Trang 1 trên 2

XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 13:22, 17/02/11
gửi bởi Whitebear
Chào mọi người
tôi đang bắt đầu học thêm 3 lãnh vực là Thái Ất Thần Kinh, Kỳ Môn Độn Giáp và Bát Môn Lục Nhâm. Vì là bắt đầu, nên tôi rất mong nhận được lời khuyên của mọi người về cách học Tam Kì này.

1-Tài liệu nào là chuẩn nhất, rõ ràng và dễ hiểu. Không bị Man Thư.

2-Ai là cao thủ/ có hiểu biết về lãnh vực đó để mình có thể trao đổi, bái sư.

3-Kiến thức chuẩn bị của ba lãnh vực. Nên học cái gì trước hay là nên học song song?

Xin cảm ơn.

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 18:32, 17/02/11
gửi bởi Hà Uyên
Chào Whitebear

Bắt đầu nghiên cứu về Thái ất - Kỳ môn - Lục nhâm, thì bạn nên đọc quyển: Hà Lạc Tinh Uẩn 河洛精蘊, tác giả Giang Vĩnh - đời nhà Thanh.

Trong quá trình tìm hiểu về những thuật toán trên, tôi nghĩ có sự liên hệ bắt nguồn từ Dịch - Hệ từ - Chương 9 viết: "" Nhị thiên chi sách, vạn hữu nhất thiên ngũ bách nhị thập, đương vạn vật chi số dã ". Hàm nghĩa: " Số cọng cỏ thi (ứng với số hào) trong hai thiên của Kinh dịch là 11520, tương đương với số chỉ vạn vật ".

Số 1152 này được khởi từ số 192 x 6 = 1152, trong đó, số 192 chỉ về số hào âm hoặc dương là 192. Số 6 là số chỉ về số chu kỳ của 64 quẻ Dịch khi phối với Khôn - Đất (không phải chỉ về số hào của một quẻ là 6).

Thêm một lưu ý, khi nghiên cứu kỹ về Phệ pháp, thì số Tam cơ là số lần, mà không phải là số lẻ. Ví dụ như số 4 là số chẵn, khi đếm được một lần, thì được gọi là số lẻ, còn khi đếm hai lần thì mới là số chẵn. Điều này sẽ giúp ích cho sau này khi đếm số Can Chi của ngày, gặp Can Chi ngày là âm, mà số lần đếm bay qua Can Chi của Nguyệt lệnh là một lần, thì vẫn được coi là số Cơ, số dương, số lẻ. (như môn Tử Bình, đếm số từ ngày sinh đến ngày Tiết, nhưng đối với Thái ất - Kỳ môn - Lục Nhâm thì số đếm vượt qua ngày Tiết là mấy lần, để truy tìm số Tam Cơ và số Tam Ngẫu, để mà biết được là hào dương hay hào âm)


Hà Uyên

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 22:48, 17/02/11
gửi bởi Whitebear
Chào bác Hà Uyên
Cháu đang bắt đầu bỏ tử vi để nghiên cứu sâu hơn về Triết học phương đông, và tìm cách khởi đầu với Kinh Dịch và 3 lãnh vực trên. Nhưng cháu chưa biết con đường nào để có thể học được.
Cháu đã dò hỏi và tìm khắp các trang sách điện tử, nhà xuất bản nhưng không thấy nơi nào có cuốn sách "Hà Lạc Tinh Uẩn" này.
Bác có thể cho cháu biết ở nơi nào có thể tìm được cuốn sách đó hay không? Hoặc nếu có, bác có thể cho cháu mượn để chụp lại được không? Nghe chừng nó có vẻ là Tiếng Nôm, nên chắc là khó đọc.
Cháu xin cảm ơn bác.

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 08:02, 18/02/11
gửi bởi Hà Uyên
Whitebear thân mến

Một số sách và tư liệu nghiên cứu, giờ này tôi vẫn chưa thu về được. Thực tình thì đọc sách sẽ làm tăng thêm tính tự tin, cũng như khi tôi đọc 02 Weblog của "gấu trắng", càng "xa" càng thấy "phân", càng "gần" càng thấy "hợp", càng lên cao thì tính tự "phân'" càng mạnh và bộc lộ càng rõ. Tính "khả phân" này ở trong Whitear là một lợi thế rất lớn. Thật vậy, đó chính là điều mà Dịch nói tới những quy luật phân - hợp, những tình trạng xa - gần, tôi với Whitebear tuy ở xa mà vẫn thấy "ứng", vậy mà nhiều cặp đã "hợp hai làm một" (vợ chồng), ở gần mà không hợp thì họa hoạn sinh. Đây cũng là điều mà Dịch đã bàn tới: "xa mà không ứng, gần mà không hợp", thì tự gọi tai họa tới vậy.

Những điều mà tôi đang bàn tới, dụ ý chỉ về điều mà Whitebear đã nói ở bài viết trên: "Nên học cái gì trước ?" "Chưa biết bắt đầu từ đâu ?".

Với tiêu chí mà Chủ đề đã nêu ra: "Xin lời khuyên", chúng ta bắt đầu từ lời khuyên thứ nhất như sau:

1- Tính "Thích nghi", đó là quy luật chu kỳ trong Dịch.
(Cái nhỏ gần cái lớn, nước nhỏ sống cạnh nước lớn,v.v... - tính thích nghi trong quá trình sinh hóa)

Dịch gồm 64 quẻ, khi ở "trong" chu kỳ mười lần đếm là 1 (lẻ), mười lần đếm tiếp theo là 2 (chẵn), sẽ cho chúng ta thấy được tính "tất yếu".
Càn Khôn Truân Mông Nhu Tụng Tỷ T/súc
Thái Đ/nhân Đ/hữu Khiêm Dự Tùy Cổ Lâm Quan
P/hạp Bác Phục V/vọng Đ/súc Di Đ/quá Khảm Ly
Hàm Hằng Độn Đ/tráng Tấn M/di G/nhân Khuê Kiển Giải
Tổn Ích Quải Cấu Tụy Thăng Khốn Tỉnh Cách Đỉnh
Chấn Cấn Tiệm Q/muội Phong Lữ Tốn Đoài Hoán Tiết
T/phu T/quá Ký tế Vị tế Càn Khôn Truân Mông Nhu Tụng
Tỷ T/súc Thái D/nhân Đ/hữu Khiêm Dự
Tùy Cổ Lâm Quan P/hạp Bác Phục V/vọng D/súc
Di Đ/quá Khảm Ly Hàm Hằng Độn Đ/tráng Tấn M/di
G/nhân Khuê Kiển Giải Tổn Ích Quải Cấu Tụy Thăng
Khốn Tỉnh Cách Đỉnh Chấn Cấn Tiệm Q/muội Phong Lữ
Tốn Đoài Hoán Tiết T/phu T/quá Ký tê Vị tế Càn Khôn
Truân Mông Nhu Tụng Tỷ T/súc Thái
D/nhân Đ/hữu Khiêm Dự Tùy Cổ Lâm Quan P/hạp
Bác Phục V/vọng D/súc Di D/quá Khảm Ly Hàm Hằng
Độn Đ/tráng Tấn M/di G/nhân Khuê Kiển Giải Tổn Ích
Quải Cấu Tụy Thăng Khốn Tỉnh Cách Đỉnh Chấn Cấn
Tiệm Q/muội Phong Lữ Tốn Đoài Hoán Tiết T/phu T/quá
Ký tế Vị tế Càn Khôn Truân Mông Nhu Tụng Tỷ
T/súc Thái D/nhân Đ/hữu Khiêm Dự Tùy Cổ
Lâm Quan P/hạp Bác Phục V/vọng D/súc Di Đ/quá
Khảm Ly Hàm Hằng Độn Đ/tráng Tấn M/di G/nhân Khuê
Kiển Giải Tổn Ích Quải Cấu Tụy Thăng Khốn Tỉnh
Cách Đỉnh Chấn Cấn Tiệm Q/muội Phong Lữ Tốn Đoài
Hoán Tiết T/phu T/quá Ký tế Vị tế Càn Khôn Truân Mông
Nhu Tụng Tỷ T/súc Thái D/nhân Đ/hữu
Khiêm Dự Tùy Cổ Lâm Quan P/hạp Bác Phục
V/vọng D/súc Di Đ/quá Khảm Ly Hàm Hằng Độn Đ/tráng
Tấn M/di G/nhân Khuê Kiển Giải Tổn Ích Quải Cấu
Tụy Thăng Khốn Tỉnh Cách Đỉnh Chấn Cấn Tiệm Q/muội
Phong Lữ Tốn Đoài Hoán Tiết T/phu T/quá Ký tê Vị tế
Càn
G A B Đ M K C T N Q
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
Thông qua bảng biểu này, Whitebear sẽ nhận thấy:

- Điểm khởi nguyên bắt đầu từ Càn phối với can Giáp, sau sáu lần đếm 10, thì quẻ Càn gặp can Mậu, ứng với số 5 (5 - 10 Thổ).

- Tiếp theo, quẻ Càn gặp (phối) can Nhâm, ứng với số 9 (4 - 9 Kim)

- Tiếp theo, quẻ Càn vận hành hết 63 số, thì được phối với can Bính (3 - 8 Mộc)

- Tiếp theo, quẻ Càn vận hành hết 63 số, thì phối hợp với can Canh (2 - 7 Hỏa)

- Rồi trở lại điểm "khởi nguyên"

XÉT:

1. Trong 32 vòng thuộc "hư" (10) này, thấy rõ được tại sao phải là 5 vòng (thực)

2. Quy luật chu kỳ 5 này, tại sao lại được phối và định danh là "Ngũ hành", xin để ở một chủ đề riêng.

3. Trở về với điểm "Khởi nguyên", thì 64 quẻ Dịch mà quẻ Càn thống lĩnh dẫn đầu, sẽ gồm 1920 hào

4. Số 1920 hào được phối hợp với "Trụ" (Khôn - đất), (mà không phải là Vũ) được số quy luật chu kỳ là 6. Cho nên ta được 1920 x 6 = 11520. Đây là điều mà Hệ từ nói, đó là số sinh của vạn vận vật trong trời đất vậy.

5. Sự vận hành trong Đại tự nhiên, khi được ví với số 1 quẻ Càn thống lĩnh, sẽ vận hành theo quy luật chu kỳ 1 - 5 - 9 - 3 - 7, rồi lại trở về 1. Khi phối hợp với "chữ", đó là những điều mà Thái ất nói: Đại vận Giáp Tý, Mậu Tý, Nhâm Tý, Bính Tý, Canh tý (G - M - N - B - C) => (Mộc - Thổ - Thủy - Hỏa - Kim)

6. Whitebear có đặt câu hỏi tại sao 10 lần đếm thứ nhất, được gọi là lẻ, là số cơ, là dương. Mười lần đếm thứ hai thì được gọi là chẵn, là số ngẫu không ? Con người ta được Đại tự nhiên cấu thành, chẳng có cái gì được gọi là thừa cả. Đến như trước đây, "ruột thừa" được định danh là "thừa", mà ngày nay những tiến bộ khoa học đã chỉ rõ là không thừa.

Vậy thì trong Phệ pháp về số đếm cỏ thi, Thiệu Ung đã phát triển những con số "thừa" này khi chia cho quy luật chu kỳ 8, được một lần 8, coi là số lẻ, thì xét nguyên nhân từ hào dương (dịch phản). Hai lần đếm của 8, thì gọi là chẵn, thì xét nguyên nhân từ hào âm. Ví dụ, như được số 17, là hai lần đếm của 8 dư 1, thì trong Thiết bản thần số, Thiệu Ung đã chỉ rõ, nguyên nhân từ âm, mặc dù là động hào 5 (trong sách Mai hoa, điều này không được nhắc tới, có thể lỗi do nhà xuất bản, hoặc là sự cố tình muốn dấu đi). Lại ví như được số 41, là 5 lần đếm của 8 dư 1 động hào 6, thì việc đầu tiên là phải tìm hiểu nguyên nhân, được gọi là Dịch phản, đó là nguyên nhân ở hào dương trong quẻ, vì là số lần đếm là 5, là số "Tam cơ" vậy.

Đây nói về "Xin lời khuyên" thứ nhất vậy.

Lời "khuyên thứ hai" chúng ta sẽ bàn về: thế nào thì được gọi là "thần số" (Thái ất thần số, Thiết bản thần số, v.v...)


Hà Uyên

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 09:43, 18/02/11
gửi bởi Hà Uyên
Chào Whitebear

Một số khái niệm, khi đọc về sách Dịch nên biết, Tôi đọc giúp hộ Whitebear:

Trương Tải (1020-1077) là triết gia thời Bắc Tống, Ông sáng lập ra học phái Quan học, với tư tưởng Khí là bản thể của vũ trụ, xây dựng logic kết cấu Khí nhất nguyên luận, ông cho rằng: Thái hư vô hình là trạng thái bản nhiên (vốn có) của Khí, Khí là nguồn gốc và quá trình biến hóa của muôn vật trong vũ trụ. Khí với hư, hữu với vô, âm với dương, coi Khí hóa là Đạo, Đạo với Lý gắn bó chặt chẽ với nhau, quan điểm Lý khách thể thật rõ ràng.

Âm dương là thuộc tính của Khí

Trương Tải cho rằng, mâu thuẫn tồn tại trong nội bộ của sự vật là căn nguyên làm cho sự vật chuyển động. Khí âm dương cảm ứng nhau, biến hóa co dãn không ngừng, sự chuyển động này ở trong nó hàm chứa biến hóa, là tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Sự biến hóa đó gọi là "Thần", có nghĩa là biến hóa thần diệu khôn lường. Khí âm và Khí dương tác động lẫn nhau là căn nguyên của mọi biến hóa. Như vậy, sự biến hóa tồn tại trong cả âm lẫn dương, tồn tại ngay trong cả động và tĩnh, tồn tại trong cả thực và hư; đó là thuộc tính cố hữu của Khí, thuộc tính này được bộc lộ ra muôn vàn sự vật cụ thể, Khí chỉ là một mà biến hóa của Khí có nhiều vẻ khác nhau. Khí là bản nguyên của "vô" và sự vật, Khí là một, bản nguyên của vô vàn sự vật cũng chỉ là một. Nhưng nhất Khí phân chia âm dương, âm dương đối lập thể hiện trong muôn vàn sự khác biệt. Cho nên, Trương Tải đề xuất quan điểm biện chứng "nhất vật lưỡng thể".

Hoàng cừ dịch thuyết - Hệ từ hạ viết: "Khí Thái hư là một vật có âm có dương, nhưng lại có lưỡng thể thuận trong sự thống nhất" (Thái hư chi Khí, âm dương nhất vật dã, nhiên hữu lưỡng thể kiện thuận nhi dĩ). Khí Thái hư là một, Khí có âm có dương, đó là hai. Hai tồn tại trong cái một, biểu hiện thành hai mặt đối lập, "nhất" (một) là chỉ sự thống nhất của hai mặt đối lập.

Khí là bản nguyên của vũ trụ, là sự đối lập thống nhất của âm dương. Nếu không có đối lập sẽ không có thống nhất. Nếu không thống nhất thì không có đối lập, "nhất" và "lưỡng" cùng dựa vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau, muôn vật trong trời đất giao cảm cùng biến hóa, sinh sôi và phát triển. Hoành cừ dịch thuyết - Thuyết quẻ viết: "Nhất vật lưỡng thể" là quy luật phổ biến trong vũ trụ, tất cả mọi sự vật đều tồn tại hai mặt vừa đối lập vừa thống nhất. "Nhất" đó là "Thần"; "lưỡng" nghĩa là biến hóa khôn lường, có "lưỡng" cho nên tự nó biến hóa phát triển cái "nhất", có nghĩa là trời cùng tham dự trong quá trình biến hóa".

Hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục là biểu hiện cụ thể của hai mặt đối lập, cũng là nội hàm cụ thể của nhất Khí âm dương, hai mặt đối lập âm dương cùng hợp thành thể thống nhất của Khí, chúng là căn nguyên của mọi biến hóa chứa đựng trong sự chuyển động, đồng thời mọi vật cũng được sinh ra trong quá trình biến hóa đó. Trương Tải viết: "Nếu không có hai mặt đối lập thì không thấy sự thống nhất, nếu không thấy sự thống nhất thì không có sự sống của hai mặt đối lập. Biểu hiện của lưỡng thể trong sự thống nhất hư thực, động tĩnh, tụ tản, trong đục" (Lưỡng bất lập tắc nhất bất khả biến, nhất bất khả biến tắc lưỡng chi dụng tức. Lưỡng thể giả, hư thực dã, động tĩnh dã, tụ tán dã, thanh trọc dã, kỳ cứu nhân chi dĩ).

"Khí có âm dương, chuyển động dần đó là biến hóa, hợp nhất khôn lường thì gọi là thần" (Khí hữu âm dương, thôi hành hữu tiệm vi hóa, hợp nhất bất trắc vi thần). Trong quá trình chuyển động biến hóa, "có biến thì có tượng" (hữu biến tắc hữu tượng).

Hoành cừ dịch thuyết - Hệ từ thượng viết: "Trời chuyển động nhất Khí làm cho muôn vật sinh sôi". Khí chuyển động sinh ra muôn vật, mặt khác, muôn vật là thể vật chất chứa đựng quá trình chuyển động. Quá trình biến hóa được chia làm hai giai đoạn: biến hóa dần dần và biến hóa rõ rệt: "Biến là mô tả sự chuyển hóa rõ rệt, hóa là mô tả sự chuyển hóa dần dần". Cái bên ngoài thực hữu thấy được, thì đó là sự biến; cái bên trong thực có mà không thấy được sự chuyển hóa dần dần, đó là sự hóa. Nên nói: "trong hóa ngoài biến, trong chậm ngoài nhanh, trong âm ngoài dương, trong hư ngoài thực". Trương Tải cho rằng, sự vật chuyển hóa dần dần, để đạt tới chuyển hóa nhanh rõ rệt. Biến và Hóa chuyển hóa lẫn nhau. Chính mông - Thần hóa viết: "Biến chuyển lên hóa, chuyển từ thô đến tinh. Hóa để mà sắp xếp, chọn lọc thì gọi là biến, biến rõ rệt tinh tế" (Biến tắc hóa, dẫn thô nhập tinh dã. Hóa nhi tài chi vị chi biến, dĩ trữ hiển vi dã). Tư tưởng nhận thức về quá trình biến hóa trong chuyển động của vạn vật thật sâu sắc !

Hoành cừ dịch thuyết - Thượng kinh Quan viết: "Có âm dương thì nhất định chúng cảm ứng nhau. Vậy, cảm ứng của trời có liên quan gì đến tư duy ? Đó là tự nhiên". Cảm ứng nghĩa là ảnh hưởng lẫn nhau, tác động lẫn nhau, có khác nhau thì có cảm ứng, những điều này đã xác định mối liên hệ giữa các sự vật với nhau, khi có cảm ứng âm dương. Sự cảm ứng âm dương phát sinh một cách tự nhiên, không liên quan đến tư duy của con người. Chính mông - Càn xưng viết: "Muôn vật vốn có cùng một nguồn gốc, cho nên một gốc có thể gắn hợp những mặt khác nhau, hiện tượng có gọi là cảm, âm dương cảm ứng lẫn nhau, vì chúng có cùng một nguồn gốc. Muôn vật do trời đất sinh ra, tuy chúng thụ Khí khác nhau nhưng đều luôn cảm ứng lẫn nhau".

"Ham muốn của con người giảm đi theo tuổi già, đấy là sự việc cảm ứng nhau. Cảm cũng như ảnh hưởng, không có lặp lại trước sau, có chuyển động là có cảm ứng, tất cả mọi cảm đều ứng, vậy nói mọi cảm ứng đều diễn ra nhanh chóng". Muôn vật trong vũ trụ cảm ứng lẫn nhau, bất kể cùng loại hay khác loại, sự vật của thế giới tự nhiên hay của xã hội loài người, chúng đều cảm ứng có mối liên hệ với nhau một cách phổ biến; đó là quy luật phổ biến của vũ trụ.

Trương Tải trình bày mô thức tồn tại "nhất vật lưỡng thể", khẳng định Khí âm dương cảm ứng lẫn nhau, và chuyển động biến hóa cấu tạo nên Khí hóa lưu hành. Nguyên nhân làm cho sự vật chuyển động biến hóa là nội lực bản thân của sự vật. Chính mông - tham lưỡng viết: "Tất cả mọi chuyển động quay tròn nhất định phải có động cơ, đã gọi là động cơ thì không thể từ bên ngoài đưa tới". Động cơ, đó chính là tác động tương hỗ của nhị Khí âm dương. Biến hóa vô cùng tận của Khí âm dương thúc đẩy cả vũ trụ biến hóa.

Mối liên hệ giữa Thái hư với Khí, chỉ rõ Thái hư là trạng thái vô hình và bản nhiên của Khí, Khí là bản thể của vũ trụ, Khí có thuộc tính tương phản: hữu vô, hư thực, ẩn hiện. Khí âm dương tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vật chất không ngừng chuyển động và biến hóa. Đối với Trương Tải, Khí là phạm trù cao nhất. Mệnh đề Khí có âm dương, nhất vật lưỡng thể, có ảnh hưởng sâu rộng với hậu thế. Ông nói: "Rất khó nhận ra đâu là mối tiếp giáp cái hữu với cái vô; tiếp giáp hữu hình với vô hình. Cần hiểu là Khí bắt đầu từ đây, thì Khí kiêm cả hữu và vô, vô thì Khí sinh ra một cách tự nhiên, sự sống của Khí tức là Đạo là Dịch".

Khí năng nhất hữu vô. Hữu sinh hình, vô sinh dụng.
(Cái vô ở trong cái cốc uống nước sinh ra tác dụng)


Hà Uyên

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 10:02, 18/02/11
gửi bởi Hà Uyên
Whitebear tham khảo thêm bài soạn này:

Khí âm dương trung hòa
Đổng Trọng Thư 179 - 104 Tr.CN, xuất phát từ quan niệm cơ bản của thiên nhân cảm ứng, mà tổng hợp các hình thái tư tưởng thiên mệnh, tư tưởng âm dương ngũ hành, có từ thời Ân Chu, tư tưởng Khổng Mạnh của Nho gia, và Sấm vĩ học thời Tần Hán. Từ đó, hình thành tư tưởng Khí luận, với nội dung cơ bản là Khí âm dương trung hòa.
Xuân Thu phồn lộ - Vương đạo viết: "Nguyên nghĩa là nguyên thủy, nói cho đúng nghĩa là bản thủy. Đạo nghĩa là vương đạo. Vương nghĩa là bản thủy của con người. Vương chính thường thì nguyên khí hòa thuận, mưa thuận gió hòa, thấy cảnh trời đầy sao, rồng vàng giáng hạ, nếu vương bất chính thì trở trời thất thường".
Ngũ hành tương sinh viết: "Khí trời đất hợp lại thì là một, tách ra thành âm dương, phân chia thành bốn mùa và xếp theo ngũ hành. Theo loài theo nhóm để có những đặc tính khác nhau, đó là sự chi phối của khí âm dương mà xếp thành khí ngũ hành".
Tuần thiên chi đạo viết: "Xuân khí tạo sinh muôn vật xuất hiện. Hạ khí nuôi dưỡng muôn vật trưởng thành. Thu khí sát phạt muôn vật chết chóc. Đông khí co lại muôn vật ẩn tàng. Khí thiên địa là tinh, xuất nhập vô hình, vạn vật theo đó mà thích ứng".
Vương đạo thông tam viết: "Xuân khí ái, Hạ khí lạc, Thu khí nghiêm, Đông khí ai". Khí Xuân thì yêu, khí Hạ thì vui, khí Thu thì nghiêm, khí Đông thì buồn thương. Khí yêu giành cho sinh sôi, khí vui giành cho sự sinh dưỡng, khí nghiêm giành cho sự thành công, khí buồn thương giành cho tang thương. Đó là sắc thái của trời. Bởi vậy, mùa Xuân ấm áp do trời yêu thích mà để sinh sôi, mùa Hạ ấm nóng do trời vui để nuôi dưỡng, mùa Thu trong sáng do trời nghiêm để thành công, mùa Đông rét mướt do trời buồn thương để ẩn giấu. Khí Xuân Hạ tỏa ra dương khí để cho sự sinh. Khí Thu Đông tỏa ra âm khí để cho sự thành".
Hán thư - Đổng Trọng Thư - Âm dương nghĩa: viết: "Cái chính thường của thiên đạo là một âm một dương". Thiên đạo thường nhất bất biến biểu hiện rõ rệt nhất, là sự chuyển động biến đổi thịnh suy của khí âm dương hình thành bốn mùa, trong bốn mùa thì tình trạng của âm dương là khác nhau. Mùa Xuân Hạ dương khí dồi dào, là mùa sinh dưỡng muôn vật, cho nên muôn vật phồn thịnh, bởi vậy Xuân Hạ mang tính "nhân". Mùa Thu Đông khí âm dày đặc, đó là mùa muôn vật thành rồi tàn lụi, thu vào, và cất giấu, bởi vậy Thu Đông mang tính hình sát - phản lại là "nghĩa".
Dương khí thì ấm áp, âm khí thì mát lạnh. Dương khí thì cho đi, âm khí thì nhận về. Dương khí thì khoan dung, âm khí thì nghiêm ngặt. Dương khí thể hiện tính nhân đức, âm khí thể hiện sự quái gở. Dương khí thể hiện sự yêu thích, âm khí biểu hiện sự ghét bỏ. Dương khí mang thuộc tính đạo đức. Dương tôn âm ty viết: "dương vi đức, âm vi hình. Dương, thiên vi đức, Âm, thiên vi hình dã".
Dương tôn Âm ty viết: "Dương khí xuất phát phía ở Đông Bắc, nhập vào ở phía Tây Bắc, khởi lên trong tháng Giêng, đến tháng Mười thì ngừng phát triển. Đâu đâu cũng vậy, khi cái dương khởi phát thì muôn vật bắt đầu sinh, dương khí phồn thịnh thì muôn vật theo mà phồn thịnh, dương khí bắt đầu suy thì mọi vật lụi tàn. Muôn vật đều chuyển động theo cái dương một cách thủy chung, chính khí của Tam vương trời đất người đều theo cái dương mà vươn dậy. Vì thế mà cái dương được tôn quý, cái âm bị coi thường".
Xét, Dương hành theo chiều thuận, Âm hành theo chiều nghịch. Hành theo chiều ngược mà lại là thuận, hành theo chiều thuận mà lại là nghịch, đó là Âm khí. Bởi vậy, trời phú cho khí âm cái "quyền" (lực), phú cho khí dương cái "kinh" (quyền quản lý). Dương khí thiên về hướng Nam, Âm khí thiên về hướng Bắc. "Kinh" (quyền quản lý) có tác dụng cho lúc thịnh vượng, còn "quyền" (lực) thì có tác dụng cho giai đoạn cuối. Từ đó thấy được Trời làm nổi bật cái "kinh" mà ẩn dấu cái "quyền", và trời dùng đức trước dùng hình (hình phạt)".
Khí dương thường ở vị trí "thực", mà vận hành ở thời thịnh vượng. Khí âm thường ở vị trí "hư", mà vận hành ở giai đoạn gần cuối. Điều đó tỏ rõ trời yêu nhân đức mà gần gũi chúng, ghét bỏ ác nghiệt mà xa rời nó. Trời cần cái đức lớn mà ít khi phải sử dụng hình phạt, trước hết phải thực hiện chỉnh đốn quản lý (kinh), sau đó mới thực thi quyền lực, tôn quý cái dương, coi nhẹ cái âm.
Như thiên chi vi viết: "Khí âm dương ở trời cũng có ngay trong con người. Biểu hiện của nó ở con người là cảm xúc: yêu thích, vui sướng, ghét bỏ, tức giận; biểu hiện ở trời là tiết trời: ấm áp, nóng nực, mát mẻ, lạnh lẽo. Đó là bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông".
Nhân phó thiên số viết: "Khí bốn mùa mang đặc tính của khí âm dương theo mùa, con người cũng mang đặc tính âm dương". Đặc tính âm dương ở con người được biểu hiện ở hai mặt: một là, cấu trúc cơ thể con người phân chia theo âm dương; hai là, tình cảm đạo đức con người cũng phân chia theo âm dương. Đặc tính Dương khí của mùa Xuân Hạ biểu hiện ở sự "bác ái mà dung chúng", "thịnh dưỡng mà lạc (vui) sinh". Đặc tính Âm khí của mùa Thu Đông là "Lập nghiêm mà thành công", "Ai tử (buồn chết) mà tang tóc". Khí âm dương chi phối những diễn biến đó, bởi vì thiên nhân hợp làm một, trời và con người cảm ứng nhau.
Thiên biện nhân tại viết: "Nếu con người không có xuân Khí, thì làm gì có bác ái và bao dung ? Nếu con người không có thu Khí, thì làm sao để lập nghiệp mà thành công ? Nếu con người không có hạ Khí, thì lấy gì để thịnh dưỡng mà vui với sự sống ? Nếu con người không có đông Khí thì làm gì có buồn chết và tang tóc ? Nếu trời không có hỷ khí (khí vui tươi) thì lấy đâu ra hơi ấm của mùa Xuân mà sinh dục ? Nếu trời không có nộ khí (khí tức giận) thì làm gì có mùa Thu mát mẻ mà lụi tàn ? Nếu trời không có lạc khí (sướng vui) thì làm gì có ánh dương dồi dào mùa Hạ mà trường dưỡng ? Nếu trời không có ai khí (xót thương) thì lý gì để kích thích cái âm có mùa Đông giấu kín ? Đó là cách nói hợp loại vậy".
Vương đạo thông tam viết: "Hỷ khí ấm áp coi là mùa Xuân (vui). Nộ khí thanh trong được coi là mùa Thu (cáu giận). Lạc khí được coi là thái dương mùa Hạ (sung sướng). Ai khí được coi là thái âm mùa Đông (buồn thương). Trời và con người cùng có bốn thứ khí đó, nhưng con người không thể làm ra nó, chỉ có thể điều tiết nó mà không thể chấm dứt nó".
Xu thế biến hóa của khí âm dương đều hướng tới mức "trung hòa". Âm Dương trung hòa là trạng thái chu chuyển tốt nhất, đó là đạo lý thiên địa nhân. Tuần thiên chi đạo viết: "Trung là thái cực của trời đất, là nơi tận cùng của nhật nguyệt. Sự đổi thay dài ngắn đều không vượt ra ngoài phép tắc, quy chế trung hòa của trời đất. Trung hòa với không trung hòa phản ảnh cái dụng ở mức công. Khí dương biểu hiện sự bao dung của trời. Khí âm biểu hiện sự mau mắn của trời. Dung là dụng của trời. Hòa là công của trời. Theo đạo của trời mà đạt được mức "hòa" một cách chuẩn mực nhất, thì mọi vật sinh sôi, nhờ Khí mà dưỡng dục" (Trung giả, thiên địa chi thái cực dã, nhật nguyệt chi sở chí nhi khước dã. Trường đoản chi long, bất đắc quá trung, thiên địa chi chế dã. Kiêm hòa giữ bất hòa, trung giữ bất trung, nhi thời dụng chi, tận dĩ vi công. Dương giả thiên chi khoan dã, hòa giả thiên chi công dã. Cử thiên địa chi đạo nhi mỹ vu hòa, thị cố vật sinh, giai quý Khí nhi nghênh dưỡng chi).
Trung hòa là cơ chế cố hữu của Khí âm dương, là nội dung căn bản của Đạo âm dương, của trời đất. Tuần thiên chi đạo viết: "Nếu không bắt đầu từ khí trung hòa thì không có sinh và phát triển. Nếu không có khí trung hòa thì không thể dưỡng dục và trưởng thành. Trưởng thành trong hòa Khí, sinh nở cũng cần có hòa Khí. Bắt đầu trong sự trung hòa thì kết thúc cũng trong sự trung hòa. 'Trung' quán xuyến từ đầu đến cuối của sự chuyển động trời đất, 'hòa' làm cho trời đất sinh sôi và trưởng thành. Cái đức không thể lớn hơn cái 'hòa', mà đạo không thể vượt quá sự 'trung' chính. 'Trung' là cái lý của trời đất đạt tới độ chuẩn mực mỹ mãn. Trung chính là điều mà Thánh nhân phải gìn giữ".
Sự biến hóa của thiên địa vạn vật và của xã hội loài người, nếu xuất hiện sự thiên lệch, thì tựu trung phải trở về với trung hòa. Mấu chốt của trung hòa lại là cái "hòa". Tuần thiên chi đạo viết: "Trung để mà đạt tới cái 'hòa', nên mới nói 'hòa' là điều trọng yếu của trung hòa. Hòa là sự chính thường của trời, là sự cân bằng của âm dương, trong đó Khí là thứ lành nhất, để sinh ra mọi vật. Hòa là món quà lớn nhất mà trời đất ban cho".
Mục đích của cái "trung" là phải đạt tới cái "hòa", nếu phá vỡ cái "hòa" thì tai họa ập đến. Tinh hoa viết: "Những nạn hạn hán lớn là do dương diệt âm. Những trận lụt lớn là do âm diệt dương".
Đổng Trọng Thư phân chia Nguyên khí thành ba loại: Khí âm dương, Khí thiên địa, Khí tứ thời. Tất cả ba loại Khí này, theo Đổng Trong Thư đề xuất, chính là vật chất bản thủy cấu tạo nên muôn vật.
Hà Uyên

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 15:36, 18/02/11
gửi bởi Cành cạch
Cám ơn bác Hà Uyên vì những chỉ dẫn.

@WB: trong đống sách download trên mạng của tôi có cuốn Hà Lạc Tinh Uẩn không rõ có phải của Giang Vĩnh không. file Pdf scan từ sách giấy, cũng khá nhiều trang, tiếng Trung. Sách này lấy về cùng với mấy cuốn khác nhưng không dùng .Cậu WB pm tôi địa chỉ email tôi sẽ gửi cho, có điều là bằng tiếng Trung :)

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 07:24, 19/02/11
gửi bởi Hà Uyên
Cảm ơn Cành Cạch.

Hà Uyên

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 06:59, 21/02/11
gửi bởi Whitebear
Cảm ơn bác Hà Uyên và mọi người rất nhiều. Chắc chắn là tôi sẽ còn có rất nhiều điều không hiểu để cần trao đổi.
Đây là cuốn Hà Lạc Tinh Uẩn, tôi muốn share cùng mọi người. Giá mà có ai dịch cuốn này ra tiếng việt thì tốt biết bao nhiêu.
http://dl.dropbox.com/u/6060867/Tuvi/Sa ... 0trung.pdf" target="_blank

TL: XIn lời khuyên về Thái Ất, Kỳ Môn, Lục Nhâm

Đã gửi: 21:55, 06/03/11
gửi bởi am_duongM
Tiếng Việt, có bản Lục Nhâm Đại Độn, bán ở ngoài phố NGuyễn Xí trộn bộ 2 tập, giá là 350k thì phải. Bộ này cũng đã có ebook (tuy tên tác giả khác, nhưng khi so sánh 2 bản thì gần như giống nhau tới 99,9999%, có 1 vài dòng khi in ra, vì vấn đề chính trị (theo cá nhân tôi), nên người ta xóa không in).
Anh WB có thể tự search và down vì tôi thấy ở site này đã có ng share rồi đó.