sau khi thành công hẳn được sắc phong cúng tế, hương hỏa muôn đời”
Đêm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy hai vị tướng mặc long bào, giáp ngọc long lanh, đội mũ trăm sao. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Cao Biền hỏi: “Danh tướng ở đâu đến đây?”. Một vị xưng: “Ta vốn là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Ta là Trung Lang Tế Thế, đều là đại thần của nhà Triệu hồi xưa, nay thấy Ngài đem quân đi đánh giặc, chúng ta xin tòng chinh, âm phù cho Ngài thắng giặc”.
Hôm sau Cao Biền truyền cho phụ lão, dân làng Nam Trì rằng: “Ta với hai vị tướng Thượng Đẳng Linh Thần tại đây như có nhân duyên từ trước. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm An Nam, làm cho nhân dân lầm than khổ cực, ta mang quân đi tiễu trừ giặc cướp. Qua nơi đây biết chắc là Thần linh rất thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị Thượng Đẳng Linh Thần hiện lên xin tòng chinh, âm phù cho quân ta thắng giặc ”.
“Ta với hai vị thần ấy tuy âm dương cách biệt, nhưng đã chung một huyết khí bẩm sinh. Tuy rằng Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời một Đất nên từ nay ta cùng hai vị Thần kết nghĩa anh em và muốn hai vị Thần được hưởng cúng tế vạn năm, tiếng thơm lưu truyền bất hủ”.
Có kiếm thần .
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
Có phép “tản đậu thành binh”.
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
Cưỡi diều giấy đi trấn yểm ở nhiều nơi .
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
Những truyền thuyết loại ấy tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Tất cả đều nhằm nêu bật sức mạnh ghê gớm của quan Thái thú phương Bắc. Nó thể hiện uy danh rất lớn của Cao Biền, không chỉ lúc ông đang còn cai trị tại Giao Châu mà cả khi vua Đường điều chuyển ông đi nhậm chức ở Tây Xuyên hay khi ông đã tan thành cát bụi nhưng vẫn như còn hiển hiện đâu đó trên đất này! Dám chắc những truyền thuyết ấy có bàn tay dàn dựng của Cao Biền nhưng đến mức nào và ở đâu? Không có dữ liệu lịch sử nào để xác định.
Những truyền thuyết nhằm bài bác lại .
Dân ta dường như hiểu được thâm ý của Cao Biền nên đã dựng lên những câu chuyện dân gian nhằm hạ uy thế và bài bác lại:
Sơn thánh Tản Viên .
Theo truyền thuyết khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa Thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, chém xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản Viên, định dùng chước này, nhưng Tản Viên Sơn Thánh biết được liền mắng Cao Biền rồi đi.
Đắp thành Đại La .
Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kỳ dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:
Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Ngay đêm hôm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
(Về thần Long Đỗ, có một dị bản nói rằng: khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm Thành Hoàng của Thăng Long)
Chúng tôi cho rằng sự kiện đắp thành Đại La đã có trước thời vua Lý Thái Tổ hơn một trăm năm nên truyền thuyết về thần Long Đỗ gắn với việc xây thành Đại La của Cao Biền là hợp lý hơn. Vả lại ngay trong Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ cũng có câu: Huống Cao Vương cố đô Đại La thành (Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương) để thuyết phục quần thần.
“Cao Biền dậy non”
Như trên đã nói, Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh”. Có lần Cao Biền đọc thần chú ”còn thiếu mấy câu” (hay mấy chữ gì đó), mỗi hạt đậu đã nở thành một âm binh nhưng đều còn non, đứng lên không vững, lẩy ba lẩy bẩy! Vì thế mỗi khi thấy người nào yếu sức, chân tay run rẩy, người ta sử dụng thành ngữ: “lẩy bẩy như quân Cao Biền dậy non”
Cũng là truyện “tản đậu thành binh”, nhưng có cách kể khác: Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt phá long mạch, ông ta nuôi 100 âm binh phục vụ mục đích này. Muốn nuôi được 100 âm binh, Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh, khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp một lúc cả 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Quả nhiên, âm binh của Cao Biền dậy đủ 100 nhưng vì “dậy non” nên không có tác dụng gì.
Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
CHÚ THÍCH:
Sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên viết rằng: “Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần”. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm dựa vào sách Trấn Vũ quán lục, thấy rằng “Long Độ” vốn là tên đất Long Biên vào cuối đời Hùng Vương, Sĩ Nhiếp khi làm Thái Thú Giao Châu, được phong tước “Long Độ linh hầu”. Vậy Long Độ là tên gọi gốc, đến đời nhà Trần, do có lệ kiêng húy tên Thái sư Trần Thủ Độ nên mới đổi thành “Long Đỗ”. Cũng như vậy, sang thời Lê, theo sách Bạch Mã thần từ khảo chính, “vì kiêng húy Thái Tổ là Lê Lợi mà đổi chữ “Lợi” trong “Quảng Lợi” thành chữ “Lại” trong “Quảng Lại” *
Những truyền thuyết mạo danh Cao Biền của các nhà phong thuỷ Việt Nam.
Khi Đạo giáo phát triển rộng lan xuống phía Nam, có những tín đồ lợi dụng uy danh của Cao Biền để đề cao Đạo giáo, nhất là đề cao phép thuật và thuật phong thuỷ:
Đá trấn yểm của Cao Biền ở Phù Cát (Bình Định).
Trong quyển Địa dư Bình Định của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường Quốc lộ số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là một cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ nhưng nhổ không lên”.
Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có một cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có một hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dụng phép trấn yểm thuở xưa.
Mả Cao Biền ở Phú Yên.
Đấy là một độn cát nơi chân núi gần biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được, bốn mùa gió cát lại vun lên. Vì có thuật địa lý giỏi, Cao Biền đã tìm một nơi bốn mùa cát vun thành gò lớn để “trấn yểm” nên dân trong vùng có câu:
Ngó lên núi cả thấy mả Cao Biền.
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
Xin lưu ý rằng khi Cao Biền làm thái thú ở Giao Châu, lãnh thổ thuộc nhà Đường chỉ đến Quảng Nam, chưa đến Quảng Ngãi chứ chưa nói đến tận Phú Yên, vì từ đó trở vào thuộc Vương quốc Chămpa. Vùng đất này từ năm 192 đến năm 605 được gọi là Lâm Ấp, khởi đầu cho giai đoạn lịch sử Chămpa độc lập, trong sử sách Trung Quốc trước năm 859 gọi vương quốc này là Hoàn Vương, sử ta gọi là Chiêm Thành.
Thơ của Cao Biền ở Bắc Ninh.
Bài thơ bằng chữ Hán, “tương truyền” là của Cao Biền viết về thế đất (theo thuyết phong thủy) của ngôi mộ tổ họ Đỗ tại xã An Bình huyện Thuận Thành như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Thần Đồng tiền lập, quỷ sứ hậu phù,
Sĩ khôi thiên hạ, danh bá hoàng đô.
Đãn hiềm sơn xạ, khước kỵ thuỷ tù,
Khủng đa phi luỵ, chung hãm phi cô.
Dịch nghĩa:
Đất Gia Định, Bình Ngô, hình thế khéo điểm tô.
Thần đồng đứng trước trực, quỷ sứ đứng sau hầu.
Học đỗ đầu thiên hạ, tiếng lừng lẫy hoàng đô.
Nhưng hiềm có đường phạm, và sợ có nước tù.
Hay tai bay vạ gió, không lỗi mà phải lo
Không dám lạm bàn về lý thuyết phong thuỷ, cũng không có ý định mổ xẻ những luận đoán đúng sai của bài thơ về thế đất của mộ tổ họ Đỗ, càng không có ý định hướng theo câu ca xưa “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”, chúng tôi chỉ muốn tìm lời giải cho câu hỏi: tác giả bài thơ này là Cao Biền hay của một kẻ mạo danh nào khác?
Xin hãy chú ý đến những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” trong câu thứ nhất:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Tìm trong sử sách: Xã An Bình (nơi có mộ tổ họ Đỗ) nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, thời các vua Hùng vùng đất này nằm trong bộ lạc Dâu (gần thành Luy Dâu¬(1) xưa); đến thời Bắc thuộc lần thứ II (43-544 sau CN) có tên là Long Ngô Động thuộc đất Gia Định, nằm trong phủ Thuận An; mãi đến năm 1469 thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) mới có tên là “xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận Thành”. Như vậy những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” chỉ có thể xuất hiện sau năm 1469.
Và đây, xóm Ngo Giữa của thôn Bình Ngô hiện cso đến Bình Ngô, một di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền thờ Tổ nước (có Hồng Bàng phả), được xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ 8 (Lê Thần Tông – 1627), qua nhiều lần trùng tu, hiện vật còn lại rất cổ kính, trong đền có hai bức hoành phi “Cổ Long Động” và “Ngô Động Hiển Linh”, ở cổng (tam quan) có 2 đôi câu đối, một câu ở hai bên cổng tả hữu ghi như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Long Ngô Động thiên thu hiển hách.
Văn Miếu Bình vạn cổ anh linh.
Dịch nghĩa:
Long Ngô Động nghìn thu rạng rỡ.
Văn miếu An Bình muôn đời chói lọi khí thiêng.
Như ta đã biết, Cao Biền cai trị xứ này từ năm Hàm Thông thứ 7 (866) đến năm Càn Phù thứ 2 (875), tức là vào cuối thế kỷ thứ IX. Bài thơ trên nếu đúng là của Cao Biền thì lúc nhìn thấy mảnh đất Long Ngô Động ông chỉ có thể phán: “… nơi này 600 năm nữa sẽ có tên là Gia Định, Bình Ngô” khi đang “cưỡi trên diều giấy”!
Thật quá hoang đường! Vì tự nhiên luôn luôn biến đổi “bãi bể nương dâu”, “vật đổi sao dời”, “nước chảy đá mòn”… Các nhà phong thuỷ bao giờ cũng đi “thực địa”, có nhìn thấy hiện trạng của thế đất mới đánh giá “tốt”, “xấu”… Có lẽ nào thầy địa lý siêu hạng như Cao Biền lại ấu trĩ đến mức đánh giá một thế đất của 600 năm sau! Vả lại nếu Cao Biền luận đoán tương lai giỏi đến thế thì sao mới rời quận Giao Châu về nước “nhận nhiệm vụ khác” được 12 năm (875-887) đã “bị bộ tướng là Tất Sư Đạc giết”!
Rõ ràng bài thơ này không phải của Cao Biền và cũng chẳng có yếu tố gì mang bóng dáng Cao Biền. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này chỉ có thể là sản phẩm sau năm 1469 (thế kỷ thứ XV) của các nhà phong thuỷ Việt Nam. Nhưng vì sao phải mạo danh Cao Biền. Phải chăng người ta muốn lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của dân chúng, mỗi khi nghe “các thầy Tàu đã phán” là nhất tề bái phục. Vả lại, một khi ông chúa trùm phong thuỷ của các thầy Tàu là “Cao Biền đã nói” thì … cứ gọi là “chắc như đinh đóng cột”!
Cao Biền, một quan “toàn quyền” năng nổ và thâm hiểm – vượt trên tất cả các Thái thú khác – của phương Bắc. Về cuối đời, Cao Biền càng tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ là Lã Dụng Chi làm lòng quân ly tán. Năm Trung Hoà thứ 5 (885), Cao Biền tạo phản ở Dương Châu. Năm Quang Khải thứ 3 (887), Đường Hy Tông (Lý Hoàn) cử Tuyên Châu Quan Sát Sứ là Tần Ngạn, trợ chiến với Tất Sư Đạc phá Dương Châu, Cao Biền bị Tần Ngạn và bộ tướng là Tất Sư Đạc giết chết.
Dưới bàn tay một mãnh tướng, một nhà phong thuỷ, một tông đồ của Đạo Giáo, chính sách cai trị nước ta của ông rất hiểm độc: “Dùng sức mạnh, đồng thời lợi dụng thần quyền và tâm linh” hòng khuất phục dân ta. Đáng tiếc có người Việt vô tình đã là tòng phạm trong mưu đồ này.
Những công lao của ông trong việc thực hiện ý đồ bành trướng, bá quyền ở Giao Châu dám chắc được các sử gia phương Bắc đánh giá cao. Thời nay cũng không loại trừ người phương Bắc không lợi dụng tàn dư này để thực hiện mưu đồ vốn rất thâm hiểm của họ.
CHÚ THÍCH:
(1) Thành Luy Dâu xưa, nay là thôn Khương Tự, còn gọi là làng Dâu thuộc địa phận Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hiện còn một phần tường thành, hào nước bao quanh thành (cách tam quan chùa Dâu chừng 300m về phía bắc)
2/Bài tham khảo thứ hai :
Trích tứ bài : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH của dienbatn .
" ....Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây,cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng long tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến sinh .Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành.Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ Gốm: Bát,hòn kê.cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,thuộc vào thời Lý -Trần Việt nam hay thời Tống của Trung quốc..
.Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau ,đã tạo ra một lễ trấn yểm,trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.(Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam -Người viết ).
Ðó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.Gần đây,một người bạn của dienbatn có cho biết :Ðài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn,mong các Cao thủ trên Diễn đàn TUVILYSO cùng trao đổi :Theo thiển ý của người viết,đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long mạch,chận đường của Khí (Khí đây là Khí trong bộ môn Phong thủy -Hoàn toàn không phải là Không khí ).Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?Theo thiển ý của người viết :Ðây là tác phẩm của Cao biền,Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng;người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch,song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ Gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý Trần.Nếu theo Truyền thuyết "Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ",tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu,thì không có sự việc sông Tô lịch và Thiên phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu,làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà nội.Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng,trên bến,dưới thuyền,là trục Giao thông chính thủa ấy.Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong thủy Việt nam tài giỏi như :Thiền sư Ðịnh không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tý 808 ),Sư La chân Nhân (852 -936 ),Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô lịch và Thiên phù,để đến nỗi sông Tô lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần.Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các Thuyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược :Thành Ðại la được xây dựng vào Thế kỷ 7 có tên là Tống bình .Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ),Vua Mục Tông nhà Ðường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ.Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch,liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ.Thầy bói nói rằng :Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn,50 năm sau,có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Ðường Y Tôn (841 -873 ),Cao biên được cử sang đất Việt làm Tiết Ðộ sứ.Cao biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy,một Ðạo sĩ,cũng là một nhà Phong thủy có tài.La thành được Cao biền sửa chữa,chỉnh đốn lại cho hợp Phong thủy vào các năm :866,867,868.Theo truyền thuyết,khi Cao biền xây dựng lại Thành Ðại la,thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.Cao biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã,núi Tảng viên.Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây ta nhớ lại một truyền thuyết khác của Dân tộc Việt nam.Ðó là " Truyền thuyết Thành Cổ loa ".Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân ,lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý,La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có gì trùng hợp giữa hiện? tượng sụp đất của Thành Cổ loa,sự sụp đất của thành Ðại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trìng nạo vét sông Tô lịch
Qua hai Truyền thuyết trên,bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan,chúng ta phải chấp nhận một sự thực là :Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô lịch kéo dài đến Cổ loa -Đông anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định.Ta cũng cần phải nhớ rằng :Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà nội.Mặt khác phía Tây và Tây bắc của La thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,SƠN LA,LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất phát từ những dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta cũng biết rằng Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Từ những sự việc trên,ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản viên và các rặng núi phía Tây,Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại la theo dọc sông Tô lịch (khí thường đi theo nước ),chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ),sau đó sang tới tận địa phận Cổ loa -Đông anh -HÀ NỘI và còn theo hướng Đông,Đông bắc đi tiếp ...
Chính vì có Long mạch này mà Cao biền phải vô cùng bận tâm,khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm.Có rất nhiều Truyền thuyết về Cao biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này.Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này :Đầu tiên là truyền thuyết Cao biền chấn yển núi Tản viên,hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên.Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội.Tiếp theo là Truyền thuyết Cao biến dùng hơn 4 tấn sắt,đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch mã là nơi vị thần sông Tô lịch trú ngụ.Cao bìền còn nhiều lần dựng đàn tràng,dùng 4 thứ kim loại :Sắt,đồng,vàng,bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô lịch.Theo sử sách,Cao biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị Đại sư tài ba lỗi lạc,hiểu biết rất giỏi về Nho,Y,Lý số và thuật Phong thủy đã hóa giải sự chấn yềm của Cao biền bằng phép Huyền môn.Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì,hay ở Đền BẠCH MÃ ,dùng nhửng hiểu biết về Phong thủy để chấn áp Bùa phép của Cao biền.
Trở lại,đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô lich,có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng :Đó là tác phẩm của Cao biền ,chứ không phải là của các nhà vua Lý.Tác phẩm đó là của Cao biền đời nhà Đường,thuộc về Cao biền thế kỷ 9,tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ).Nếu xét về niên đại của cổ vât tìm thấy,thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều.Cũng không loại trừ trường hợp,các cổ vật trên rớt xuống lòng sông thời gian sau, khi Cao biền chấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao biên khi chấn yềm sông Tô lịch.Cho tới tận giờ phút này,khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy Vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật :Châm,cứu,diện chẩn,xoa bóp,bấm huyệt...để chữa bệnh.Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống Kinh mạch,huyệt,lạc trong cơ thể con người.Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người.Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu,người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau,với thời gian và độ nông sâu khác nhau.Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động,hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.Ta vẫn biết rằng :THIÊN -ĐỊA NHÂN là hợp nhất.Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ.Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng,trên Trái đất này,cũng phải có những đường Kinh mạch,huyệt,lạc như trong cơ thể con người.Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ.Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó,người ta có thể dùng một thủ thủ thuật nào đó,có thể ngăn,bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao biền đã làm.Thủ thuật này người xưa gọi là Chấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1/Đạo Bùa chấn yểm trên dòng sông Tô lịch là của Cao biền -Tiết độ sứ của nhà Đường,dùng để chấn yểm Long mạch,khi tiến hành xây dựng thành Đại la vào thế kỷ 9.Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao biền đã thực hiện chấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu,bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao biền thực hiện chấn yểm.
2/Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại la (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa bình,Sơn la,Lai châu,và gần nhất là dãy núi Tản viên );Long mạch này đi qua thành Đại la,cụ thể theo dọc sông Tô lịch,qua khu vực Hồ Tây,kéo dài sang Cổ loa -Đông anh - HÀ NỘI;Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng ninh.Đây chỉ là nhánh Thanh long của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ khi có điều kiên tôi xin chứng minh tiếp.
3/Cao biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch,nhằm bế dòng khí của Long mạch này.Thủ thuật chấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
( http://vn.myblog.yahoo.com/dienbatn/article?mid=184" target="_blank ) .
3/Bài tham khảo thứ ba :
Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Thiên Ðức
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là:
- Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước?
- Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?
- Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?
- Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?
Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải.
Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng?
Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng.
Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi:
“Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”.
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc...
Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. (viethoc.org)
A- Trụ Ðồng Mã Viện .
Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:
I - Sự thật của trụ đồng .
Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.
“Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).
II - Vị trí của trụ đồng .
Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:
- Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm.
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.
Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?
Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì:
Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.
III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”
Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.
1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.
2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.
3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.
Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.
IV- Công dụng của trụ đồng .
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.
1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.
2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).
Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.
Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.
Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?
3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?
Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?
B - KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:
- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.
- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.
- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.
Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.
Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.
Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...
Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org)
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:
1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.
Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.
2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.
3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:
Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.
Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.
Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.
Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.
Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:
- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.
- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).
- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:
- Ðặt đúng huyệt vị.
- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.
- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.
Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.
Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, người viết trân trọng bố cáo:
Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng:
Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng.
Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ.
CÒN TIẾP...
Loạt bài khảo cứu Lịch sử của dienbatn .
"Thiếu gì những kẻ muốn xâm lăng,
Vũ khí hung tàn có thể ngăn.
Chỉ sợ Tâm Linh bày cuộc chiến,
Còn hơn là Ðịa chấn- Sơn băng.
Như Hải tinh trong Quốc bảo mình,
Ðời nào cũng có bậc anh minh.
Mỗi khi sông núi vang lời gọi,
Là có Rồng thiêng biến hữu hình ".
Thơ của một ẩn sĩ .
Lời nói đầu : Chuẩn bị kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội , dân tộc Việt Nam ta đã trải qua một chặng đường rất dài đầy đau thương nhưng vô cùng oanh liệt trong cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để bảo vệ và xây dựng Đất nước . Trong cuộc chiến ngàn năm đó , cuộc chiến về Tâm linh cũng cực kỳ quan trọng , nhiều khi mang tính chất sống còn . Rất nhiều tài liệu đã viết về vấn đề này , dienbatn chỉ xin hệ thống lại để chúng ta có thể nhận thấy tính chất quan trọng của cuộc chiến Tâm linh này . Thân ái . dienbatn .
1/Bài tham khảo thứ nhất :
NHẬN DIỆN CAO BIỀN .
Tạp chí Xưa & Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 339, tháng 9-2009
Đỗ Thiếu Khang
Kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long, chúng ta cũng nên biết về một nhân vật có nhiều quan hệ với đất La Thành của ngàn năm trước. Đó là quan “toàn quyền” Cao Biền, một thầy “phù thuỷ” chính hiệu ở tầm cao “chót vót”, một thầy địa lý “siêu hạng”! Bóng dáng ông dường như vẫn còn lởn vởn trong tâm lý dân gian hễ gặp dịp là lại bùng lên: nơi này có “trấn yểm”, nơi kia có “lời phán” của Cao Biền… Chuyện đâu xa, đền Quán Đôi (Hà Nội) từ lâu vốn vắng khách, năm 2006 nhờ vụ “cọc gỗ lim trấn yểm” dưới lòng sông Tô Lịch của Cao Biền, đền bỗng trở nên nhộn nhịp.
Dấu ấn của Cao Biền ở Giao Châu .
Cao Biền (821-887) người Bột Hải, sau ngụ ở U Châu (ngoại thành Bắc Kinh ngày nay). Cha là Cao Nguyên, ông nội là Cao Sùng Văn (một danh tướng chỉ huy cấm quân dưới thời Đường Hiến Tông – Lý Thuần). Trong thời kỳ Bắc thuộc lần thứ III, ông được Đường Hy Tông – Lý Huyền phong cho làm Tĩnh Hải Quân Tiết Độ Sứ, cai quản cả Giao Châu và Quảng Châu từ năm Hàm Thông thứ bảy (866) đến năm Càn Phù thứ hai (875).
Đánh lui quân Nam Chiếu .
Nam Chiếu là vương quốc của người Bạch và người Di (nằm trong khu vực tỉnh Vân Nam ngày nay) đã phát triển rực rỡ ở Đông Nam Á trong các thế kỷ VII và thể kỷ IX sau Công nguyên.
Người Bạch là cư dân nông nghiệp trong các vùng đất màu mỡ xung quanh hồ Nhị Hải. Mỗi bộ lạc của người Bạch là một tiểu Vương quốc, được gọi là chiếu; tất cả có 6 chiếu: Mông Huề, Việt Thác, Lãng Khung, Đằng Đạm, Thi Lãng và Mông Xá; trong 6 chiếu đó Mông Xá ở về phía Nam. Vì thế năm 737 khi vua của chiếu Mông Xá là Bì La Cáp lần lượt thống nhất các chiếu kia thành lập một vương quốc mới thì đặt tên là Nam Chiếu.
Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim chép:
“Trong khoảng năm Khai Nguyên (713-742) đời vua Huyền Tông nhà Đường, Nam Chiếu là Bì La Cáp cường thịnh lên, mà 5 chiếu kia suy hèn đi. Bì La Cáp mới đút lót cho quan Tiết Độ Sứ đạo Kiếm Nam là Vương Dục để xin hợp cả 6 chiếu lại làm một. Triều đình nhà Đường thuận cho, và đặt tên là Qui Nghĩa. Từ đó Nam Chiếu càng ngày càng thịnh lên, đem quân đi đánh Thổ Phồn… Bấy giờ Nam Chiếu đã mạnh lắm, bèn xưng đế và đặt quốc hiệu là Đại Mông Quốc rồi lại đổi lại là Đại Lễ…”
Nam Chiếu phát triển và bành trướng rất nhanh, đầu tiên vào Miến Điện, sau đó là toàn bộ Vân Nam, xuống Lào, vào Thái Lan, rồi ngược về phía bắc tới Tứ Xuyên (Trung Quốc). Năm 764, Nam Chiếu thiết lập kinh đô thứ hai tại Côn Minh (Trung Quốc). Năm Kỷ Dậu (829), quân Nam Chiếu chiếm đóng Thành Đô (Trung Quốc).
Năm 865 (Ất Dậu), Cao Biền được Đường Ý Tông cử làm đại tướng cùng giám quận Lý Duy Chu đem quân sang đóng ở Hải Môn để dẹp quân Nam Chiếu.
Đại Việt sử ký toàn thư chép:
“Năm Bính Tuất – 866 (Đường Hàm Thông, thứ 7). Mùa hạ, tháng 4, Nam Chiếu sai Trương Tập giúp Tù Thiên đánh Giao Châu, cho Phạm Nật Ta làm Đô Thống Giao Châu, Giám trận nhà Đường là Trần Sắc sai Vi Trọng Tể đem hơn 7.000 quân đến Phong Châu. Biền được thêm quân, tiến đánh Nam Chiếu, nhiều lần đánh tan được. Tháng ấy, Biền đánh tan quân Nam Chiếu, giết và bắt sống rất nhiều. Nam Chiếu thu quân còn sống sót chạy vào Châu thành cố giữ. Mùa đông, tháng 10, Cao Biền vây Châu Thành hơn 10 ngày, người Man rất khốn quẫn. Biền đến nơi đốc thúc, khích lệ tướng sĩ, lấy được thành, giết Tù Thiên và Chu Cổ Đạo là người thổ man dẫn đường cho quân Nam Chiếu, chém hơn 30.000 đầu. Quân Nam Chiếu trốn đi, Biền lại phá được hai động thổ man đã theo Nam Chiếu, giết tù trưởng. Người thổ man rủ nhau quy phục đến 17.000 người ”.
Từ đó nhà Đường đổi Giao Châu thành Tĩnh Hải Quân Tiết Trấn và để Cao Biền ở lại làm Tiết Độ Sứ.
Đắp thành Đại La (Hà Nội ngày nay).
Thành này ban đầu do Trương Bá Nghi đắp từ năm Đại Lịch thứ 2 (767) đời Đường Đại Tông – Lý Dự; năm 791 Triệu Xương đắp thêm; năm 808 Lý Nguyên Gia dời phủ trị tới bên sông Tô Lịch, đắp một cái thành nhỏ gọi là La Thành. Năm Hàm Thông thứ 6 (866) đời Đường Ý Tông – Lý Thôi, Cao Biền đắp lại có quy mô to lớn hơn gọi là Đại La:
“Thành có chu vi 1.982,5 trượng (H”6,6km), cao 2,6 trượng (H”8,67m), chân thành rộng 2,5 trượng (H”8,33m), nữ tường (bức tường nhỏ đắp trên tường thành lớn) 4 mặt cao 5,5 thước (H”1,83m), với 55 lầu vọng dịch, 6 nơi úng môn (thứ thành đắp vòng ngoài cửa thành), 3 hào nước, 34 đường đi. Cao Biền còn cho đắp đê vòng quanh ngoài thành dài 2.125,8 trượng (H”7,09km), đê cao 1,5 trượng (H”5,00m), chân đê rộng 2 trượng (H”6,66m).”
Dùng “thần quyền” và “tâm linh” nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Vốn là một tông đồ tầm cỡ của Đạo giáo, khi cai trị Giao Châu, trước ý chí quật cường của người Việt, bên cạnh việc dùng sức mạnh quân đội cùng hệ thống cai trị vô cùng ngặt nghèo, Cao Biền còn lợi dụng “thần quyền”, lợi dụng “tâm linh”, dựng lên những truyện thần kỳ nhằm diệt ý chí giành độc lập của dân ta.
Được thần thánh giúp đỡ.
Khi đắp La Thành, mấy lần bắt đầu đều bị sụt lở, tưởng như công việc không thành. Một đêm, Cao Biền đứng trên vọng lâu nhìn ra, thấy một vị thần cưỡi ngựa trắng chạy đi, chạy lại như bay rồi bảo Cao Biền cứ theo vết chân ngựa chạy mà đắp quả nhiên thành đắp được, sau khi đắp xong Cao Biền cho lập đền thờ vị thần ấy ở ngay nơi hiển hiện, gọi là đền Bạch Mã. Đền thờ này ngày nay vẫn còn ở phố Hàng Buồm, Hà Nội.
Kết nghĩa với anh em với thần thánh.
Ở làng Nam Trì (xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên ngày nay) có miếu thờ Lữ Gia (Thừa tướng thời Triệu Đà – Bắc thuộc lần thứ I) người Nam Trì gọi là Bảo Công và tướng Danh Lang (em kết nghĩa của Lữ Gia) được gọi là Lang Công. Theo Ngọc phả Thần tích do Hàn Lâm Đông Các Đại Học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn năm Nhâm Thân (1572) triều Lê Anh Tông niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất thì:
Một lần qua đây, Cao Biền đã đến miếu tế lễ và cầu khấn rằng: “Nay ta cầm quân đi đánh giặc Nam Chiếu, hai vị thần có anh linh thì âm phù cho ta thắng giặc. Sau khi thành công hẳn được sắc phong cúng tế, hương hỏa muôn đời”
Đêm ấy, Cao Biền chiêm bao thấy hai vị tướng mặc long bào, giáp ngọc long lanh, đội mũ trăm sao. Một vị cưỡi ngựa trắng, cao hơn bảy thước tay cầm siêu đao vàng, một vị cưỡi hổ vàng tay cầm búa việt. Cao Biền hỏi: “Danh tướng ở đâu đến đây?”. Một vị xưng: “Ta vốn là Trung Thiên Bảo Quốc”, vị kia xưng: “Ta là Trung Lang Tế Thế, đều là đại thần của nhà Triệu hồi xưa, nay thấy Ngài đem quân đi đánh giặc, chúng ta xin tòng chinh, âm phù cho Ngài thắng giặc”.
Hôm sau Cao Biền truyền cho phụ lão, dân làng Nam Trì rằng: “Ta với hai vị tướng Thượng Đẳng Linh Thần tại đây như có nhân duyên từ trước. Vừa qua giặc Nam Chiếu xâm phạm An Nam, làm cho nhân dân lầm than khổ cực, ta mang quân đi tiễu trừ giặc cướp. Qua nơi đây biết chắc là Thần linh rất thiêng. Quả nhiên đêm về, hai vị Thượng Đẳng Linh Thần hiện lên xin tòng chinh, âm phù cho quân ta thắng giặc ”.
“Ta với hai vị thần ấy tuy âm dương cách biệt, nhưng đã chung một huyết khí bẩm sinh. Tuy rằng Nam Bắc hai phương nhưng đều chung một Trời một Đất nên từ nay ta cùng hai vị Thần kết nghĩa anh em và muốn hai vị Thần được hưởng cúng tế vạn năm, tiếng thơm lưu truyền bất hủ”.
Có kiếm thần .
Cách chùa Hàm Long (thôn Thái Bảo, xã Nam Sơn, thành phố Bắc Ninh) về phía nam – tây nam chừng hơn một cây số có núi Con Rùa, một núi nhỏ, dáng mai rùa, chu vi khoảng trên một nghìn mét. Núi Con Rùa có một chỗ sạt về phía Đông, mùa mưa thường rỉ ra nước màu gỉ sắt; cách núi Con Rùa chừng hai cây số về phía đông – đông nam là thôn Phương Lưu, cư dân quần tụ trên một đảo gò đất có dáng đầu rùa, người ta truyền tụng rằng “rùa bị kiếm thần của Cao Biền chém đứt đầu, đến nay máu vẫn chảy, đầu rùa bị văng ra đến tận thôn Phương Lưu”!
Có phép “tản đậu thành binh”.
Ở núi Chè (Trà Sơn) Bắc Ninh, về phía làng Móng (xã Hoàn Sơn) cách đường số 1 mới chừng 1 km còn có nơi “quân Cao Biền dậy non”. Vì khi ra trận, ngoài quân lính bằng xương bằng thịt, Cao Biền còn dùng “âm binh” (lính từ cõi âm). Khi cần kíp ông ta chỉ rắc hạt đậu xuống đất, lấp cho kín (như kiểu ủ giá đỗ) rồi đọc mấy câu thần chú… Khi mở ra, mỗi hạt đậu hóa thành một người lính xung trận được ngay! Đó gọi là phép “tản đậu thành binh”. Mỗi hạt đậu, mỗi người lính; quân Cao Biền không những nhiều mà còn có một sức mạnh ma quái! (Có lẽ núi Chè xưa là nơi tuyển, luyện quân của Cao Biền).
Cưỡi diều giấy đi trấn yểm ở nhiều nơi .
Trong cuốn Việt Nam sử lược tác giả Trần Trọng Kim viết: “Sử chép, Cao Biền khi làm Thái thú ở quận Giao Châu nổi danh với tài phong thủy, thấy nước ta lắm huyệt đế vương, đã “cưỡi diều giấy đi trấn yểm khắp đó đây, làm hại mất nhiều long mạch””
Những truyền thuyết loại ấy tập trung chủ yếu ở vùng đồng bằng Bắc bộ. Tất cả đều nhằm nêu bật sức mạnh ghê gớm của quan Thái thú phương Bắc. Nó thể hiện uy danh rất lớn của Cao Biền, không chỉ lúc ông đang còn cai trị tại Giao Châu mà cả khi vua Đường điều chuyển ông đi nhậm chức ở Tây Xuyên hay khi ông đã tan thành cát bụi nhưng vẫn như còn hiển hiện đâu đó trên đất này! Dám chắc những truyền thuyết ấy có bàn tay dàn dựng của Cao Biền nhưng đến mức nào và ở đâu? Không có dữ liệu lịch sử nào để xác định.
Những truyền thuyết nhằm bài bác lại .
Dân ta dường như hiểu được thâm ý của Cao Biền nên đã dựng lên những câu chuyện dân gian nhằm hạ uy thế và bài bác lại:
Sơn thánh Tản Viên .
Theo truyền thuyết khi sang Giao Châu, Cao Biền thấy long mạch rất vượng, nên muốn phá đi, thường mặc áo phù thủy, cưỡi diều giấy đi khắp nơi để xem địa thế, hoặc giả tảng lập đàn cúng tế để lừa Thần bản địa đến rồi dùng kiếm báu chém đầu, chém xong đào hào, chôn kim khí để triệt long mạch. Cao Biền có lần đến núi Tản Viên, định dùng chước này, nhưng Tản Viên Sơn Thánh biết được liền mắng Cao Biền rồi đi.
Đắp thành Đại La .
Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông của thành, chợt thấy trong chỗ mây mù tối tăm, có bóng người kỳ dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, định lấy bùa để trấn yểm. Bỗng đêm hôm ấy thấy thần báo mộng rằng:
Ta là tinh anh ở Long Đỗ, nghe tin ông đắp thành nên đến để hội ngộ, việc gì mà phải trấn yểm?
Cao Biền lấy làm kỳ lạ, bèn lấy vàng, đồng và bùa chôn xuống để trấn yểm. Ngay đêm hôm đó mưa gió sấm sét nổi lên dữ dội, sáng ra xem, thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Cao Biền sợ hãi, bèn lập đền thờ ở ngay chỗ ấy và phong cho thần là thần Long Đỗ.
(Về thần Long Đỗ, có một dị bản nói rằng: khi vua Lý Thái Tổ dời kinh đô về Thăng Long, nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó và cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa, bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm Thành Hoàng của Thăng Long)
Chúng tôi cho rằng sự kiện đắp thành Đại La đã có trước thời vua Lý Thái Tổ hơn một trăm năm nên truyền thuyết về thần Long Đỗ gắn với việc xây thành Đại La của Cao Biền là hợp lý hơn. Vả lại ngay trong Thiên đô chiếu của vua Lý Thái Tổ cũng có câu: Huống Cao Vương cố đô Đại La thành (Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương) để thuyết phục quần thần.
“Cao Biền dậy non”
Như trên đã nói, Cao Biền có phép thuật “tản đậu thành binh”. Có lần Cao Biền đọc thần chú ”còn thiếu mấy câu” (hay mấy chữ gì đó), mỗi hạt đậu đã nở thành một âm binh nhưng đều còn non, đứng lên không vững, lẩy ba lẩy bẩy! Vì thế mỗi khi thấy người nào yếu sức, chân tay run rẩy, người ta sử dụng thành ngữ: “lẩy bẩy như quân Cao Biền dậy non”
Cũng là truyện “tản đậu thành binh”, nhưng có cách kể khác: Cao Biền sang nước Nam với mục đích yểm bùa và triệt phá long mạch, ông ta nuôi 100 âm binh phục vụ mục đích này. Muốn nuôi được 100 âm binh, Cao Biền nhờ một bà hàng nước mỗi ngày thắp một nén hương để gọi dậy một âm binh, khi thắp đủ 100 nén hương trong vòng 100 ngày sẽ gọi dậy đủ 100 âm binh. Nhưng bà lão đã phá âm mưu của Cao Biền bằng cách thắp một lúc cả 100 nén hương trong vòng 1 ngày. Quả nhiên, âm binh của Cao Biền dậy đủ 100 nhưng vì “dậy non” nên không có tác dụng gì.
Truyện “tản đậu thành binh” còn có một cách kể khác nữa, cách kể này đậm chất thôn dã, mang dáng vẻ “hài hước” khiến người kể và người nghe cùng thích thú: “Cao Biền có tham vọng làm Hoàng đế Trung Hoa: Ông ta xây dựng một lực lượng quân đội mạnh bằng cách “ủ giá đỗ thành quân”! Buồn cho ông! Bà vợ thấy ông cứ thì thà thì thụt, giấu giấu giếm giếm; sốt ruột quá, nhân lúc ông “bận công vụ” lén mở ra xem… Thế là cả một đội quân hàng ức, vạn tên lính của Cao Biền hùng dũng bước ra… Nhưng vì “dậy non” nên chỉ một lát sau chúng lăn đùng ra chết sạch!”
CHÚ THÍCH:
Sách Việt điện u linh tập của Lý Tế Xuyên viết rằng: “Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối linh Thượng đẳng thần”. Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm dựa vào sách Trấn Vũ quán lục, thấy rằng “Long Độ” vốn là tên đất Long Biên vào cuối đời Hùng Vương, Sĩ Nhiếp khi làm Thái Thú Giao Châu, được phong tước “Long Độ linh hầu”. Vậy Long Độ là tên gọi gốc, đến đời nhà Trần, do có lệ kiêng húy tên Thái sư Trần Thủ Độ nên mới đổi thành “Long Đỗ”. Cũng như vậy, sang thời Lê, theo sách Bạch Mã thần từ khảo chính, “vì kiêng húy Thái Tổ là Lê Lợi mà đổi chữ “Lợi” trong “Quảng Lợi” thành chữ “Lại” trong “Quảng Lại” *
Những truyền thuyết mạo danh Cao Biền của các nhà phong thuỷ Việt Nam.
Khi Đạo giáo phát triển rộng lan xuống phía Nam, có những tín đồ lợi dụng uy danh của Cao Biền để đề cao Đạo giáo, nhất là đề cao phép thuật và thuật phong thuỷ:
Đá trấn yểm của Cao Biền ở Phù Cát (Bình Định).
Trong quyển Địa dư Bình Định của ông Bùi Văn Lăng viết từ năm 1930 cũng đề cập đến di tích Cao Biền như sau: “Dọc theo đường Quốc lộ số 1 chạy ra đến Phù Cát có đá Cao Biền. Đó là một cái thẻ thời xưa Cao Biền trấn yểm. Thẻ ấy bằng đá và chôn rất sâu. Thuở xưa dân làng đã có nhiều lần thuê voi về nhổ nhưng nhổ không lên”.
Ở Phù Mỹ, đường đi Đề Gi có một cụm núi nhỏ, cách đó không xa, lại có một hòn đá lớn nổi lên rất ngộ nghĩnh. Theo truyền thuyết thì đó là nơi Cao Biền đã dụng phép trấn yểm thuở xưa.
Mả Cao Biền ở Phú Yên.
Đấy là một độn cát nơi chân núi gần biển. Độn cát không lớn lắm, nhưng không bao giờ san bằng được, bốn mùa gió cát lại vun lên. Vì có thuật địa lý giỏi, Cao Biền đã tìm một nơi bốn mùa cát vun thành gò lớn để “trấn yểm” nên dân trong vùng có câu:
Ngó lên núi cả thấy mả Cao Biền.
Thấy đôi chim nhạn đang chuyền nhành mai.
Xin lưu ý rằng khi Cao Biền làm thái thú ở Giao Châu, lãnh thổ thuộc nhà Đường chỉ đến Quảng Nam, chưa đến Quảng Ngãi chứ chưa nói đến tận Phú Yên, vì từ đó trở vào thuộc Vương quốc Chămpa. Vùng đất này từ năm 192 đến năm 605 được gọi là Lâm Ấp, khởi đầu cho giai đoạn lịch sử Chămpa độc lập, trong sử sách Trung Quốc trước năm 859 gọi vương quốc này là Hoàn Vương, sử ta gọi là Chiêm Thành.
Thơ của Cao Biền ở Bắc Ninh.
Bài thơ bằng chữ Hán, “tương truyền” là của Cao Biền viết về thế đất (theo thuyết phong thủy) của ngôi mộ tổ họ Đỗ tại xã An Bình huyện Thuận Thành như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Thần Đồng tiền lập, quỷ sứ hậu phù,
Sĩ khôi thiên hạ, danh bá hoàng đô.
Đãn hiềm sơn xạ, khước kỵ thuỷ tù,
Khủng đa phi luỵ, chung hãm phi cô.
Dịch nghĩa:
Đất Gia Định, Bình Ngô, hình thế khéo điểm tô.
Thần đồng đứng trước trực, quỷ sứ đứng sau hầu.
Học đỗ đầu thiên hạ, tiếng lừng lẫy hoàng đô.
Nhưng hiềm có đường phạm, và sợ có nước tù.
Hay tai bay vạ gió, không lỗi mà phải lo
Không dám lạm bàn về lý thuyết phong thuỷ, cũng không có ý định mổ xẻ những luận đoán đúng sai của bài thơ về thế đất của mộ tổ họ Đỗ, càng không có ý định hướng theo câu ca xưa “hòn đất mà biết nói năng, thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn”, chúng tôi chỉ muốn tìm lời giải cho câu hỏi: tác giả bài thơ này là Cao Biền hay của một kẻ mạo danh nào khác?
Xin hãy chú ý đến những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” trong câu thứ nhất:
Gia Định, Bình Ngô, hình thế bất cô.
Tìm trong sử sách: Xã An Bình (nơi có mộ tổ họ Đỗ) nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, thời các vua Hùng vùng đất này nằm trong bộ lạc Dâu (gần thành Luy Dâu¬(1) xưa); đến thời Bắc thuộc lần thứ II (43-544 sau CN) có tên là Long Ngô Động thuộc đất Gia Định, nằm trong phủ Thuận An; mãi đến năm 1469 thời Lê Thánh Tông, niên hiệu Quang Thuận (1460-1469) mới có tên là “xã Bình Ngô, tổng Bình Ngô, huyện Gia Định, phủ Thuận Thành”. Như vậy những địa danh “Gia Định, Bình Ngô” chỉ có thể xuất hiện sau năm 1469.
Và đây, xóm Ngo Giữa của thôn Bình Ngô hiện cso đến Bình Ngô, một di tích lịch sử cấp quốc gia. Đền thờ Tổ nước (có Hồng Bàng phả), được xây dựng từ năm Vĩnh Tộ thứ 8 (Lê Thần Tông – 1627), qua nhiều lần trùng tu, hiện vật còn lại rất cổ kính, trong đền có hai bức hoành phi “Cổ Long Động” và “Ngô Động Hiển Linh”, ở cổng (tam quan) có 2 đôi câu đối, một câu ở hai bên cổng tả hữu ghi như sau:
Phiên âm Hán Việt:
Long Ngô Động thiên thu hiển hách.
Văn Miếu Bình vạn cổ anh linh.
Dịch nghĩa:
Long Ngô Động nghìn thu rạng rỡ.
Văn miếu An Bình muôn đời chói lọi khí thiêng.
Như ta đã biết, Cao Biền cai trị xứ này từ năm Hàm Thông thứ 7 (866) đến năm Càn Phù thứ 2 (875), tức là vào cuối thế kỷ thứ IX. Bài thơ trên nếu đúng là của Cao Biền thì lúc nhìn thấy mảnh đất Long Ngô Động ông chỉ có thể phán: “… nơi này 600 năm nữa sẽ có tên là Gia Định, Bình Ngô” khi đang “cưỡi trên diều giấy”!
Thật quá hoang đường! Vì tự nhiên luôn luôn biến đổi “bãi bể nương dâu”, “vật đổi sao dời”, “nước chảy đá mòn”… Các nhà phong thuỷ bao giờ cũng đi “thực địa”, có nhìn thấy hiện trạng của thế đất mới đánh giá “tốt”, “xấu”… Có lẽ nào thầy địa lý siêu hạng như Cao Biền lại ấu trĩ đến mức đánh giá một thế đất của 600 năm sau! Vả lại nếu Cao Biền luận đoán tương lai giỏi đến thế thì sao mới rời quận Giao Châu về nước “nhận nhiệm vụ khác” được 12 năm (875-887) đã “bị bộ tướng là Tất Sư Đạc giết”!
Rõ ràng bài thơ này không phải của Cao Biền và cũng chẳng có yếu tố gì mang bóng dáng Cao Biền. Không nghi ngờ gì nữa, bài thơ này chỉ có thể là sản phẩm sau năm 1469 (thế kỷ thứ XV) của các nhà phong thuỷ Việt Nam. Nhưng vì sao phải mạo danh Cao Biền. Phải chăng người ta muốn lợi dụng sự nhẹ dạ cả tin của dân chúng, mỗi khi nghe “các thầy Tàu đã phán” là nhất tề bái phục. Vả lại, một khi ông chúa trùm phong thuỷ của các thầy Tàu là “Cao Biền đã nói” thì … cứ gọi là “chắc như đinh đóng cột”!
Cao Biền, một quan “toàn quyền” năng nổ và thâm hiểm – vượt trên tất cả các Thái thú khác – của phương Bắc. Về cuối đời, Cao Biền càng tin vào phép thuật thần tiên, trọng dụng thuật sĩ là Lã Dụng Chi làm lòng quân ly tán. Năm Trung Hoà thứ 5 (885), Cao Biền tạo phản ở Dương Châu. Năm Quang Khải thứ 3 (887), Đường Hy Tông (Lý Hoàn) cử Tuyên Châu Quan Sát Sứ là Tần Ngạn, trợ chiến với Tất Sư Đạc phá Dương Châu, Cao Biền bị Tần Ngạn và bộ tướng là Tất Sư Đạc giết chết.
Dưới bàn tay một mãnh tướng, một nhà phong thuỷ, một tông đồ của Đạo Giáo, chính sách cai trị nước ta của ông rất hiểm độc: “Dùng sức mạnh, đồng thời lợi dụng thần quyền và tâm linh” hòng khuất phục dân ta. Đáng tiếc có người Việt vô tình đã là tòng phạm trong mưu đồ này.
Những công lao của ông trong việc thực hiện ý đồ bành trướng, bá quyền ở Giao Châu dám chắc được các sử gia phương Bắc đánh giá cao. Thời nay cũng không loại trừ người phương Bắc không lợi dụng tàn dư này để thực hiện mưu đồ vốn rất thâm hiểm của họ.
CHÚ THÍCH:
(1) Thành Luy Dâu xưa, nay là thôn Khương Tự, còn gọi là làng Dâu thuộc địa phận Thanh Khương, Thuận Thành, Bắc Ninh. Hiện còn một phần tường thành, hào nước bao quanh thành (cách tam quan chùa Dâu chừng 300m về phía bắc)
2/Bài tham khảo thứ hai :
Trích tứ bài : HIỆN TƯỢNG TRẤN YỂM TRÊN SÔNG TÔ LỊCH của dienbatn .
" ....Giáo sư Trần Quốc Vượng có kết luận như sau :" Trước đây,cổng Hoàng thành ngoài lính còn có Thần chấn giữ 4 cửa (Thăng long tứ trấn ) và có yểm bùa hay còn làm lễ Hiến sinh .Như vậy đây là cổng thành phía Tây của La thành.Thông qua tính tương đối thống nhất giữa niên đại của Tiền và đa số đồ Gốm: Bát,hòn kê.cho thấy niên đại của địa điểm này trong khoảng thế kỷ 11 cho đến 14,thuộc vào thời Lý -Trần Việt nam hay thời Tống của Trung quốc..
.Sự trùng hợp ngẫu nhiên giữa hiện tượng sông Tô bị lở do đổi dòng và mắt nhà Vua bị đau ,đã tạo ra một lễ trấn yểm,trong đó có những bộ xương người cùng những hiện vật khác chăng.(Ở đây GS Trần Quốc Vượng muốn nhắc đến sự tích Ông Dầu bà Dầu trong chuyện cổ tích Việt nam -Người viết ).
Ðó là một phần của những gì đã đăng tải trên tờ báo.Gần đây,một người bạn của dienbatn có cho biết :Ðài truyền hình có phát tin người ta đã chuẩn bị khôi phục lại hiên trạng di vật như lúc ban đầu.
Người viết bài này lại có ý kiến khác hẳn,mong các Cao thủ trên Diễn đàn TUVILYSO cùng trao đổi :Theo thiển ý của người viết,đây là một hiện tượng chấn yểm nhằm cắt và bế Long mạch,chận đường của Khí (Khí đây là Khí trong bộ môn Phong thủy -Hoàn toàn không phải là Không khí ).Ai đã chấn yểm vị trí này và mục đích sự chấn yểm này để làm gì ?Theo thiển ý của người viết :Ðây là tác phẩm của Cao biền,Tiết độ sứ của TQ vào thế kỷ 8 -Tức là trước thời nhà Lý khoảng 200 năm.
Người viết xin được chứng minh như sau :Trước hết nói về ý kiến của GS Trần Quốc Vượng;người viết cũng đồng ý rằng đây là một sự chấn yểm sông Tô lịch,song không chỉ căn cứ vào niên đại của một số đồ Gốm nhặt được mà cho rằng sự việc xẩy ra vào thời Lý Trần.Nếu theo Truyền thuyết "Tại sao sông Tô lịch và sông Thiên phù hẹp lại " hay truyền thuyết " sự tích Ông Dầu bà Dầu ",tác giả của sự việc trên là các vị Vua nhà Lý,nhằm trấn yểm sự Báo thù của Ông bà Dầu,thì không có sự việc sông Tô lịch và Thiên phù cứ ngày càng hẹp lại,đến nay chỉ còn là một con sông nhỏ xíu,làm nhiệm vụ thải nước bẩn cho Hà nội.Ta nhớ rằng theo sử sách sông Tô lịch ngày xưa rất rộng,trên bến,dưới thuyền,là trục Giao thông chính thủa ấy.Mặt khác thời Lý Trần có rất nhiều nhà Phong thủy Việt nam tài giỏi như :Thiền sư Ðịnh không làng Cổ pháp (Sư thọ 79 tuổi -Năm Bính tý 808 ),Sư La chân Nhân (852 -936 ),Sư Vạn Hạnh..
Dĩ nhiên các vị sư đó không thể nào để cho các Vua Lý chấn yểm sông Tô lịch và Thiên phù,để đến nỗi sông Tô lịch và Thiên Phù cứ ngày càng hẹp lại và Ngôi báu Vua Lý chẳng bao lâu về tay nhà Trần.Dòng họ Lý bị tuyệt diệt đến nỗi chỉ có người nào đổi qua họ Nguyễn mới thoát khỏi.
Bây giờ ta xét sự việc dưới một góc độ khác qua các sự kiện Lịch sử và các Thuyền thuyết còn lưu lại trong dân gian.
Theo Việt sử lược :Thành Ðại la được xây dựng vào Thế kỷ 7 có tên là Tống bình .Năm thứ 2 niên hiệu Trường khánh (Nhâm Dần -822 ),Vua Mục Tông nhà Ðường dùng Nguyên Hỷ làm quan đô hộ.Nguyên Hỷ thấy cửa thành có dòng nước ngược sợ rằng dân ở thành có ý đồ phản nghịch,liền sai Thầy bói gieo 1 quẻ.Thầy bói nói rằng :Sức ông không đủ để bồi đắp thành lớn,50 năm sau,có một người họ Cao đóng đô tại đây mà xây dựng Vương phủ .
Tới đời vua Ðường Y Tôn (841 -873 ),Cao biên được cử sang đất Việt làm Tiết Ðộ sứ.Cao biền là một con người đa hiệu: Vừa là một vị Tướng,vừa là một nhà Phù thủy,một Ðạo sĩ,cũng là một nhà Phong thủy có tài.La thành được Cao biền sửa chữa,chỉnh đốn lại cho hợp Phong thủy vào các năm :866,867,868.Theo truyền thuyết,khi Cao biền xây dựng lại Thành Ðại la,thì khu vực thi công có hiện tượng sụp lở đất.Cao biền liền tiến hành chấn yểm Thần sông Tô lịch và một số điểm khác như đền thờ Thần Bạch mã,núi Tảng viên.Sau đó công viêc xây dựng mới có thể hoàn tất.
Tới đây ta nhớ lại một truyền thuyết khác của Dân tộc Việt nam.Ðó là " Truyền thuyết Thành Cổ loa ".Tương truyền rằng khi xây dựng thành Cổ loa,An Dương Vương cũng xây mãi mà thành vẫn bị đổ.Khi đó Rùa Thần hiện ra chỉ cách cho xây và cho một cái móng chân ,lúc đó thành Cổ loa mới có thể xây dựng xong.
Về mặt địa lý,La thành và Thành Cổ loa cách nhau không xa (Theo đường chim bay chỉ vài chục km ).
Tới đây, ta buộc phải tự đặt câu hỏi : Có gì trùng hợp giữa hiện? tượng sụp đất của Thành Cổ loa,sự sụp đất của thành Ðại la và sự sụp lở đất không thể khắc phục được trên công trìng nạo vét sông Tô lịch
Qua hai Truyền thuyết trên,bỏ qua các sự việc có tính chất dị đoan,chúng ta phải chấp nhận một sự thực là :Vùng đất từ đầu nguồn sông Tô lịch kéo dài đến Cổ loa -Đông anh HÀ NỘI là một vùng đất có địa tầng địa chất không ổn định.Ta cũng cần phải nhớ rằng :Núi Tản viên nằm ở hướng Tây Hà nội.Mặt khác phía Tây và Tây bắc của La thành là một vùng núi non trùng điệp của các tỉnh HÒA BÌNH,SƠN LA,LAI CHÂU...Theo định nghĩa của môn Phong thủy Long mạch xuất phát từ những dặng núi cao.Núi mà từ đó khởi nguồn Long mạch gọi là Tổ sơn.Ngoài ra Long mạch còn xuất phát từ những khu vực khác gọi là Thiếu sơn.Ta cũng biết rằng Thiên khí từ trên trời luôn có tính chất giáng xuống ,các đỉnh núi cao là những Antena tiếp thu sinh khí.Từ những sự việc trên,ta cảm nhận được rằng có một Long mạch rất lớn bắt nguồn từ núi Tản viên và các rặng núi phía Tây,Tây bắc của Thành Đại la kéo dài qua thành Đại la theo dọc sông Tô lịch (khí thường đi theo nước ),chạy qua khu vực Hồ Tây bây giờ (Hồ Tây trước kia là một khúc của dòng sông Hồng ),sau đó sang tới tận địa phận Cổ loa -Đông anh -HÀ NỘI và còn theo hướng Đông,Đông bắc đi tiếp ...
Chính vì có Long mạch này mà Cao biền phải vô cùng bận tâm,khổ trí nhằm tiêu diệt hoặc chấn yểm.Có rất nhiều Truyền thuyết về Cao biền liên quan đến các khu vực khác nhau của Long mạch này.Ta có thể kể ra đây những hoạt động của Cao biền liên quan đến các khu vực của Long mạch này :Đầu tiên là truyền thuyết Cao biền chấn yển núi Tản viên,hắn đã sử dụng đến 8 vạn cái tháp bằng đất nung để chấn yểm núi Tản viên.Tới gần đây người ta còn đào được những cái Tháp đất nung đó tại khu vực Hà nội.Tiếp theo là Truyền thuyết Cao biến dùng hơn 4 tấn sắt,đồng...chôn để chấn yểm đền Bạch mã là nơi vị thần sông Tô lịch trú ngụ.Cao bìền còn nhiều lần dựng đàn tràng,dùng 4 thứ kim loại :Sắt,đồng,vàng,bạc chấn yểm nhiều nơi trên bờ sông Tô lịch.Theo sử sách,Cao biền đã đặt Bùa chấn yểm tới 19 nơi dọc theo sông Tô lịch.
Thời bấy giờ nước Nam có nhiều vị Đại sư tài ba lỗi lạc,hiểu biết rất giỏi về Nho,Y,Lý số và thuật Phong thủy đã hóa giải sự chấn yềm của Cao biền bằng phép Huyền môn.Các đại sư thường tụ tập tại ngôi đền SƠN TINH THỦY TINH ở núi Ba vì,hay ở Đền BẠCH MÃ ,dùng nhửng hiểu biết về Phong thủy để chấn áp Bùa phép của Cao biền.
Trở lại,đạo Bùa tìm thấy trên lòng sông Tô lich,có rất nhiều lý do để có thể kết luận rằng :Đó là tác phẩm của Cao biền ,chứ không phải là của các nhà vua Lý.Tác phẩm đó là của Cao biền đời nhà Đường,thuộc về Cao biền thế kỷ 9,tức là trước thời các nhà Lý khoảng 200 năm (Lý thái Tổ -Năm 1010 ).Nếu xét về niên đại của cổ vât tìm thấy,thì trong khoảng 200 năm các cổ vật trên cũng không có sự thay đổi nhiều.Cũng không loại trừ trường hợp,các cổ vật trên rớt xuống lòng sông thời gian sau, khi Cao biền chấn yểm.
Bây giờ ta lại xét đến mục đích của Cao biên khi chấn yềm sông Tô lịch.Cho tới tận giờ phút này,khi các bạn và tôi đang ngồi bên máy Vi tính,người ta vẫn sử dụng các thủ thuật :Châm,cứu,diện chẩn,xoa bóp,bấm huyệt...để chữa bệnh.Tất cả các thủ thuật đó đều dựa trên lý thuyết về hệ thống Kinh mạch,huyệt,lạc trong cơ thể con người.Người ta xác định được hàng ngàn vị trí Huyệt đạo trong cơ thể con người.Tùy theo từng trường hợp khi châm cứu,người ta dùng kim tam lăng để châm vào các huyệt khác nhau,với thời gian và độ nông sâu khác nhau.Trong dân gian còn lưu truyền các biện pháp bấm,điểm huyệt có thể làm cho một bộ phận nào đó của cơ thể không còn khả năng cử động,hoặc nặng hơn là bộ phận đó không còn sử dụng được.Ta vẫn biết rằng :THIÊN -ĐỊA NHÂN là hợp nhất.Mọi vật thể từ Vi mô cho đến Vĩ mô đều phải tuân theo những quy luật chung của sự tương tác vũ trụ.Phải nói dài dòng như vậy để có thể tạm kết luận rằng,trên Trái đất này,cũng phải có những đường Kinh mạch,huyệt,lạc như trong cơ thể con người.Trái đất này là một cơ thể sống chứ không phải là một cục đất chết như nhiều người vẫn nghĩ.Ta cũng có thể suy ra một hệ quả rằng :Tại một điểm nào đó,người ta có thể dùng một thủ thủ thuật nào đó,có thể ngăn,bế hoặc chặn đường đi của một Long mạch như Cao biền đã làm.Thủ thuật này người xưa gọi là Chấn yểm.
Bây giờ ta tạm thời đưa ra các nhận định như sau :
1/Đạo Bùa chấn yểm trên dòng sông Tô lịch là của Cao biền -Tiết độ sứ của nhà Đường,dùng để chấn yểm Long mạch,khi tiến hành xây dựng thành Đại la vào thế kỷ 9.Đó là 1 trong 19 nơi mà Cao biền đã thực hiện chấn yểm.Đạo Bùa đó hoàn toàn không phải do các Vua thời nhà Lý chấn yểm trong Truyền thuyết Ông Dầu,bà Dầu khoảng 200 năm sau khi Cao biền thực hiện chấn yểm.
2/Chấp nhận có một Long mạch rất lớn xuất phát từ phía Tây của thành Đại la (Các dãy núi thuộc các tỉnh Hòa bình,Sơn la,Lai châu,và gần nhất là dãy núi Tản viên );Long mạch này đi qua thành Đại la,cụ thể theo dọc sông Tô lịch,qua khu vực Hồ Tây,kéo dài sang Cổ loa -Đông anh - HÀ NỘI;Long mạch này còn kéo dài tới dãy Yên tử và theo hướng Đông Bắc tới tận Quảng ninh.Đây chỉ là nhánh Thanh long của Đồng bằng Bắc bộ.Nhánh Bạch hổ khi có điều kiên tôi xin chứng minh tiếp.
3/Cao biền đã thực hiện biện pháp chấn yểm Long mạch,nhằm bế dòng khí của Long mạch này.Thủ thuật chấn yểm tương tự như thuật điểm huyệt trong đông y học.
( http://vn.myblog.yahoo.com/dienbatn/article?mid=184" target="_blank ) .
3/Bài tham khảo thứ ba :
Nghi án phong thủy: Trụ đồng Mã Viện
Thiên Ðức
Hằng nằm cứ vào ngày 6/2 âm lịch lể kỷ niệm hai bà Trưng được cử hành tại nhiều nơi có người Việt sinh sống. Ðây là một sinh hoạt có tính lịch sử truyền thống.
Vào năm 40 sau công nguyên (scn), Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị quê ở Mê Linh đã dựng cờ khởi nghĩa, trước là trả thù cho chồng sau là đánh đuổi quân xâm lược, Hai Bà đã lấy được 65 thành trì và sau đó là xưng vương họ Trưng.
Năm 42 scn Mã Viện theo đường biển xua quân đánh trở lại. Trước thế giặc mạnh, quân hai bà chống cự không nổi, rút lui về Cẩm Khê và tan hàng từ đó.
Sau khi xâm chiếm đất Giao Chỉ Mã Viện cho thực hiện hai công trình là: Dựng trụ đồng Mã Viện tại động Cổ Sâm, châu Khâm và xây thành Kiên Giang hình tổ kén ở Phong Khê.
Trang lịch sử này đã gây nhiều tranh cãi về nhiều vấn đề như là:
- Nguyên do khởi nghĩa của Hai Bà vì thù chồng hay vì nợ nước?
- Hai Bà lập nên chế độ mẫu hệ đầu tiên ở Việt Nam chăng?
- Ngày lễ kỷ niệm của Hai Bà cũng có sự khác biệt? Ngày 6/2 hay 6/3 Âm lịch?
- Nguyên do cái chết của Hai Bà là nhảy sông tự tử hay bị chém đem đầu về Trung Quốc?
Cho dù có đặt nghi vấn như thế nào chăng nữa chúng ta cũng phải thừa nhận một điều là Bà Trưng là vị nữ vua đầu tiên tại Việt Nam, một vị vua thành tựu do công sức và tài trí trực tiếp đánh quân xâm lược. Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa do lòng yêu nước chân chính của mình, xuất thân từ giai cấp quí tộc, chứ không phải từ quan niệm đấu tranh giai cấp như nhà sử học xã hội chủ nghĩa lý giải.
Hai bà Trưng đã tạo dựng nên truyền thống vẻ vang nữ anh hùng dân tộc trong lịch sử Việt Nam.
Ðền thờ Hai Bà Trưng tại xã Hát Môn, Sơn Tây đang trong giai đoạn trùng tu
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Một câu hỏi đặt ra là: tại sao trong suốt gần 2.000 năm kế tiếp dân tộc ta vẫn không xuất hiện được một vị nữ anh hùng thứ hai có tầm cỡ Bà Trưng cho dù lịch sử Việt Nam là lịch sử của chiến tranh chống ngoại xâm từ đó cho đến nay? Phải chăng người phụ nữ Việt Nam yếu hèn? Hay là có sự cản trở bởi một huyền lực nào đó xuất phát từ thời gian sau khi Hai Bà Trưng thua trận, đất nước rơi vào sự đô hộ của người Hán, mà lịch sử chưa làm sáng tỏ chăng?
Thật vậy nghi vấn đó phát xuất từ hai hành vi cụ thể đầy bí ẩn của Mã Viện sau khi xâm chiếm đất nước ta chưa được lý giải rõ ràng.
Theo Khâm Ðịnh Việt Sử Thương Giám Cương Mục (KDVSTGCM), trang 24-25 ghi:
“Trưng vương cùng em gái là Nhị cự chiến với quân Hán, quân vỡ, thế cô, đều bị thất trận chết. Mã Viện đuổi đánh tàn quân của hai bà là bọn Ðô Dương đến huyện Cư Phong thì hàng phục được họ. Mã Viện lập cột đồng để ghi địa giới tận cùng của Nhà Hán…”.
Sách Thủy Kinh Chú của Lịch Ðạo Nguyên chép rằng: Mã Văn Uyên (tức Mã Viện) dựng cái mốc đồng để làm giới hạn cuối cùng của đất phía nam Trung Quốc...
Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh có chép:
Tương truyền cột đồng ở về động Cổ Sâm châu Khâm, Mã viện có thề rằng: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt”, nghĩa là “Cột đồng ấy gãy thì Giao Chỉ bị diệt”, nên người Việt đi qua dưới chân cột đồng ấy cứ lấy đá bồi đắp lên mãi thành gò đống cao. Ðó vì sợ cột đồng ấy bị đổ gãy.
Mã Viện nhà Hán đắp thành Kiển Giang.
Vì thấy huyện Tây Vu có đến ba vạn ba nghìn hộ, Mã Viện xin chia ra làm hai huyện Phong Khê và Vọng Hải. Vua Hán y cho Mã Viện lại lập hành quách, đặt tỉnh ấp (xóm làng), đắp thành Kiển Giang ở Phong Khê. Thành này hình tròn như cái Tổ kén. Nên gọi là thành Kiển giang. Ba năm sau Mã Viện về nước. (viethoc.org)
A- Trụ Ðồng Mã Viện .
Trải qua một thời gian dài bị đô hộ dưới thời Hán thuộc, trụ đồng Mã Viện đã hoàn toàn mất hết dấu tích nhưng vẫn còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử như sau:
I - Sự thật của trụ đồng .
Trụ đồng Mã Viện là một câu chuyện có thật, đã được ghi vào sử liệu của cả hai nước Trung Hoa và Việt Nam. Ðây không phải là một huyền thoại hay là hư cấu.
Vào đời vua Trần Thánh Tôn, Ngài đã cho người đi tìm lại dấu tích cột đồng nhưng không thấy.
“Tháng 4 mùa hạ (1272,) sai viên ngoại lang là Lê Kính Phu sang hội với người nhà Nguyên biện luận việc cương giới. Nhà Nguyên sai Ngột Lương sang hỏi giới mốc đồng trụ ngày trước, nhà vua phái Lê Kính Phu đi hội đồng khám xét. Kính Phu nói với Nhà Nguyên rằng: “Chỗ cột đồng do Mã Viện dựng lên lâu ngày bị chìm lấp, nay không thể biết ở chỗ nào được”. Việc đó sau cũng thôi... ( KDVSTGCM, Quyển VII tr. 219)
“Tháng 8 mùa thu (1345) Sai sứ sang nhà Nguyên. Nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi địa giới cột đồng ngày trước. Nhà vua sai Phạm Sư Mạnh sang Nguyên biện bạch sự việc này” (KDVSTGCM, Quyển IX Tr.279).
II - Vị trí của trụ đồng .
Ða số sử liệu đã thống nhất vị trí của trụ đồng như sau:
- Sách Nhất Thống Chí nhà Ðại Thanh chép: Cột đồng ở về động Cổ Sâm, châu Khâm.
- Ðại Việt Sử Ký Toàn Thư Ngoại Ký của Lê Văn Hưu Quyển III Tr. 22 ghi: Mã Viện bèn dựng cột đồng làm giới hạn cuối cùng của nhà Hán. Cột đồng tương truyền ở trên động cổ Lâu, châu Khâm.
Tóm lại theo sử liệu trên có thể kết luận là trụ đồng nằm ở vùng Châu Khâm tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu thuộc vùng biên giới cực bắc Giao Chỉ cũng là cực nam nhà Hán.
Một vấn đề cần được sáng tỏ nữa là: châu Khâm là huyện biên giới giữa Giao Chỉ và Nam Hán hiện nay nằm ở đâu?
Theo tài liệu nghiên cứu mới nhất của bác sỹ Trần Ðại Sỹ, Giám đốc Trung Quốc sự vụ, viện Pháp Á “Thử tìm lại biên giới cổ của Việt Nam bằng cổ sử, bằng triết học, bằng di tích và hệ thống DNA”(1) (vietnamsante.com), thì:
Sau khi dẫn chứng lịch sử thời hai bà Trưng, di tích, cổ vật, cùng kết quả thử nghiệm DNA đã kết luận rằng: Biên giới cổ của nước Việt Nam với các triều đại Hồng Bàng, Âu Lạc, Lĩnh Nam phía Bắc quả tới hồ Ðộng đình, phía Tây giáp Tứ Xuyên.
Sự phát hiện này có thể xác quyết một điều là vị trí trụ đồng nằm ở biên giới phía Bắc Việt Nam qua thời gian đô hộ đã bị Trung Quốc lấn chiếm và vùng đất động Cổ Sâm (Cổ Lâu) hiện nằm sâu trong lãnh địa Trung Quốc hiện nay.
III - Ý nghĩa câu “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt”
Trong hầu hết cổ sử Trung Quốc và sử Việt ghi chép lại, giải thích câu này chỉ là một lời thề. Ðiểm này có nhiều nghịch lý.
1. Ðây không thể là một lời thề. Thật vậy, Mã Viện là người đi chinh phục và vui mừng thắng trận, nên không có động cơ nào để tạo ra một lời thề ghi trên trụ đồng. Vì vậy sách sử gọi đây là lời thề là không đúng sự thật.
2. Ý nghĩa câu chữ “Trụ đồng chiết, Giao Chỉ diệt” ngầm ý hăm dọa cũng như gây hận thù với dân tộc Giao Chỉ rất là phi chính trị. Theo sử sách cho biết Mã Viện là một danh tướng văn võ song toàn giỏi quân sự lẫn chính trị, có thể nào ngây ngô đưa ra một lời thề phi chính trị như trên hay không? Tất nhiên là không, vì thế Mã Viện cố tình ghi khắc câu này tất phải có mưu đồ sâu độc nào đó đối với đất nước Giao Chỉ vậy.
3. Ða số sách sử Trung Hoa cũng như Việt Nam đều giải thích câu: “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là trụ đồng gãy thì dân Giao chỉ bị giết. Chữ Chiết mà dịch là gãy đúng với ngôn ngữ, thế nhưng trong trường hợp này có điều không ổn. Vì rằng một cột trụ đồng kim loại, đặc ruột dựng giữa thiên nhiên thì làm sao có thể gãy được? nếu so với một cây cau, một cây dừa thân mộc, cao, tán cây rộng lung lay trước gió bão còn có thể đứng vững. Thì đây là một nghịch lý.
Do vậy sự dịch thuật câu chữ này hoàn toàn sai lầm một cách cố tình nhằm che dấu một bí mật lịch sử mà người viết sẽ phân tích ở phần sau.
IV- Công dụng của trụ đồng .
Hiện nay vẫn còn nhiều tranh cãi và cũng chưa có lời đáp thích hợp.
1) Theo sử gia Phạm Văn Sơn chuyện cột đồng Mã Viện thiết tưởng không đáng tin lắm chỉ nên coi là một giai thoại không hơn không kém... Nếu coi cột đồng Mã Viện là một mỹ đàm thì chép vào sử để làm một câu chuyện kể chơi cho có thú vị thiết tưởng không hại gì. (Việt sử Tân Biên, tr.199). Ðây chỉ là lối nói huề vốn khi không lý giải được những nghịch lý của câu chuyện trụ đồng, do vậy không đáng tin cậy. Viết lịch sử của một dân tộc cần sự nghiêm túc chứ không phải là chuyện mỹ đàm, kể chơi cho vui.
2) Theo tác giả Trương Thái Du trong bài “Một cách tiếp cận những vấn đề cổ sử Việt Nam (Talawas - lịch sử).
Cột đồng Mã Viện dựng năm 43 ở quận Giao Chỉ và Tây Ðồ Di cũng chính là đài quan trắc thiên văn... Trong công tác thiên văn thời Mã Viện, để xác định những vùng đất mới, cần phải tiến hành quan trắc các chỉ số năm này qua năm khác. Cột thiên văn chuẩn phải vừa tránh được thời tiết xâm hại, vừa bền vững nên chất liệu đồng đã được chọn. Muốn đo đầy đủ thì phải cử người ở lại làm việc, ít nhất là hằng năm tập hợp số liệu đem về kinh đô. Chuyện dân gian Việt Nam kể rằng Mã Viện từng dựng cột đồng ở Bắc Việt lại càng khẳng định đây là cột thiên văn chứ không phải mốc giới. Chẳng ai đem mốc giới để giữa nơi đô hội, để mỗi người đi qua ném một hòn đá vào đấy mong cột đừng đổ. Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của Mã Viện ngầm bảo phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận. Cơ sự là thế! Con toán thiên văn nhỏ của tôi ở tiểu mục 1 là minh họa suốt bài viết này.
Giả thiết này khó thuyết phục bởi những nghịch lý sau: Một cột đồng đặc ruột thuần túy trồng giữa trời mưa nắng không thể gọi là một đài (?) thiên văn được. Theo người viết hiểu ý của tác giả là trụ đồng Mã Viện được sử dụng như là một cái cột chuẩn để đo lường sự di chuyển của bóng mặt trời, mặt trăng... Nếu chỉ với công dụng như vậy thì chẳng cần phải dùng cột đồng làm gì cho năng nhọc, thực hiện khó khăn (từ việc gom đồng, đúc cột, điêu khắc, di chuyển, dựng cột...), rất tốn kém tiền bạc, công sức và thời gian. Ngoài ra còn viện lý do khỏi bị thời tiết xâm hại lại không chuẩn.
Vì rằng cột đồng to và cao đủ để đo bóng mặt trời thì rất nặng hàng tấn tạo sức ép trên một tiết diện nhỏ thì với thời tiết mưa lụt khí hậu ẩm thấp, đất ướt, mềm nở ra rất dễ bị lún, hay đổ ngã nguy hiểm. Với độ lún hằng năm của trụ đồng, thì độ đo đạc lại càng thiếu chính xác, sẽ làm giảm mất giá trị công dụng nói ở trên. Với trụ gỗ tốt vừa nhẹ, bền, dễ kiếm, dễ bảo quản, dễ thay thế, lại đạt yêu cầu trên có lẽ hợp lý hơn cột đồng.
Với uy danh của một tướng lãnh thống trị đương thời chắc chắn có rất nhiều cách để bảo quản trụ đồng cần gì phải ngầm bảo dân bị trị phải coi sóc “đài thiên văn” bỏ túi kia cẩn thận bằng câu “Ðồng trụ chiết, Giao chỉ diệt” vừa vô chính trị đối với một vị tướng văn võ toàn tài, vừa mất tư cách đạo đức của một kẻ đi thống trị. Với toán công tác thường trực ghi số liệu báo cáo hằng năm không đủ sức bảo quản trụ khí tượng hay sao, mà cần phải ngầm bảo dân bị trị coi sóc?
3) Theo cổ sử, cột đồng chỉ là cột mốc biên giới mà thôi. Lối giải thích này cũng không thỏa đáng. Nếu là cột mốc biên giới tại sao không ghi những thông tin cần có của vùng biên giới mà lại ghi câu: “Trụ đồng chiết , Giao Chỉ diệt” trên cột đồng?
Thứ nữa là cột mốc biên giới tại sao không đặt tại những con đường đi giữa ranh giới của hai nước, mà lại đặt tại một hang động trong vùng hẻo lánh?
B - KIỂN THÀNH.
Là công trình cụ thể thứ hai của Mã Viện đã hoàn thành trước khi về nước. Theo sách sử giải thích thành Kiển Giang có hình tổ kén của con tằm, như vậy nó có hình tròn và dài túm hai đầu, chứ không đơn giản là hình tròn ghi trong sử liệu, đã đem lại nhiều ngộ nhận cho người đọc sử.
Hình dáng của Kiển Thành cũng đem là nhiều nghi vấn. Thật vậy đây là loại thành quách quân sự rất hiếm thấy trong sử sách, là loại hình dài và gầy hẹp có rất nhiều nhược điểm như sau:
- Dễ bị tàn phá bởi thời tiết gió bão, thật vậy một trường thành dài và ốm sẽ hứng chịu nhiều sức tàn phá của gió bão hơn là một bức thành ngắn, tròn hay vuông và rộng.
- Mục đích xây thành cho dân ở vì dân số đông mà lại xây thành hình ốm và đài là không kinh tế và khó có thể thỏa mãn đầy đủ nhu cầu phát triển cư dân về lâu dài.
- Về mặt quân sự một trường thành dài rất khó trấn thủ vì tốn kém nhiều nhân lực canh gác, và khó tiếp ứng từ đầu này đến đầu khác.
Vì thế câu hỏi đặt ra là tại sao không xây thành hình vuông, đa giác lồi hay hình tròn bình thường như những thành quách khác mà lại xây thành hình cái kén? Ẩn ý của kiến trúc này là gì vẫn chưa được giải đáp trong sử sách.
Tóm lại, những nghịch lý trên của lịch sử đã trải qua gần 2.000 năm vẫn chưa được lý giải minh bạch dưới nhãn quang của các nhà sử học hay nhà khảo cổ. Thế nhưng, nếu nhìn sự việc trên đây bằng nhãn quang của một nhà phong thủy thì tất cả mọi nghi vấn trên đều được giải đáp thỏa đáng.
Thật vậy đây là một trận đồ phong thủy mà Mã Viện bày ra nhằm hãm hại đất nước Giao Chỉ. Hai Bà Trưng đối với Việt Nam là những anh hùng dân tộc, thế nhưng theo quan niệm của triều đình Hán hai bà Trưng chỉ là yêu tặc.
Theo An Nam Chí Lược (trang 40) do tác giả Lê Tắc là người Việt Nam, chạy qua sống ở Trung Hoa và viết sử theo quan niệm của Trung Hoa như sau:
Năm Kiến Võ thứ 16 của Hán Quang Vũ Ðế (sau công nguyên 40), người đàn bà Giao Chỉ là Trưng Trắc làm phản, quận Cửu Chân và quận Nhật Nam đều hưởng ứng theo. đành các quận ấp, cướp được 60 thành, rồi tự lập làm vua...
Ðến năm Kiến Võ thứ 19 Mã Viện chém yêu tặc là Trưng Nhị (Nhị là em gái của Trưng Trắc) và đánh luôn dư đảng, bọn Ðô Lương, đến huyện Cư Phong, bọn này chịu đầu hàng... (viethoc.org)
Vào thời đại nhà Hán, thuật phong thủy, địa lý rất thịnh hành, tất cả những công trình xây dựng mồ mả, lâu đài đều tuân hành nghiêm túc quy luật địa lý phong thủy.
Ảnh hưởng bởi quan niệm này, Mã Viện sau khi trừ diệt được hai Bà Trưng (?) đã bày một trận đồ phong thủy để diệt tận gốc yêu quái, trừ hậu hoạn, nhằm hãm hại đất nước ta không còn vua nữ giới nữa bằng những hành động như sau:
1- Mã Viện cho dựng một trụ đồng tại động Cổ Sâm hay Cổ Lâu, nghi vấn đặt ra là tại sao không đặt nơi đồng bằng trống trải dễ thấy hay tại những con đường đi lại giữa hai nước như là cột mốc bình thường mà lại đặt tại một hang động? Chỉ có thể trả lời là động Cổ Sâm chính là huyệt hàm rồng kết phát làm vua của đất Giao Chỉ nên Mã Viện muốn phá hủy để đất nước không còn vua nữa, dễ bề cai trị.
Nếu tự nhiên Mã Viện cho đào sâu xuống để chôn hoàn toàn một trụ đồng mà không có lý do chính đáng thì mọi người sẽ nghi ngờ, và gặp nhiều khó khăn trong thực hiện, vả lại cũng kém hiệu quả về mặt phong thủy. Vì thế mà Mã Viện đã thâm độc, cho dựng đứng trụ đồng không cần phải chôn sâu và ghi khắc câu chữ “Trụ Ðồng chiết, Giao Chỉ diệt” bề ngoài như là hăm dọa, nhưng thực chất là khiêu khích lòng tự ái dân tộc của dân Giao Chỉ, sau đó ngầm hỗ trợ cho người dân mỗi ngày ném gạch đá vào trụ đồng để chôn lấp. Sự việc này có hai tác dụng thứ nhất là giữ cho trụ đồng không bị nghiêng ngả với thời gian, thứ hai trụ đồng nặng hàng tấn tạo một sức ép mạnh trên một tiết diện nhỏ thì dễ dàng từ từ lún sâu vào lòng đất mỗi khi thời tiết mưa ẩm, đất nở và mềm ra. Có như vậy mới che dấu được quỷ kế thâm độc của mình và tác dụng phong thủy lại càng tăng cao.
2- Ý nghĩa thật sự của câu: “Ðồng trụ chiết... Giao Chỉ Diệt”, Ðây là một câu thần phù còn ẩn dấu một hai chữ để che đậy âm mưu phá huyệt phong thủy. Thật vậy chữ Chiết ở đây không có nghĩa là gãy mà có nghĩa là tách làm hai, ví dụ như chiết cành chẳng hạn. Do đó câu trên nên giải thích là “trụ đồng tách huyệt (đế vương) ra làm hai, vua Giao Chỉ bị giết”. Chứ không thể dịch là trụ đồng bị gãy, dân Giao Chỉ bị giết hoàn toàn phi lý. Như vậy câu trên có hai chữ bi ẩn dấu là chữ huyệt và chữ vương.
3- Kiển Thành hình cái kén, nếu chúng ta tách rời hai sự kiện này ra thì sẽ không thấy âm mưu sâu độc của Mã Viện, vì thế người viết, kết hợp cả hai sự kiện này bằng một hình vẽ tượng hình, bạn đọc sẽ thấy rõ ràng hơn:
Hình dáng Kiển Thành, tổ con tằm, Âm, Thủy, tượng hình của người đàn bà, kết hợp với hình dáng trụ đồng Mã Viện, Dương, Hỏa, tượng hình của người đàn ông.
Theo Kinh Dịch lý thuyết Vũ trụ: Thái Cực - Lưỡng Nghi - Tứ Tượng - Bát Quái.
Bùa lưỡng nghi (loại tượng hình)
Nguồn: Thiên Ðức 8/2005
Theo thuật phong thủy, nói về nhà cửa thường sử dụng bùa bát quái để trấn yểm hướng xấu. Trong phạm vi rộng lớn của một đất nước, bùa bát quái không có hiệu lực, vì thế Mã Viện đã sử dụng một loại bùa rất hiếm hoi đề cập trong sách vở đó là loại bùa Lưỡng Nghi tức là bùa Âm Dương có hiệu lực cao hơn bùa bát quái hai bậc theo Kinh Dịch.
Loại bùa này được thực hiện bởi hai công trình: Kiển Thành, Âm thủy và trụ Ðồng Mã Viện, Dương Hỏa.
Ngoài ra, nói theo kiểu dung tục thì Mã Viện đã chơi một trò rất thô bỉ là “Ðóng cọc người đàn bà Giao Chỉ” nhằm triệt tiêu con đường kết phát vương quyền cho nữ giới Việt Nam sau này. Với chứng cứ đê tiện này cũng có thể chứng minh truyền thuyết quân Mã Viện lúc giao chiến với đội quân nữ giới của Hai Bà đã chơi trò đồng loạt “Truồng cởi” làm hổ thẹn nữ binh không phải là không có lý.
Tóm lại câu chuyện trên có thể kết luận như sau:
- Cột đồng Mã Viện là một dụng cụ phong thủy chôn tại động Cổ Sâm nhằm mục đích phá vỡ huyệt kết phát vương quyền của đất Giao Chỉ.
- Câu “Ðồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” là một câu thần phù hay nói đúng lời là một lời nguyền có hiệu lực cho đến khi được giải mã (?).
- Hình dáng Kiển Thành kết hợp với trụ đồng Mã Viện tạo nên một đạo bùa Lưỡng Nghi nhằm trấn yểm không cho người đàn bà Giao Chỉ (mà thời nhà Hán gọi là yêu nữ) tiếp nối truyền thống anh hùng dân tộc.
Sở dĩ loại bùa chú này có hiệu lực lâu dài bởi hội đủ những điều kiện sau đây:
- Ðặt đúng huyệt vị.
- Ðiều quan trọng nhất không ai có thể hại mình bằng chính mình hại mình. Dựa vào nguyên tắc này Mã Viện đã thâm hiểm khích tướng để cho dân Giao Chỉ ném đá vào trụ đồng để giữ vững cho chôn trụ đồng có thời gian tự lún sâu vào huyệt đạo tạo thêm hiệu lực cho bùa trấn yểm.
- Thời gian hiệu lực của bùa chú càng lâu dài nếu bí mật của nó chưa được tiết lậu, các sử gia Trung Quốc vì quyền lợi Trung Quốc đã che đậy sự việc này và dối trá cho đây chỉ là cột mốc biên giới đơn thuần mà không có giải thích toàn bộ sự kiện. Và theo truyền thuyết bùa ngải, phong thủy, nếu một người mà dùng bùa chú hại người khác nếu được cao nhân cứu giải thì loại bùa chú đó sẽ trở lại tác động với chủ nhân của nó. Vì thế người Trung Quốc rất sợ phản đòn và rất kín miệng về sự việc này.
Ngoài ra để cho đất Giao Chỉ không còn huyệt phát vua chúa nữa, Hán tộc đã âm thầm cướp trắng một phần đất của Giao Chi, trong đó có vùng châu Khâm động Cổ Sâm và xóa tan dấu tích để người dân Việt không còn phương cách truy cứu. Và sự việc này cũng không được ghi chép vào sử sách.
Trong thời đại không gian điện tử hiện nay, nhiều người sẽ đánh giá câu chuyện kể trên thuộc vào loại hoang đường nhảm nhí.
Tin hay không là tùy mỗi người, nhưng với chứng cứ và lý luận khó có thể phản biện như trên, trong tư cách là một người nghiên cứu phong thủy lâu năm, người viết trân trọng bố cáo:
Trước trời đất và mọi người chứng giám rằng:
Những âm mưu đê tiện của Mã Viện người Trung Quốc đã dùng thủ thuật phong thủy để ám hại dân tộc Giao Chỉ, nay đã được phơi bày ra ánh sáng.
Phải chấm dứt ngay mọi uy lực của lời nguyền và trao trả hiệu quả thảm hại lại cho cố chủ.
CÒN TIẾP...