Trang 1 trên 1

Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 21:58, 09/05/14
gửi bởi taybalo

Đọc thấy hay nên post lên các bạn xem ..xả choét:
10 Trạng thái kỳ thú của Tử-Vi
GS. Lê Trung Hưng

Sau loạt bài "10 điều tâm niệm" và “10 điều soi sáng” cho khoa Đẩu Số Tử-Vi, người viết vẫn chỉ mong làm một công việc bình thường nhất là truyền thông đến quý vị say mê nghiên cứu Tử-Vi, một vài suy nghiệm thâm thúy đã tìm thấy ở khoa lý học Đông Phương này. Trong khuôn khổ tổng quát vừa nói, kẻ viết xin trình bày thêm "10 trạng thái kỳ thú của Tử-vi" như sau :


1 - Vó câu nghị lực
2 - Đối kháng của định mệnh
3 - Liên minh kỳ diệu
4 - Hạnh phúc lâm nguy
5 - Đường đời cô đơn
6 - Bạn là ai
7 - Nên sống hay chết
8 - Sung sướng hay đau khổ
9 - Nhân diện ác quỷ
10-Anh hùng chiến trận.

1- Vó câu nghị lực

Biết xem Tử-vi ai cũng phải công nhận giá trị quan hệ của sao Thiên Mã, nó tượng trưng cho nghị lực ở đường đời, cũng như chiếc xe đi của đương số. Thiên Mã chỉ đóng ở 4 cung thuộc Tứ sinh : Dần, Thân, Tỵ, Hợi. Khi Mã đóng ở cung nào, thì Mã thuộc hành của cung đó.

Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân, tức là Mã Kim, Thiên Mã đóng ở cung Dần là Mã Mộc .... Tuy vậy, có điều lý thú nhất, là khi Mã đóng ở cung nào có sao Tuần thì phải nên hiểu rằng : Mã không còn ở cung đó nữa, mà Thiên Mã đã nhờ chiếc cầu Tuần nhảy tới (theo chiếu thuận) vị trí mới để trở thành Mã của hành ở cung mới nhảy tới. Thí dụ : Thiên Mã đóng ở cung Thân mà cung Thân có sao Tuần thì phải hiểu rằng Thiên Mã đã nhảy tới cung Hợi, để trở thành Mã Thủy (chứ không phải là Mã Kim nữa). Do đó, khi đối chiếu ngũ hành của Mã với ngũ hành của Mệnh, ta nên để ý tới sự kiện Mã ngộ Tuần (Sao Triệt không kể tới) mà luận giải về tính cách phấn đấu của đương số trong đời sống cũng như về những tai họa do xe cộ gây ra ...

2- Đối kháng của Định Mệnh

Lá số Tử-Vi gồm 12 cung, mỗi cung mang một chủ đề trong 12 chủ đề của đương số là :Mệnh, Phụ, Phúc, Điền, Quan, Nô, Di, Ách, Tài, Tử, Phối, Bào. Ta hãy để ý có 6 đôi cung xung phá nhau, lần lượt là :

- Dần với Tị
- Sửu với Ngọ
- Tý với Mùi
- Hợi với Thân
- Mão với Thìn
- Dậu với Tuất.

Cho nên khi nhìn vào các cung trên, ta thấy ngay các vấn đề đã trở thành nên những đối tượng tranh chấp (một thắng một bại, một mất một còn, một chánh một tà, một thịnh một suy) nhau thật rõ ràng.

Thí dụ : Mệnh đóng tại cung Tý ta có :
Mệnh - Ách : xung phá.
Phụ - Di : xung phá
Phúc - Nô : xung phá
Điền - Quan : xung phá
Tử - Phối : Xung phá
Tài - Bào : xung phá

Rồi giữa những cặp cung tranh chấp ấy, ta để ý những sao của cung nào hợp và lợi cho ngũ hành của bản Mệnh, thì cung ấy cường và cung kia nhược. Thí dụ : Phúc - Nô xung phá, nếu Nô cung cường thỉ Phúc cung nhược, Tử phối xung phá, nếu Phối thịnh thỉ Tử suy .....

3- Liên minh kỳ diệu

Nếu đã có 6 đôi cung phá nhau, thì cũng có 6 đôi cùng hạp nhau (nhưng chỉ là hạp một chiều) được gọi là 6 đôi nhị hợp :

- Tý với Sửu (Sửu lo cho Tý)
- Dần với Hợi (Hợi lo cho Dần)
- Mão với Tuất (Mão lo cho Tuất)
- Thìn với Dậu (Dậu lo cho Thìn)
- Tỵ với Thân (Tỵ lo cho Thân)
- Mùi với Ngọ (Mùi lo cho Ngọ)

Từ căn bản này, 12 chủ đề của bản số Tử-Vi đã thu lại làm 6 hành động làm lợi cho 6 chủ đề mà thôi. Thí dụ : Mệnh đóng tại Tý, thì bản số có giải đáp tổng quát ngay : cha mẹ lo cho đương số, bạn bè đem tài lộc tới cho đương số ....

Một lý thú căn bản suy gẫm : cung an Mệnh (tượng trưng cho đời sống tiêu cực của con người) luôn luôn được cung phụ mẫu che chở, nhưng cung an Thân (tượng trưng cho hành động của con người) lại luôn luôn sinh phò cho cung Phụ Mẫu (có ý nghĩa như sự báo hiếu vậy). Vấn đề này đã được cụ Thiên Lương cho là một bố cục tế vi của cổ nhân khi soạn ra cách an sao lập số Tử-vi vậy.

4- Hạnh phúc lâm nguy

Bộ Sát Phá Tham là nhóm tinh đẩu quá khích, chủ về các hành động sát phạt, cho nên khi người ở cách Cơ Nguyệt Đồng Lương mà sang Đại hạn Sát Phá Tham thì hãy coi chừng sự xông xáo thái quá của nhóm sao vừa nói gây ra phản ứng phũ phàng không sao lường được (điều này thì ai cũng biết cả). Tuy nhiên ở đây, ta hãy để tâm kiểm nghiệm hai trường hợp :

- Bộ Sát Phá Tham ở cung Phụ Mẫu.
- Và Bộ Sát Phá Tham ở cung Phu Thê.

Luôn luôn là khuynh hướng báo trước sự hình khắc chia ly (nhẹ cũng là cảnh ông nói gà, bà nói vịt, cha ở nhà trước mẹ ở sân sau... ) Trong trường hợp bộ Sát Phá Tham (dù đặc địa hay hãm địa) ở trong vòng Thái Tuế thì còn đỡ (giảm 50 % hiệu lực ), chứ nếu chúng ở ngoài vòng Thái Tuế của bản số (Vòng Thái Tuế là vòng tam hợp cung tuổi của bản số) thì thật là tai hại vô cùng.

5- Đường đời cô đơn

Xem số Tử-Vi, nhiều người có thói quen nhìn ngắm các chính diệu đắc địa hay hãm địa mà luận giải sự tốt xấu. Tôi thấy điều này có vẻ phiến diện, hời hợt, khi đúng khi không. Thật ra vấn đề ngũ hành của chính tinh mới là hệ trọng. Đối với hai cung Phối và Nô là hai nơi quần tụ của mỗi cá nhân trong xã hội, cần phải đẹp đẽ để đời sống thêm ý nghĩa (từ đời tư đến đời công). Cái đẹp ở hai cung Phối và Nô có nghĩa là có bạn đời và bạn đường chung thủy khả tín. Chúng ta hãy chú ý đến các ngũ hành của chính diệu đóng tại cung Phối và Nô như sau :

a)- Đối với cung Phối

Nếu ngũ hành của chính tinh cung Phối sinh nhập với ngũ hành của bản mệnh thì đời sống vợ chồng lâu dài đầm thắm, nếu cung Phối có chính tinh xung khắc với ngũ hành bản Mệnh thì : anh đường anh, tôi đường tôi, tình nghĩa đôi ta chỉ có thế thôi ... Đặc biệt, cung Phối có hai chính diệu (một hạp, một khắc) nghĩa là trong đời tình cảm thế nào cũng hai lần hát khúc tào khang là ít.

Hình ảnh- Đối với cung Nô

Ngũ hành chính diệu sinh nhập ngũ hành bản Mệnh thì có bản bè, thuộc hạ tốt, trông cậy được. Bằng như ngũ hành chính diệu xung khắc ngũ hành bản Mệnh là kể như đường đời cô độc, không ai là Chung Tử Kỳ của Bá Nha cả. Khi ngũ hành của bản Mệnh sinh xuất ngũ hành của chính diệu tại Nô cung, phải coi như một đời tôi mọi cho bằng hữu.

Thí dụ :Người Mạng Thổ, Nô cung có Vũ Tướng, là kể như không có bạn tri kỷ !. (vì Vũ Khúc là Kim,Thiên Tướng là Thủy, ngũ hành bản Mệnh là Thổ không hợp và lợi gì với Kim và Thủy cả). Còn các bàng tinh và phụ tinh chỉ là chuyện thứ yếu, thêm bớt chút đỉnh ý nghĩa thôi .

6- Bạn là ai ?

Cuốn Tử-Vi nghiệm lý của cụ Thiên Lương có nói : " Môn Tử-Vi khoa tính tình học tiềm ẩn ", tôi thấy điều này rất chí lý. Muốn tìm hiểu tính tình của một bản số, ta nên vẽ ra 3 vòng Tam hợp là :

- Vòng Thái Tuế : tượng trựng tư tưởng của mình.
- Vòng Thân : Tượng trưng hành động của mình.

Vòng Thái Tuế là Tam hợp của ba cung có tên giống địa chỉ năm sinh. Vòng Mệnh là Tam hợp của ba cung an Mệnh, cung Quan Lộc và cung Tài Bạch. Vòng Thân là tam hạp của ba cung liên quan với cung an Thân. Sau đó, ta ghi nhận ngũ hành của mỗi vòng :

- Hợi Mão Mùi là Mộc;
- Dần Ngọ Tuất là Hỏa;
- Thân Tí Thìn là Thủy;
- Tỵ Dậu Sửu là Kim.

Rồi lý luận theo tám trường hợp kể sau :

- Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Thân ở thế ngũ hành tương khắc, là người ngụy quân tử nói hay mà làm điều ác hiểm (giống như vai trò Nhạc Bất Quần trong Tiếu Ngạo Giang Hồ của Văn sĩ Kim Dung)

- Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế, còn Vòng Mệnh ở thế ngũ hành tương khắc, là người nói dữ dằn nhưng hành động lại quang minh chính trực (như mẫu người Từ Hải trong truyện Kiều)

- Vòng Mệnh, Vòng Thân cùng hành với vòng Thái Tuế : tốt nhất, quân tử chính danh.

- Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng xung khắc ngũ hành với vòng Thái Tuế, là người chung thân bất mãn, lãnh tụ của đối lập, thích nghi và làm điều ngang trái.

- Vòng Thái Tuế sinh xuất vòng Mệnh nhưng Vòng an Thân lại sinh nhập Vòng Thái Tuế, là mẫu người cực kỳ khôn ngoan, chủ trương nhượng bộ trong lý thuyết rồi lấn lướt trong hành động.

- Vòng Mệnh cùng hành với Vòng Thân nhưng sinh nhập vòng Thái Tuế là người luôn chủ trương lấn lướt tha nhân, chuyên nghĩ và xếp đặt chuyện ăn người, mẫu người tham vọng.

- Vòng Mệnh cùng hành với vòng Thân nhưng được Vòng Thái Tuế sinh xuất là người hiền lành đến nhu nhược, luôn cam phận thiệt thòi (một sự nhịn, chín sự lành).

- Vòng Mệnh sinh nhập Vòng Thái Tuế, rồi Vòng Thái Tuế sinh xuất Vòng Thân là người nói hay làm dở, nói nhiều làm ít đa lý thuyết, thiếu thực hành, dốt hay nói chữ.

7- Nên sống hay chết

Đời có vinh kẻ nhục, số Tử-Vi cũng có những nét bàng bạc đồng sao mà dị nghĩa, cả hai người nhe răng nhưng người này cười mà kẻ kia lại khóc. Đó là trường hợp bộ ba Mã-Khốc-Khách. Nhiều sách đều khẳng định hạn gặp Mã-Khốc-Khách là vận tốt, tôi đã kiểm nghiệm thấy không đúng mà phải luận giải thế tương quan giữa ngũ hành của Mã với hành của Mệnh trước tiên đã, nếu thấy Mã phò người là thì mới là nhạc ngựa khánh vàng reo vui, còn thấy Mã hại người thì chỉ là tiếng kèn trống đám ma thôi (hoặc đến hạn đó gặp nhiều cái rủi ro đưa tới như bệnh, tật, mất xe, hao tài tốn của, nhiều chuyện bực mình ...~_laughing )

Thí dụ : Người tuổi Ngọ, mạng Mộc Mã ở cung Thân (Mã Kim) vậy là Mã hại người. Ôi ! còn ghê rợn nào bằng hạn Mã-Khốc-Khách, khóc dở, mếu dở ... Người tuổi Dần, mạng Thủy, Mã đóng ở cung Thân (Mã Kim), đây là Mã phò người, nên gặp hạn Mã-Khốc-Khách là đến hồi thái lai vậy. Từ đó mà suy luận rộng thêm ra các trường hợp khác

8- Sung sướng hay đau khổ

Khi nào chính diệu xung chiếu được coi như chính diệu tọa thủ ở cung vô chính diệu ?

- Khi nào Vòng tam hợp của cung vô chính diệu có hành khắc chế được hành của Vòng tam hợp cung xung chiếu có chứa chính diệu .

Thí dụ : Mệnh vô chính diệu tọa thủ ở cung Dậu (vòng tam hợp là Tỵ Dậu Sửu : Kim). Cung xung chiếu là Mão (vòng tam hợp Hợi Mão Mùi : Mộc) chứa hai chính diệu Thái Dương và Thiên Lương. Vậy vòng Kim khắc chế vòng Mộc, nên chiếm đoạt được hai chính tinh Thái Dương và Thiên Lương đem về cung Dậu xử dụng. Ngược lại nếu hành của cung vô chính diệu bị hành của cung xung chiếu áp đảo thì kể như "Hư không chi địa" hoàn toàn, lúc này cung vô chính diệu lại càng lâm nguy và dễ dàng để cho các "Hung tinh chiếu lược" hoành hành.

9- Nhận diện ác quỉ

Cụ Hà-Lạc Dã Phu Việt-Viêm-Tử trong " Tử-Vi Áo Bí " đã đề cao vai trò của bộ Tả Phù và Hữu Bật. Thật tình mà nói, thì hai sao này là những " gián điệp hai mang " nghĩa là nó vừa hữu ích mà vừa nguy hiểm khi tìm biết tánh nết của một người qua bản số Tử-Vi. Khi Tả-Hữu đóng vào vòng Thái Tuế có hai trường hợp xảy ra :

- Nếu trong vòng Thái Tuế không có Địa Không, Địa Kiếp, Hóa Kỵ, Đà La, là người chính nhân quân tử.

- Nếu trong vòng Thái Tuế có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà thì hẩm hiu cho người có tài mà không có thời (sinh bất phùng thời )

Riêng trường hợp hai sao Tả Hữu đứng ở thế đối lập với vòng Thái Tuế hay đứng ở thế sinh nhập vòng Thái Tuế [Ví dụ : tuổi Ngọ, vòng Thái Tuế là Hỏa và hai sao Tả-Hữu đóng cung Mùi (thuộc hành Mộc)] thì dù có thêm Không, Kiếp, Kỵ, Đà hay không vẫn là hạng hữu tài vô hạnh, làm điều quấy đảo thiên hạ.

10- Anh Hùng chiến trận

Sao Phá Toái chỉ chịu đứng ở ba cung Tỵ-Dậu-Sửu. Nó tượng trưng cho sự ương ngạnh, thích làm điều phá tán, vỡ đổ (giống như nhân vật Na-Tra trong chuyện Phong Thần). Sao này coi như con đẻ của Phá Quân, nên khi Phá Toái đồng cung với Phá Quân thì kết hợp thành sức mạnh vô song (tương tự như Vũ Khúc gặp Văn Khúc) chủ về võ nghiệp thời danh. Nếu vòng Thái Tuế lại chứa " Toái Quân lưỡng Phá " này thì không cần phải nói nhiều : rõ ràng là bậc anh hùng trong thiên hạ, ấn chức nguyên nhung trao vào tay này không hổ thẹn chọn lầm người.

Tóm lại, để kết luận cho bài Tham luận này, ta có thể tạm bắt chước người Tây Phương để nói rằng :" Đưa Lá số Tử vi của bạn đây, tôi sẽ nói bạn là ai ! "

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 22:08, 09/05/14
gửi bởi taybalo
DÙNG TỬ VI TRỪ TÀ MA – QUỶ QUÁI
*Một câu chuyện có thật –Các bạn ngẫm xem có tin được không?
*Mệnh có những sao nào thì đem ma lại –Mệnh người có THIÊN TƯỚNG có trừ được ma không?

Hoàng Hạc

CÓ MA TRONG CHÙA?

Lâu rồi, một lần tôi xuống Quế sơn-Mỹ Tho, vào chơi một ngôi chùa cổ, gặp vị trụ trì là Yết Ma H, một người bạn cố tri. Ngồi nói chuyện hàn huyên một lúc rồi tôi hỏi vị trụ trì:

-Ở đây sầm uất u nhàn, tôi muốn kỳ bãi trường này, xuống đây nghỉ hè, đọc sách, yết ma có vui lòng cho phép không?
-Mô phật, nghe nói mừng quá, còn quý gì bằng, nhưng …

Rồi vị yết ma im lặng.Tôi hỏi:
-Thế nào, sao yết ma lại không nói nữa?
-Ở đây thì thanh tịnh, được ông đến thì thật vô cùng là may mắn.Tất cả mọi người trong chùa đều mến tiên sinh.Nhưng tôi có việc riêng xin thành thật trình bày.
-Xin nói cho biết…
-Số là trước đây, ở đây không có việc gì quái lạ xảy ra cả. Nhưng không đầy năm nay thì lại xảy ra nhiều việc ma quái… Trong chùa, đêm nào cũng có việc trêu ghẹo phá phách.
-Nghĩa là …
-Nghĩa là có ma quỷ hiện hình.Tôi không thấy ai cả, nhưng các ni sãi trong chùa đều thấy ở cây cột giữa chùa, đêm nào cũng thấy có bóng người leo lên tuột xuống. Tôi đã làm hết phương, nhưng vô hiệu.
-Yết ma đã làm những gì?
-Ở đây có một ông thầy giỏi về Lỗ ban đến làm phép. Nhưng rồi cũng không hiệu quả gì cả.
-Sao yết ma lại làm vậy? Sao chẳng tụng kinh cầu an?
-Dĩ nhiên là đã làm việc ấy trước hết rồi, nhưng chả thấy hiệu quả gì cả. Đối đế nên tôi mới nghe lời mọi người cho mời pháp sư.
-Có cho mời thày địa lý đến xem chăng?
-Có nữa, mà chắc đều là tay mơ cả hay sao? Tôi nghĩ hoài: có lẽ là số tôi chưa đủ đức để trị chùa này…Tôi định đi chỗ khác, nhưng các ni sãi không bằng lòng. Giờ đây, có điều tôi muốn thưa, nếu không phải thì xin ông vui lòng tha thứ cho.

YÊU CẦU TRỪ MA

-Yết ma cứ nói đi.
-Thưa chẳng dấu gì ông, tôi đã từng nghe ông có nhiều vị tài, xin ông mở tài thử nhìn xem nguyên cớ gì đâu có việc như vậy. Tôi tin là có nguyên nhân, vì cách đây một năm, ở đây yên tịnh nhất.
-Ai nói với yết ma như thế?
-Nhiều người đã đồn. Lâu rồi, nhưng tôi là phận hèn, không dám đến làm rộn ông. Có mấy người bạn ở tỉnh xuống đây họ đều bảo kiếm ông thì yên.

Tôi cười:
-Ai mà phá tôi như thế. Nhưng thôi, đã bắt đầu thắc mắc và tò mò. Xin yết ma cho tôi đi xem địa thế.

Yết ma và tôi cùng đi viếng chung quanh. Nhìn địa cuộc chả có gì là đáng lo ngại.

Phần địa lý Chùa bị đặt vào một địa cảnh thiên về Âm hơn Dương, vì bị ở cung Tù Tử, nhưng không phải là cái cớ biến thành ma quái. Có điều đặc biệt là Âm thịnh mà Dương suy, nên chùa có nhiều ni hơn sãi. Phần ni, có một ni bà rất xứng đáng quản trị. Tôi bèn nghĩ: có lẽ vì lá số Tử vi của họ chăng? Tôi hỏi vị yết ma:
-Thày có thể cho tôi xem lá số tử vi của thày không? Và cả của vị Ni trưởng.

Yết ma cười to:
-À! Nhân tiện tôi cũng có nhiều thắc mắc (vị yết ma này cũng là tay giỏi tử vi, và chúng tôi quen biết nhau rất lâu). May mắn không thì tôi đã quên mất.

XEM TỬ VI ĐỂ TÌM MA

Ông đưa tôi lá số của ông, cẩn thận để trong một cái hộp bằng cây khóa kín. Là vì ông tin rằng đó là những bí mật, sợ người khác biết ngày sinh thì có thể ám hại được. Tôi hứa là giữ kín. Tôi vẫn biết ma thuật có thể làm hại, nhưng tôi lại tin rằng ông ấy sợ người khác biết những chỗ nhược điểm mà sinh ra xem thường ông đi.

Tôi xem đi xem lại lá số, chả thấy gì đáng để ý. Tôi hỏi:
-Có thể nào thày bảo Ni trưởng cho tôi xem lá số.
-Được.

Theo vị yết ma này, thì ai vào chùa ngài, ngài đều bắt buộc ghi ngày sanh tháng đẻ.
Xem xong lá số của vị Ni trưởng, tôi vẫn lặng thinh. Ni bà hỏi:
-Mấy thuở gặp ông, mà chúng tôi ngưỡng mộ bấy lâu nay, vì Thày tôi thường nói đến ông. Ông thấy xấu nói xấu, thấy tốt nói tốt. Tôi là một nhà tu, cần sống trong chân lý. Ông không nên ái ngại, dè dặt gì cả.

Tôi xem một hồi nữa, cũng chả thấy gì cả. Bỗng tôi nghĩ ra một cách khác, tôi hỏi sư bà.
-Thưa sư bà, trước đây cách năm nay, có vị ni cô nào mới vào thọ giáo không ạ?
Sư bà suy nghĩ một chút rồi nói:
-Có.

Bà đứng dậy vào trú phòng. Một hồi dẫn ra giới thiệu tôi một ni cô còn trẻ, nhưng cặp mắt có 2 quầng đen khác mắt thường. Nhìn tôi, ni cô có vẻ ấp úng và cặp mắt bất thường. Tôi hỏi:
-Ni cô có biết sanh đẻ ra năm tháng ngày giờ nào không?
-Thưa biết, đã có khai với sư bà rồi.

Tôi yêu cầu sư bà cho xem.Vị yết ma nói:
-Tôi quên để ý việc này.
Ni trưởng vào phòng lấy sổ ra cho xem và có giấy ghi rõ. Tôi hỏi ni cô có chắc là đúng không, thì ni cô quả quyết là đúng. Tôi mời tất cả đi ra, một mình trong am với yết ma, chúng tôi bèn tra lá số ấy.

Thì quả tôi nghi đúng. Cung điền trạch của ni cô đó có tụ các vì sao ma quái, nào là Đà la, Hóa kỵ, họp với Thiên cơ….còn Thân đóng ở cung Thân lại có cả Đồng –Riêu –Hình –Mộc…Đó là số của các bà bóng. Nhập các sao lại, thì những người này ở đâu là sẽ có việc ma quái quấn quýt, dựa vào mà quấy nhiễu.

Thấy tôi suy nghĩ lâu, vị yết ma sốt ruột hỏi:
-Có gì lạ mà ông suy nghĩ lâu vậy?
Tôi nói:
-Tôi thấy tướng người lạ, vì cặp mắt láo liên và có cái quầng đen ở mắt mà 2 màu. Nay xem lá số tử vi thì rõ quá.

Tôi bèn cắt nghĩa và khuyên hãy đem ni cô này đi nơi khác.
Vị tu sĩ thở ra, than:
-Tội nghiệp. Phải làm sao cứu cô ấy, chứ nói là dời cái họa này đi nơi khác thì cũng tội.

MA TRỐN LÁNH NGƯỜI

Tôi làm thinh suy nghĩ.
Chiều hôm ấy, tôi xin ở lại chùa để khám phá thêm bí mật. Tôi bảo để tôi nghỉ ở một cái ghế bố ngoài hành lang, trước phòng ngủ của ni cô.

Đêm ấy, ngồi chong đèn đọc sách đến hơn một giờ khuya.Trong chùa đều vắng lặng cả, không có động tĩnh gì, tôi bèn tắt đèn và leo lên ghế ngủ, đánh một giấc tới sáng, giựt mình dậy là đúng 7 giờ sáng.

Trong chùa đều đã thức cả rồi, đang lo dọn đồ cho tôi điểm tâm.Vị yết ma mời tôi lên phương trượng, ngồi uống trà hỏi:
-Ông nghỉ khỏe? Có thấy gì lạ không?
-Không thấy gì cả.

Lúc bấy giờ sư bà đi qua, cúi đầu chào và nói:
-Đêm nay yên lặng cả, không có lộn xộn gì. Đây là lần thứ nhất.

Vị yết ma nhìn tôi:
-Phúc đức ngài cao quá. Có mặt người, chúng quỷ không hó hé. Ngài dấu tôi chi?

Lúc này, sư ông gọi tôi bằng Ngài. Tôi chả nói gì cả. Vẫn cứ suy nghĩ. Mấy ni, mấy sãi xầm xì với nhau, còn vị yết ma thì khẩn khoản yêu cầu tôi ở lại chơi ít ngày, đồng thời tìm cách ổn định lại tình trạng bị quấy nhiễu.

Tôi từ chối, vì đó không phải chổ biết của tôi, xin thử kiếm thày giỏi để “giải” cho ni cô này. Nhưng họ không chịu. Họ quả quyết rằng tôi có quyền phép gì. Họ cương quyết biểu tình đòi tôi phải ở lại, bằng không thì phải “giải quyết vấn đề” trước khi ra về.

MẠNG THIÊN TƯỚNG

Nghĩ mình đã ăn cơm Phật, thì phải trả ơn.Tôi gật đầu ưng chịu bảo đem giấy vàng và mực để làm ít lá bùa.

Tôi vin vào lòng tin của họ, bèn nói là sẽ vẽ cho lá bùa “Ngũ lai thần tướng“ để trấn tại chính điện, và cho các ni cô, cả sư bà, mỗi người một lá. Tôi giả vờ viết bùa, đánh ấn để dông luôn cho xuôi chuyện.

Xong xuôi, tôi ra về.
Cách vài ba năm sau, bất ngờ gặp vị yết ma thơ thẩn ở Sài gòn. Mừng rỡ xong, tôi không dám hỏi việc cũ, nhưng yết ma cười bảo:
-Ngài pháp lực cao cường thật.
Yết ma tiếp:
-Từ ngày Ngài ra về đến nay, không còn ma quái nào quấy nhiễu nữa.
Tôi bèn nghĩ:
(Ừ, có lẽ mạng mình là Thiên Tướng miếu, lại có Khoa – Quyền –Tướng -Ấn, mà ma quỷ nó sợ chăng? Kỳ thật là mình chỉ vẽ loăng quăng 4 chữ Ngũ Lôi Thần Tướng, rồi thì vẽ 5-7 vòng cho có vẽ như một lá bùa, chứ có biết gì là đánh ấn. Vậy mà lại linh!
Có tin không các bạn????

Biết việc “trừ tà” bằng tử vi, bỗng dưng các bạn thân trong hàng bà con thân thiết lại đinh ninh rằng Hoàng Hạc tôi lại rành cả bùa phép. Thường lại có bạn yêu cầu trừ tà và sửa nhà sửa cửa. Mặc dù tôi đã thực tâm thú thực rằng đó là một sự ngẫu nhiên. Mà thực vậy, tôi căn cứ vào đức tin của người để trấn áp tà ma, vì tà ma (nếu có) phần nhiều là do cái tin tưởng của mình một phần lớn. Không tin tà ma và tự mình chống đối, thì không tà ma nào nhập được cả. Cũng như cái máy radio, hễ mở ra làn sóng nào thì mới thu được làn sóng ấy…nó đang tràn khắp không gian. Đồng thịnh tương ứng, đồng khí tương cầu.

DO LÒNG TIN MÀ RA

Có một người cháu gái của tôi mà chồng là một sĩ quan cao cấp. Cháu gái tôi nó tin rằng tôi có tài phù phép. Nó có một căn nhà ở (mà là nhà của Nhà nước). Ở đó, vợ chồng nó cứ lục đục mãi, và có một khi kia, chồng nó nổi cơn đập phá lung tung nhà cửa. Nội nhà tôi chạy đến tôi. Tôi xem dùm cho một quẻ. Nhưng chả thấy gì lạ cả.

Tôi có nhìn qua lá số tử vi của sĩ quan này cũng chả thấy gì là triệu chứng đau óc. Xem căn nhà, thì cũng chả có gì lạ. Tôi biết đây là một cuộc dàn cảnh để “trị” cái chị vợ. Tôi bèn bảo:
-Nếu cháu muốn cậu cứu chồng cháu thì phải nghe cậu bất cứ điều gì.
Nó hứa là nghe theo.

Tôi bèn nói nhỏ với chồng nó là tôi biết không có gì cả, thì chồng nó nói:
-Có. Cháu nghĩ là có việc gì. Tại sao nhiều khi cháu hay nổi cơn giận dữ. Mà xét lại chả có gì đáng giận.

Tôi bảo:
-Thì có, nhưng tại cái nhà chút ít thôi. Nếu cháu bằng lòng nghe lời cậu, cậu sẽ cứu.
Nó gật đầu hứa chắc.
Nhân cả hai đều có đức tin mãnh liệt, tôi bèn cho mấy lá bùa hộ mạng. Tôi bảo mỗi khi có việc xẩy ra mà ông chồng nổi nóng, thì chị vợ và ông chồng đồng thời phải niệm câu chú “mà tôi dạy” rồi cầu xin ơn trên phù hộ để trừ tà quỉ muốn nhập phá.

Té ra cái kế của tôi có kết quả hết sức mỹ mãn. Trước đây, có mấy thày cứ bảo là nhà có quỷ quái, bảo phải sửa nhà và ếm, để cho họ rút tỉa tiền bạc. Cái kế của tôi là nhắc cho chúng nó rằng mỗi khi giận, thì tin là bị tà ma ở ngoài muốn quấy nhiễu, để chế ngự đi, chứ sự thật thì tam bành lục tặc là ở nơi mình chứ tà ma nào mà vào quấy mà sợ.

Vậy nhờ chúng tin cho nên vừa giận, thì vợ bảo liền chồng:
-Này, cậu dặn tụi nó định phá mình. Mình bình tĩnh cầu nguyện đi. Em cũng vậy.
Rồi hai vợ chồng lâm râm đọc chú, thì việc giận dữ bột phát kia bỗng tan đâu mất. Hai vợ chồng lại càng tin. Tôi nói gì chúng cũng chỉ cười:
-Cậu khiêm tốn quá. Cậu tài lắm. Cậu đấu chi mấy cháu.

Kể ra thật khổ. Là vì nhiều bạn đọc thấy lại đinh ninh là tôi có nhiều phép lạ. Cái đó biến thành một cái gì thiêng liêng mà mấy cháu trong nhà từ lớn đến nhỏ đều tin là thần thánh.

Mỗi khi chúng sợ “ma”, chúng chạy đến xin tôi lá bùa hộ mạng.Tôi chỉ ký tên (dĩ nhiên bằng chữ Hán) nên chúng chỉ thấy chữ vằn vện như bùa) đứa nào cũng đeo một lá nơi mình. Nhờ vững lòng tin tưởng mà chúng hết sợ ma nữa.

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 22:13, 09/05/14
gửi bởi taybalo
Kinh nghiệm tử vi Thiên Lương
LỤC SÁT TINH - BỘ KINH ĐÀ
Trần Việt Sơn (thuật theo cụ Thiên Lương)
Sau bộ Không Kiếp, đến bộ Kinh Đà (Kình Dương, Đà La). Cũng như Không Kiếp có đắc địa mới ăn. Kình Đà chỉ ăn ở các cung đắc địa. Và phải có chính tinh chỉ huy. Như Phá Quân cùng với Không Kiếp đắc địa thì ăn lớn, Kình phải có Thất Sát mới ăn to. Kình, Đà đứng hai bên Lộc Tồn, cho nên không có trường hợp đồng cung. Chiếu thì lại không ăn to. Phải đóng ngay tại Mạng hoặc tại cung mà thôi. Cho nên cần phần biệt các trường hợp riêng rẽ.

TRƯỜNG HỢP KÌNH DƯƠNG

Ai cũng biết rằng có cách Hình, Sát thì oai hùng. Hình là Thiên Hình. Sát là Thất Sát. Được cách Hình Sát tại Mạng thì phát công danh lớn, thường về võ nghiệp.

Kình, Sát (Kình Dương, Thất Sát) cũng được hưởng như Hình, Sát (vì Kình đóng vai hình)

Về cách này, xin chú ý :

– Kình phải đóng tại Mạng cùng với Sát mới được.
– Hoặc là Mạng có Thất Sát, thì đến Đại Vận có Kình là ăn. Nếu chỉ gặp Đại Vận có Kình chiếu thì cũng hưởng, nhưng kém hơn
– Phải là Thất Sát mới chỉ huy được Kình, tức là mới vận dụng được Kình. Trong bộ Sát, Phá, Tham chỉ có Sát mới chỉ huy được Kình, còn các sao khác kém hơn, không đủ sức chỉ huy.
– Kình phải đắc địa tại Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì mới có ảnh hưởng tốt.

Kỳ trước, chúng tôi đã ghi rằng bộ Phá Quân, Không Kiếp đắc địa rất mạnh. Bộ Thất Sát, Kình cũng mạnh, nhưng kém hơn bộ Phá Quân, Không Kiếp. Nhưng kinh nghiệm lại cho biết rằng bộ Sát, Kình tuy ảnh hưởng kém mạnh, nhưng lại hay hơn bộ Phá Quân, Không Kiếp, là vì nó “phù hẳn”, chứ không “tráo trở” không phù mạnh rồi hạ xuống.

Nếu không có Thất Sát

Mệnh phải có Thất Sát, mới vận dụng được Kình.
Nhưng nếu không có Thất Sát, thì có Phá Quân cũng tạm được, nhưng ảnh hưởng tốt kém Thất Sát.

Họa hại vì Kình

Kình Dương kị các tuổi : Dậu, Tuất, Hợi.

Ba tuổi đó đến Đại vận có Kình Dương là gặp họa hại, phải coi chừng.
Ba tuổi đó, Mạng có Kình Dương, cũng phải coi chừng những họa hại.
TRƯỜNG HỢP ĐÀ LA

Đà La đắc địa tại : Dần, Thân, Tị, Hợi, ở cung Mạng vô chính diệu, không có Tuần Triệt là Đà La độc thủ, rất anh hùng. Tức là cho đương số phát mạnh, phát lớn, phần nhiều về võ nghiệp. Nhưng phải là người Kim Mệnh hay Thủy Mệnh thì mới ăn; chứ người Hỏa thì lại không được.

Trong trường hợp trên, Đà La độc thủ đã trở thành chính tinh, rực rỡ, cho nên phải không có Tuần Triệt tại đó mới được, có Tuần Triệt lại hỏng mất cách hay.

TRƯỜNG HỢP XẤU CỦA ĐÀ LA

Đà La ở hai cung Thìn, Tuất đóng vai trò La Võng chi địa.

Không phải cứ hai cung Thìn, Tuất là Thiên La, Địa Võng, tức là lưỡi trời ràng buộc các đương số, phải có Đà La đóng đó mà Đà La là lưới trời, thì hai cung đó mới là hai cung lưới trời trói buộc. Do đấy đừng thấy Mạng đóng tại Thìn Tuất mà bảo rằng Mạng bị ràng buộc. Mạng tại Thìn Tuất, mà có Đà La thì mới bị ràng buộc (phải Đà La ngay cung Mạng, chứ Đà La chiếu sang Mạng cũng không sao)

Đà La là lưới tại Thìn, Tuất thì các sao khỏe ở đấy như như Tử-Tướng, Phá Quân bị trói lại, không thi thố được nữa. Những sao yếu, hiền lại không bị Đà La trói buộc.

Cũng như Kình đóng vai trò của Thiên Hình, Đà đóng vai trò của Hóa Kị.

CÁCH AN KÌNH, ĐÀ

Theo kinh nghiệm của cụ Thiên Lương, cách an Kình Đà có hơi khác các sách, nhưng hợp lý ở chỗ phân biệt Âm, Dương.

Kình, Đà ở hai bên có Lộc Tồn, và theo nguyên tắc “Tiền Kình, hậu Đà”. Nhưng hướng trước sau phải tuỳ theo người tuổi Âm hay tuổi Dương. Như tuổi Âm thì an theo chiều ngược lấy chiều đó rồi, thì Kình đi trước cung có Lộc Tồn, và Đà La đi sau cung có Lộc Tồn. Vì dụ tuổi Ất Mùi, Lộc Tồn ở Mão thì Kình ở Dần, Đà La ở Thìn.. Tuổi Dương thì theo chiều Dương, và theo chiều đó, như tuổi Giáp Dần, Lộc Tồn ở Dần, thì Kình ở Mão, Đà La ở Sửu.

Theo cách an đó, nhớ là Kình Lực luôn luôn đi với nhau. Chỗ nào có Lực Sĩ là có Kình Dương.

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 23:16, 09/05/14
gửi bởi trungvip144
cám ơn bác đã chia sẻ, giờ đang ôn thi chưa đọc được, em đánh dấu lại đọc sau

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 23:27, 09/05/14
gửi bởi taybalo
VÒNG THÁI TUẾ CHI PHỐI MỆNH, THÂN

QUA CÁC CUNG NHỊ HỢP, TAM HỢP Và XUNG CHIẾU

(Vi Nhật)
Phải công nhận từ lúc các diễn đàn KHHB "Xuất hiện" cho tới nay, số người coi Tử-vi "Amateur" đã lên rất cao và hiện tại cao trào nghiên cứu Tử-vi lan tràn khắp nơi. Chúng ta đã thấy có vài Hội Tử-Vi thành hình giữa các giới trẻ và đặc biệt hơn cả là những "tay" đam mê nhất lại là những "tay" khoa bảng. Họ đã cố tìm tòi, học hỏi nghiên cứu, để rút tỉa kinh nghiệm, mong tìm lại những gì đã mất mát, nói đúng hơn là đã thất truyền. Trong chiều hướng đó, có người lại cổ xúy phong trào Việt hóa và hệ thống hóa toàn diện khoa Tử-vi theo khoa học hiện đại.

Trước tiên, ta cần ghi nhận là Tử-vi được hình thành trong cơ cấu của Dịch Lý; qua hai động lực căn bản : âm Dương và Ngũ Hành. Do đó cần tìm về nguồn qua tương quan Lý Học, để từ đó có thể dò dẫm ra bước đường sáng tạo của cổ nhân

– Sau khi nguồn căn bản đã có, việc kế tiếp cần nêu lên cho chúng ta là phải giản dị hóa khi áp dụng một các trực tiếp từ Dịch Học sang khoa Tử-vi. Muốn vậy ta không thể quá lệ thuộc vào những câu Phú, để rồi nhiều khi mâu thuẫn nhau, vào những lối giải đoán qúa phức tạp. Nói một cách khác, chúng ta phải dựa vào các ngành học hiện đại vì chúng có tính cách khoa học hơn, để diễn đạt ngôn từ, sự việc hơn.

Hai giải pháp này đòi hỏi chúng ta phải xây dựng một kiến trúc từ nền tảng theo từng điểm một. Đây không phải là một việc một sớm một chiều có thể vạch ra một lúc, mà phải là trong trường kỳ và liên tục. Nó cũng không phải là của một cá nhân, mà phải là sự hợp tác của nhiều khối óc, nhiều bàn tay. Một tiếng chuông đã đánh lên, cần nhiều tiếng chuông khác phụ lực để vun bồi cho khoa Tử-vi mỗi ngày một chính xác hơn trong tinh thần huyền bí của nó. Đạt được như vậy, chúng ta vẫn duy trì tính cách Triết-Lý Đông-Phương mà vẫn không kém phần gãy gọn khi phô diễn ngôn từ.

Đề cập tới vấn đề này, tức là kẻ viết bài này đã gián tiếp hướng về giải thích khoa Tử Vi theo một quan niệm trung dung nêu trên, gọi là một tiếng chuông tiếp nối công trình của các bậc đàn anh đã làm.

Trong phạm vi đề tài này, tôi xin khai triển tiếp nối kinh nghiệm của cụ Thiên Lương về vòng Thái-Tuế, dưới một nhãn quan dị biệt.

Một cách khách quan, chúng ta thử nhìn trên những dữ kiện thực tế, và những trường hợp thành bại điển hình quanh ta. Càng cụ thể hơn nữa chúng ta thu hẹp nhãn quan vào chính bản thân mình, gia đình mình. Chúng ta sẽ thấy những yếu tố cấu tạo sự thành bại, luôn luôn bao gồm trong mỗi tương quan tính tình, đưa đến một lối xử thế tế nhị khôn khéo hoặc lỗ mãng, bốc đồng. Và từ đó, dĩ nhiên là trong cuộc sống hằng ngày, sự chung đụng giữa những mối tương quan từng cá nhân trong xã hội, chưa kể liên hệ gia đình, từ bạn bè, người trên kẻ dưới, cho tới hoàn cảnh trở lực, hàng xóm … sẽ tạo ra biết bao hậu quả ít nhiều quan trọng đến đời sống của ta. Hẳn chúng ta cũng thấy nhiều người chỉ với ba tấc lưỡi Tô-Tần mà được cất nhắc lên tột bực, có người khác luôn luôn được bè bạn giúp đỡ. Ngược lại, có người lại bị đè ép không cho vươn lên, có người lại vô phúc hơn thường bị đàn em lường gạt hoặc qua mặt mình … Và trong phạm vi thu hẹp hơn là trong mái ấm gia đình, có người được sự đùm bọc, thương yêu, lại được anh em nể trọng, và ngược lại cũng có người phải hy sinh gánh vác việc trong gia đình.

Tất cả mối tương quan xã hội gia tộc đều xếp đặt một cách hợp lý qua các cung số quanh cung Mệnh. Từ nhỏ môi trường sinh hoạt còn đâu ngoài gia đình với cung Phụ Mẫu và cung Huynh Đệ (Bào) cho tới khi vào đời là chịu những mối tương quan phức tạp hơn được biểu tượng qua các cung số : Phối (Thê Thiếp hoặc Phu Quân), Nô Bộc, Thiên Di, Tử Tức … Những mối tương quan này được cô đọng trong một trạng thái từ Tĩnh cho đến Động; "Tĩnh" khi mang tính chất cá biệt của nội tâm người. Nhưng khi cá tính ấy bộc lộ qua hành động nó lại tạo ra một thế "Động" làm "Then chuyền" chuyển động những trạng thái của người xung quanh, ảnh hưởng đối với người ấy.

Chúng ta đã phác họa qua về sự quan trọng của tính tình học, thu gọn trong khoa Tâm Lý Học, trong mức sống cao thấp của một con người. Thực vậy, để diễn tả trong một phạm vi nêu trên cho linh động hơn, tiền nhân đã gán cho mỗi cá tính "một ông sao" tùy theo ý nghĩa của từ ngữ sao đó hoặc lối Ngũ Hành âm Dương, lối chiết tự. Mỗi "ông sao" thực ra là một dụng cụ phối trí của tương quan lý học, để diễn tả vị thế con người là một "Tiểu Thiên Địa" có đủ cơ cấu âm-Dương Ngũ Hành trong một vũ trụ bao la vô tận.

Vận mệnh Trời được được phối trí qua người Cha và người Mẹ để tạo nên cái TA, trong môi trường Gia tộc và Xã hội. Thành tố Gia tộc bao gồm thêm 3 yếu tố : Cha-Mẹ-TA, được biểu tượng qua Thiên Can, Địa Chi, và nạp âm Can, Chi ra bản Mệnh (TA). Thành tố xã hội rồi bao quát chi phối Mệnh qua trạng thái của cuộc đời, qua vai trò của Cục (tức cuộc, tức cuộc đời). Nắm được hai thành tố với 4 yếu tố trên qua sắc thái: Can tuổi, Chi tuổi, bản Mệnh và Cục là ta có thể giải đoán toàn bộ cuộc đời, có thể xuống tới các Đại-Hạn.

Trở lại vấn đề, ta thấy cha cho hình hài, mẹ nuôi dưỡng cưu mang lâu dài. Người cha, theo quan niệm xưa, đi tìm sinh kế lo no ấm cho gia đình (vì thế được biểu tượng qua vòng Thiên Can, tức vòng Lộc-Tồn). Trong khi ấy, người mẹ lãnh một vai trò "khiêm tốn" hơn đối với xã hội, nhưng trong gia đình người mẹ nổi bật lên, đôi lúc còn lấn át cả người cha. Đó trách nhiệm tinh thần, giáo huấn con cái, đào tạo cho thành người hữu dụng trong gia đình, trong xã hội. Tiền nhân ta cũng đã sớm ý thức các điều này và đã để lại nhiều câu tục ngữ nói lên thực trạng này:

* Nào là : "Con không cha như nhà không nóc";
* Hoặc : "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà".

Như vậy vai trò người cha, tượng trưng qua Thiên-Can mà căn bản là vòng Lộc-Tồn với ý nghĩa Phúc, Họa đi đôi với vật chất tiền tài. Đối nghịch là vai trò người mẹ qua Địa-Chi mà trọng tâm là vòng Thái-Tuế, mang cá tính của người con với các điểm liên hệ về tính tình, về tinh thần.

Tương quan tâm lý học được chứng giải qua vòng Thái-Tuế. Nhưng trong mối liên hệ này có những ràng buộc nào từ gia đình cho tới xã hội ? Một cách đại cương, chúng ta có thể vạch ra vài nét chính :

– Cung Bào và cung Phụ Mẫu: Là mối dây liên hệ huyết thống chặt chẽ đầu tiên của mọi người, mà ai cũng phải có từ nhỏ cho tới khi khôn lớn. Qua vị trí cố định lần lượt của 12 cung số thì Mệnh luôn được xếp ở giữa hai cung Bào và Phụ Mẫu, nói cách khác hai cung này giáp biên của Mệnh.

– Cung Nhị Hợp: Là lân phương là kế cận, hàng xóm của bản cung nói chung và của Mệnh nói riêng. ý nghĩa cung Nhị Hợp cũng không kém phần trọng yếu. Nó nói lên mặt trái của vấn đề. Nó là bên trong, là sự tiềm ẩn là cứu cánh của sự việc, là cái khuynh hướng (tendance) tiến đến sự việc liên hệ cung số Nhị-Hợp.

– Cung Tam Hợp: Là trạng thái vào đời, có gặp được may mắn không, tùy thế của chiều đi âm Dương hoặc tùy chiều sinh của hai cung Tam-Hợp so với bản cung. Để giản lược, ở đây trong Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan, ta biết trạng thái thực tại của ta khi vào đời và được ưu đãi về phương diện nào: Tài hay Quan ?.

– Cung Chính Chiếu: Không nên quan niệm cung Chính Chiếu (Thiên Di) là đối phương của mình một cách đơn thuần như vậy; mà nên nới rộng phạm vi để quan niệm đó là hoàn cảnh gây nên cho mỗi số phần, nếu có thì mức độ trở ngại ấy có thể vượt qua hay không ?

Chúng ta sẽ lần lượt xét các mối tương quan xã hội, gia tộc qua sự phân tích ảnh hưởng của tâm lý vào cuộc đời với các dụng cụ sử dụng là các cung số :

* Tương quan vòng Thái-Tuế qua cung Mệnh, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
* Tương quan vòng Thái-Tuế qua cung Thân, cung Nhị Hợp và cung Xung chiếu.
* Tam hợp Mệnh Tài Quan phối hợp qua vòng Thái-Tuế.

I/ TƯƠNG QUAN MỆNH, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU

Để bàn về phạm vi này, cần đề cập tới mối liên hệ biểu kiến và nội tại cũng như xét qua lại vòng Thái Tuế ứng dụng vào sự tìm hiểu mặt trái ở đời so với cung Nhị-Hợp, cung Chính chiếu. Ngoài ra để dễ áp dụng hơn, tôi xin đan cử vài thí dụ điển hình.

A- TíNH TìNH BIỂU KIẾN Và NỘI TẠI

Không phải ai cũng "ruột liền da", "da liền ruột", mà trái lại phần lớn chúng ta lại gặp nhiều hạng người như ruột gà. Nói rõ ra là, tính tình mà chúng ta nhận thấy ở họ qua sự biểu lộ hằng ngày, không hẳn là đích thực tình trạng bên trong của họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản với lời nói. Hai trạng thái hướng ngoại biểu hay Biểu kiến (Apparence) và Nội Tại (Interieur), sẽ được phơi trần ra trước ánh sáng của Vòng Thái Tuế và cung Nhị Hợp, Chính chiếu. Nhờ vậy, cũng cùng một lời nói ta có thể phân biệt hai hạng người : "Khẩu Phật Tâm Xà" hoặc "Khẩu Xà Tâm Phật".

1- Biểu kiến (Apparence)
Qua Vòng Thái Tuế ở cung Mệnh, cá tính một người hiện ra một cách ngoại biểu đối với người coi số cũng như trên thực tế mọi người cũng nhận ra cá tính thường nhật của người ấy. Ngoài ra, Vòng Thái Tuế còn có tác dụng mang lại thêm các dữ kiện mới khi nó phối hợp với cung chính chiếu. Thực vậy thế Tam-Hợp của bản cung khi so sánh với thế Tam-Hợp của đối cung, cho ta nhận rõ ra tinh thần một người có lạc quan hay bi quan trước cuộc sống, trước hoàn cảnh ở đời.

Trong bản số của Vua Quang Trung Đại Đế, Vòng Thái Tuế đã chứng giải tinh thần tự tôn của ngài tự coi mình có trách nhiệm "Thế Thiên Hành Đạo" đem lại an bình cho đất nước, đánh đuổi ngoại xâm (Thái Tuế đóng ở Mệnh). Ngoài ra thái độ dũng mãnh, xem thường đối phương cũng như bách chiến bách thắng của ngài cũng phần nào được biểu lộ qua thế Thủy của Tam Hợp Mệnh thắng thế Hỏa của Tam Hợp Thiên Di (Mệnh lập tại cung Thân thuộc Tam Hợp Thân Tý Thìn tức thế Thủy; Thiên Di ở Dần tức thế Hỏa do Tam Hợp Dần Ngọ Tuất).

2- Tính tình tiềm ẩn (Virtuel)

Sự ngoại biểu do vòng Thái Tuế, là nguồn căn cho mọi việc. Ở đây cung Nhị-Hợp cung Mệnh sẽ đóng vai trò tinh thần, dù là tiềm ẩn hay nội tại của tình trạng của vòng Thái Tuế ở Mệnh nó là nội tâm của một người, là nỗi lòng thầm kín là khuynh hướng về một mục tiêu nào. Không những chỉ ghi nhận điều trên, cung Nhị Hợp còn cho biết mức độ cũng như sự thiệt thòi, hy sinh hay sự được giúp đỡ, bị người khác hại. Và cũng do định luật Tam Hợp với thế Ngũ Hành giữa hai cung Mệnh và cung Nhị-Hợp mà dàn ra thế trận. Sinh xuất hay sinh nhập cung Mệnh, luôn luôn theo theo nguyên tắc "Mệnh vi chủ", cung Mệnh luôn luôn là chủ, các cung khác nói chung và cung Nhị-Hợp nói riêng phải là khách. Do đó, Mệnh được sinh nhập mới được điều phúc lợi.

Thí dụ: Mệnh ở cung Tý có Quan Phù, thủ Mệnh, cung Nhị-Hợp là phụ-Mẫu ở cung Sửu. Ta thấy về phương diện nội tại hàng xóm, thân cận, đương số được cha mẹ bao bọc, cưng chiều, giúp đỡ. Do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan, lời nói lễ phép dè dặt (đặc tính của Quan Phù) mà được hưởng phúc này.

Trong phần A này, tôi chỉ nói phớt qua khi đề cập thế Tam Hợp Mệnh và Di cũng như thế Tam Hợp Mệnh và Nhị Hợp, bởi vì cụ Thiên Lương đã giảng rõ về điểm này. Những điểm trọng yếu chính là sự ngoại biểu (biểu kiến) và nội tại (tiềm ẩn), chưa được ai đề cập tới, đó mới là mẫu chốt của phần A mà đã trình bày ở trên. Tiếp dưới đây vì khái niệm vòng Thái-Tuế chưa được khai triển rộng ra theo khoa Tâm Lý Học, nên tôi xin mạn phép được nêu ra, mặc dầu cụ Thiên Lương đã tiên phong nêu ra trong vấn đề này

B- VÒNG THÁI TUẾ Và TíNH TìNH MỖI Cá NHâN

Cần ghi rằng sao của vòng Thái-Tuế chỉ luận giải về phương diện tư tưởng ngay chính hay không, đối với cung Mệnh mà thôi. Còn ở các cung số khác, kể cả cung Thân. Đây là một điểm cần nhấn mạnh để khỏi lầm lẫn khi phân tích chiều sâu của một người. Theo thiển ý vòng Thái-Tuế cần phân tích ra hai trạng thái từ Tĩnh tới Động, Tĩnh trong Động, Động trong Tĩnh. Phương diện Tĩnh trạng tượng trưng cho tư tưởng, tính tình hoặc tinh thần qua vòng Thái-Tuế ở Mệnh. Động trạng là bình diện cần an bài đúng vị thế Thân là hành động. Do đó, theo kẻ viết bài này, vòng Thái-Tuế ở Mệnh nói lên riêng về tư tưởng (Tĩnh trạng chứa thế Tĩnh nguyên thủy) và trong nguyên lý dịch học thì Tĩnh mà Động, vì thế tư tưởng là Tĩnh thuần được diễn tả qua thế Động là lời nói, thái độ, hành động. Xin được sắp xếp 12 sao của vòng Thái-Tuế theo tiêu chuẩn vừa nêu:

1- Thái Tuế

Người có tư tưởng tự tôn, theo lý tưởng ngay chính, nghiêm nghị, tự cho mình cả Thiên Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không ai xứng với mình về phương diện tư cách, hoài bão.

ý nghĩa trên phát xuất từ, từ ngữ "ngôi Thái-Tuế", tượng trưng cho ngôi vua, là bậc cao cả, là Thiên Tử, là con Trời, thay Trời cai trị muôn dân. Vua ở xa dân, ngay cả quần Thần cũng vậy, vua cũng có lối sống riêng biệt do lễ nghi quan cách. Vì vậy người có Thái Tuế ở Mệnh, thường cảm thấy cô độc, ít kẻ tri kỷ tri bỉ.

2- Bạch Hổ

Tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là phải chính nghĩa của mình. Người có Bạch Hổ tọa thủ tại Mệnh, thường dễ làm mất lòng người khác, vì "lời thật mất lòng". Nhưng nếu miếu địa "Hổ khiếu Tây Phương" (Bạch Hổ ở Dậu) thì dù lời nói thẳng nhưng rất có uy tín, làm kẻ khác nể sợ.

3- Quan Phù

Tính chất Quan Phù ở Mệnh, mang lại cho người có nó, một sự khôn khéo, biết tiến thoái đúng thời, đúng lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của mình. Đó mới là điểm khó khăn, ít người dung hòa được. Người có Quan Phù thủ Mệnh, rất giỏi lý luận, "biết người biết ta"; nên rất tế nhị, thích chinh phục người khác bằng tư tưởng chính phái của mình.

4- Thiếu Dương
Thiếu Dương là "Tùy tinh", mang tính chất của sự biến dịch của Tứ Tượng, Bát Quái. Cho nên vị thế của nó rất đặc biệt, tuy sáng suốt nhưng là một thứ sáng suốt dễ sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực của bậc siêu phàm mới sử dụng được nó.

Trước tiên nếu nó đồng cung hay chính chiếu với Hồng Loan, như các cụ Hoàng Hạc, Thiên Lương đã lập đi, lập lại nhiều lần trên Báo KHHB, tôi chỉ xin thu gọn lại, nó có đặc tính vị tha, quên mình, bỏ cái Ta đi để gánh vác việc đời (Xem lại lá số Đức Phật Thích Ca trong quyển Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương đã bình giải).

Ngược lại, nếu nó đi với Đào Hoa thì trở nên vị kỷ, thường chỉ nghĩ đến mình, vì mình tất cả. Còn vị trí Thiếu Dương, Thiên Không ở Tứ Mộ thì phần lớn hay ít dở nhiều, tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ (sẽ đề cập trong một phần khác).

Tóm lại người mang cá tính của Thiếu Dương dù vị kỷ hay vị tha do ảnh hưởng của Đào, Hồng cũng là là người rất sáng suốt hơn người, thích được hơn người, vượt lên trên mọi người. Đặc tính này cũng không dành riêng cho ai, dù vị tha như Đức Phật, cũng là một ý chí muốn khác hẳn mọi người thế tục. Chẳng thế mà Ngài đã từng thốt ra câu : "Thiên Thượng Địa Hạ, vô ngã độc tôn" đấy ư !!!

5- Phúc Đức
Cũng nằm trong Thế Tam Hợp của Thiếu Dương, nên âm hưởng của sao này đem lại cho người mang nó một sự sáng suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ chứ Đức làm đầu.
Người có sao Phúc-Đức là người thích vươn lên với đời, trong sự sòng phẳng tương quan đổi chác, song phương hưởng lợi, không bán cây sống, trồng cây chết.

6- Tử-Phù

Không như hai sao Thiếu-Dương, Phúc-Đức, vì thế sao Tử-Phù tuy cũng sáng suốt nhưng là thứ sáng suốt để lừa lọc người với tính tình ma mãnh, dám làm điều sai quấy nếu có dịp vì từ lời nói tư tưởng tới hành động đối với hạng người này cách nhau không xa.

7- Trực Phù

Do tính chất của Địa Chi, thế vòng Trực Phù này bị sinh xuất hoặc khắc xuất. Do đó nhóm Trực Phù, Long Đức, Thiếu âm là nhóm chịu nhiều thua thiệt ở đời (sẽ xin trình bày rõ hơn trong bài sử dụng 4 chữ: Can, Chi, Mệnh, cục), vì thế trong tương quan của thế Tam Hợp thì phải chịu nhiều thiệt thòi, nhưng riêng về vị thế Trực Phù thì cá biệt mà nói, người mang tư cách này thường trong công việc không được đãi ngộ tương xứng với khả năng của mình.

8- Long Đức

Tùy cùng chi phái với Trực Phù nhưng cũng như Phúc Đức, vị thế Long Đức còn chịu sự chi phối của nhóm Tứ Đức. Vì vậy, dù thua thiệt, người Long Đức thường hiền hậu, an phận không thích mạo hiểm bon chen, đôi lúc cũng thụ động quá mức mà đưa đến bi quan.

9- Thiếu âm

Là vị thế chót của vòng Trực Phù, nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của Dịch lý và tương phản với thế Thiếu Dương. Bởi vậy, người Thiếu âm thường bị thiệt thòi, do quan niệm chủ quan, lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, hoặc hào phóng quá, dễ tin lời người khác nên trở nên khờ dại (đối nghịch với Thiếu Dương là sáng suốt).

10- Tang Môn

Có người cho rằng thế Tang Môn phải ghép đôi với thế Bạch Hổ và ngược lại, vì đó là cặp trong Lục Bại. Thực ra nếu luận theo lẽ biến dịch Ngũ Hành giữa 12 cung số với ý nghĩa của các cung Nhị Hợp, Tam Hợp, Chính Chiếu, hoặc Giáp cung thì sẽ không lạ gì có sự phân cách riêng biệt từng cặp sao, dù là một bộ. Chẳng hạn như bộ Tang-Hổ, bộ Song Hao, bộ Tướng-Binh, bộ Lưỡng Thế …. Cụ Thiên Lương đã giải thích rõ về vấn đề cung Thiên Di, không hẳn thuộc về mình mà tùy vị thế của nó. Đồng mà Dị là cụ Hoàng Hạc cũng quan niệm cung Thiên Di không là của mình, nhưng là hoàn cảnh, là sự xung xát, sự cọ nhau mà thành theo tương quan lý học. Là hậu sinh, nhưng kẻ này xin sẽ có bài nối tiếp về vấn đề này để có tầm áp dụng rõ hơn về âm Dương Ngũ Hành của Lý Học vào Tử Vi.

Trở lại vị thế Tam Hợp của vòng Tang Môn, Điếu Khách, Tuế Phá là vị thế đối nghịch hoàn toàn của Tam Hợp tuổi. Chính đây là một điểm xung sát mà tạo thành. Thời thế tạo Anh Hùng hoặc Anh Hùng gây dựng nên thời cuộc, là do sự biến ảo ở mấu chốt này.

Cá biệt về sao Tang Môn cho thấy người có sao này, thường gánh nhiều mối ưu tư, phiền toái, nhiều mối bận tâm (Xem lại số Khổng Tử mà KHHB đã đăng). Nếu diễn giảng ra theo lối suy luận, thì dù bất cứ việc lớn, việc nhỏ vì sự lo lắng của mình, người này không thích đùa giỡn cũng như không thích ai bỡn cợt với mình. Và trong tâm trạng "suy bụng ta ra bụng người đó" hay nói cho đúng hơn là trong tâm trạng "điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình không nên làm đối với người khác" người này trở nên tế nhị, dè dặt.

11- Điếu Khách

Khoác lên mình một gánh nặng chống đối mọi việc ở đời, người có Điếu Khách, thường thích đả kích người khác, thích tranh luận, bàn cãi, thích thuyết phục người khác. Vì thế mà nhiều sách đã không ngần ngại khi đem gán cho những người có sao Điếu Khách (Mã Khốc Khách) là sẽ làm nghề ngoại giao, môi giới, luật sư … cũng không ngại ngùng gì mà gán cho những Thẩm Phán, Luật Sư là những người có sao Quan Phù thủ Mệnh, Thân. Đành rằng sự gán ép này có những căn bản riêng của nó nhưng về nghề nghiệp là cả một sự phức tạp, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố, không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao Thái Tuế mà thôi.

12- Tuế Phá

Cũng tương tự đặc tính của Điếu Khách, nhưng ở đây người Tuế Phá là một nét dị biệt, một trạng thái của một sự đối lập, một sự chống đối, thích đi ngược người khác. Có thể làm những việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở hành động (Thân).

C- VÀI VÍ DỤ ÁP DỤNG THỰC TẾ

1- Người có Bạch Hổ ở Mệnh, tại Dậu, Nhị Hợp là cung ách ở Thìn, Thiên Di ở cung Mão. Chỉ cần biết được vài yếu tố nhỏ như trên, chúng ta có thể phác họa ra bề mặt và bề sâu của tâm hồn một người. Như đã trình bày ở trên (qua hai yếu tố biểu kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn là bề ngoài và bên trong tiềm ẩn) ta có thể lược giải khái quát về tánh tình của đương số như sau :

a- Bên trong: Người lúc nào trong lòng thường lo lắng nhiều về những bất trắc ở đời. Nhiều khi quá bận tâm về hậu quả của một việc mình làm dù việc này không có gì đáng để tâm. Mệnh sinh xuất cho ách về vấn đề Nhị Hợp này xin coi lại Kinh nghiệm cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương trong cuốn Tử Vi nghiệm lý. Người viết chỉ xin đề cập vài ý kiến mới chưa ai đề cập tới mà thôi.

b- Bên ngoài: Bề ngoài tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là chính nghĩa, lẽ phải của mình, coi thường đối phương.

Tổng kết lại, dù bên trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt qua thì người này dám làm bất cứ việc gì, bất chấp hậu quả với niềm tin vào lẽ phải của mình, coi thường đối phương.

2- Mệnh có Tang Môn ở cung Tuất, Nhị Hợp là Nô Bộc ở cung Mão, Thiên Di ở cung Thìn thì sơ lược khát quát như sau :

a- Bên trong: Đương số thích được bạn bè hiểu mình, thích được người khác chiều chuộng mình, vị nể mình.

b- Bên ngoài: Mang tâm trạng tế nhị, người nặng mối lo, có nhiều mối bận tâm, không thích những trò đùa rắn mắc. Do đó đương số dễ mang nét ưu sầu trên gương mặt. Người bi quan trước cuộc sống, thường thấy mình dễ đầu hàng hoàn cảnh (thế Di lấn lướt thế Mệnh).

Những dòng ghi trên, đó chỉ là tạm thời vạch ra nét tương quan Mệnh, Nhị Hợp, Xung chiếu. Nhưng cần đề cập đến vai trò của THÂN trong sự sắp xếp vòng Thái Tuế. Đó là Phần II của bài này, mà tôi trình bày dưới đây.

II/ TƯƠNG QUAN THÂN, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU

Mối tương quan này cũng giống như Phần I, nhưng nếu xét kỹ thì có một điểm khác biệt duy nhất (mà ta đã xét khái lược ở trên) đó là : Vòng Thái-Tuế ở MỆNH chỉ tư tưởng tinh thần thì ngược lại ở THÂN nó chỉ về hành động vật chất.

Nội dung của Phần II, đã vạch sẵn. Như vậy ta có thể xét theo từng mục : hành vi biểu kiến và tiềm ẩn, mặt trái ở đời, những trường hợp điển hình.

A- HàNH ĐỘNG BIỂU KIẾN Và TIỀM ẨN

1- Hành vi tiềm ẩn

Ở đây phương cách lý luận cũng như Phần I, nhưng đổi vị thế lại một đằng là cung MỆNH và cung Nhị Hợp của nó thì đăng này là cung an THÂN và cung Nhị Hợp của nó. Một đằng khác là hành động tiềm ẩn tức là cứu cánh khác với phạm vi nội tâm. Cứu cánh sau cùng của hành vi là do cung Nhị Hợp sinh nhập hay sinh xuất với cung an THÂN và cung an THÂN phải được sinh nhập mới tốt. Cần ghi nhận vai trò cung số của Nhị Hợp ở Thân so với cung số của cung an Thân cần được phối hợp chặt chẽ với nhau (xem lại về cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương).

Thí dụ: Thân cư Quan Lộc ở Sửu có Điền Trạch, cung Nhị Hợp ở Tý. Thì hành động cứu cánh của đương số, chính thực là lo về nhà đất, hay nói bao quát hơn là lo việc nhà, việc gia đình.

2- Hành vi ngoại biểu
Cần phối hợp cung số mà THÂN cư với vị thế vòng Thái Tuế thì mới hiểu rõ hành động bên ngoài chịu ảnh hưởng điều gì và với đặc điểm gì. Trước tiên ta phải xét THÂN cư cung nào trong các cung số, MỆNH (THÂN, MỆNH đồng cung), Phúc, Quan, Di, Tài, Phối để từ đó ta có thể biết được hành động bên ngoài ảnh hưởng bởi vấn đề gì trong 6 cung nêu trên. Về điểm này không xa lạ gì các sách tử vi đều có nêu ra, tôi xin thông qua điểm này sau khi đã ra nguyên tắc ở trên.

Sau khi đã định vị trí cung an THÂN, ta mới so sánh với cung số Nhị Hợp xem sinh nhập hay sinh xuất cho cung an THÂN. Cần phân biệt rằng hành vi biểu kiến hay ngoại biểu là phương tiện, còn hành vi tiềm ẩn là cứu cánh. Có thể nói cho dễ hiểu là "cứu cánh biện minh cho phương tiện".

Thí dụ: THÂN cư Quan Lộc ở cung Sửu có Thái Tuế, Nhị Hợp ở cung Tý là cung Điền-Trạch, Chính chiếu ở Mùi. Ta có thể phối hợp cả dữ kiện bên ngoài và bên trong để xét hành vi một người.

a- Bên ngoài: THÂN có Thái Tuế, Chính chiếu thuộc thế Mộc thua thế Tam Hợp của THÂN (thế Kim, vì Thân cư Quan Lộc ở Sửu trong tam hợp Tỵ Dậu Sửu). Do đó, hành động bề ngoài của đương số có vẻ tự đại, tự hào. Nếu có thêm những sao quá khích như Hỏa, Linh, Kình, Đà …. thì dễ biến ra kiêu căng, kênh kiệu bề ngoài. Khi bắt tay vào làm việc, đương số dễ dàng thắng hoàn cảnh, vượt qua trở ngại để đạt mục tiêu tiến tới cứu cánh.

b- Bên trong: Thế Tam Hợp của THÂN là Kim bị sinh nhập cho Thế Thủy ở Điền Trạch (cung Tý). Do đó đương số là người biết lo cho gia đình, chuyện nhà cửa.

Tổng kết lại ta có thể phối hợp như sau:

Người này hành động thường tỏ ra tự tôn, không có bạn tri kỷ, tri bỉ, thường hành động riêng một mình trong mọi vấn đề liên quan tới Quan Lộc, và thường gặp thắng lợi trong Khoa cử, hoạn lộ. Đó là phạm vi biểu kiến có vẻ háo danh (cố tìm phương tiện) nhưng tất cả chỉ nhằm tới hành động sau cùng (cứu cánh) là đem thịnh vượng cho việc nhà việc đất, việc gia đình mình.

B- VÒNG THÁI TUẾ Và HÀNH ĐỘNG MỖI CÁ NHâN

12 sao vòng Thái Tuế được ghi nhận ở cung an THÂN như là một thế Động. Động mà Tĩnh, ứng với nguyên lý âm Dương của Biến Dịch. Trong phần B số 1, tôi đã liệt kê vòng Thái Tuế trong trạng thái Tĩnh. Do đó trong phần này xin được miễn lập lại vì cũng gần như vậy. Do đó các bạn chỉ đổi từ ngữ lại là xong ngay trong phạm vi Động.

Thí dụ:

– MỆNH có Bạch Hổ thì "Tính tình" có vẻ sắt đá, nóng nảy … dễ làm mất lòng người khác …

Thì nay đổi lại là :

– THÂN có Bạch Hổ thì "Hành Động" có vẻ cứng rắn, dũng mãnh … đôi lúc hành động thiệt hại, làm sợ sệt cho người khác vì hành vi ngang tàng của mình…

C- VàI ÁP DỤNG THỰC TẾ

1- Thân có Tuế Phá ở Ngọ cư Quan Lộc, Nô Bộc ở Mùi, Phối cung ở Tý. Mệnh ở Dần có Tang Môn, Nhị Hợp là Tử Tức ở Hợi, Di ở Thân.

Ở trường hợp này ta phối hợp hai phần I và II lại để tổng luận:

Đương số là người hay lo lắng bất cứ việc gì nhưng trong thâm tâm rất thương yêu con cái. Ngoài ra đương số ở trong môi trường chống đối mới tạo lập được cuộc đời, với bản tính tế nhị, chăm sóc con cái mình cẩn thận, lúc nào cũng nghĩ tới đàn con dại (thì có thể là khôn lớn nhưng đối với đương số thì vẫn còn bé bỏng, cần được lo lắng nhiều). Nhưng bề ngoài đương số lại đối đầu với hoàn cảnh trong một thế yếu. Do đó đã hay lo, đương số mắc thêm một khuyết điểm là nhút nhát đầu hàng hoàn cảnh (cần ghi rõ rằng các thế Nhị Hợp, Chính chiếu, vòng Thái Tuế có thể bị suy giảm ý nghĩa do Tuần Triệt hoặc hung tinh … Nhưng dù thế nào ý nghĩa chính vẫn tựu trung bao gồm trong những điểm bao quát trên).

Đổi lại đối với đương số, là một dịp may "gỡ gạc", khi Thân đương số lại ở Quan Lộc với Tuế Phá lại được Nô Bộc sinh nhập. Tuy rằng thế cung Phối có lấn lướt nhưng cũng giảm nhẹ phần nào. Thật vậy Mệnh, Thân cùng một phía, lý thuyết đi đôi với thực hành, còn gì tốt cho bằng ! Đương số khi bắt tay vào việc, do tính tình tế nhị của mình và hành động đả phá, tuy rằng không đạt đến tột đỉnh, hơi muộn màng nhưng cũng đã thành công trên đường đời. Sự thành công này bắt nguồn từ yếu tố bạn bè, người dưới giúp đỡ (Nô Bộc sinh nhập ờ cung Quan). Đây là một điều chứng giải quan niệm vòng Thái Tuế quan trọng nhất với cá tính, nhờ cá tính mà đi đến thành công.

2- Mệnh, Thân đồng cung tại Ngọ với Bạch Hổ, Nhị Hợp là Phụ Mẫu ở Mùi, Di ở Tý. (Lá số Hàn Tín_Hàn Tín: sinh ngày 5 tháng 11 năm Giáp Tuất, giờ Ngọ)

Đương số là người lời nói đi đôi với việc làm, có nhiều hoài bão to lớn, tính tình lỳ lợm, hành vi cũng không kém phần dũng cảm. Hành động "lòn trôn" trước một tên côn đồ ngoài chợ; đó là một hành động dũng cảm mà chỉ người trí dũng ôm ấp nhiều giấc mộng, đạp đất xé trời mới dám làm. Để từ đó tìm cơ hội cho thời cơ mà dựng nên nghiệp lớn, thái độ và hành động đầy chính nghĩa (dù là ôm ấp có đôi chút vị kỷ do sao Hóa Lộc thủ Mệnh hội cùng Đẩu Quân) đã được bậc đáng là mẹ hiền như bà Phiếu Mẫu hiểu thấu và tận tình bao bọc trong lúc cơ hàn (Được Phụ Mẫu Nhị hợp sinh Nhập cung Mệnh!). Tiếc thay trời đã dành cho Hàn Tín một tài ba hiếm có, mà lại xếp so với thế Thiên Di thua sút (thế Di thuộc Thủy khắc thế Mệnh thuộc Hỏa). Cho nên sinh ra đời là đã gặp hoàn cảnh lắm thử thách rồi, may là THÂN, MỆNH đồng cung mới đủ sức chống chọi để vươn lên với đời. Nhưng rồi chung cuộc vùng vẫy chí anh hùng cho lắm để rồi thất bại với hoàn cảnh (chết về tay bà Lã Hậu).

Vai trò vòng Thái Tuế đã được chiêm nghiệm qua MỆNH, THÂN nhưng cần ghi nhận lại cho kỹ trường hợp MỆNH, THÂN cùng nằm trong vòng Thái Tuế. Hay nói một cách khác MỆNH, THÂN đều nằm trong một thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan.

III/ TAM HỢP MỆNH, TÀI, QUAN PHỐI HỢP QUA VÒNG THÁI TUẾ

Thế Tam Hợp luôn luôn đóng vị trí chủ yếu trong khoa Tử Vi, thực vậy, từ Tam Hợp kết hợp ra Ngũ cục: thủy, Mộc, Kim, Thổ, Hỏa cục, cho đến các vị trí Tiểu hạn san theo từng Tam Hợp tuổi. Và rõ rệt hơn cả, là thế Tam Hợp Mệnh, Tài, Quan là câu nói đầu tiên của người biết coi Tử Vi. Đó là một bình diện thực hành của yếu tố địa chi trong bốn yếu tố Can, Chi, Tuổi, Mệnh, Cục của hai thành tố Gia tộc và Xã hội, tôi sẽ xin viết rõ hơn trong một loạt bài khác về luật Tam Tài: Thiên, Địa, Nhân của Dịch lý.

Trong lĩnh vực Tâm lý học với vòng Thái Tuế, vai trò Tam hợp cũng rất quan trọng, nó đã cho ta các vị thế để biết bề mặt bề trái của vấn đề. Ở đây Mệnh, Thân đồng vòng Thái Tuế tức đương nhiên ở thế Tam Hợp Mệnh-Tài-Quan. Sự kiện này đặt cho ta một vài dữ kiện phải giải quyết như trường hợp:

* Thân-Mệnh đồng cung
* Thân ở Tài hoặc Quan

A- THÂN MỆNH ĐỒNG CUNG

Tư tưởng cùng hành động đều nhập một, lời nói đi đôi với việc làm. Người Thân Mệnh đồng cung dù với vị thế nào của vòng Thái Tuế cũng vậy, luôn luôn tự tung tự tác, cố phấn đấu với hoàn cảnh. Vì vậy, vòng Thái Tuế trong trường hợp này có ý nghĩa:

* Trời, qua cha cho hình hài để hồn nhập vào, mẹ cưu mang những nét đặc thù của mỗi cá nhân, đặt để ta trong môi trường nào; kể cả từ lúc mới sinh ra cho tới ngày xuôi đôi tay lìa đời.
* Hành động tức cái TA lúc nào cũng đối kháng môi trường (hoàn cảnh) sẵn có củ Ta. Người quyết tâm chống lại hoàn cảnh dù bại hay thành.
* Nếu thế Tam Hợp Mệnh Thân thắng thế Di thì mới hội nhập được sao tốt ở cung Di.

B- THÂN AN Ở TÀI HOẶC QUAN LỘC

Ở đây cũng cùng thế Tam Hợp về mệnh cũng như về vòng Thái Tuế. Có vị thế đặc biệt cần ghi lại: Nếu thế Tam Hợp Mệnh thua thế cung Di, thì thế Tam Hợp Mệnh hay Thân ở vị thế lấn lên hay chống đối thì mới đủ khả năng hành động vươn mình lên với đời.

Về các điểm này xem các thí dụ thượng dẫn đã nêu, và nên áp dụng một cách linh động trong tương quan biểu kiến và tiềm ẩn thì mới nắm được yếu quyết của vòng Thái Tuế.

Thực ra, quan niệm về vòng Thái Tuế qua các mối liên hệ giữa các cung số nói trên được dẫn giải bằng đường lối dung hòa hai quan niệm dùng Dịch Lý trở về nguồn khoa Tử-Vi và khoa học hóa cho dễ diễn đạt thích ứng vào đời sống hiện tại. Triết học hay bất cứ ngành khoa học nào cũng nhằm nêu lên sự hệ thống hóa toàn bộ cũng như cũng có tương quan nhân quả của nó và trong thời đại để được mang sắc thái văn minh, ai ai cũng thích đem danh từ Khoa Học vào để bài bác điều gì họ không thích. Khoa Tử vi cũng chịu chung số phận đó. Không phải vì Tử vi là một môn huyền hặc không có căn bản luân lý vững chắc. Chỉ vì nền văn minh Đông Phương quá cao, chuộng về Đạo, thiên về sự giác ngộ cá nhân, cũng như không có khuynh hướng đại chúng hóa như các ngành Khoa học hiện đại Tử vi có những định luật âm Dương Ngũ hành của Kinh Dịch, nhưng vì chưa được chứng giả đúng mức. Những định luật này không ai có thể bài bác được, vì mới đây Kinh Dịch đã đoạt giải Nobel. Đó là điểm son của sự phục hồi tính cách Khoa Học của nền Triết học Đông Phương. Như vậy, tại sao Tử Vi, một phân bộ trong Kinh Dịch, lại không được ưu đãi đó. Tại vì chúng ta hay tại vì những đàn anh chúng ta quá lơ là hoặc để giữ kín làm của gia bảo. Để rồi, hôm nay, người viết không ngại tài hèn kém cố gắng tìm về nguồn bằng những bước đi ngược lại dấu chân người xưa với âm Dương Ngũ hành, với sự phối hợp của nền Khoa Học mới. Mong rằng sẽ có nhiều bàn tay, khối óc đồng quan điểm (hoặc dù có quan niệm như thế nào) góp vào những suy tư của mình cho vườn hoa Tử Vi thêm rực rỡ.

Viết xong tại Sài Gòn ngày 06-12-1974

VI-NHẬT

(H.Đ.T)

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 23:41, 09/05/14
gửi bởi taybalo
CÁC SAO
TỬ-VI mặt đỏ lưng dầy,
Hình thời trung hận, người đầy phương- viên
THAM dâm, PHÁ ngược chẳng hiền,
Ơû cung Thìn, Tuất là người bất trung.
THIÊN-PHỦ miếu vương chi cung
Mặt tròn da trắng, ôn dung thuần hoà
Thông minh vả có tài hoa,
LỘC, QUYỀN, KHÔI, VIỆT càng ra sang giàu
KIẾP, KHÔNG , LINH, HOẢ chẩn mầu,
ĐƯỜNG, ĐÀ biến trái thế âu khó hèn.
TRIỆT, TẤN đóng ở một bên,
Aáy là có đọc chẩn nên kẻ gì.
THÁI-DƯƠNG diện chuyển sà tề,
Tính thời tươm tốt người hay mòn gầy.
Thông-minh vả lại hiền ngay,
Yêu kẻ sinh đẻ ngày, ghét kẻ sinh đẻ đêm.
Canh thời Mão vị chẳng hiền,
Nhâm cư Ngọ vị quí quyền tinh thông.
Giáp nhân Hợi địa vô dùng,
Tự Mùi chí Sửu bần cùng khổ thay.
DƯƠNG, ĐÀ KHÔNG, KIẾP ăn mày,
Đa phiền tâm sự tính ngày lo đêm.
Da đen sắc hãm tình hèn
KỴ, ĐÀ tật mục chẳng yên được nào.
THÁI-ÂM thuộc Thuỷ kể ra.
Thông minh vả có nguyệt hoa đâm tinh
Yêu người dạ khí quang minh .
Từ Thân đến Sửu dạ sinh mấy tài.
Từ Dần đến Ngọ kẻ ra .
Sinh ngày càng hãm gian nguy khốn cùng.
HÌNH, RIÊU tật mục Khả phòng.
Đi ăn, đi ở, trong lòng khổ thay.
THIÊN-ĐỒNG dầu lớn lưng dầy
Hình thời phi mãn, tượng đấy phương viên.
Oân lương vả lại ngay nên
KHOA, QUYỀN, TẤU hợp có quyền uy .
HOẢ, LINH, KHÔNG, KIẾPkể chi,
Aáy là khổ cùng thời u-mê.
THIÊN-VƯƠNG, NGUYÊN-ĐỨC chiêu khê,
Aáy là mô phật là người tăng ni.
Thuỳ-linh THIÊN-TƯỚNG kể đi,
Aáy là tướng mạo uy nghi thanh nhẩu
Tính thời chẩn chiệu nói gian
Là người nhiệm nhặt thanh nhân chánh chơi
Miếu cung tài cán hơn người.
Hãm cung phụng tự, tu-ni làm thầy.
VŨ-KHÚC lại kể cho hay.
Vốn người đầu bé thực nay kim hình.
Nốt ruồi hạt ngọc mọc quanh.
Tính cương chỉ thích lợi danh trăm chiều.
CỰ-MÔN là Thuỷ tính lành.
Miếu vượng Tý, Ngọ đã đành tốt thay.
Mình tròn da trắng tóc mây.
KHOA, QUYỀN, ĐỒNG, LỘC thực đầy vinh xương.
Hãm cung tinh khí đa ngôn.
Bụng càng nghi hoặc học càng tối tăm.
Sứt môi vả lại sứt răng.
Hình tuy nhỏ bé, nói năng dông dài.
Nếu có ăn ở cùng người.
Ghét người vản khách chằng chơi đâu mà.
Tính hay ăn ở bất hòa.
Phản phúc đối đá cũng ra tin thần.
Hiểm mà chẳng có để tâm.
DƯƠNG, ĐÀ bạc ác bất nhân chi cường.
THIÊN, LƯƠNG thuộc mộc chi vương.
Thanh kỳ khiết bạch, thủy lương ai tầy.
Mùi cung kẻ ấy chẳng hay.
Tí mê-nạn khổ cực thay nhiều bề.
Tuất Nhâm hành khất khá chê.
Hợi cung thầy sãi là nghề chẳng sai.
Dần, Thân an mệnh có tài.
Quí nhân phát phúc phát tài vinh hoa.
CƠ, NGUYỆT, ĐỒNG hãm du mà.
Aát là xét lại cũng là bất nhân.
THIÊN-LƯƠNG hiện viết phúc thần.
Tính hiền vả lại có phần thuỷ chung.
THAM, LANG miếu vượng chi cung.
Miếu thường người nhởn thực dòng đa mao.
Hãm cung hình bé cổ cao,
Tính hay nghĩ ngợi tơ hào chẳng quên.
Việc làm càng chóng càng bền,
Rượu, trà, hoa-nguyệt là bên phong tình.
Hiểm độc mà lại đa khinh.
Tham tài tham sắc quên mình bạo hung.
DƯƠNG, ĐÀ, KHỔNG, KIẾP bần cùng
VŨ, LIÊM, SÁT, PHÁ hành hung cướp đường.
LIÊM, TRINH hoả diện thân tràng.
Lộ hầu, lộ nhỡn, mặt vàng, mặt xanh.
Tính thời táo bạo trương tranh.
Khi dữ khi lành du đãng phấn hoa.
Mùi cung hung dữ ai qua.
Thân cung cự phú, Hợi là nhân cung.
Tuất nhân khốn khổ bần cùng.
THAM, LIÊM đạo tặc hành hung chẳng là.
PHÁ-QUÂN âm thuỷ kể ra.
Lưng đầy, đầu lớn, yêu tà mày thưa.
Tính cương chẳng có ai ưa,
Ra lòng đơn bạc chẳng chừa được đâu.
Thìn, Tuất hiểm-độc mưu sâu,
Bỏ chưng tổ nghiệp mấy hầu làm nên.
Vượng cung Tí, Ngọ, Dần, Thân.
Là người mạnh bạo, hung nhân uy cường.
Đồng cung TỬ hội THAM LANG.
Ba phương TRINH, SÁT quan sang ai lầy.
Ơû cung hãm địa khổ thay.
DƯƠNG, ĐÀ, KHÔNG, KIẾP ăn mày chẳn khôn.
PHÁ, THAM, TRINH, SÁT cực hung..
Aáy là đạo tặc hành hung chẳng hiền.
THẤT-SÁT mắt lớn đội đèn,
Việc làm muốn chóng, muốn xong cho rồi
Tính thời hay động hay thôi.
Lại thêm hung bạo như lôi chẳng là.
Mó đến rồi lại bỏ qua,
Bạo hổ bằng hà, nào có sợ ai,
Thìn, Tuất, Tí, Ngọ, Dần, Thân.
KHÔI, VIỆT,TẢ, HỮU triều lai càng mầu.
QUYỀN, LỘC, XƯƠNG, KHÚC sang giầu.
Lại có TỬ, PHỦ còng hầu đến tay.
Hãm cung khốn khổ chẳng hay.
Hung ác thủa này mà lại yểu thương.
THẤT-SÁT, HÌNH, KỴ, ĐÀ, DƯƠNG.
Chẳng mặt thời mũi có thương mới lành
THIÊN-CƠ chẳng ngắn chẳng dài.
Long lanh tay khéo gồm hai đức nghề.
CƠ, QUYỀN mà đóng Mệnh cung.
Là người mưu trí tài cao hơn người.
ĐỒNG CUNG ĐOÁN

TỬ, PHỦ trọng hậu cách thường.
VŨ, THAM người bé bạc tiền hay tham.
THAM phùng SÁT, PHÁ hiểm gian
Mặt người phong nhã, giả làm uy-nghi.
Thìn-Tuất, TỬ, TƯỚNG phùng sung.
Tính hay cợt nhả, nhân trung dạn dầy,
THAM, LIÊM to lớn ai tầy.
Tính tham thấy của người nay liền vô.
VŨ, THAM đầu bé mình to.
PHÁ, LIÊM sốc sếch, bạnh to hơn người.
CỰ, CƠ Mão, Dậu thâm mòi.
CƠ, LƯƠNG, VŨ, PHÁ, là người có uy .
CỰ, CƠ, mặt mũi dung nghi.
CỰ, CƠ, nói ngọt, đẹp thời đồng âm.
Sát phùng THIÊN-HỶ đồng cung.
Có điều đúng đắn , ôn dung thanh nhàn.
KHÚC-XƯƠNG là đứng tài hoa.
Thực thà đúng đắn là hàng ĐỒNG, LƯƠNG.
VIỆT-KHÔI là khách văn chương .
KHÔI là khôi ngộ, VIỆT thường da đen.
Mặt hoa là mặt KHOA, QUYỀN.
VŨ, THAM, HOÁ-LỘC, râu hền đến tai.
Đứng đắn là khách Phong, Thai.
LONG-TRÌ, PHƯỢNG-CÁC ấy ai dịu dàng.
Nước da TẢ, HỮU bằng gương
KHỐC, HƯ quầng mắt thường thường tối lam.
THAM, ĐÀO tốt tóc xanh đậm.
Mắt đen VŨ, KỴ chẳng nhầm một ai.
KỊ, ĐÀ tiếng nói hơn người.
ĐỒNG, KHÔNG, HƯ, NHẬT, nhiều đời thị phi .
MỘC tinh làm dáng ai bi.
Hay khoe mình cũng bởi vì ẤN, QUANG.
TRÀNG-SINH, LỰC-SĨ nói ngoan.
VŨ phùng THIÊN-MÃ luận bán người cao.
ẤN, QUANG là khách phong-lao.
Trên thời vị nể, dưới thời kính yêu.
THANH-LONG cơ biên đủ điêu
TẤU- THƯ nói ngọt người theo ngay về.
BÊNH-PHỦ thân thể khả chê.
Vốn hay tật bệnh nhiều kỳ chẳng sai.
HỶ-THẦN, HOA-CÁI vui tươi.
Mặt mũi dài rộng, hết người đảm đang.
KIẾP, KHÔNG nhè nhẹ mình gầy.
ĐÀ-LA mắt nhớn ngón tay thỏi dài.
ĐÀO, HỒNG mặt mũi xinh tươi.
KỴ, HÌNH, ĐÀ, MÃ là người quê chân.
VŨ, RIÊU, PHÁ- TOÁI ở gần.
Lại có VIỆT, KỴ mười phần sút môi.
THAM-LANG hãm địa thời thôi.
Trong hai nách có mùi hôi một đời.
Người mà mắt nhỏ mắt to.
Nhật phùng KHÔNG, Hạ đoán cho toả mười.

Có phải các cụ dùng phương pháp này để xác định mệnh chủ, xem người nào ăn vào sao nào thông qua hình tướng, tính cách ?
HTD tìm thấy những câu thơ trên trong cuốn Tử Vi kinh nghiệm của cụ Quản Xuân Thịnh tức Cả Thịnh, là một nhà nho rất tinh thông về khoa Lý Số và giàu kinh-nghiệm giải đoán Tử vi đầu thế kỷ XX.

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 23:51, 09/05/14
gửi bởi taybalo
10 kinh nghiệm sát thủ của Tử vi
Giáo sư Lê Trung Hưng
Sách Tử vi mỗi ngày càng nhiều nhưng ý nghĩa các Sao vẫn thấy không thấy thêm ra, chỉ quanh quẩn trên nhưng câu Phú với ý nghĩa mơ hồ, nhiều khi đặt để ở một trạng thái gán ghép thành ra làm nản chí những người ham học hỏi Tử-vi không ít. Trong chiều hướng phải làm sao sáng tỏ cho ngành học lý đoán cổ truyền này, những công trình nào dù bé nhỏ tới đâu, nếu đem phổ biến một cách trung thực và nhiệt thành, thiết tưởng cũng là một nỗ lực khách quan nhất của người tri thiên mệnh để xây dựng xã hội. Học phái Thiên Lương xin lại mạn phép chư vị quân tử trình làng Tử vi “Mười Kinh nghiệm” được coi là những đòn sát thủ trên mỗi bản số Tử-vi để cùng nhau chiêm nghiệm :
1.Sinh bất phùng thời: Hạn Thái tuế vô chính diệu
2.Đồng bệnh tương lân: Hình, Riêu, Không Kiếp
3.Đời là bể khổ: cung ách
4.Công ơn tổ phụ: cung Phúc đức vô chính diệu
5.Đen như mõm chó: Cung quan lộc vô chính diệu
6.Làm thân trâu ngựa: Thế tương quan giữa cung Thân Mệnh và cung Nô bộc
7.Trắng tay sự nghiệp: Hạn Thiên không ở tứ mộ
8.Sớm đầu tối đánh: Nhận diện nhóm hung tinh chiến lược Kình, Đà, Linh, Hỏa, Không, Kiếp.
9.Được làm vua thua làm giặc: Người Tỵ, Dậu, Sửu với sao Phá toái.
10.Anh hùng tạo thời thế: Luận bốn mẫu người Tử sát, Tử tướng, Tử phủ và Tử Phá.
Bây giờ xin vào chi tiết

1- Sinh bất phùng thời :

Mỗi bản số đều được hưởng 10 năm thuận lợi, đắc ý nhất ở cung Tam hạp với Sao Thái Tuế (được gọi là vòng Thái Tuế).

Thí dụ : Người tuổi Tỵ, vậy khi đến hạn 10 năm ở một trong ba cung Tỵ, Dậu, Sửu là được hưởng vòng Thái Tuế. Nhưng có 01 điều cân nhắc cận thận về cường độ của sự thoải mãi, nghĩa là xem, đắc ý tới mực nào, thì phải xem xét cung Mệnh (và cả cung an Thân) có chính diệu tọa thủ hay không, đồng thời cung nhập hạn của vòng Thái Tuế có chính diệu hay không ?. Sự đắc thắng vẻ vang hay chiến thắng trong gian lao là tùy thuộc vào các điều kiện sau đây :
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu hãm địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi một cách tương đối.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) có Chính diệu đắc địa, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì chỉ đắc lợi trung bình.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung Vô Chính diệu thì vẻ vang trong gian khổ, sinh bất phùng thời.
•Cung Mệnh (và cung an Thân) Vô Chính diệu, hạn gặp vòng Thái Tuế ở cung có Chính diệu tọa thủ (nhất là bộ Sát, Phá , Tham) thì chiến thắng rạng rỡ huy hoàng đắc lợi như ý muốn.
•Trường hợp Cung Mệnh trùng hợp với ngay cung của vòng Thái Tuế không tốt bằng cung an Thân trùng hợp với cung của vòng Thái Tuế (vì Thân chủ về hành động, còn Mệnh là lý thuyết và tư tưởng, nên chỉ có làm mới có hưởng, tay có làm thì hàm mới có nhai ! )

2- Đồng bệnh tương lân :
Trong những tai nạn cộng đồng, nghĩa là nhiều người vướng vào vòng hoạn nạn cùng một lúc và bởi một nguyên do (Thí dụ : tai nạn rớt máy bay làm nhiều người chết ... ) Tử vi đã trở lên nghi vấn trong cách giải thích trường hợp khó khăn và tế nhị này ? Tuy nhiên, nếu đem đối chiếu với những lá số thiệt mạng (hay chỉ mang thương tích) trong tai nạn cộng đồng, thì khi dùng phép quy nạp đã cho thấy nét tương đồng kể sau :

- Tam hợp với cung Mệnh có Thiên Hình, Thiên Riêu, Địa Không và Địa Kiếp (hay tam hợp của cung Ách )

- Cung Ách có Thất Sát, Phá Quân hay Tham Lang (Hay cung Mệnh có cách này)

- Tiểu Vận (một năm) hay Đại Hạn (10 năm) vào vòng tam hạp của Thiên Không (Thiếu Dương - Tử Phù và Phúc Đức)

Hầu hết những người có cách trên đều phải nếm qua mùi vị của " Đồng Mệnh tương lân " : Việc xảy ra nếu có người chết, kẻ chỉ bị thương, là còn do cung Phúc Đức chi phối, dù thế nào đi chăng nữa thì cũng phải cộng đồng tai ách. Chắc chắn không ai dám kiểm chứng trường hợp này, bằng cách tập hợp tất cả các cá nhân có Hình-Riêu-Không- Kiếp ở Mệnh (và Ách cung là thế Sát Phá Tham), nhưng nếu quý vị nào chịu khó sưu tập những lá số có có tiêu chuẩn vừa nói, thì sẽ thấy ngay cá nhân của bản số đều vướng phải chuyện xui xẻo này một lần trong đời của họ.

3- Đời là bể khổ : Cung Ách

Thế nhị hợp của cung Ách với hai cung Mệnh, Thân đã nói lên rõ ràng cái nghiệp mà nhà Phật chủ trương .

- Mệnh, Thân sinh phò Ách cung , là ta phải lãnh đủ mọi chuyện do ta đã làm. Cá nhân phải trực tiếp chịu ảnh hưởng cái hậu quả của việc ta đã tạo ra trong đời sống hằng ngày (gieo nhân nào, gặt quả ấy). Đây là giai đoạn tạo nghiệp mà Nguyễn Du tiền bối đã nói : "Thiện căn ở tại lòng ta"

- Ách cung sinh phò Mệnh, Thân là bản thân ta ở kiếp này phải hứng chịu nhiều những hậu quả truyền kiếp (do dòng họ tiền nhân để lại, cũng có thể là do đời sống ta kiếp trước để lại) Cho nên, trong chuyện Kiều có câu ứng :
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng có trách lẫn trời gần trời xa.

- Mệnh,Thân sinh phò Ách cung là khi nào hành Tam hợp của cung Mệnh, Thân sinh ra hành của Tam hợp cung Ách (Ví dụ: Mệnh ở cung Dậu, vậy hành của Tam hợp Tỵ Dậu Sửu là Kim. Ách ở cung Thìn, vậy hành của Tam hợp Thân Tý Thìn là Thủy. Tam hợp Mệnh là Kim đã sinh phò tam hợp Ách là Thủy). Còn Ách cung sinh phò Mệnh, Thân cũng tính như cách vừa nói (Ví dụ : Ách ở cung Tỵ thuộc Tam hợp là hành Kim. Cung an Thân ở ngay cung Thân thuộc Tam hợp Thủy, do đó Ách (Kim) sinh xuất ra Thân (Thủy)

Mặt khác, đã gọi cung Tật Ách, thì chỉ được hiểu là những nghiệp xấu tích lũy tích tụ lại (còn nghiệp tốt tích tụ ở cung Phúc-Đức mới đúng nghĩa của nó) thành ra không bao giờ Đại Tiểu hạn đến cung Tật Ách mà người ta thấy thoải mái đắc ý được (sách xưa ghi đơn sơ : hạn Thiên Sứ xấu, chính là ẩn ý vậy). Đã biết cung Tật Ách xấu, và hiểu là những tai nạn cho mỗi bản số trong kiếp đang sống, thiết tưởng phải lưu ý hai bộ mặt của cung Ách :

- Ách cung thuộc cách Sát Phá Tham là hay bị ngoại thương, chủ về sự sát phạt tích cự mau lẹ.

- Ách cung thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, Tử Phủ Vũ Tướng chủ về nội thương, các tai họa có tính cách gậm nhấm, tiêu hao dần mòn ...

4- Công ơn Tổ-Phụ :
Nếu cung Ách tiêu biểu cho nghiệp xấu, thì cung Phúc Đức tượng trưng cho nghiệp tốt. Có điều cần phải nhấn mạnh là : nghiệp tốt với những cường độ khác nhau (phước mỏng hay phước dày là thế). Đa số sách Tử-vi đều hời hợt ghi chú :”Sao Mộ ở cung Phúc Đức là cách tốt đẹp”. Tôi thấy điều này trái hẳn với ý nghĩa Tăng–Trưởng–Hủy–Diệt của vòng Tràng Sinh (phải hiểu là 12 giai đoạn của một kiếp sống , chứ không phải là 12 sao: Tràng Sinh, Mộc Dục, Quan Đới, Lâm Quan, Đế Vượng, Suy, Bệnh, Tử, Mộ, Tuyệt, Thai và Dưỡng, được đa số nhìn như những tinh đẩu riêng biệt là một điều lầm lẫn lớn).

Cung Phúc Đức bản chất là một kho tích tụ những may mắn cho một đời người, nếu nó có sao Mộ đóng, tức là có nghĩa : giai đọan may mắn đã chìm sâu trong bóng tối một cách dễ hiểu hơn hơn là không còn hên nữa. Phúc Đức ở giai đoạn của Thai, của Dưỡng của Trường Sinh … là cách tốt đẹp khả quan nó biểu hiện cho những tiềm lực dồi dào, tài nguyên “may mắn” còn phong phú, còn tiềm tàng …

Ngoài ra, một kinh nghiệm khác về cung Phúc Đức, là khi nào cung này Vô Chính Diệu , được Thái Dương, Thái Âm (đắc địa) ở thế Tam Hợp hội nhập chiếu sáng rõ ràng một đời “Họa bất trùng lai, phước vô đơn chí”

Ví dụ : Cung Phúc Đức Vô Chính Diệu ở cung Mùi, có Thái Dương ở cung Mão, có Thái Âm ở cung Hợi chiếu sáng. Sách xưa có ghi “Nhật Nguyệt chiếu hư không chi địa” là một đời có nghĩa “ Bao nhiêu hạnh phúc ở trần gian, trời đã dành riêng để tặng … lá số “. Thiên địa hòa mình thì nhân sự thanh bình vậy.

5- Đen như mõm chó
Sống là phải tranh đấu, nhất là đối với những ai còn chủ trương : Có trung hiếu nên đứng trong trời đất, không công danh thà nát với cỏ cây (Nguyễn Công Trứ), thì cung Quan Lộc phải kể là quan trọng đối với đấng ”mày râu” (Riêng đối với phái đẹp, thì tác giả Vân Đằng Thái Thứ Lang đã bàn rõ cách Thân cư Quan Lộc có Tuần-Triệt án ngữ, xin miễn bàn nhiều !) Các cách tốt xấu của chính tinh ở Quan Lộc đã có nhiều sách giải rất chi tiết, nhưng khi cung này Vô Chính Diệu thì sao ? Xin thưa ngay rằng : Đen như mõm chó. Cổ nhân nói câu thành ngữ này là có ý diễn tả cái cảnh bấp bênh, cái tráo trở, cái bất hạnh, cái long đong … của con người. Cung Quan Lộc Vô Chính Diệu là một trạng thái bi đát, mà cụ Uy Viễn Tướng Công đã cay cú :

– Người trần thế muốn nhàn sao được ?
Nói dễ hiểu hơn : Công danh sự nghiệp, thăng trầm vật vờ như phù vân. Kể cả trường hợp được Nhật Nguyệt chiếu sáng thì cũng chỉ là cái thế của Quân Sư quạt mo, phò người để còn có mình, khí cái gốc nương nhờ sụp đổ thì ta còn gì, ngoài ý nghĩa “ký sinh nhân” ?

6- Làm thân trâu ngựa
Người biết coi số Tử-Vi đều ngán ngẫm nhóm sao tráo trở và thủ đọan là : Tả, Hữu, Không, Kiếp, Phục Binh, Kình, Đà …(được coi là nhóm hung tinh chiến lược) đóng ở cung Nô.
Trong bản số Tử-Vi thế nhị hợp của cung Thân, Mệnh và cung Nô cũng phải lưu ý nhóm sao dữ kể trên đóng ở vị trí nào :

– Nếu Tam hợp cung Thân – Mệnh có hành sinh xuất tam hợp cung Nô, mà cung Nô chứa bộ hung tinh chiến lược thì có nghĩa là làm ơn mắc óan, hữu công vô lao, bạn bè chỉ là hạng bất nhân luôn luôn tìm cách trục lợi mình, sang thì tìm đến, khó thì tìm lui. Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tả óan :
Còn bạc còn tiền còn để tử
Hết cơm hết gạo hết ông tôi
Ví dụ : Cung Thân ở cung Hợi (thuộc Hợi Mão Mùi là Mộc), Cung Nô ở cung Dần (thuộc Dần Ngọ Tuất là Hỏa). Vậy là cái ta Mộc sinh xuất cho cái Nô Hỏa.

– Nếu tam hợp cung Thân- Mệnh được hành sinh nhập bởi tam hợp của cung Nô, mà cung Nô cũng chứa bộ hung tinh chiến lược, lại có nghĩa thâm thúy như sau : Bạn Bè, thuộc hạ của ta tuy là hạng đầu trâu mặt ngựa, đối với người khác là sự phản bội nhưng đối với ta vẫn trung thành phục vụ , đem hết sức khuyển mã để phụng sự ta.
Ví dụ : Nô Bộc ở cung Hợi (thuộc tam hợp Mộc) sinh nhập cho Thân ở cung Dần (thuộc tam hợp Hỏa). Những thầy phù thủy, thầy pháp cao tay ấn đều có cách này.

7- Trắng tay sự nghiệp
Đại, Tiểu Hạn trùng phùng, đáng sợ nhất của lá số Tử-Vi là Đại hạn 10 năm đóng tại một trong ba cung có sao : Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức (đỡ vất vả nhất) và Tiểu vận một năm cũng nằm trên một trong ba cung có sao vừa nói, (gọi là hạn Thiên Không, sẽ gặp số không ở cuối đường hầm). Cụ Thiên Lương chủ trương học Tử-Vi phải có lòng thành khẩn và can đảm mà gồng mình chịu đựng :

– Khi sao Thiên Không đóng ở Tứ Mộ (bốn cung Thìn Tuất Sửi Mùi ) nghĩa là không có trường hợp Đào Hoa, Thiên Không (xảo trá, mưu mô) và cũng không có trường hợp Hồng Loan Thiên Không (xuất tăng tầm đạo ) chỉ có một GRANĐ-ZEZÔ. Vậy khi nào hạn Thiên Không (vòng của Thiếu Dương, Tử Phù, Phúc Đức) nhập Mộ cung, thì kể như trắng tay sự nghiệp (nhất là khi Mệnh, Thân thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương, mà Đại Tiểu hạn trùng phùng là Sát Phá Tham cách) may mắn lắm bản thân mới còn, đa số đều ôm hận ngút trời, mà về cõi ta bà Âm Phủ

8- Sớm đầu tối đánh:
Sáu sao Kình Dương, Đà La, Địa Kiếp, Địa Không, Hỏa Tinh và Linh Tinh. Tuy bản chất hung dữ nhưng có nhiều nét dị biệt cần phải bám sát vào ba đặc tính kể sau để nhận diện :

– Kình Dương và Đà La thuộc loại Sát tinh hữu dõng vô mưu, tuy tác hại nhưng còn chiêu hồi được. Nói cách khác, khi nó hãm địa là những bộ mặt quỷ dạ xoa, chủ trương tiêu diệt phá phách, nhưng khi chúng đắc địa nhất là cung Sửu, Mùi thì lại là mẫu hình Chung Vô Diệm tuy xấu mặt nhưng tốt bụng, luôn luôn trung thành, cứu giải phò nguy cho cung mang ý nghĩa mà đôi sao này trấn đóng.

– Địa Kiếp và Địa Không là cặp bài trùng phản trắc chung thân (bất kể chúng đóng ở cung hãm địa hay đắc địa) cung nào mà có bộ mặt của hai sao Không, Kiếp (dù một hay cả hai) thì cục diện cung đó đã có chiều hướng lệch lạc (Thiên Tả) lình xình. Không, Kiếp đắc địa ở cung Tỵ, Hợi, chỉ làm lợi buổi đầu, nó đưa người thụ hưởng lên thật cao rồi cuối cùng vật té xuống hồ sâu (bản chất phản trắc là như thế !). Ngoài ra, một vài tiểu xảo lý thú về sự lệch lạc của Địa Không, Địa Kiếp như sau : Cung Tử Tức có Không Kiếp là thêm con hoang, dị bào, khó nuôi con … Cung Huynh Đệ có Không Kiếp là có thêm anh chị em không cùng một giòng chính thống, hay anh chị em gái có người tình duyên dang dỡ... Cung Phối có Không Kiếp là nhiều lần chắp nối, vợ này, chồng khác (nhất là gặp phải góa phụ, góa vợ..).

– Hỏa Tinh và Linh Tinh là nhóm sao chuyên chú về những thủ đoạn vụng trộm, tính toán, tiểu lợi, chỉ rình mò khi nào đương số gặp vận xấu là vùng lên đánh lén để ăn có. Cung nào chứa Hỏa Tinh, Linh Tinh (chỉ cần một cung là đủ) là hay gặp phải ý nghĩa của câu “họa vô đơn chí”, nghĩa là đường kia nỗi nọ ngổn ngang tơi bời , bởi lo chuyện này chưa xong thì tai ách khác đã tới (nhưng không đến nỗi gay cấn lắm) quan trọng và tai hại nhất là những ai tuổi Canh, Tân (và mạng Kim) gặp hạn Linh, Hỏa ở thế Sát Phá Tham là tiêu tùng sự nghiệp, bổn mạng lâm nguy (Linh Hỏa đóng ở hai cung Thủy là Hợi và Tý thì hạn nhẹ nhất).

9- Được làm vua thua làm giặc
Sao Phá Toái hoạt động riêng trong giang sơn của nó là vòng Kim (thuộc ba cung Tỵ Dậu Sửu). Ai cũng biết Phá Toái chỉ chịu quy phục sao Phá Quân (gọi là Toái Quân- Lưỡng Phá). Do đó người Mạng Kim mà Thân, Mệnh đóng ở một trong ba cung Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Sát Phá Tham thì hay nhất, anh hùng nhất (số làm tướng, bách chiến, bách thắng). Thói thường cỡi cọp thì sẽ có ngày cọp cỡi (sinh nghề tử nghiệp) thành ra những người tuổi Tỵ Dậu Sửu thuộc cách Cơ Nguyệt Đồng Lương ở cung Thân, Mệnh, hạn gặp Phá Toái kể như lọt vào vòng kiềm tỏa và ảnh hưởng trực tiếp của hung tinh này, đau khổ là lý đương nhiên, chưa vui họp mặt đã sầu chia ly.

10.Anh hùng tạo thời thế
Tử vi là chúa tinh, đóng ở cung nào đem bóng dáng của hạnh phúc vào cung đó, đây chỉ là lý thuyết tổng quát. Còn khi đem áp dụng vào bản số Tử vi thì đã biến thiên rất nhiều ý nghĩa, lẽ dễ hiểu: Vua hiền mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà không gặp được bầy tôi tài giỏi, thì làm sao mà nước lã quấy nên bột nên hồ? Lưu Bị không gặp được Khổng Minh, Lê Lợi không có Nguyễn Trãi, chưa chắc đã có tình trạng lịch sử đáng được ghi chép. Có bốn mẫu cung Thân Mệnh (nhất là cung an Thân, vì có hoạt động mới tạo được thành quả) cần phân tích:

-Mệnh Thân có Tử Vi và Thất sát: Vua có thực lực nhưng bề tôi là đám chủ về bạo động, nên ở tình trạng chật vật, thật vất vả mới bình trị được thiên hạn, thất bại nhiều hơn chiến thắng.

-Mệnh thân có Tử vi và Phá quân: Vua gặp phải bầy tôi gian xảo và tham vọng, thành ra yếm thế, bi quan, nhiều khi cũng phải gian tham độc ác theo để tương kế, tựu kế mà sống.

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Tướng: Vua gặp được tướng giỏi (nhưng hữu dũng vô mưu) cách này là phải luôn chiến đấu (làm sao bắt Thiên Tướng làm việc liên miên, để không còn cơ hội tạo phản) do đó tình trạng phải đa đoạn công việc việc suy gẫm nhiều mưu cơ

-Mệnh Thân có Tử vi và Thiên Phủ: Vua gặp thời thạnh trị, văn thần trung nghĩa, trên dưới hòa thuận nên được hưởng nhiều thanh thản trong đời sống, vừa có tiếng, vừa có miếng.

Nói cách chung, tất cả các yếu tố gọi là sao trên bản số Tử vi, đã sinh hoạt như một cộng đồng nhân loại, có đầy đủ các yêu tính thế tục và thánh thiện vậy.
(KHHB số 74-L-1 và 74-L-2)

TL: Xả choét..Tử Vi!

Đã gửi: 16:30, 13/05/14
gửi bởi lotus
Vậy hãy giúp mình xem mình là ai.
Hình ảnh