Trang 1 trên 9

Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 20:42, 26/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:11, 26/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
1. 乾 為 天 KIỀN VI THIÊN

BÁT THUẦN KIỀN

I. Thoán
Thoán Từ.
乾 . 元 亨 利 貞 .
Kiền. Nguyên hanh lợi trinh.
Dịch:
Kiền là cội gốc muôn loài.
Làm cho vạn vật tốt tươi mọi đường.
Làm cho lợi ích hanh xương.
Lại cho thành tựu vô cương mới là.
Thoán Truyện.
彖 曰 . 大 哉 乾 元 . 萬 物 資 始 . 乃 統 天 . 云 行 雨 施 . 品 物 流 形 . 大 明 始 終 .六 位 時 成 . 時 乘 六 龍 以 御 天 . 乾 道 變化 . 各 正 性 命 . 保 合 大 和 . 乃 利 貞 . 首 出 庶物 . 萬 國 咸 寧 .
Thoán viết. Đại tai Kiền nguyên. Vạn vật tư thủy. Nãi thống Thiên. Vân hành vũ thí. Phẩm vật lưu hình. Đại minh chung thủy. Lục vị thời thành. Thời thừa Lục long dĩ ngự thiên. Kiền Đạo biến hóa. Các chính tính mệnh. Bảo hợp Thái hoà. Nãi lợi trinh. Thủ xuất thứ vật. Vạn quốc hàm ninh.
Thoán viết:
Lớn thay là cái gốc trời!
Làm cho vạn vật, vạn loài sinh sôi
Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời.
Tóm thâu Thiên Đạo, khúc nhôi sinh thành.
Rồi ra vũ thí, vân hành,
Làm cho vạn vật hình thành đòi nơi.
Thánh Nhân thấu suốt đầu đuôi.
Biết sáu giai đoạn cơ trời biến thiên.
Thế là cưỡi sáu rồng thiêng,
Vượt muôn biến hóa, băng miền trời mây.
Cơ Trời biến hóa vần xoay,
Làm cho vạn vật thêm hay, thêm tình.
Kiện toàn tính mệnh của mình,
Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.
Thế là lợi ích không bờ.
Thế là vĩnh cửu, thế là lợi trinh.
Thánh nhân vượt trổi chúng sinh.
Làm cho muôn nước an bình khắp nơi.
II. Đại Tượng Truyện
象 曰 . 天 行 健 . 君 子 以 自 疆 不 息 .
Tượng viết: Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức.
Tượng rằng:
Trời cao mạnh mẽ xoay vần.
Nên người quân tử quyết tâm tự cường.
Không hề ngưng nghỉ triển dương . . .
III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện
1. Hào Sơ Cửu.
初 九 . 潛 龍 . 勿 用 .
象 曰 . 潛 龍 勿 用 . 陽 在 下 也 .
Sơ Cửu. Tiềm long vật dụng.
Tượng viết.
Tiềm long vật dụng. Dương tại hạ dã.
Dịch:
Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng.
Tượng rằng: Rồng ẩn chớ dùng.
Là vì Dương hãy còn nằm dưới Sơ.
2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 見 龍 在田 . 利 見 大 人 .
象 曰. 見 龍 在 田 . 德 施 普 也

Cửu nhị. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân.
Tượng viết.
Hiện long tại điền. Đức thi phổ dã.
Dịch:
Rồng hiện trong đồng.
Nếu mà gặp đấng Cửu trùng thời hay
Tượng rằng: Rồng hiện trong đồng
Thi ân, bá đức, xa gần đã hay.
3. Hào Cửu tam.
九 三 . 君 子 終 日 乾 乾 . 夕 惕 若 . 厲 無 咎 .
象 曰 . 終 日 乾 乾 . 反 復 道 也 .
Cửu tam. Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ. Vô cữu.
Tượng viết.
Chung nhật kiền kiền. Phản phục Đạo dã.
Dịch:
Suốt ngày quân tử lo toan,
Chiều buông, dạ vẫn bàng hoàng chửa yên.
Sự đời nguy hiểm tần phiền.
Nhưng ta trọn Đạo một niềm lỗi chi?
Tượng rằng: Suốt buổi lo toan,
Ấy là đắp đổi sớm hôm Đạo trời.
4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 或 躍 在 淵 . 無 咎 .
象 曰 . 或 躍 在 淵 . 進 無 咎 也 .
Cửu tứ. Hoặc dược tại uyên. Vô cữu.
Tượng viết.
Hoặc dược tại uyên. Tiến vô cữu dã.
Dịch:
Vẫy vùng trong chốn vực sâu.
Vực sâu vùng vẫy, có đâu lỗi lầm.
Tượng rằng: Vùng vẫy vực sâu.
Tiến lên nào có lỗi đâu cho mình.
5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 飛 龍 在 天 . 利 見 大 人 .
象 曰 . 飛 龍 在 天 . 大 人 造 也 .
Cửu ngũ. Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân.
Tượng viết.
Phi long tại thiên. Đại nhân tạo dã.
Dịch:
Rồng bay, bay bổng trên trời,
Đại nhân gặp được nữa thời càng hay.
Tượng rằng:
Rồng bay, bay bổng khung trời,
Đại nhân đang độ trổ tài kinh luân.
6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 亢 龍 有 悔 .
象 曰 . 亢 龍 有 悔 . 盈 不 可 久 也 .
Thượng Cửu. Kháng long hữu hối.
Tượng viết.
Kháng long hữu hối. Doanh bất khả cửu dã.
Dịch:
Rồng bay quá trớn chẳng hay.
Rồng bay quá trớn, có ngày ăn năn.
Tượng rằng: Rồng bay quá trớn ăn năn,
Đầy rồi, sao có khả năng cửu trường?
7. Hào Dụng Cửu.
用 九 . 見 群 龍 無 首 . 吉 .
象 曰 . 用 九 . 天 德 不 可 為 首 也 .
Dụng Cửu. Kiến quần long vô thủ. Cát.
Tượng viết.
Dụng Cửu. Thiên đức bất khả vi thủ dã.
Dịch:
Đàn rồng chẳng có con đầu,
Sự tình đến thế, thời âu tốt lành.
Tượng rằng:
Rồng bay chẳng có con đầu,
Thế là thiên đức bằng nhau còn gì!
IV. VĂN NGÔN
I. VĂN NGÔN bình giải Thoán Từ, Thoán Truyện
A. Thoán Từ
文 言 曰 . 元 者 . 善 之 長 也 . 亨 者 . 嘉 之 會 也 . 利 者 . 義 之 和 也 . 貞 者 . 事 之 榦 也 . 君 子 體 仁 . 足 以 長 人 . 嘉 會 足 以 合 禮 . 利 物 足 以 和 義 . 貞 固 . 足 以榦 事 . 君 子 行 此 四 德 者. 故 曰 : 乾 元 亨 利 貞 .
Văn Ngôn viết. Nguyên giả. Thiện chi trưởng dã. Hanh giả. Gia chi mỹ dã. Lợi giả. Nghĩa chi hòa dã. Trinh giả. Sự chi cán dã. Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân. Gia hội túc dĩ hợp lễ. Lợi vật túc dĩ hòa nghĩa. Trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử tứ đức giả. Cố viết. Kiền. Nguyên. Hanh. Lợi. Trinh.
Dịch:
1. Nguyên là tốt nhất trần ai.
Hanh là muôn vẻ đẹp tươi hội về
Lợi là nghĩa lý đề huề
Trinh là gốc gác mọi bề ở ăn.
2. Mới hay quân tử thể nhân,
Tinh tuyền đức hạnh, xa gần phục theo.
Hành vi đẹp đẽ mọi chiều,
Hợp theo nghi lễ, chẳng điều sai ngoa,
Làm cho lợi ích gần xa,
Theo đường nghĩa lý, hợp hòa dưới trên.
Một lòng cương quyết vững bền.
Việc gì cũng sẽ chu tuyền công lao.
3. Giữ tròn tứ đức trước sau,
Đã là quân tử gót đầu chẳng quên.
Thế là đức hạnh tinh tuyền.
Càn, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh đem thực hành.
B. Thoán Truyện
乾 始 能 以 美 利 利 天 下,不 言 所 利。大 矣 哉!大 哉 乾 乎?剛 健 中 正,純 粹 精 也。六 爻 發 揮,旁 通 情 也。時 乘 六 龍 以 御 天 也。雲 行 雨 施,天 下 平 也。
Kiền nguyên giả. Thủy nhi hanh giả dã. Lợi trinh giả. Tính tình dã. Kiền thủy năng dĩ mỹ lợi thiên hạ. Bất ngôn sở lợi. Đại hỹ tai. Đại tai kiền hồ. Cương kiện trung chính. Thuần túy tinh dã. Lục Hào phát huy. Bàng thông tình dã. Thời thừa Lục long dĩ ngự thiên dã. Vân hành vũ thí. Thiên hạ bình dã.
Dịch:
1. Càn là cội rễ mối manh,
Đã sinh rồi lại tác thành quần sinh.
Làm cho vạn vật xương vinh,
Làm cho vạn vật tính tình thoả thuê.
Được hay, được lợi mọi bề,
Lại cho Trường Cửu, chẳng hề đơn sai.
Sinh rồi cho đẹp, cho lời.
Làm lời thiên hạ, không nhời khoe khoang.
Thật là cao đại muôn vàn.
2. Đạo trời trọng đại xiết bao!
Cương cường, trung chính, bề nào cũng hay
Tinh toàn, hoàn thiện xưa nay,
Tinh hoa thuần túy, ai tầy ai đương.
3. Sáu Hào lần lượt hiển dương.
Nào tình, nào ý, tận tường vân vi.
4. Tùy thời biến ảo, suy di.
Sáu rồng lần cưỡi đi về trời mây.
Mưa rơi, thôi lại mây bay,
Làm cho vạn vật, đó đây thái bình.

II. Văn Ngôn bình giải các Hào
1. Hào Sơ Cửu.
a) 初 九 曰: 「潛龍 勿 用。」何 謂 也?
子 曰: 「龍 德 而 隱 者 也。不 易 乎 世,不 成 乎 名 。
遯 世 無 悶, 不 見 是 而 無 悶。 樂 則 行 之,
憂 則 違 之。確 乎 其 不 可 拔,乾 龍 也。」
Sơ Cửu viết. Tiềm long vật dụng hà vị dã?
Tử viết. Long đức nhi ẩn giả dã. Bất dịch hồ thế. Bất thành hồ danh. Độn thế vô muộn. Bất kiến thị nhi vô muộn. Lạc tắc hành chi. Ưu tắc vi chi. Xác hồ kỳ bất khả bạt. Tiềm long dã.
Dịch:
a)- Sơ rằng: Rồng ẩn chớ dùng,
Tại sao rồng ẩn, chẳng ưng thi tài?
Đức Khổng đáp:
Đức cao mà lại ẩn mình,
Đời thay, mình vẫn là mình chẳng thay.
Tiếng tăm chẳng bợn mảy may.
Đời không biết tiếng, mà nay chẳng buồn,
Chẳng cầu danh vọng trần hoàn,
Gặp thời, Đạo lý âu mang thi hành,
Thời cơ chẳng thuận cho mình,
Âu cùng Đạo lý mai danh ẩn tàng.
Luôn luôn khí phách đường hoàng;
Chẳng gì khuynh đảo tâm xoang của người.
Ấy là rồng ẩn trong đời.
b) 乾 龍 勿 用,下 也。
Tiềm long vật dụng hạ dã.
Dịch:
Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng,
Rồng còn ở dưới, vẫy vùng chửa nên.
c) 乾 龍 勿 用,陽 氣 潛 藏。
Tiềm long vật dụng. Dương khí tiềm tàng.
Dịch:
Rồng còn tiềm ẩn chớ dùng,
Là vì Dương khí còn trong tiềm tàng.
d) 君 子 以 成 德 為 行,日 可 見 之 行 也。潛 之 為 言 也,隱 而 未 見,行 未 成,是 以 君 子 弗 用 也。
Quân tử dĩ thành đức vi hành. Nhật khả kiến chi hành dã. Tiềm chi vi ngôn dã. Ẩn nhi vị hiện. Hành nhi vị thành. Thị dĩ quân tử phất dụng dã.
Dịch:
Thuận theo Thiên đức thi hành.
Hàng ngày quân tử đinh ninh chẳng rời.
Tiềm tàng là lánh truyện đời;
Khi mà công việc đang thời dở dang.
Vậy nên quân tử chưa làm.
Khi chưa gặp vận, tiềm tàng là hay.
2. Hào Cửu nhị.
a) 九 二 曰: 「見 龍 在 田,利 見 大 人。」何 謂 也?
子 曰: 「龍 德 而 正 中 者 也。庸 言 之 信,庸 行 之 謹,
閑 邪 存 其 誠,善 世 而 不 伐,德 博 而 化。
易 曰:「見 龍 在 田,利 見 大 人。」君 德 也。」
Cửu nhị viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân hà vị dã. Tử viết. Long đức nhi chính trung giả dã. Dung ngôn chi tín. Dung hạnh chi cẩn. Nhàn tà tồn kỳ thành. Thiện thế nhi bất phạt. Đức bác nhi hóa.
Dịch viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân. Quân đức dã.
Dịch:
Hào hai rồng hiện trong đồng,
Nếu mà gặp đấng Cửu trùng thời hay.
Nghĩa là làm sao?
Đức Khổng đáp:
Thế là đức hạnh cao dầy
Lại thêm trung chính, thẳng ngay, hoàn toàn.
Nói ra lời đã đủ tin.
Việc làm thường nhật trang nghiêm, hẳn hòi.
Thấy điều tà khuất xa rời,
Cố công giữ vẹn tính Trời mới nghe.
Chỉnh trang thời thế, chẳng khoe,
Đức nhân cảm hóa mọi bề gần xa.
Dịch rằng: đồng ruộng rồng ra,
Đại nhân nếu gặp thật là mắn may.
Đại nhân nói tới nơi đây,
Chính là Thiên tử, đấng thay quyền trời.
b) 見 龍 在 田,時 舍 也。
Hiện long tại điền. Thời xả dã.
Dịch:
Hào hai rồng hiện trong đồng,
Ấy là thời thế chưa dùng người nhân.
c) 見 龍 在 田,天 下 文 明。
Hiện long tại điền. Thiên hạ văn minh.
Dịch:
Hào hai rồng hiện trong đồng,
Thế gian nhờ đó tưng bừng văn minh.
d) 君 子 學 以 聚 之,問 以 辯 之,寬 以 居 之,仁 以 行 之。
易 曰: 「見 龍 在 田,利 見 大 人。」君 德 也。
Quân tử học dĩ tụ chi. Vấn dĩ biện chi. Khoan dĩ cư chi. Nhân dĩ hành chi.
Dịch viết. Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân. Quân đức dã.
Dịch:
Học hành quân tử lo toan,
Học hành cốt để vẹn toàn kiến văn.
Hỏi han rành rẽ, biện phân.
Bao dung, khoáng đạt, đức nhân huy hoàng.
Dịch rằng: rồng hiện trong đồng,
Nếu mà gặp được Cửu trùng thời hay,
Đại nhân nói tới nơi đây,
Ấy là Thiên tử, đấng thay quyền Trời.
3. Hào Cửu tam.
a) 九 三 曰: 「君 子 終 日 乾 乾,夕 惕,若 厲,無 咎。」何 謂 也?
子 曰: 「君 子 進 德 修 業,忠 信,所 以 進 德 也。修 辭 立 其 誠,
所 以 居 業 也。知 至 至 之,可 與 幾 也。知 終 終 之,
可 與 存 義 也。是 故,居 上 位 而 不 驕,
在 下 位 而 不 憂。故 乾 乾 因 其 時 而 惕,
雖 危 而 無 咎 矣。」
Cửu tam viết. Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ vô cữu. Hà vị dã?
Tử viết. Quân tử tiến đức tu nghiệp. Trung tín. Sở dĩ tiến đức dã. Tu từ lập kỳ thành. Sở dĩ cư nghiệp dã. Tri chí chí chi. Khả dữ cơ dã. Tri chung chung chi. Khả dữ tồn nghĩa dã. Thị cố cư thượng vị nhi bất kiêu. Tại hạ vị nhi bất ưu. Cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch. Tuy nguy vô cữu hĩ.
Dịch:
Suốt ngày quân tử lo toan,
Chiều buông, dạ vẫn bàng hoàng chửa yên.
Sự đời nguy hiểm, tần phiền,
Nhưng ta trọn Đạo một niềm, lỗi chi?
Thế nghĩa là làm sao?
Đức Khổng đáp:
Đức mình, quân tử trau dồi,
Đồng thời sự nghiệp, chẳng ngơi kiện toàn,
Muốn cho đức cả huy hoàng,
Một niềm trung tín, sắt son ai tầy,
Sửa sang lời nói cho ngay,
Nói lời thành tín, nghiệp xây vững bền.
Biết nơi phải đến, đến liền,
Thế là biết được cơ duyên ở đời.
Biết tìm chung cuộc hẳn hoi,
Thấy rồi thực hiện, lẽ Trời đành hay.
Cho nên quân tử xưa rầy,
Cao không ngạo nghễ, thấp nay chẳng buồn.
Những là hoạt động, lo toan,
Tùy thời, xử thế, khôn ngoan đề phòng.
Lâm nguy, vẫn vẹn tác phong,
Không hề lầm lỗi, ai hòng cười chê.
b) 終 日 乾 乾,行 事 也 。
Chung nhật kiền kiền. Hành sự dã.
Dịch:
Suốt ngày lo lắng, tính toan,
Ấy là sốc vác, lam làm liên canh.
c) 終 日 乾 乾,與 時 偕 行。
Chung nhật kiền kiền. Dữ thời giai hành.
Dịch:
Suốt ngày lo lắng, tính toan,
Thế là theo nhịp thời gian tiến dần.
d) 九 三: 重 剛 而 不 中,上 不 在 天,下 不 在 田。
故 乾 乾 因 其 時 而 惕,雖 危 無 咎 矣。
Cửu tam. Trùng cương nhi bất trung. Thượng bất tại thiên. Hạ bất tại điền. Cố kiền kiền nhân kỳ thời nhi dịch. Tuy nguy vô cữu hĩ.
Dịch:
Cửu tam: Cương cường, nhưng lại bất trung,
Cao không tới, thấp không thông, mới rầy.
Biết lo, biết lắng, mới hay,
Lo làm công chuyện, suốt ngày quản bao.
Dẫu nguy, nào lỗi chi nào,
Tuy rằng nguy hiểm, ai nào trách ta.
4. Hào Cửu tứ.
a) 九 四: 「或 躍 在 淵, 無 咎。」何 謂 也?
子 曰: 「上 下 無 常,非 為 邪 也。進 退 無 恆,非 離 群 也。
君 子 進 德 修 業,欲 及 時 也,故 無 咎。」
Cửu tứ. Hoặc dược tại uyên. Vô cữu. Hà vị dã.
Tử viết. Thượng hạ vô thường. Phi vi tà dã. Tiến thoái vô hằng. Phi ly quần dã. Quân tử tiến đức tu nghiệp. Dục cập thời dã. Cố vô cữu.
Dịch:
Vẫy vùng trong chốn vực sâu,
Vực sâu vùng vẫy, có đâu lỗi lầm?
Thế nghĩa là làm sao?
Đức Khổng đáp:
Sự đời lên, xuống bất kỳ,
Miễn sao tránh khỏi tà phi, được rồi.
Cũng khi tiến thoái, tùy thời,
Luôn luôn giữ vẹn tính Trời, mới hay.
Con người quân tử xưa nay,
Nghiệp tu, đức tiến, kịp ngay với đời.
Đã theo kịp được thời Trời,
Làm sao có thể lầm sai được nào?
b) 或 躍 在 淵,自 試 也。
Hoặc dược tại uyên. Tự thí dã.
Dịch:
Vẫy vùng ở chốn vực sâu,
Tự mình thử thách xem bao đức tài?
c) 或 躍 在 淵,乾 道 乃 革。
Hoặc dược tại uyên. Kiền Đạo nãi cách.
Dịch:
Vẫy vùng ở chốn vực sâu,
Ấy là Thiên Đạo có mầu đổi thay.
d) 九 四: 重 剛 而 不 中, 上 不 在 天,下 不 在 田,中 不 在 人,
故 或 之。或 之 者,疑 之 也,故 無 咎。
Cửu tứ. Trùng cương nhi bất trung. Thượng bắt tại thiên. Hạ bất tại điền. Trung bất tại nhân. Cố hoặc chi. Hoặc chi giả. Nghi chi dã. Cố vô cữu.
Dịch: Cửu tứ:
Trùng Cương mà lại bất trung,
Trên không thông, dưới không thông, mới rầy
Xa Trời, xa đất, xa người,
Cho nên trong dạ có bài nghi nan.
Đã nghi, thời sẽ khôn ngoan,
Khôn ngoan, nên thoát đa đoan, lỗi lầm.
5. Hào Cửu ngũ.
a) 九 五 曰:「飛 龍 在 天,利 見 大 人。」何 謂 也?
子 曰: 「同 聲 相 應,同 氣 相 求;水 流 濕,火 就 燥;雲 從 龍,
風 從 虎。聖 人 作,而 萬 物 睹,本 乎 天 者 親 上,
本 乎 地 者 親 下,則 各 從 其 類 也。
Cửu ngũ viết. Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân. Hà vị dã.
Tử viết. Đồng thanh tương ứng. Đồng khí tương cầu. Thủy lưu thấp. Hỏa tựu táo. Vân tòng long. Phong tòng hổ. Thánh Nhân tác nhi vạn vật đổ. Bản hồ thiên giả thân thượng. Bản hồ địa giả thân hạ. Tắc các tòng kỳ loại dã.
Dịch:
Rồng bay, bay bổng lưng trời,
Đại nhân gặp được, nữa thời càng hay.
Thế nghĩa là làm sao?
Đức Khổng đáp:
Dạy rằng đồng khí tương cầu,
Đồng thanh tương ứng, trước sau lẽ Trời.
Nước tìm chỗ ướt chẩy xuôi,
Lửa thời cao ráo, là nơi hướng về.
Mây theo rồng, mới thỏa thuê,
Gió theo được hổ, đề huề mới nên.
Thánh Nhân hoạt động chính chuyên,
Để cho vạn vật nhìn xem bấy chầy.
Gốc Trời hướng thượng xưa nay,
Gốc Đất hướng hạ, chẳng thay, chẳng rời.
Thế là loài lại theo loài,
Loài nào, loài ấy có sai bao giờ.
b) 飛 龍 在 天,上 治 也。
Phi long tại thiên. Thượng trị dã.
Dịch:
Rồng bay, bay bổng khung trời,
Thế là chính cách trị đời cao siêu.
c) 飛 龍 在 天,乃 位 乎 天 德
Phi long tại thiên. Nãi vị hồ thiên đức.
Dịch:
Rồng bay, bay bổng khung trời,
Thế là theo đúng đức trời ở ăn.
d) 夫 大 人 者,與 天 地 合 其 德,與 日 月 合 其 明,與 四 時 合 其 序,與 鬼 神 合 其 吉 凶。先 天 而 天 弗 違,後 天 而 奉 天 時。天 且弗 違,而 況 於 人 乎? 況 於 鬼 神 乎?
Phù đại nhân giả. Dữ thiên địa hợp kỳ đức. Dữ nhật nguyệt hợp kỳ minh. Dữ tứ thời hợp kỳ tự. Dữ quỷ thần hợp kỳ cát hung. Tiên thiên nhi thiên phất vi. Hậu thiên nhi phụng thiên thời. Thiên thả phất vi. Nhi huống ư nhân hồ. Huống ư quỉ thần hồ?
Dịch:
Đại nhân đức hạnh bao la,
Như Trời, như Đất cao xa muôn trùng.
Sáng như Nhật Nguyệt hai vừng,
Sống đời tiết tấu, hợp khung bốn mùa.
Những điều lành, dữ, ghét, ưa,
Quỷ thần đường lối đem so khác nào.
Trước Trời, Trời chẳng trách đâu,
Sau Trời, cho hợp cơ mầu thời gian.
Trời không trách cứ, phàn nàn,
Thời người còn dám than van, nỗi gì?
Trời, Người, chẳng trách, chẳng chê,
Quỷ thần âu cũng chẳng hề oán than.
6. Hào Thượng Cửu.
a) 上 九 曰:「亢 龍 有 悔。」何 謂 也?
子 曰:「貴 而 無 位,高 而 無 民,賢 人 在 下 而 無 輔,是 以 動 而 有 悔 也。」
Thượng Cửu viết. Kháng long hữu hối. Hà vị dã?
Tử viết. Quí nhi vô vị. Cao nhi vô dân. Hiền nhân tại hạ vị nhi vô phụ. Thị dĩ động nhi hữu hối dã.
Dịch:
Rồng bay quá trớn ăn năn,
Câu này phải hiểu nghĩa rằng thế nao?
Tử rằng: Quí lại không ngôi,
Tuy cao mà chẳng có người, có dân.
Thiếu người phù ủng, đỡ dần,
Hiền nhân ở dưới, chẳng nâng đỡ người
Người mà như vậy, thời thôi,
Làm chi âu cũng có hồi ăn năn.
b) 亢 龍 有 悔,窮 之 災 也。
Kháng long hữu hối. Cùng chi tai dã.
Dịch:
Rồng bay quá trớn ăn năn,
Đến cùng, đến cực, đành rằng nguy tai.
c) 亢 龍 有 悔,與 時 偕 極。
Kháng long hữu hối. Dữ thời giai cực.
Dịch:
Rồng bay quá trớn ăn năn,
Những là hao kiệt tâm thân theo thời.
d) 亢 之 為 言 也,知 進 而 不 知 退 ,知 存 而 不 知 亡,知 得 而 不 知 喪。其 唯 聖 人 乎?知 進 退 存 亡,而 不 失 其 正 者,其 為 聖 人 乎?
Kháng chi vi ngôn dã. Tri tiến nhi bất tri thoái. Tri tồn nhi bất tri vong. Tri đắc nhi bất tri táng. Kỳ duy Thánh Nhân hồ! Tri tiến thoái tồn vong nhi bất thất kỳ chính giả. Kỳ duy Thánh Nhân hồ!
Dịch:
Rồng bay quá trớn hóa sui,
Ấy là biết tiến, mà lui chẳng tường
Chẳng hay sống, chết, đôi đường.
Sống thời biết sống, chết nhường chẳng hay.
Nguyên là muốn được mãi đây,
Chẳng bao giờ muốn có ngày mất đi.
Thánh Nhân riêng hiểu cơ vi,
Tồn vong, tiến thoái, minh tri cơ Trời.
Tiến lui, luôn hợp lẽ Trời,
Tới lui hợp lý, ai ngoài Thánh nhân?
7. Hào Dụng Cửu
a) 乾 元 用 九,天 下 治 也。
Kiền nguyên dụng Cửu. Thiên hạ trị dã.
Dịch:
Kiền nguyên biến hoá xong rồi,
Bấy giờ thiên hạ nơi nơi trị bình.
b) 乾 元 用 九,乃 見 天 則。
Kiền nguyên dụng Cửu. Nãi kiến thiên tắc.
Dịch:
Kiền nguyên biến hóa xong rồi,
Bấy giờ mới thấy Luật Trời hiện ra.
BÌNH GIẢNG

Muốn hiểu quẻ Kiền cũng như các quẻ Dịch sau này, trước hết phải hiểu bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh.
A. Ở các quẻ ngoài Kiền và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh được bình giảng như sau:
-Nguyên là lớn mạnh, hào hùng, cao đại.
-Hanh là thông suốt, chôi chẩy, không bị bế tắc.
-Lợi là lợi ích, hay thích nghi, thích đáng.
-Trinh là chính, là bền (Trinh cố, chính trực, bền vững) Chúng dạy ta bài học thực tế sau đây:
Ở đời muốn thoát khỏi mọi bế tắc, muốn lướt thắng được mọi trở lực, chúng ta phải lớn, phải mạnh. Muốn được lợi ích lâu bền, và đích thực, phải theo chính Đạo, Chính Lý.
B. Nhưng ở quẻ Kiền, và Khôn, thời Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh lại có nghĩa khác:
- Nguyên là nguyên thủy, căn do, gốc gác.
- Hanh là biến hoá, trường thịnh, hanh thông.
- Lợi là thoải mái, ích lợi.
- Trinh là thành đạt, bền vững, vĩnh cửu.
Tiên Nho thường dùng bốn chữ này, để mô tả bốn giai đoạn của cuộc Tiến Hoá quần sinh:
-Căn nguyên Trời làm cho vạn vật trổ sinh. (Nguyên)
- Nhờ căn nguyên ấy, nhờ nguồn sống vô biên ấy, vạn vật trở nên lớn mạnh, phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực. (Hanh)
- Nhờ vậy sẽ có những ứng dụng vô biên, và sẽ được thoải mái, thảnh thơi, toại ý.(Lợi)
- Cuối cùng sẽ đi đến chỗ thành tựu, đến chỗ hoàn thiện. (Trinh)
Như vậy chỉ dùng bốn chữ Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh mà vẽ được tất cả vòng biến thiên, tiến hoá của Trời Đất, từ lúc manh nha (Nguyên) cho đến lúc kết quả (Trinh)
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh ứng vào bốn mùa là Xuân, Hạ, Thu, Đông; ứng vào tiết tấu biến dịch là Sinh, Trưởng, Liễm, Tàng.
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh nơi con người ứng vào tứ đức Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí. Nói cách khác, Nguyên là Tận thiện, Hanh là Tận Mỹ, Lợi là Thái Hòa, Trinh là Hoàn Thiện
Nơi vũ trụ, thì vòng tiến hoá có chiều phóng xuất. Tiên Nho gọi là Xuất cơ, nó gồm Nguyên, Hanh. Và chiều Nhập cơ, nó gồm Lợi, Trinh.
Nơi con người, thì vòng Tiến Hoá bắt đầu từ căn bản con người, là Thiên Tâm (Nguyên), diễn biến dần dần qua các bình diện Tâm, Trí, Xác, Gia đình, Quốc gia, Xã hội, Hoàn cảnh, Vật Chất, để cuối cùng lại quay trở về các bình diện nội tâm, tình, tính, để cho con người nhập thần, đạt Thiên Vị. Vì thế Dịch nói: Lợi trinh tính, tình dã (Văn Ngôn)
Thánh nhân là người đã nhận chân được cái căn nguyên Trời nơi lòng mình, nên sẽ dùng không gian, thời gian, hoàn cảnh làm môi trường, để phát huy mọi khả năng biến hóa của mình, để đi tới tận thiện, chỉ dạy cho con người đi đến tận thiện, làm cho mọi người sống trong cảnh thái bình, hoan lạc. Cho nên HỌC DỊCH ĐỂ BIẾT CĂN CỐT MÌNH, BIẾT MỤC PHIÊU MÌNH PHẢI ĐẠT TỚI, BIẾT NHỬNG PHƯƠNG TIỆN MÌNH CÓ THỂ CÓ, ĐỂ THỰC HIỆN MỤC PHIÊU ẤY.
Căn cốt mình là Kiền nguyên, tức là Tính Trời, là Căn Trời. Mục phiêu mình phải liễu đạt là THIÊN TÍNH, THIÊN VỊ. Phương tiện mình có thể dùng là không gian, thời gian, hoàn cảnh, các khám phá của tiền nhân, sự cố gắng của chính mình, sức biến hóa của chính mình và của vũ trụ. Mạnh Tử nói:Nhân giai khả dĩ vi Nghiêu. Thuấn (Ta học Dịch phải có mục đích làm Đại nhân như Nghiêu, Thuấn) Thật là chí lý vậy.
Quẻ Kiền bàn về:
A- Trời, và Đạo Trời.
B- Thánh Nhân.
C- Quân tử.
D- Những nguyên tắc tổng quát để tu thân, xử thế.
A. - VẤN ĐỀ TRỜI
Trước tiên, ta phải nhận định rằng người xưa có nhiều thành ngữ để chỉ Trời, để chỉ Tuyệt Đối, hay Thực Thể của vũ trụ
-Khi muốn đề cập đến Trời một cách tổng quát thì gọi là Đạo.
-Khi nói đến tính tình của Trời, thì dùng chữ Kiền.
-Khi nói đến hình thể Trời thì dùng chữ Thiên.
-Khi dề cập đến Trời như vị chủ tể, thì dùng chữ Đế.
-Khi muốn về các hoạt động, các sự biến hóa của Trời thì dùng hai chữ Quỷ Thần.
-Khi nói về diệu dụng của Trời thì dùng chữ Thần.
-Khi xét về phương diện bản thể của vũ trụ, thì gọi là Dịch.
Dịch kinh muốn người bắt chước Trời, nên giống như Trời. Cho nên, nói về Trời, về tính Trời, thì dùng những chữ Cương kiện, Trung chính, Thuần túy, Chí tinh.
Dạy người, thì muốn cho người luôn luôn cương kiện, luôn luôn gắng gỏi công trình, thực hiện được trung chính, thực hiện thấu đáo được tinh hoa của Trời Đất, để rốt ráo trở nên thuần túy, chí thiện. Đó cũng là chủ trương của Đại Học và Trung Dung.
Cho nên, Dịch không phải dạy nghề bói toán để ta có một kế mưu sinh đoạn tháng, qua ngày, mà chính là trao cho con người một phương pháp để trở về với Trời, muốn cho con người trở nên Khiết, Tinh, Tinh vi, biến hóa theo thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh, chứ không phải để cho thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh lôi cuốn, mà ngược lại dùng tuổi tác, hoàn cảnh, thời gian, lịch sử làm công cụ để siêu phàm, nhập thánh.
Bàn về Đạo Trời, Văn Vương dùng có 5 chữ Kiền, Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Thực là vắn tắt hết sức, mà cũng hàm súc hết sức. Giải rộng ra, ta thấy Trời là nguồn gốc sinh ra muôn loài, làm cho muôn loài xương vinh, toại ý, để cuối cùng đạt được lý tưởng hoàn thiện, tinh hoa, và Trường Cửu vô biên.
Muốn thực hiện mục phiêu ấy, Trời dùng sự biến hóa, biến dịch tức là hiển lộ thần thông, phép tắc, để muôn loài theo đà thời gian, theo trào lưu Tiến Hoá, dần dần sẽ thực hiện được trạng thái thái hoà lý tưởng cuối cùng, theo ý Trời. Vì thế Thoán nói:
Kiện toàn Tính mệnh của mình.
Giữ gìn toàn vẹn tính lành Trời cho.
Mới hay:
Thóc gieo thành lúa, thành bông.
Tuần hoàn, thóc vẫn thủy chung là mình.
Trời dầu vạn trạng, thiên hình,
Nhưng mà chung thủy, sự tình chẳng hai. . .
B. ĐẠO THÁNH NHÂN
Dịch kinh và Chư Nho chủ trương:
1. Thánh Nhân là những người đắc Thiên vị, hành Thiên Đạo.
2. Nên Thánh Nhân hành động bao giờ cũng hợp thời, biết cơ Trời, biết nhẽ tiến hoá, tồn vong, đắc thất, nên không bao giờ phải hối hận. Thánh Nhân khi đạt Thiên vị, sẽ đem Thiên Đạo ra thi hành, sẽ dùng người tài đức dạy dỗ dân, sẽ treo gương hoàn thiện cho dân soi, và sẽ cố gắng mang thái bình, thinh trị về cho thiên hạ.
Tóm lại, Thánh Nhân, Thánh Vương sẽ bắt chước Trời mà hành động. Trời biến hóa để muôn loài được vui sống. Thánh Vương, Thánh Nhân cũng sẽ làm chủ chốt, cũng sẽ hướng dẫn mọi biến thiên của nhân quần, để vạn quốc được an bình.
C. ĐẠO QUÂN TỬ
Bàn về Đạo người quân tử, tức là bàn về phương pháp tu thân, để đi từ Nhân vị đến Thiên vị, quẻ Kiền dạy ở:
- Tượng Truyện: Người quân tử phải cố gắng không ngừng, y như Trời hoạt động không ngừng. Người quân tử phải luôn luôn cố gắng tiến đức, tu nghiệp, cốt làm sao vươn lên đến một đời sống lý tưởng, qui tụ vào nơi mình mọi vẻ đẹp đẽ, rồi ra làm cho mọi người cũng được Tiến Hoá, cũng được hoan lạc, sung sướng và cũng thực hiện được lý tưởng hoàn thiện như mình (Thiên hành kiện. Quân tử dĩ tự cường bất tức)
D. NHỮNG NGUYÊN TẮC TỔNG QUÁT TU THÂN, XỬ THẾ
Ngoài ra, quẻ Kiền còn dạy ta bài học nhân sinh, tu thân, xử thế ở nơi các Hào .
1. Hào Sơ Cửu. Theo Dịch Kinh, dẫu ta có chí cả, nhưng chưa đủ tài đức, chưa gặp được thời cơ, thì cũng không được khinh suất (Tiềm long vật dụng)
2. Hào Cửu nhị. Khi đã gặp thời cơ thuận tiện hơn, có địa vị khả quan hơn, khi tài đức mình đã bắt đầu hiển lộ, khi đã được mọi người đặt kỳ vọng vào mình, thời nên cộng tác với các bậc Minh vương, hoặc vị nguyên thủ có tài đức để mưu ích cho thiên hạ (Hiện long tại điền. Lợi kiến đại nhân)
3. Hào Cửu tam. Dẫu đã có địa vị hơn người, nhưng vẫn phải một lòng cầu tiến, luôn luôn gắng gỏi ra công tiến đức, tu nghiệp, luôn luôn biết phòng nguy, lự hiểm, có vậy mới vô sự (Quân tử chung nhật kiền kiền. Tịch dịch nhược. Lệ. Vô cữu)
4. Hào Cửu tứ. Hơn nữa càng lên cao, càng phải e dè, thận trọng, càng cần phải biết xét nét nhân tình, xét nét tâm lý người trên, kẻ dưới. Phải biết cơ vi tiến thoái; phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, mới vẫy vùng; không bao giờ được quyết định, được hành động cẩu thả.
Tóm lại, sống ở đời cần phải biết nhẽ tiến thoái. Tiến thoái cho thích đáng, hành động cho hợp thời, mới tránh được mọi chuyện đáng tiếc, đáng phàn nàn (Hoặc dược tại uyên. Vô cữu)
5. Hào Cửu ngũ. Khi đã lên ngôi trời, thống trị muôn dân, thì phải thi hành thiên Đạo, chọn hiền tài phụ bật, để thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (Phi long tại thiên. Lợi kiến đại nhân)
6. Hào Thượng Cửu. Khi đã lên tới tuyệt đỉnh, lại càng phải gia ý đề phòng, và cũng nên nghĩ đến chuyện công thành thân thoái, mới được vẹn toàn (Kháng long hữu hối)
VỀ PHƯƠNG DIỆN TU THÂN, ta có thể ghi nhận một vài bài học sau đây.
1. Khi mới giác ngộ, khi mới vừa nhận định ra rằng trong lòng mình có CĂN TRỜI, có THIÊN ĐỊA CHI TÂM, thời phải hết sức chắt chiu, ấp ủ, không được khinh xuất, phá tán.
2. Khi tài đức đã hiển lộ, thời nên cộng tác với các bậc Thánh Nhân hiền đức ở trên mình, để có thể mang tài đức giúp ích cho đời đến mức tối đa.
3. Lúc nào cũng phải cố gắng tu thân, tiến đức.
4. Ngoài ra, còn phải tỏ ra tri cơ, thức nhân tâm và thời vụ.
5. Mục đích của công cuộc tu thân là thực hiện Thiên Đức, đạt tới Thiên vị, trở nên hoàn thiện.
6. Khi quang huy đã lên tới cực điểm, lại càng phải hết sức khiêm cung, càng phải thông đạt lẽ tiến thoái, tồn vong. . .
Tóm lại: Quẻ Kiền cho rằng:
A. Về phương diện Triết học & Đạo giáo :
Trời là căn cốt cũng là cùng đích của muôn loài, hằng lồng trong vạn vật, để làm căn cơ, làm chủ chốt cho mọi công cuộc biến thiên, tiến hoá. Và tất cả sự biến chuyển, biến dịch của Trời chỉ cốt làm sao cho vạn vật phát huy được mọi tiềm năng, tiềm lực của mình; được thảnh thơi toại ý, và cuối cùng đạt được sự hoàn thiện, hoàn mỹ, trở về được với bản thể Thái Hòa nguyên thủy.
B. Về phương diện chính trị:
Kiền cho rằng Vương Đạo phải mô phỏng theo Thiên Đạo. Như vậy bậc quân vương phải là người hoàn thiện, thực lòng thương xót chúng dân, đem Đạo lý chân chính ra thi hành để đem an ninh lại cho thiên hạ.
C. Về phương diện tu thân và xử thế:
Quẻ Kiền cho rằng: Nếu chúng ta có căn cơ, có chí khí, có nghị lực, lúc nào cũng cương quyết, cũng hăng hái, thì dẫu làm gì cũng nên công. Tuy nhiên, hăng hái, mạnh mẽ cũng chưa đủ, mà phải hăng hái, mạnh mẽ theo đúng đường Đạo lý, theo đúng gương Trời, đúng đường lối Trời mà hành sự, mới có thể lập được đại công, đại nghiệp.
Ngoài ra, dẫu rằng mình là người tài cao, trí cả, cũng không bao giờ được vọng động, mà phải hành động cho hợp thời, hợp cảnh, hợp Đạo lý. Khi chưa đạt tới mức hoàn thiện, hãy cố gắng vươn lên. Khi đã đạt mức hoàn thiện, phải lo triển dương tài đức, giáo hóa chúng dân, thi ân bá trạch cho thiên hạ.
Phải luôn luôn gắng gỏi công trình và như con rồng thiêng, luôn luôn biến hóa. Phải noi gương Trời mà hành sự. Phải tiến lên Thiên đức, Thiên vị.
D. Quẻ Kiền như muốn tiên đoán về một thời hoàng kim mai hậu, mà mọi người đều như nhau, sống sung sướng, như một đàn rồng bay trên thinh không, mà chẳng cần có con đầu đàn dẫn lộ, sống một cuộc đời thuận Đạo lý vì nhìn tỏ thấy Luật trời ghi tạc nơi tâm (Kiền quần long vô thủ cát) Như vậy chẳng phải là những bài học quí báu hay sao?
ÁP DỤNG QUẺ KIỀN VÀO THỜI ĐẠI

Khi vào Kinh Dịch, ai cũng nói là đọc quẻ Kiền, quẻ Khôn là khó hiểu nhất, nhưng theo tôi (Huyền Linh, tác giả bài này), nó không có gì khó hiểu cả, khó hiểu chỉ vì người đọc Dịch cứ tìm tòi tiểu tiết, của từng câu chữ Hán, nên như bị vào mê hồn trận, không có lối ra , rồi sau đó đoán mò, hiểu bậy bạ, theo thiển kiến của họ.
Tôi cũng như phần đông độc giả, chỉ biết võ vẽ vài ba chữ Hán, hiểu lơ mơ mấy chữ đã phiên Âm, nhưng đã hiểu ý nghĩa của toàn quẻ sau khi đọc lời Bình Giảng, mà nhà tôi đã soạn khi xưa, lúc dạy Dịch ở Đại Học Minh Đức Việt Nam, nên tôi đã nẩy ra ý định cộng tác với chồng tôi, về phần Áp dụng vào thời đại, để minh chứng với người xưa rằng: không phải là những người trên 50 tuổi mới hiểu được Dịch, mà ngay một người độ 18 tuổi (đọc và viết thông tiếng Việt), sau khi đọc phần Bình Giảng, và phần Áp dụng vào Thời đại của tôi soạn, (nếu thông hiểu tiếng Việt) thì cũng hiểu. Tôi muốn chứng minh rằng phụ nữ, không những cũng có thể học Dịch, mà còn có thể tham gia vào phần nghị luận về tư tưởng, cũng như về Đạo Lý, như các bậc tiền bối Thánh Hiền.
Sự thật, học Kinh Dịch chẳng có gì là quá khó khăn như người ta tưởng. Tôi xin trình bầy cách hiểu quẻ Kiền của tôi ra sao để quí độc giả thưởng lãm.
1- Khi bắt đầu vào quẻ nào, ta phải đọc kỹ Thoán, vì nó là tổng kết của toàn quẻ, và khi đã nắm được ý chính của nó muốn nói gì, thì ta sẽ hiểu rất dễ dàng các Hào sau này, vì Hào chỉ là khai triển từng giai đoạn, mà quẻ muốn nói mà thôi. Ví dụ: khi đọc Thoán Từ của quẻ Kiền, tôi đọc câu thơ:
Kiền nguyên tóm hết Đạo Trời.
Tóm thâu Thiên Đạo khúc nhôi sinh thành.
Và câu chót
Thánh Nhân vượt trổi chúng sinh,
Làm cho muôn nước an bình khắp nơi.
là tôi hiểu ngay quẻ Kiền muốn nói về Đạo Trời (Thiên Đạo) và về Chính Trị (muôn nước an bình) từ lúc mới manh nha, cho đến ngày Hoàn Thiện (Đạo Trời), và Hoàn Mỹ (Chính Trị)
Về Đạo Trời, thì tác giả đã nói quá rõ, trong phần Bình Giảng, ở đây tôi chỉ xin góp ý một chút trong phần Bình Luận nhỏ này về liên quan đến Chính trị trong quẻ Kiền. Ta thấy trong Hào 1, 2, 3, 4, luôn khuyên những người có chí lớn, nhưng chưa đủ kinh nghiệm và tài đức, phải cố gắng, cầu tiến; nhưng không được khinh xuất, phải e dè, thận trọng, phải biết đợi thời cơ thuận tiện mới hành động, phải biết lẽ tiến thoái.
Ngày nay, đúng vậy, người muốn lập sự nghiệp lớn, mới có chí lớn chưa đủ, mà ngay từ thuở thiếu thời đã phải học luật, học về chính trị, và phải xuất thân ở 1 Đại Học danh tiếng, phải gia nhập vào đảng Chính trị có uy tín trong nước, để dựa vào thế lực của đảng, làm nấc thang cho mình leo lên ngành cai trị dân. Có thể lúc đầu từ cấp cai trị thấp, sau sẽ leo dần lên. Như vậy nếu mình là người thật lòng vì dân, vì nước, thì sự thành công sẽ dễ dàng hơn là một người không có tài đức, kinh nghiệm, mà cứ muốn nhờ gió bẻ măng. Nếu may mắn mà lên, thì đường hoạn lộ cũng không bền, còn không, sẽ thất bại dễ dàng.
Hào 5 nói đến bổn phận của một vì Thiên tử là phải chọn hiền tài phụ bật, phải thực hiện một cuộc cai trị lý tưởng cho muôn dân (chế độ Quân chủ xưa)
Hào 6 nói đến các vị vua sau này, thụ hưởng quá nhiều, đâm ra xa xỉ , phóng túng, hành vi quá trớn, do đó Hào 7 Dụng Cửu nói: Kiến quần long vô thủ. Cát, là khi nào nước do 1 nhóm người cai trị, mà không ai là người cầm đầu, ý nói là những người trong nhóm này có thẩm quyền quyết định ngang nhau. Khi mà tất cả thế giới đều được như vậy, lúc đó sẽ là lúc Hoàn Mỹ. An bình thịnh trị sẽ đến với mọi người trên trái đất này. Phải chăng đó là chế độ Tổng Thống và Lưỡng viện của Hoa Kỳ hiện nay? Vì sao tôi nói vậy? Vì đã nghiềm ngẫm lịch sử từ xưa tới nay, tôi chưa thấy ở nước nào mà người dân bới lỗi lầm, bôi nhọ nhà vua, qua báo chí mà không bị trừng trị. Hơn nữa, nếu người cầm đầu mà bất tài, thì đã bị lôi xuống rồi, chứ đừng nói là có thể hà khắc đối với dân chúng. Nhóm người cầm đầu lại do dân bầu: như vậy nếu họ làm hại dân, hay chỉ lo mưu đồ tư lợi cho cá nhân mình, nếu không bị chỉ trích hoặc truất phế ngay lúc đó, thì khoá sau, (chỉ cách khóa trước 4 năm), họ cũng không hy vọng gì được trở lại chức vị cũ.
Nếu ta áp dụng quẻ Kiền vào các sự nghiệp khác, thì cũng vậy mà thôi, nghĩa là ta phải hoạch định ngay từ thuở thiếu thời, đường lối mà ta đã dự định, và ta nhất định theo đuổi tới cùng, dù vất vả, gian lao mấy cũng không sờn, thì sớm muộn gì ta cũng sẽ thành công.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:27, 26/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
2 THIÊN PHONG CẤU


Cấu Tự Quái
姤 序 卦
Quải giả quyết dã.
夬 者 決 也.
Quyết tất hữu sở ngộ.
決 必 有 所 遇
Cố thụ chi dĩ Cấu
故 受 之 以 姤
Cấu giả ngộ dã.
姤 者 遇 也.

Cấu Tự Quái
Quải là nứt rạn, vỡ rời, tan hoang.
Chia rồi lại gặp, mới ngoan.
Cho nên Cấu mới có đàng theo ngay.
Cấu là gặp gỡ duyên may.

Cấu là một Hào Âm gặp 5 Hào Dương. Vì thế Cấu nghĩa là gặp, ngẫu nhiên mà gặp, không cầu mà gặp. Xét thể quẻ, thì Cấu là gió thổi dưới trời; gió thổi muôn phương, không có vật gì mà không gặp.
Cấu là 1 Âm thoạt sinh để bắt đầu cho chu kỳ Âm trưởng, Dương tiêu, một Âm tự động tìm gặp 5 Dương, nên gọi là Cấu. Cấu, xét về triền năm, thì là tháng 5, sau ngày hạ chí. Cấu là thời kỳ nhân loại bắt đầu bước vào con đường hướng ngoại, ngược lại với Phục là bắt đầu thời kỳ mà nhân loại bước vào con đường hướng nội, để tìm hiểu nội tâm. Thiệu Khang Tiết có 2 câu thơ, để đánh dấu hai thời kỳ quan trọng ấy:
Kiền ngộ Tốn thời, quan nguyệt quật.
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
Dịch:
Trời nổi gió dông, thông động nguyệt,
Địa phùng Lôi xứ, kiến thiên căn.
(Kiền ngộ Tốn là Thiên Phong Cấu. Nguyệt quật là ngoại cảnh vật chất. Địa phùng Lôi là Địa Lôi Phục. Thiên căn là Thiên lương hay Thiên tính trong con người.)
Trong quẻ Cấu sẽ đề cập đến 2 ý chính:
1. Âm Dương tương ngộ.
2. Phải đề phòng, ngăn chặn không cho tiểu nhân len lỏi vào chính quyền.
I. Thoán.
Thoán từ.
姤 . 女 壯 . 勿 用 取 女 .
Cấu. Nữ tráng. Vật dụng thú nữ.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Gặp cô gái dữ, thì đừng kết duyên
Thoán từ: Cấu gồm có 1 Hào Âm nằm dưới 5 Hào Dương. Một người đàn bà có đủ bản lãnh đương đầu với 5 người đàn ông, một người đàn bà mà tự ý đi tìm gặp đàn ông như vậy là thứ đàn bà dữ, không nên lấy hạng người ấy làm vợ. Hào Âm đây cũng tượng trưng cho kẻ tiểu nhân muốn len lỏi vào chính quyền, người quân tử phải thận trọng, đừng nên thân cận và cộng tác với họ.

Thoán Truyện.
彖 曰 . 姤 . 遇 也 . 柔 遇 剛 也 . 勿 用 取 女 . 不 可 與 長 也 . 天 地 相 遇 . 品 物 咸 章 也 . 剛 遇 中 正 . 天 下 大 行 也 . 姤 之 時 義 大 矣 哉 .
Thoán viết:
Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã. Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã. Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai.
Dịch.
Cấu là tương ngộ, tương phùng,
Cương nhu ngẫu nhĩ, duyên đằng gặp nhau.
Gái mà hung dữ, cơ cầu,
Làm sao phối hợp bền lâu cho đành.
Đất trời giải cấu liên minh,
Làm cho vạn vật trở thành tốt tươi,
Cương phùng trung chính, thời thôi,
Khắp cùng thiên hạ gặp thời vàng son,
Gặp mà nên chuyện vuông tròn,
Hợp thời đúng lúc, hỏi còn chi hơn?

Thoán Truyện: Cấu là gặp gỡ, Nhu gặp Cương, Âm gặp Dương. Trong chuyện Kiều có câu:
May thay giải cấu tương phùng,
Gặp tuần đố lá, thỏa lòng tìm hoa.
Một Âm khí thế đang lên, như gái dữ cần phải xa lánh, cần phải đề phòng, thay vì cầu thân để tính kế lâu dài (Cấu. Ngộ dã. Nhu ngộ cương dã. Vật dụng thú nữ. Bất khả dữ trường dã). Sau khi dạy ta nên đề phòng ảnh hưởng của tiểu nhân, Thoán Truyện bàn đến ảnh hưởng tốt đẹp của sự gặp gỡ giữa khí Âm và khí Dương. Trời đất có hòa hài, có gặp gỡ, có cộng tác với nhau, thì vạn vật mới có thể trở nên tốt đẹp được (Thiên địa tương ngộ. Phẩm vật hàm chương dã).
*Áp dụng vào nhân sự, thì gặp gỡ giữa người và người là một điều tối quan hệ. Người anh tài mà gặp người đức độ, thời có thể làm cho thiên hạ trở nên thịnh đạt. Hiểu được nghĩa chữ gặp gỡ, khai thác được sự gặp gỡ là một điều tối quan trọng vậy (Cương ngộ trung chính. Thiên hạ đại hành dã. Cấu chi thời nghĩa đại hỹ tai).
Thuấn gặp Nghiêu; Khương Tử Nha gặp Văn vương; Khổng Minh gặp Lưu Bị đó là những trường hợp điển hình chứng minh rằng anh tài gặp nhau có thể thay đổi được cục diện lịch sử.
II. Đại Tượng Truyện.
象 曰 . 天 下 有 風 . 姤 . 后 以 施 命 誥 四 方 .
Tượng viết:
Thiên hạ hữu phong. Cấu. Hậu dĩ thi mệnh cáo tứ phương.
Dịch.
Tượng rằng:
Cấu là gió thổi dưới trời,
Quân vương truyền lệnh dạy người bốn phương.
Dưới trời có gió là Cấu. Đấng quân vương rao truyền mệnh lệnh ra khắp bốn phương. Trời cao xa không dễ gặp vạn vật, nên lấy gió để kích động vạn vật. Thế là không gặp mà gặp. Quân vương không dễ gặp chính nhân, lấy mệnh lệnh để cải hóa vạn dân. Thế là không gặp mà gặp.
Quẻ Quan thời gió thổi trên mặt đất. Đấng quân vương bắt chước để đi quan sát dân tình trong nước.
Quẻ Cấu thì gió thổi dưới gầm trời. Đấng quân vương bắt chước, làm ra mệnh lệnh để phổ cập đến chúng dân.
III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện.
Như trên đã nói, quẻ Cấu bao gồm hai ý nghĩa:
- Cấu là gặp gỡ. Đó là nghĩa theo Từ nguyên.
- Cấu là đề phòng, là ngăn chặn ảnh hưởng mới ló dạng của tiểu nhân, đó là nghĩa theo Hào Quái.
Thành thử khi giải thích các Hào, ta thấy có 3 đường lối.
1. Giải Cấu là chế ngự tiểu nhân, đó là theo Ngự Án.
2. Giải Cấu là gặp gỡ, đó là đường lối của Trình Tử.
3. Giải lờ mờ, đó là đường lối của các nhà bình giải.
1. Hào Sơ Lục.
初 六 . 系 于 金. 貞 吉 . 有 攸 往 . 見 凶 . 羸
象 曰 . 豕 孚 踟 躅 . 系 于 金 . 柔 道 牽 也 .
Sơ Lục.
Hệ vu kim nị. Trinh cát. Hữu du vãng. Kiến hung. Luy thỉ phu trịch trục.
Tượng viết:
Hệ vu kim nị, nhu đạo khiên dã.
Dịch.
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Hãm kìm cho chắc, cho bền, mới hay.
Sanh ra Âm sẽ tiến ngay,
Để cho Âm tiến, có ngày họa hung.
Lợn con mà bỏ đi dông,
Rồi ra lợn sẽ lung tung chạy càn.
Tượng rằng:
Dùng cây thắng sắt hãm kìm,
Vì Âm dắt díu nhau lên dần dần.
Hào Sơ Lục: Ai cũng giải là phải kìm hãm tiểu nhân ngay từ buổi ban sơ. Kìm hãm cho chặt chẽ, phải buộc họ vào nhữmg thắng bằng kim khí (Hệ vu kim nị), như vậy mới mong được an lành (Trinh cát), bằng nếu để họ xổng ra, họ sẽ làm sằng, làm bậy, gây họa hung chẳng sai (Kiến hung). Tiểu nhân như con lợn con còn yếu ớt. Lợn tuy còn yếu thực đấy, nhưng nếu không sớm ngăn chặn đề phòng, chắc chắn nó sẽ có ngày chạy dông, phá phách (Luy thỉ phu trịch trục). Tại sao phải kìm hãm chặt chẽ như vậy? Thưa, nếu để cho Âm Nhu tự do hoạt động, nó sẽ dắt díu nhau cả bầy, cả bọn đến tác hại chẳng sai. Vì thế Tượng viết: Hệ vu kim nị. Nhu đạo khiên dã. (Khiên đây là dắt díu nhau).
Hào này không những dạy ta đề phòng tiểu nhân, mà còn dạy ta đề phòng đừng cho nhân dục manh động, nếu để nhân dục manh động; thì thiên lương kia chẳng mấy chốc là bị chúng khuất lấp.

2. Hào Cửu nhị.
九 二 . 包 有 魚 . 無 咎 . 不 利 賓 .
象 曰 . 包 有 魚 . 義 不 及 賓 也 .
Cửu nhị.
Bao hữu ngư. Vô cữu. Bất lợi tân.
Tượng viết:
Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.
Dịch.
Cá nằm trong bọc, lỗi chi,
Nhưng mà có khách, đừng chìa cho xem.
Tượng rằng: Có cá trong bao,
Thôi đừng cho khách ngó vào làm chi.
a). Muốn kiềm chế tiểu nhân, không nên dùng bạo lực, mà phải kiểm soát khéo léo. Hãy giữ cho nó đừng có ảnh hưởng lan rộng tới người khác.
b). Sơ đáng lý thì ứng với Tứ, nhưng Hào Nhị đây kề cận với Sơ nên như người câu cá, nhanh chân đến trước đã lượm được cá. Nhị gặp Sơ cũng không phải là đúng lý tự nhiên, nên Nhị không cho ai khác gặp Sơ. Gặp ai khác sẽ lắm chuyện rắc rối. (Trình tử) . Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã.

3. Hào Cửu tam.
九 三 . 臀 無 膚 . 其 行 次 且 . 厲 . 無 大 咎 .
象 曰 . 其 行 次 且 . 行 未 牽 也 .
Cửu tam:
Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư. Lệ. Vô đại cữu.
Tượng viết:
Kỳ hành thứ thư. Hành vị khiên dã.
Dịch.
Mông mà đét thịt toàn da,
Thời âu đi lại vật vờ, lết lê,
Nếu mà biết được cơ nguy,
Làm sai, âu cũng bớt đi nhiều phần.
Tượng rằng: Đi lại lết lê,
Là vì chẳng được mọi bề thảnh thơi.

Hào Cửu Tam: muốn kiềm chế tiểu nhân (Hào Sơ), nhưng không có địa vị và nhiệm vụ để kiềm chế, vì thế nên ở trong một tình thế nguy hiểm (Lệ). Tuy nhiên xét theo nghĩa lý thì không có gì đáng trách (Vô đại cữu).
Không đúng ngôi vị, nên đứng ngồi không yên, như mông không thịt, đi đứng lết lê (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư (Ngự Án).
*Tam muốn cầu gặp Sơ, nhưng lại bị Nhị ngăn cách, nên đứng ngồi không yên (Đồn vô phu. Kỳ hành thứ thư). Tuy nhiên sau này, Tam biết chuyện đó là chuyện chẳng hay, nên đâm sợ hãi, không dám làm càn, nên không vấp phải lỗi lớn (Lệ. Vô đại cữu. Trinh cát).
Tượng viết: Bao hữu ngư. Nghĩa bất cập tân dã
Ngự Án giải rằng: đứng ngồi không yên, đi lại khó khăn, vì chưa chế ngự được Sơ Lục.

4. Hào Cửu tứ.
九 四 . 包 無 魚 . 起 凶 .
象 曰 . 無 魚 之 凶 . 遠 民 也 .
Cửu tứ.
Bao vô ngư. Khởi hung.
Tượng viết:
Vô ngư chi hung. Viễn dân dã.
Dịch.
Có bao, mà cá thời không,
Rồi ra phát khởi họa hung có ngày.
Tượng rằng: Không cá mà hung,
Nghĩa là đã ở xa dân mất rồi.
a). Ngự Án giải rằng: Cửu tứ muốn kiềm chế tiểu nhân, mà không có dạ bao dung, lại không biết phương pháp kiềm chế, thì nhẽ nào mà không gặp họa hung được.
b). Trình tử cho Cửu tứ ở ngôi trên, không có đức (Bất trung, bất chính), nên mất lòng kẻ dưới. Người trên mất dân, như bao không cá (Có 1 con cá, Cửu nhị đã chiếm mất rồi). Đã mất dân, tức sẽ gặp họa hung.
Tượng Truyện bình rằng: Cái nguy cơ sở dĩ có, là vì mình đã xa dân vậy (Vô ngư chi hung. Viễn dân dã).

5. Hào Cửu ngũ.
九 五 . 以 杞 包 瓜 . 含 章 . 有 隕 自 天 .
象 曰 . 九 五 含 章 . 中 正 也 . 有 隕 自 天 . 志 不 舍 命 也 .
Cửu ngũ.
Dĩ kỷ bao qua. Hàm chương. Hữu vẫn tự thiên.
Tượng viết:
Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã. Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.
Dịch.
Cây kỷ bao bọc cây dưa,
Đẹp mà kín đáo, có cơ tốt lành,
Y như rơi tự trời xanh.
Tượng rằng:
Hào năm có đức chẳng phô,
Thiệt là trung chính, đúng như lẽ đời.
Gặp may, âu cũng nhờ trời,
Mệnh trời, lòng há dám rời hôm mai.
a). Hào Cửu ngũ có đia vị lại có trách nhiệm chế ngự tiểu nhân. Vả Cửu ngũ có đức độ, cho nên tiểu nhân tự nhiên qui phục (Ngự Án, Wilhelm, R. G. H. Siu).
b). Người trên như cây kỷ, người dưới như cây dưa. Bậc quân vương biết khuất kỷ, hạ hiền, thì hiền tài tự nhiên sẽ quay về giúp mình; Hữu vẫn tự thiên: Y như tự trời rơi xuống. Ý nói cầu hiền, tất sẽ gặp hiền tài. (Trình tử).
Tượng Truyện cho rằng: Cửu ngũ hàm xúc vẻ đẹp đẽ, là vì đã theo được con đường trung chính (Cửu ngũ hàm chương. Trung chính dã). Mọi sự hay, sẽ như tự trời rơi xuống, là vì Cửu ngũ đã theo đúng thiên lý. (Hữu vẫn tự thiên. Chí bất xả mệnh dã.)

6. Hào Thượng Cửu.
上 九 . 姤 其 角 . 吝 . 無 咎 .
象 曰. 姤 其 角 . 上 窮 吝 也 .
Thượng Cửu.
Cấu kỳ giác. Lận. Vô cữu.
Tượng viết:
Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã.
Dịch.
Gặp mà vênh vác cái sừng,
Sẽ bề hối hận, đừng hòng trách ai.
Tượng rằng: Gặp vểnh cái sừng,
Cao kiêu cùng cực, liệu chừng ăn năn.

a). Thượng Cửu như 1 ẩn sĩ, xa vời với tiểu nhân, vì thế nên không kiềm chế được tiểu nhân, như vậy cũng đáng xấu hổ. Tuy nhiên, vì họ đã không còn dính líu chuyện đời, nên họ cũng chẳng có lỗi gì (Ngự Án).
b). Người trên mà cao ngạo, thì làm sao mà gặp được người cộng tác. Mình như vậy mà người ta xa mình, thì cái đó là lỗi tại mình, đừng nên trách cứ ai. Sừng đây chỉ sự kiêu kỳ, cứng rắn. Tượng Truyện bình rằng: Cư xử cao ngạo như vậy, thì đáng trách thật (Cấu kỳ giác. Thượng cùng lận dã).
- Giải thích Cấu là kiềm chế cũng có nghĩa của nó, vì nếu không ngăn chặn tiểu nhân, để họ len lỏi vào chính quyền, thì họ sẽ lũng loạn chính quyền.
- Giải thích Cấu là gặp gỡ, cũng có nghĩa là người trên gặp gỡ hạ dân, quân vương gặp gỡ hiền tài.
ÁP DỤNG QUẺ CẤU VÀO THỜI ĐẠI

Cấu là một quẻ quan trọng trong Kinh Dịch, vì nó là đầu đường đi vào chiều Âm, đi ra ngoại cảnh. Thiệu Khang Tiết cho rằng: Cấu là thời kỳ mà ta bị đẩy đưa vào chốn trần ai, cát lầm. Đó là thời kỳ mà chúng ta bị thử thách.
Cuộc đời con người, thường bị chi phối bởi 3 vấn đề: đó là Tình, Tiền, Danh vọng. Cho nên, khi ta còn nhỏ, ta chỉ nhìn thấy vật chất, tiền tài, ta chỉ bị cám dỗ bởi xác thịt, bởi ngoại cảnh. Ta sẽ thấy ta có nhiều môn học như: hát, vẽ, chạy, bơi lội, tập võ nghệ, thể thao, điền kinh, học chữ nghĩa, nghề nghiệp. Thật là thiên thu bất tận. Nghề nào cũng có thể chiếm gần hết đời ta. Càng đi sâu vào một nghề gì, hay vấn đề gì, ta càng thấy nó cao siêu, và dẫu ta dùng cả đời ta vào vấn đề đó, ta vẫn thấy không thỏa mãn, không vừa lòng.
Hơn nữa, nghề nghiệp ta học đều được định giá bằng tiền, và chúng ta thường hỏi nhau là có kiếm được nhiều tiền hay không? Như vậy có phải là đời ta đã bị chi phối bởi Tình, Tiền và Danh vọng hay không? Nhiều người đã vì 3 vấn đề trên, mà bán cả sinh mạng mình. Nhưng có nhiều người không may, làm ăn thất bại, chán nản rồi đâm ra xì ke, ma túy, nghiện ngập, rất là đáng thương hại.
Đi sâu vào cuộc đời, chúng ta phải hết sức thận trọng. Làm cái gì cũng phải tự lượng sức mình, đừng phao phí sức lực. Ta có mạnh khỏe, thì tinh thần ta mới được sung mãn. Phải tránh xa những con đường rượu chè, cờ bạc, sì ke, ma túy. Chúng sẽ dẫn ta vào cửa tử, vào vực thẳm.
Nếu sinh ra đời, mà ta làm được gì ích quốc, lợi dân, thì hay biết bao nhiêu. Đừng nói rằng chúng ta thua kém người, hoặc vô tài, bất tướng. Thực ra người ta thành công hơn ta, chỉ vì họ đã biết cố gắng, chịu thương, chịu khó hơn ta mà thôi. Do đó, chúng ta đừng bao giờ chán nản, khi đứng trước một sự việc gì khó khăn. Phải cố gắng tiến lên, đừng bao giờ lùi bước. Nhớ rằng: Trời hại ta, thì còn cứu được, nếu ta tự hại ta thì không ai có thể cứu ta được.
Tóm lại, quẻ Thiên Phong Cấu dạy ta: Đừng để cho Vật Dục chi phối cuộc đời mình, đến nỗi tán tận lương tâm; và cần phải xa lánh những bè bạn xấu.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 20:57, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
3 THIÊN SƠN ĐỘN


THIÊN SƠN ĐỘN



Độn Tự Quái


遁 序 卦

Hằng giả cửu dã.


恆 者 久 也

Vật bất khả dĩ cửu cư kỳ sở.


物 不 可 以 久 居 其 所

Cố thụ chi dĩ Độn.


故 受 之 以 遁

Độn giả thoái dã.


遁 者 退 也 .



Độn Tự Quái

Hằng là bền vững cửu trường,

Vật đâu ở mãi, ở thường một nơi?

Cho nên Độn mới tiếp ngôi,

Độn là lui gót, tùy thời tránh đi.



Kinh Dịch có một mục đích chính yếu là dạy cho con người biết xuất xử, hành tàng. Đại khái Dịch cho rằng, khi nào thời thế thuận tiện, quân tử có cơ hưng phấn, đạo lý có thể mang ra thi hành, thì người quân tử nên xuất đầu, lộ diện, góp mặt, góp công với đời; còn như gặp khi thời thế đảo điên, tiểu nhân lộng hành, thời lúc ấy người quân tử nên qui ẩn.

Quẻ Khôn nói: Thiên địa bế, hiền nhân ẩn.

Đất trời mà gàng quải, thời hiền nhân nên qui ẩn. (Khôn, Văn Ngôn, Hào bốn)

Quẻ Độn cũng không ngoài chủ trương đó; đại khái nói rằng: Khi thanh thế tiểu nhân đang lên, người quân tử nên biết rút lui cho hợp thời, đúng lúc, như vậy mới là biết cơ trời. Độn có nhiều nghĩa:

- Độn là qui ẩn.

- Độn là xá lánh tiểu nhân.

- Độn là lánh nạn, v.v...



I. Thoán.

Thoán Từ.

遁 . 亨 . 小 利 貞 .

Độn. Hanh. Tiểu lợi trinh.

Dịch.

Rút lui ẩn lánh mới hay,

Ở ăn chính đáng, lợi nay vẫn còn.

Thoán Từ viết: Độn. Hanh. Tiểu lợi trinh. Trình Tử và Chu Tử giải mỗi người một cách. Trình Tử cho rằng: Thoái tàng để giữ cho đạo lý được chu toàn. Người quân tử gặp lúc tiểu nhân đang lên, vẫn có thể khéo xử mà vớt vát, vãn hồi tình thế được phần nào. Như vậy ba chữ Tiểu lợi trinh có nghĩa là làm việc lớn không lợi, làm việc nhỏ cũng còn có lợi. Chu Hi giải chữ tiểu là tiểu nhân, và cho rằng: lúc đang gặp thời mà tiểu nhân giữ được chính đạo cũng lợi.

Các nhà bình giải Dịch, thường theo một trong hai cách này: Kiến An Khâu thị cho rằng: Độn. Hanh là khuyên quân tử nên rút lui, để mọi sự được êm đẹp (Độn nhi hanh dã). Tiểu lợi trinh là khuyên tiểu nhân hãy xử cho phải, đừng lăng bức người quân tử quá mức. (Xem Đại Toàn). Ta ghi nhận một định lý như sau: Độn 2 Âm ở dưới, 4 Dương ở trên. Âm đang thế tiến, Dương đang thế thoái: tức là Âm trưởng, Dương tiêu (Quân tử kiến cơ nhi tác). Thấy vậy, sẽ lo việc thoái taàng, qui ẩn.



Thoán Truyện.

彖 曰 . 遁 亨 . 遁 而 亨 也 . 剛 當 位 而 應 . 與 時 行 也 .

小 利 貞 . 浸 而 長 也 . 遁 之 時 義 大 矣 哉 .

Thoán viết:

Độn hanh. Độn nhi hanh dã. Cương đáng vị nhi ứng. Dữ thời hành dã.

Tiểu lợi trinh. Tẩm nhi trưởng dã. Độn chi thời nghĩa đại hỹ tai.

Dịch.

Rút lui ẩn lánh mới hay,

Tuy mình quyền lực trong tay vẫn còn.

Cương cường xứng với ngôi trên,

Còn người hưởng ứng, vẫn còn oai nghi.

Biết thời, tới lúc nên về, Theo thời hành sự, mọi bề hanh thông.

Phù trì chánh đạo một lòng,

Tiểu nhân ảnh hưởng đang dâng, ngại gì.

Công trình ấy chẳng lớn chi,

Nhưng mà lợi ích thường khi vẫn còn.

Trong Thoán Truyện, đức Khổng cũng nhận định đại khái rằng:

1- Rút lui hợp thời trời, mới êm đẹp. (Độn nhi hanh dã)

2- Rút lui phải cho đúng thời, đúng lúc; rút lui hay nhất là khi mình còn đang ở trong thế kẻ mạnh, có quyền, có vị, có người hưởng ứng. (Cương đáng vị nhi ứng. Dữ thời hành dã.)

3- Rút lui là nên, vì người quân tử sáng suốt nhận định được rằng ảnh hưởng của tiểu nhân đang lừng lững tiến lên. (Tiểu lợi trinh. Tẩm nhi trưởng dã.)

4- Rút lui hợp thời là một công chuyện không nhỏ, không dễ. (Độn chi thời nghĩa đại hỹ tai.)

Lý Long Sơn bình rằng:

Âm Dương, hàn thử, đều có thời. Âm đạo lớn thịnh là thời tiểu nhân đắc thế; lúc ấy người quân tử nhẫn nhịn để chờ thời, sau ắt thắng. Nếu đem lòng giận dữ, hết sức kháng cự, ấy là chẳng biết thiên thời, ắt hứng lấy những điều hung họa. Như thời Nguyên Thành nhà Hán, Hoằng Cung, Thạch Hiển đang đắc thế ở trong, mà bọn Tiêu Vọng Chi, Lưu Hướng, Chu Vân chẳng biết nhún nhường, mà lánh đi để đến nỗi bị họa. Lại như trong thời Hoàn Kinh, Tào Tiết, Vương Phụ đắc thế ở trong, mà bọn Lý Ưng, Trần Phồn, Đậu Vũ, chẳng biết nhún nhường, mà lánh đi để đến nỗi bị giết...

Gặp thời Độn, người quân tử dẫu còn đang có thế lực, có địa vị, cũng nên biết tùy thời mà quyền nghi. Rút lui đúng lúc thời hay. Đời thường nói: Cửu tọa lịnh nhân yếm (ngồi lâu khiến người ta phát chán). Mình dẫu có hay, nhưng ngồi mãi một chức vị, đóng mãi một vai trò, rút cuộc vẫn làm cho người chán mình, thà rút lui, khi lòng người còn luyến tiếc mới hay. Vả lại tiệc vui cũng có lúc tàn. Người xưa nói: Thiên hạ vô bất tán đích diên tịch. Chính là vì vậy.



II. Đại Tượng Truyện

象 曰 . 天 下 有 山 . 遁 . 君 子 以 遠 小 人 . 不 惡 而 嚴 .

Tượng viết.

Thiên hạ hữu sơn. Độn. Quân tử dĩ viễn tiểu nhân. Bất ác nhi nghiêm.

Dịch.

Tượng rằng: Độn là núi ở trên trời,

Khiến người quân tử lánh gnười tiểu nhân.

Chẳng cần thanh sắc dữ dằn,

Mình nghiêm họ sẽ đằng thằng lảng xa.

Độn là núi ở dưới trời. Núi cao vun vút, vươn mình lên không trung, như muốn lăng bức trời; nhưng càng vươn lên càng thấy trời xa lắc, y như trời muốn dùng sự cao xa của mình để phân cách với núi non.

Người quân tử đối với kẻ tiểu nhân cũng vậy; trong khi tiểu nhân đắc thế, mình không cần phải làm mặt giận, mày dữ đối với họ, mà chỉ cần lập nghiêm, cũng đủ cho họ kiêng nể, xa lánh. Đó là cách thức Khổng Tử đối đãi với Dương Hổ. Tượng viết. Thiên hạ hữu sơn. Độn. Quân tử dĩ viễn tiểu nhân. Bất ác nhi nghiêm.

III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện

Sáu Hào bàn về các cách ẩn độn, những cái hay, cái dở trong việc ẩn độn, thoái tàng. Các nhà bình giải thường không đồng ý với nhau về nhiều phuong diện, nhiều vấn đề.

Để có một ý niệm khái quái về 6 hào, ta có thể mượn lời của Ngu Sơn, Tưởng vấn Thiên, tác giả quyển Dịch Lý Thước, mà bình như sau:

Quẻ Độn mà thượng quái là quẻ Kiền. Kiền là cương kiện, tượng trưng cho sự quyết liệt rũ bỏ mọi sự để qui ẩn. Hạ quái là Cấn, là chỉ sự bịn rịn, lưu luyến, không rứt nổi tư tình để ra đi. Cho nên Hạ quái không hay bằng Thượng quái.

Độn càng xa càng tốt, nên các Hào càng lên trên càng tốt. Xét sáu Hào, thì Hào Sơ độn là lẩn quẩn ở hàng dưới, thì đâu phải là độn thật; Hào Hai không muốn độn, mà ở lại; Hào Ba độn mà còn bị vấn vương, sắp trốn đi mà lòng còn chưa quyết; Hào Bốn là gạt bỏ được tư tình, mà nhẹ nhàng cao chạy xa bay; Hào Năm là gửi mình theo chính đạo, cho nên độn mà vẫn gặp may, gặp lành; Hào Sáu là ẩn dật, thoát vòng tục lụy.

Nhưng cứ theo lẽ Dịch, không thể chấp nhất và nghị luận một chiều, cần là biết thức thời.

1. Hào Sơ Lục.

初 六 . 遁 尾 . 厲 . 勿 用 有 攸 往 .

象 曰 . 遁 尾 之 厲 . 不 往 何 災 也 .

Sơ lục. Độn vĩ. Lệ. Vật dụng hữu du vãng.

Tượng viết.

Độn vĩ chi lệ. Bất vãng hà tai dã.

Dịch.

Rút lui mà quẩn đằng đuôi,

Nguy rồi, dở dói lôi thôi làm gì.

Tượng rằng: Rút lui sau chót là nguy.

Mình không dở dói, hại gì ở đâu.



Sơ Lục là những hạng người chậm chân chạy trốn, mà chỉ lẩn quẩn ở khúc đuôi, như vậy ắt là nguy (Độn vĩ. Lệ. Vật dụng hữu du vãng). Tuy nhiên Sơ là những hạng người tầm thường, chẳng có chức vụ gì quan trọng, nên miễn là họ đừng dở dói gì, cứ ẩn nhẫn, nép mình chờ thời, thì cũng chẳng đến nỗi mang tai họa (Bất vãng hà tai dã).



2. Hào Lục nhị.

六 二 . 執 之 用 黃 牛 之 革 . 莫 之 勝 說 .

象 曰 . 執 用 黃 牛 . 固 志 也 .

Lục nhị. Chấp chi dụng hoàng ngưu chi cách. Mạc chi thắng thoát.

Tượng viết.

Chấp dụng hoàng ngưu. Cố chí dã.

Dịch.

Rút lui lòng đã nhủ lòng,

Khăng khăng như đã thắt bằng da trâu.

Da trâu dây thắt chặt sao,

Khít khao, chặt chẽ ai nào cởi ra?

Tượng rằng:

Giữ giàng bằng luôt da trâu,

Thế là cố chí, trước sau một lòng.



Hào Lục nhị, Trình Tử cho rằng Nhị và Ngũ lấy nhẽ Trung chính và thuận mà gắn bó, cố kết lấy nhau, như buộc bằng da trâu vậy. Ngô thị, Tập thị, theo đòi Trình Tử cũng giải rằng: Lục nhị là trung thần cật ruột, không thể bỏ nhiệm sở mà trốn đi. Đó là trường hợp Cơ Tử xưa với chủ trương nhất định không trốn, không rút lui (Ngã bất cố hành độn). (Kinh Thư, Vi Tử, 9).

Chu Tử và Thái Thị giải đại khái rằng: Hào Hai gặp thời độn, biết cẩn trọng giữ gìn từ lời ăn tiếng nói, đến hành động, cử chỉ, vaà nhất định ẩn độn, không ai can được. Hai quan niệm trên tuy có khác nhau nhưng đều hữu lý.



3. Hào Cửu tam.

九 三 . 系 遁 . 有 疾 厲 . 畜 臣 妾 吉 .

象 曰 . 系 遁 之 厲 . 有 疾 憊 也 . 畜 臣 妾 吉 . 不 可 大 事 也 .

Cửu tam. Hệ độn. Hữu tật lệ. Súc thần thiếp cát.

Tượng viết.

Hệ độn chi lệ. Hữu tật bái dã. Súc thần thiếp cát. Bất khả đại sự dã.

Dịch.

Độn mà bịn rịn, vấn vương,

Thế là nguy hại, tai ương rành rành.

Con hầu đầy tớ quẩn quanh,

Nuôi người sai sử, âu đành rằng hay.

Tượng rằng: Bịn rịn nên nguy,

Tinh thần bải hoải suy vi bàng hoàng.

Con hầu, đầy tớ xốn xang,

Phàm làm đại sự, ham làm được đâu.



Hào Cửu tam đại khái chủ trương:

a) Đã ẩn độn, đã lánh nạn, mà bịn rịn thê nhi (Hệ độn. Hữu tật lệ) thì rất nguy hiểm, vì đương sự sẽ khó quyết định, khó xoay sở. Khi Trùng Nhĩ tị nạn sang nước Tề. Tề Hoàn Công hỏi: Công tử có mang theo gia quyến không? Trùng Nhĩ thưa rằng: Bổn phận tôi đi một mình còn khó giữ, rảnh rang chi mà mang hết cả nhà.

b) Nhưng có vong thần, có quân hầu, đầy tớ cũng hay (Súc thần thiếp cát. Bất khả đại sự dã). Trùng Nhĩ khi lưu vong nhờ có bọn hiền thần là Hồ yển, Hồ mao, Giới Tử Thôi, và Triệu Thôi, nên sau mới phục quốc được (Tấn Văn Công tức Trùng Nhĩ).

Khi đã hồi trào, Tấn Văn Công tưởng thưởng cho những người có công; có tiểu thần Hồ Thúc tâu rằng: Tôi từ Bồ Thành đi theo Chúa công, đi khắp bốn phương, chân đã mòn gót, ở thì tôi lo bữa ăn, bữa ngủ; đi tôi lo nỗi ngựa xe, chớ hề phút nào rời Chúaa công bên tả bên hữu, nay Chúa công ban thưởng kẻ tòng vong, mà chẳng nhắc tới tiểu thần, tưởng khi tiểu thần có tội chi chăng? Tấn Văn Công nói: Ngươi bước tới đây, ta nói rõ cho ngươi nghe: vả những người dạy ta nhân nghĩa, khiến ta mở mang gan phổi, thì được thượng thưởng; giúp ta dùng mưu lược, khiến ta chẳng phục tùng chư hầu, thì được thứ thưởng; xông tên đá, lướt mũi nhọn, lấy thân che đỡ cho ta, thì được kế thứ thưởng. Cho nên thượng thưởng là thưởng đức; thứ thưởng là thưởng tài, kế thứ là thưởng công; còn như đi đứng nhọc nhằn là sức kẻ thất phu; phải sau bậc tam thưởng, chừng đó mới tới ngươi. Hồ Thúc nghe thì bằng lòng, mắc cỡ mà lui ra.

Lời của tấn văn Công giúp ta hiểu tại sao Súc thần thiếp mà lại cát của Hào này.



4. Hào Cửu tứ.

九 四 . 好 遁 君 子 吉 . 小 人 否 .

象 曰 . 君 子 好 遁 . 小 人 否 也 .

Cửu tứ. Hiếu độn quân tử cát. Tiểu nhân phủ.   

Tượng viết.

Quân tử hiếu độn. Tiểu nhân phủ dã.

Dịch.

Rút lui quên hết riêng tư,

Hiền nhân thời tốt, phàm phu chẳng lành.

Tượng rằng:

Hiền nhân thích chuyện rút lui,

Tiểu nhân, trái lại khó rời chân đi.

Hào Bốn cho rằng chỉ người quân tử mới cắt đứt được tư tình, dám vì công nghĩa mà rứt áo ra đi; còn kẻ tiểu nhân thì bịn rịn vấn vương, khác hẳn người quân tử (Cửu tứ. Hiếu độn quân tử cát. Tiểu nhân phủ dã).



5. Hào Cửu ngũ.

九 五 . 嘉 遁 . 貞 吉 .

象 曰 . 嘉 遁 貞 吉 . 以 正 志 也 .

Cửu ngũ. Gia độn. Trinh cát.   

Tượng viết.

Gia độn trinh cát. Dĩ chính chí dã.

Dịch.

Rút lui êm ả tốt sao

Đường đường, chính chính, nhẽ nào chẳng hay.



Hào Cửu ngũ đắc trung, đắc chính, nên mới dùng chữ Gia độn, là rút lui một cách đẹp đẽ.

Nói đến Gia độn, ta liên tưởng đến Charles de Gaulle. Năm 1946, khi đang làm thủ tướng lâm thời nước Pháp, chán cảnh nội các chia làm năm bè, bảy bối, ông liền từ chức. Ông nói: Các ông đã vì đảng phái, mà cãi cọ, chia rẽ nhau. Tôi không chấp thuận điều đó, nhưng trừ phi thiết lập chính sách độc tài, đó là điều tôi không muốn, và là chuyện sẽ có kết cuộc chẳng hay; tôi không còn cách nào để ngăn ngừa được cơ sự các ông đang làm này; vì vậy tôi phải rút lui. Nếu các ông thất bại, ít ra tôi còn được nguyên vẹn. (Trích báo Time, Nov. 23, 1973, page 1).

Sau một thời gian, lập đảng chính trị và tái xuất giang hồ, năm 1955, ông lại rút lui vào bóng tối. Ông tuyên bố cùng quốc dân Pháp: Tôi có lời từ giã các bạn, chúng ta sẽ không gặp nhau lại, trừ phi giông tố dập vùi nước Pháp.

Năm 1958, chiến tranh Algérie là giông tố, muốn dập vùi nước Pháp thật sự, các tướng lãnh và quân đội yêu cầu ông ra cứu vãn tình hình. Ông bằng lòng, với điều kiện phải để ông lập chế độ Tổng thống. Ông chủ trương Ngị viện bàn cãi, các Tổng bộ trưởng cai trị, viện bảo hiến suy nghĩ, Tổng thống của nền cộng hòa quyết định. Làm Tổng thống từ năm 1958 đến 1969, ông thấy dân chúng có vẻ chán ông, không còn tín nhiệm ông như cũ, ông liền từ chức năm 1969, tuy ông còn mấy năm nhiệm kỳ, ông về quê là Colombey, và đánh lên Paris 1 điện văn từ chức, vắn tắt như sau: «Tôi không giữ chức Tổng thống của nước Cộng Hòa nữa. Quyết định này có hiệu lực kể từ trưa hôm nay.»

Vì biết rút lui đúng lúc, khi mà mình hãy còn nhiều uy quyền, thế lực, nên ông giữ được lý tưởng ông, do đó mà chẳng những nước Pháp, mà cả thế giới cảm phục ông. thật đúng là Gia độn trinh cát. Dĩ chính chí dã. Các công thần khi đã làm xong nhiệm vụ giao phó, liền qui ẩn, vui thú điền viên, chứ không vì lợi lộc mà nấn ná lại chốn triều đình. Kinh Thư viết: Thần võng nhi sủng lợi cư thành công (Kinh Thư, Thái Giáp hạ, 9.)



6. Hào Thượng cửu.

上 九 . 肥 遁 . 無 不 利 .

象 曰 . 肥 遁 . 無 不 利 . 無 所 疑 也 .

Thượng cửu. Phì độn. Vô bất lợi.

Tượng viết.

Phì độn vô bất lợi. Vô sở nghi dã.

Dịch.

Rút lui hớn hở mới hay,

Thế nên ích lợi, mắn may mọi đàng.

Tượng rằng: Rút lui hớn hở vẹn toàn,

Là vì dạ chẳng nghi nan, lo lường.



Thượng cửu. Phì độn. Vô bất lợi. Phì độn là độn, là rút lui mà lòng khoan khoái, vì thế mà làm việc gì cũng hay cũng lợi. Gọi là Phì độn, vì Hào Thượng Cửu là vô vị, tượng trưng cho một hiền tài, muốn thoát vòng cương tỏa, lợi danh. Chỉ lấy đạo đức làm cao lương, lấy nhân nghĩa làm mỹ vị, như vậy đúng là Phì độn. Hào này khiến ta nhớ đến trường hợp trương Lương. Trương Lương sau khi giúp Bái Công thống nhất Trung Nguyên, uy tín lừng lẫy, liền xin rút lui qui ẩn, đóng cửa từ khách, để tu tâm dưỡng tánh.

Con ông là Trương Tích Cường một hôm hỏi ông: Nay cha đã làm thầy của vua, ghe phen lập nhiều công lớn, làm quan tới chức tam công, lẽ thì ăn ngọc thực muôn chung, an hưởng giàu sang, lâu dài với nước, làm công thần muôn đời, cũng chẳng phải là quá lắm, sao lại đóng cửa từ khách, ở chỗ vắng vẻ mà chịu thanh khổ như vầy, là ý chi vậy?

Trương Lương nói: Con biết sao được, vả chăng trong đời mà ham giàu sang, là vui công danh đã được, mừng vinh hoa nhãn tiền, ngồi cao mà hưởng, nhất hô, bá ứng, thê thiếp đầy nhà, ca xướng đầy tai, thì đã gọi là cái chí bình sinh đã tột rồi, chứ chẳng có biết ngôi cao tột bực nhân thần, thì thiên hạ hay ghen ghét, trèo cao không lẽ mà không té, chứa đầy không lẽ không tràn; vua nghi mình quyền trọng, trời ghét kẻ đầy tràn; kẻ ghét đã mong lòng gấm ghé, người hiềm chờ dịp đẩy đưa, chẳng may mà cửu trùng sinh giận, nhiều miệng xúi nói vào, thì chừng ấy hết kẻ đỡ che, chạy đi đâu cho khỏi, có phải mình đã bị hại mà vợ con lại mang tai; phú quý vinh hoa phủi tay trong nháy mắt. Chi cho bằng vui chơi non nước, hưởng thú giang hồ, say túi càn khôn, giỡn bầu nhật nguyệt, riêng ở một nhà, vào ra thong thả, tuy ở vắng vẻ một mình mà trong lòng khoái lạc; thà ăn rau cỏ sớm trưa, mà toại chí tiêu dao, vinh nhục khỏi lo, không màng danh lợi, an thân bảo mạng, thong thả trọn đời, giữ trọn tiếng luong thần, chẳng hơn cuộc vinh hoa phú quý sao? Trương Tích Cường bái phục và nói rằng: nay con mới biết ý cha, ấy là đạo minh triết bảo thân đó.

ÁP DỤNG QUẺ ĐỘN VÀO THỜI ĐẠI

Nếu ta làm thương mại nhỏ, mà có kẻ mở cơ sở cùng nghề với ta, gần địa điểm thương mại của ta, nhưng lớn mạnh hơn ta, cốt ý chèn ép ta, thì ta phải lo rút lui, càng sớm càng tốt, sẽ đỡ bị thiệt hại hơn.

Nếu ta đi làm nơi hãng xưởng, mà gặp phải tiểu nhân có thế lực mạnh hơn ta, mà ta không thể thân thiện với họ được, vì bất đồng chính kiến, hoặc tư tưởng, thì ta cũng liệu tìm sở khác, để cho tâm tư thanh thản hơn, và để tránh những va chạm, có thể gây nguy hại cho mình sau này.

Nếu khi đã lập gia đình, mà phải ở chung với đại gia đình, thì ta phải biết lễ độ, kính trên, nhường dưới, nhưng nếu chẳng may sự kính nhường đó cũng không thể làm vừa lòng mọi người, thì ta nên cùng vợ hay chồng ra ở riêng một cách êm đẹp thì hơn.

Khi tuổi đã xế chiều, ta phải liệu từ bỏ bớt công việc, để đỡ hại cho sức khỏe, và phải giữ sao cho tâm thần thanh thản, nụ cười luôn nở trên môi, hướng về Thương Đế, chớ đừng lúc nào cũng than oán, cáu kỉnh, giận hờn, thì không nên vậy. ta nên như câu thơ này:

Răng long đầu bạc mặc tình,

Đừng bao giờ nói rằng mình già nua.

Thần thông trời đã phú cho,

Bạc đầu, lòng vẫn phởn phơ, nhẹ nhàng.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:03, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
4 Thiên Địa Bĩ



Thiên Địa Bĩ



Bĩ Tự Quái


否 序 卦

Thái giả thông dã.


泰 者 通 也

Vật bất khả dĩ chung thông.


物 不 可 以 終 通

Cố thụ chi dĩ Bĩ.


故 受 之 以 否



Bĩ Tự Quái

Thái là thông suốt, thông lầu,

Muôn loài hồ dễ gót đầu hanh thông.

Cho nên Bĩ khởi lao lung...



Bĩ là Âm Dương cách trở, trời đất cách trùng, cho nên vạn vật lâm cảnh bế tắc.

Bĩ là thời kỳ tiểu nhân lũng loạn chính quyền, mặc tình làm mưa, làm gió; còn người quân tử thì lại bất đắc dụng, bất phùng thời. Cái gì xui nên sự bế tắc, sự chia ly ấy? Chính là sự thái thịnh. Tại sao? Vì khi thịnh, con người dân dần bớt cố gắng, bớt đề phòng, bớt giữ ý, và bắt đầu đi vào con đường xa hoa hưởng thụ.

Nói rằng: Bĩ tự Thái sinh, cũng y như Dostoievski đã viết: Căn nguyên của sự chiến tranh chính là cảnh thái bình (Max Scheller, L'Idée de la Paix et le Pacifisme, p. 71).

Quẻ Bĩ ứng vào thời kỳ mà con người lấy vật chất làm trọng tâm, lấy sự đấu tranh làm phương châm hàng động, lấy sự thỏa mãn thị hiếu, thị dục làm cứu cánh, lấy sự thành công bên ngoài làm tiêu chuẩn mà đánh giá con người. Thời ấy tất cả cái đẹp đẽ đều phô ra ngoài, con người trở nên phù phiếm, phiến diện. Đạo đức, nhân nghĩa cũng hời hợt nơi đầu môi, cửa miệng, và được lồng vào những lễ nghi bên ngoài, được giăng mắc nơi đâu đường, xó chợ, dưói hình thức bích chương và biểu ngữ... nhưng trên thực tế, đạo đức, nhân nghĩa đã rời khỏi lòng con người.

Người quân tử khi thái bình, thì phải biết đề phòng họa hoạn; lúc gặp cơn đen, vận túng, thời phải biết ẩn dật, chờ thời, cố giữ lấy lề xưa, cách cũ, cố tài bồi cho văn hóa khỏi suy vong, chờ cho đến khi thời cơ xoay chuyển đem đại vận, đem hanh thông trở lại.

Thái, Bĩ là hai quẻ tương phản nhau. Nhân tâm tốt hay xấu, thiên vận sẽ xoay theo. Tích thiện thời cho gặp may, tích ác thời cho gặp dở. Nếu muốn biết thời vận Bĩ, Thái ra sao, thì chỉ xem lòng người tốt hay xấu là rõ. Ta thấy, trong Thái có Bĩ, trong Bĩ có Thái, đó là lẻ Ỷ Phục của Trời đất.



I. Thoán.

Thoán Từ.

否 . 否 之 匪 人 . 不 利 君 子 貞 . 大 往 小 來 .

Bĩ: Bỉ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh. Đại vãng tiểu lai.

Dịch.

Thoán Từ.

Bĩ là lúc con người chia rẽ,

quân tử trinh bền, sẽ chẳng may.

Lớn đi, nhỏ lại từ đây...



Thoán Truyện.

Thoán viết.

否 之 匪 人 . 不 利 君 子 貞 . 大 往 小 來 . 則 是 天 地 不 交 . 而 萬 物 不 通 也 . 上 下 不 交 . 而 天 下 無 邦 也 . 內 陰 而 外 陽 . 內 柔 而 外 剛 . 內 小 人 而 外 君 子 . 小 人 道 長 . 君 子 道 消 也 .

Bĩ chi phỉ nhân. Bất lợi quân tử trinh. Đại vãng tiểu lai. Tắc thiên địa bất giao nhi vạn vật bất thông dã. Thượng hạ bất giao nhi thiên hạ vô bang dã. Nội Âm nhi ngoại Dương. Nội nhu nhi ngoại cương. Nội tiểu nhân nhi ngoại quân tử. Tiểu nhân đạo trưởng. Quân tử đạo tiêu dã.

Dịch.

Thoán rằng: Bĩ, vì người chia rẽ,

Quân tử trinh bền, sẽ chẳng may,

Lớn đi, nhỏ lại từ đây,

Là vì Trời đất, đôi nơi quải gàng.

Quần sinh bế tắc trăm đàng,

Dưới trên ly cách, suy tàn quốc gia.

Âm trong, Dương bị đẩy xa.

Trong mềm, ngoài cứng, phô ra mẽ ngoài.

Tiểu nhân lên mặt thầy đời,

Lòng thời ti tiện, mặt thời cao sang.

Tiểu nhân thi triển lối đường,

Còn người quân tử, mối giường ai hay.



Thoán Từ & Thoán Truyện cho rằng Bĩ là thời kỳ đảo điên, chia rẽ, thời kỳ mà nhân nghĩa, đạo lý của người quân tử trở nên lỗi thời, lạc hậu, thời kỳ mà tiểu nhân làm chủ chốt, quân tử đứng chầu rìa; thời kỳ mà tiểu nhân lên hương, quân tử xuống dốc; thời kỳ mà giang sơn, gấm vóc mất ý nghĩa cao đẹp của nó, trở thành những chiêu bài cho tiểu nhân mưu cầu danh lợi. Dịch nói: Thiên hạ vô bang, cũng như Á Nam Trần Tuấn Khải than:

Giang san này vẫn giang san,

Mà nay sẻ nghé, tan đành vì ai?

Tóm lại, Bĩ là thời kỳ mà con người không còn thực thi nhân đạo nữa (Bĩ phi nhân).

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰 . 天 地 不 交 . 否 . 君 子 以 儉 德 辟 難 . 不 可 榮 以 祿 .

Tượng viết: Thiên địa bất giao. Bĩ. Quân tử dĩ kiệm đức tị nạn.

Bất khả vinh dĩ lộc.

Dịch.

Tượng rằng: Trời đất quải gàng,

Mỗi bên, mỗi ngã, đôi đàng chẳng giao.

Hiền nhân đức cả, tài cao,

Liệu bề che dấu, cốt sao thoát nàn.

Đừng mong lợi lộc, vinh quang.

Tiểu nhân đắc thế, ẩn tàng là hơn.



Gặp thời kỳ đảo điên, lòng người đổi trắng, thay đen như vậy, người quân tử hãy nên quy ẩn, đừng để cho bả lợi danh làm hoen ố lý tưởng và đạo nghĩa của mình.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

1. Hào Sơ lục.

初 六 . 拔 茅 茹 . 以 其 彙 . 貞 吉 亨 .

象 曰 . 拔 茅 貞 吉 . 志 在 君 也 .

Sơ lục. Bạt mao như. Dĩ kỳ vị. Trinh cát hanh.

Tượng viết.

Bạt mao trinh cát. Chí tại quân dã.

Dịch.

Hào Sơ lục, cỏ gianh khi nhổ,

Nhổ một cây, cụm bủa lên theo.

Chính mình sẽ được may nhiều.

Tượng rằng: Cỏ gianh nhổ được tốt lành,

Là vì tâm trí vẫn dành thờ vua.

Theo đà tư tưởng ấy, Trình tử khi bình giải Hào Sơ đã cho rằng khi đã cần phải rút lui, người quân tử phải rút lui toàn bộ, với tất cả mọi đồng chí mình, như vậy mới hay.

Chu Hi thì giải ngược lại, mà cho rằng: Kẻ tiểu nhân mới ra cầm quyền, cũng chưa có dịp làm gì ác lộ liễu, nên Thánh nhân mới khuyên họ hãy theo chính đạo mà trị dân, trị nước, nếu được như thế sẽ hay, vì như vậy tiểu nhân sẽ trở nên quân tử, mà giang san, đất nước sẽ có phần nhờ.



2. Hào Lục nhị.

六 二 . 包 承 . 小 人 吉 . 大 人 否 亨 .

象 曰 . 大 人 否 亨 . 不 亂 群 也 .

Lục nhị. Bao thừa. Tiểu nhân cát. Đại nhân bĩ hanh.

Tượng viết:

Đại nhân bĩ hanh. Bất loạn quần dã.

Dịch.

Hào hai: bao bọc, nghe theo,

Tiểu nhân như vậy, có chiều hay ho.

Khi người quân tử sa cơ,

Cố cùng, nhưng vẫn chẳng lo khốn cùng.

Rồi ra sẽ được hanh thông.

Tượng rằng:

Đại nhân khi bĩ, vẫn hanh,

Không hề cẩu thả, liên minh cùng người.

Hào hai cho rằng tiểu nhân cầm quyền, nếu còn biết nể nang, nghe theo, đỡ đầu người quân tử thời cũng hay, cũng tốt. Tuy nhiên, người quân tử không nên làm gì để đến nỗi tổn thương đến thanh danh, giá trị, lý tưởng của mình, và cũng không thể như phượng hoàng thất thế phải theo đàn gà được.



3. Hào Lục tam.

六 三 . 包 羞 .

象 曰 . 包 羞 . 位 不 當 也 .

Lục tam. Bao tu.

Tượng viết.

Bao tu. Vị bất đáng dã.

Dịch.

Lục tam: mang lấy nhuốc nhơ.

Tượng rằng: mang lấy nhuốc nhơ,

Là vì ngôi vị đang là dở dang.

Hào ba cho rằng tiểu nhân cầm quyền, tuy bên ngoài thì cao kiêu, ngất ngưỡng như vậy, nhưng thực ra họ vẫn tự thẹn với lòng, vì biết mình không xứng đáng với chức vị.



4. Hào Cửu tứ.

九 四 . 有 命 無 咎 . 疇離 祉 .

象 曰 . 有 命 無 咎 . 志 行 也 .

Cửu tứ. Hữu mệnh. Vô cữu. Trù ly chỉ.

Tượng viết:

Hữu mệnh. Vô cữu. Chí hành dã.

Dịch.

Mệnh Trời đã có trong thân,

Nên không vấp vướng, lỗi lầm, đơn sai.

Đến Hào bốn, ta thấy cơ Trời đã bắt đầu xoay chuyển. Người anh hùng trị Bĩ đã bắt đầu lộ diện. Đó là bậc cương minh chi tài, có sứ mệnh phục hưng lại thời cuộc, và có đông bè bạn vui lòng phụ bật, để làm nên đại cuộc.



5. Hào Cửu ngũ.

九 五 . 休 否,大 人 吉 . 其 亡 其 亡 . 繫 于 苞 桑 .

象 曰 . 大 人 之 吉 . 位 正 當 也 .

Cửu ngũ. Hưu bĩ. Đại nhân cát. Kỳ vong kỳ vong. Hệ vu bao tang.

Tượng viết:

Đại nhân chi cát. Vị chính đáng dã.

Dịch.

Cơn đen, vận bĩ đã lui,

Đại nhân đã gặp được hồi hay ho.

rằng nguy, rằng hỏng mới là,

Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc ràng.

Tượng rằng:

Đại nhân được tốt, được lành.

Là vì địa vị phân minh, đàng hoàng.



Đối với người hùng có tài kinh bang, tế thế, có tài đem lại an bình, khang thái và đạo đức lại cho nhân quần đó, Dịch kinh khuyến cáo hãy biết lo lường, biết thận trọng, thì mới tạo nên được những thành quả vững bền.

Hệ Từ quảng luận hào này như sau:

Nguy thay, kẻ tưởng vững ngôi,

Táng vong, kẽ ngỡ thảnh thơi, trường tồn.

Loạn là, kẻ tưởng trị an,

(Tưởng an, khinh thị, ly loàn mới sinh)

Cho nên quân tử giữ mình,

Đương yên, mà vẫn nhớ dành cơn nguy.

Đương còn, vẫn sợ mất đi,

Nước yên, mà vẫn phòng khi ly loàn.

Biết lo, thân mới được an,

Biết lo, nên mới bảo toàn quốc gia.

Dịch rằng:

Rằng nguy, rằng hỏng mới là,

Khóm dâu vững chãi, thiết tha buộc ràng.



6. Hào Thượng Cửu.

上 九 . 傾 否 . 先 否 後 喜 .

象 曰 . 否 終 則 傾 . 何 可 長 也 .

Thượng cửu. Khuynh bĩ. Tiên bĩ hậu hỉ.

Tượng viết:

Bĩ chung tắc khuynh. Hà khả trường dã.

Dịch.

Cơn đen, vận bĩ hết rồi.

Trước thời bế tắc, sau vui mới là.

Tượng rằng: Bĩ cực, Thái lai,

Có gì trường cửu ở đời này đâu?

Thánh nhân kết thúc quẻ Bĩ bằng một niềm vui, bằng chữ Hỉ, và cho rằng cơn đen, vận bĩ cũng có lúc phải cùng. Đó là một bài học dạy cách xử thế hết sức là thâm thúy, nó là phản ánh đường lối chung của Dịch Kinh., mà ta có thể tóm tắt như sau: Lúc thái thịnh, thì chớ nên kiêu sa, buông thả, lúc nguy bĩ thì chớ nên thất vọng, chớ nên nạn lòng. Thế mới là:

Khi hay phải biết lo toan,

Khi cùng phải biết thi gan với đời.

ÁP DỤNG QUẺ BĨ VÀO THỜI ĐẠI

Bĩ vào thời kỳ tiểu nhân lên cầm quyền. Tiểu nhân cầm quyền thì chỉ có lớp người thống trị là sung sướng, còn dân con sẽ điêu linh. Đi vào lòng con người lúc ấy, ta chỉ thấy dâm bôn, uế tạp, thấy ác độc, đố kỵ. Lòng con người trở nên đêm trường tăm tối, vì đã vắngười bóng mặt trời nhân nghĩa, lòng con người đã trở nên sa mạc khô khan, vì đã làm khô cạn hết nước suối thương yêu.

Lúc ấy, xã hội cũng như cá nhân ưa lấy thiên lý, thiên đạo làm phấn sáp tô điểm cho vẻ bên ngoài thêm lộng lẫy, mà bên trong là cả một bãi tha ma nhân dục, là cả một hang ổ trộm cướp.

Cái xã hội, cái cảnh đời mà quẻ Bĩ muốn nói ra ấy, đã được tác giả (Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ) tả ra bằng những vần thơ sau đây:

Đời là chi, đời là một hý trường,

Lấy áo mão, đem thay chân giá trị.

Mới thoạt nhìn, tưởng ngọc ngà thanh quý,

Để tâm dò mới thấy rặt bùn đen,

Vỏ nhân nghĩa, mà ruột chặt kim tiền,

Mặt đạo đức , nhưng lòng đầy gươm giáo.

Đời là chi, mà sao đầy giả tạo,

Bán tài tình, bán cả đến phấn son,

Bán khoé mắt, bán cả trái tim non,

Đem cao thượng mà tô lòng đen bạc.

Chén rượu đời, pha phách bao chua chát,

Tấm kịch đời, chan chứa cảnh đoạn trường,

Phiên chợ đời, tan, hợp, mấy tang thương,

Đường lối đời, rắc reo đầy cạm bẫy,

Đời nói đẹp, nhưng đời chuyên làm bậy,

Hứa trăm voi, không được bát sáo suông.

Mặt thần thánh, mà lòng dạ chim muông,

Khéo luồn cúi, huênh hoang, thôi cũng khéo.

Lý tưởng ngầm là khéo vơ, khéo đẽo,

Đem văn minh, khoác lốt sống kiêu sa,

Lòng con người nhem nhọ bụi phù hoa,

Thích phù phiếm, thích lợi danh và tàn bạo.

Ôi giả tạo, biết bao là giả tạo,

Sau bức tranh, thế sự đẫm vàng son.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:13, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
5 Phong Địa Quán
Phong Địa Quán



Quán Tự Quái


觀 序 卦

Lâm giả đại dã.


臨 者 大 也

Vật đại nhiên hậu khả quan.


物 大 然 後 可 觀

Cố thụ chi dĩ Quán.


故 受 之 以 觀



Quán Tự Quái

Lâm là cao đại vượt tầm,

Lớn rồi sẽ được xa gần ngắm trông.

Cho nên Quán mới lâm vòng.



Quẻ Quán có 2 cách đọc. Nơi quẻ thì đọc là Quán, nơi Hào thì đọc là Quan. Quẻ Quán có 2 Hào Dương ở trên, 4 Hào Âm ở dưới, chẳng khác gì Cao đăng viễn chiếu = đèn cao chiếu xa, lại có Hào Cửu ngũ đắc trung, đắc chính làm chủ Hào, nên Thoán Từ toàn đem ý ở ngôi trời trị dân, phải treo cao gương đức cả, cho chúng dân nhìn vào, nên lúc ấy đọc là Quán.

Còn trong Tượng Truyện & các Hào, Quan có nghĩa là nhìn, là trông, vì Dịch kinh chủ trương rằng: người quân tử hay bậc quân vương phải có cái nhìn cho sâu rộng, cho tinh tế.

*Trước là phải Quan Thiên chi đạo để Pháp Thiên chi hành = quan sát Đạo Trời để thi hành Luật Trời.

*Sau là phải quan sát dân tình, để tùy nghi thiết giáo.

*Cuối cùng, là phải quan sát tâm tư, tài đức của mình, tức là phải biết nội quan quán chiếu.

I. Thoán.

Thoán Từ.

觀: 盥 而 不 荐,有 孚 顒 若。

Quán. Quán nhi bất tiến. Hữu phu ngung nhược.

Dịch. Thoán Từ.

Trang trọng như rửa tay hành lễ.

Lòng tinh thành xá kể của dâng,

Thấy ta thành tín, thủy chung,

Hạ dân âu cũng sinh lòng kính tin.

Thoán nhấn mạnh rằng: bậc nhân quân ở ngôi cao, vạn dân trông vào, ngưỡng mộ, phải ăn ở sao cho tâm tư thuận với thiên lý (Khôn = thuận), hành vi phù hợp với Thiên đạo (Tốn = thuận tốn), chí trung, chí chính (Hào Cửu ngũ đắc trung, đắc chính).

Vị Thánh quân xưa ở chốn triều ca, tức là ở ngôi Trung cung = Hoàng cực, phải lo sao đức hạnh tuyệt vời, vì ở ngôi Hoàng cực, nhà vua sẽ là môi giới giữa Trời và Dân, sẽ thay dân tế Trời, thay Trời trị dân, giáo hóa dân, chỉ đường trung chính cho dân theo.

Thoán Truyện.

彖 曰: 大 觀 在 上,順 而 巽,中 正 以 觀 天 下。觀,盥 而 不 荐,有 孚 顒 若,下 觀 而 化 也。觀 天 之 神 道,而 四 時 不 忒, 聖 人 以 神 道 設 教,而 天 下 服 矣。

Thoán viết.

Đại Quán tại thượng. Thuận nhi tốn. Trung chính dĩ quán thiên hạ. Quán quán nhi bất tiến. Hữu phu ngung nhược. Hạ quan nhi hóa dã. Quan thiên nhi thần đạo nhi tứ thời bất thắc. Thánh nhân dĩ thần đạo thiết giáo. Nhi thiên hạ phục hĩ.

Dịch. Thoán Truyện.

Gương cao treo ở trên đời,

Thuận Thiên, Tồn lý, rạng ngời chính trung,

Chiếu soi thiên hạ khắp cùng,

Trang nghiêm như lúc khởi công tế thần,

Rửa tay, mà hết tinh thành,

Chưa cần dâng lễ, thần minh chứng rồi.

Uy nghi, tin kính rạng ngời.

Dân xem cảm động, cảm rồi noi gương.

Kìa Trời thần diệu khôn lường,

Bốn mùa theo đúng phép thường chuyển luân.

Thánh nhân ảo diệu như thần,

Âm thầm dạy dỗ, chúng dân phục tùng.



Thoán Truyện cho rằng: Dạy dân có nhiều cách:

1) Bằng Thần đạo = đường lối Trời. Theo cách này, nhà vua chỉ cần chí thành, chí thiện, trang nghiêm, kính cẩn, tập trung tinh thần, không để cho tinh thần phôi pha, phá tán, sẽ âm thầm ảnh hưởng đến muôn dân, sẽ âm thầm cảm hóa được muôn dân. Thế là bắt chước được đường lối Trời, vì Trời âm thầm, lặng lẽ, mà bốn mùa vẫn vần xoay, không hề đơn sai. Đó là lối cảm hóa cao siêu nhất, vì thế nên gọi Thần đạo thiết giáo.

2) Dạy dân bằng những lời giáo hoá, bằng mệnh lệnh.

3) Dạy dân bằng hành vi, cử chỉ, tiếp nhân, xử thế của mình.

Dĩ nhiên, hai lề lối sau, vì còn có hình thức, ngôn từ nên kém lối thứ nhất xa. Đức Khổng nói: Dùng miệng lưỡi hay kiểu cách bên ngoài, cảm hóa dân lối ấy rất nên thô thiển. Ngoài ra, Thoán cũng nhắc nhở rằng sự tế tự thần minh, là cốt ở lòng thành kính, chứ không cốt ở lễ dâng.

Lòng thành tín mạnh mẽ nhất, sự tập trung tinh thần mạnh mẽ nhất là từ lúc vị chủ tế rửa tay, cho đến lúc đổ rượu xuống đất cầu xin Thượng đế giáng lâm, còn sự dâng của lể xin ơn chỉ là tùy thuộc. Vì thế mà Đức Khổng mới nói: Trong tế lễ Thượng đế, khi đã đổ rượu xuống đất, xin Thượng đế giáng lâm rồi, thì ta chẳng muốn xem nữa ( Tử viết: Đế, Tự quán nhi vãng giả, ngô bất dục quan chi hỹ) (LN III, 10).

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰: 風 行 地 上,觀﹔ 先 王 以 省 方,觀 民 設 教 .

Tượng viết: Phong hành địa thượng. Quán. Tiên vương dĩ tỉnh phương quan dân thiết giáo.

Dịch. Tượng rằng:

Gió bay trên đất là Quan,

Tiên vương thăm thú dân gian xa gần,

Thăm dân, để hiểu biết dân,

Tùy nghi giáo hóa, mười phân vẹn mười.



Tượng và Hào đều bàn đến nghĩa Quan = Quan sát. Vì thế Tượng Truyện mới khuyên nhà vua, phải đi quan sát dân tình, để biết đời ra sao, như vậy mới giáo hóa được dân.

Xưa kia vua đi tuần thú thường quan sát:

1) Ruộng đất có được trồng trọt phải phép hay không?

2) Người già cả có được chăm sóc không?

3) Cân lường, đấu hộc có được chính xác không?

4) Sự buôn bán có được phồn thịnh không?

5) Đời sống dân ra sao, sung túc hay nghèo khó; khỏe mạnh hay yếu đuối; đứng đắn hay dâm ô; cần kiệm hay hoang phí. Nhân đó sẽ tùy cơ dạy dỗ dân.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

1. Hào Sơ Lục.

初 六 : 童 觀,小 人 無 咎,君 子 吝。

象 曰: 初 六 童 觀,小 人 道 也。

Sơ Lục. Đồng Quan. Tiểu nhân vô cữu. Quân tử lận.

Tượng viết:

Sơ Lục đồng quan. Tiểu nhân đạo dã.

Dịch.

Nhìn đời mờ mịt như con trẻ,

Ấy lối nhìn của kẻ tiểu nhân,

Chẳng ai trách kẻ ngu đần,

Trách người quân tử biện phân chẳng rành.

Tượng rằng:

Nhìn đời như thể trẻ thơ,

Ấy là cung cách mù mờ, tiểu nhân.

Hào Sơ dạy chúng ta phải mở mắt mà nhìn đời cho tinh tế, cho thấu triệt, chớ đừng bắt chước trẻ con hay kẻ tiểu nhân, có mắt mà chẳng nhìn thấy gì. Uổng thay cho những ai có mắt mà chẳng biết nhìn đời, cứ ỷ lại vào kẻ khác trông hộ, cắt nghĩa đời hộ cho mình.

Quân tử mà như vậy, chẳng đáng trách lắm sao?



2. Hào Lục nhị.

六 二 : 窺 觀,利 女 貞。

象 曰: 窺 觀 女 貞,亦 可 丑 也。

Lục nhị. Khuy quan. Lợi nữ trinh.

Tượng viết:

Khuy quan nữ trinh. Diệc khả xử dã.

Dịch.

Nhìn đời như thể đàn bà,

Nhìn qua khe cửa, ngỡ là đã hay.

Tượng rằng:

Như nhi nữ dòm qua khe cửa,

Người đường hoàng như thế hổ thay.

Hào Hai dạy chúng ta phải nhìn thẳng vào cuộc đời, đừng sợ sệt tránh né như thói nữ nhi. Nhìn đời mà nhìn qua lỗ khoá, thì làm sao thấy nhiều, thấy rộng được. Y thức như ếch ngồi đáy giếng coi trời bằng vung. Ta hãy có cái nhìn bao quát vũ trụ, bao quát lịch sử, bao quát năm châu, như vậy mới khỏi thẹn cho thân quân tử.



3. Hào Lục tam.

六 三 : 觀 我 生,進 退。

象 曰: 觀 我 生,進 退 ﹔未 失 道 也。

Lục tam. Quan ngã sinh tiến thoái.

Tượng viết:

Quan ngã sinh tiến thoái. Vị thất đạo dã.

Dịch.

Một mình ngẫm nghĩ phân minh,

Dở hay, tiến thoái, âu đành tùy ta.

Tượng rằng:

Xét mình tài đức ra sao,

Rồi ra tiến thoái nhẽ nào sai ngoa.

Hào ba cho rằng: muốn biết phải tiến hay phải thoái, hãy xét mình là người đã có đủ tài đức hay chưa? Có đủ tài đức, đó là tiêu chuẩn chính xác nhất.

Đức Khổng khuyên môn đệ là Tất điêu Khai ra làm quan. Tất Điêu Khai từ tạ mà rằng: Tôi chưa tự tin ở tài đức mình. Đức Khổng lấy thế làm vui dạ (LN V, 5).



4. Hào Lục tứ.

六 四 : 觀 國 之 光,利 用 賓 于 王。

象 曰: 觀 國 之 光,尚 賓 也。

Lục tứ. Quan quốc chi quang. Lợi dụng tân vu vương.

Tượng viết:

Quan quốc chi quang. Thượng tân dã.

Dịch.

Nhìn thấy nước huy hoàng rực rỡ,

Phải làm sao gặp gỡ quân vương.

Tượng rằng: Thấy nước huy hoàng,

Mong sao gặp được quân vương mà phò.



Hào tứ khuyên rằng: Khi trong nước mà có minh quân, tài đức chiếu rạng non sông, thời mình nên tìm cách triều bái mà phục vụ. Xưa kia, một vị chư hầu lai triều, hay một hiền sĩ tới yết kiến vua, đều được đãi theo hàng tân khách, chờ ngày bổ nhiệm. Vì thế trong Hào Bốn, mới nói đến lợi dụng tân vu vương.



5. Hào Cửu ngũ.

九 五 : 觀 我 生,君 子 無 咎。

象 曰: 觀 我 生,觀 民 也。



Cửu ngũ. Quan ngã sinh. Quân tử vô cữu.

Tượng viết:

Quan ngã sinh. Quan dân dã.

Dịch.

Nếu ta tự xét lấy ta,

Mới là quân tử, mới là tao nhân.

Tượng rằng: Ta tự xét ta

Xem ta hay dở, cùng là xem dân.

Nhà vua ở ngôi cao, phải xét mình xem mình đã đi theo đúng đường lối trung chính, chí thiện chưa. Rồi lại phải xem dân tình nhờ mình mà đã cải tiến được là bao. Nếu xét mình, xét dân mà hay cả, mới là không đáng trách. Người xưa có câu:

Con người chẳng những soi bóng nước,

Còn phải ngắm mình trước gương dân.



6. Hào Thượng Cửu.

上 九 : 觀 其 生,君 子 無 咎。

象 曰: 觀 其 生,志 未 平 也。



Thượng Cửu. Quan kỳ sinh. Quân tử vô cữu.

Tượng viết:

Quan kỳ sinh. Chí vị bình dã.

Dịch.

Hiền nhân biết xét nét mình.

Mới hay, mới được thế tình kính tin.

Tượng rằng:

Hiền nhân biết xét nét mình,

Vì không tọa hưởng kỳ thành cầu an.

Hào sáu nói rằng: người quân tử tuy không trực tiếp trị dân, nhưng cũng phải luôn luôn giữ mình cho hẳn hoi, xét mình cho cẩn thận, chớ khinh xuất, vì ảnh hưởng của người quân tử đối vói chúng dân cũng rất là sâu rộng.

ÁP DỤNG QUẺ QUAN VÀO THỜI ĐẠI

Khi xưa, quẻ Quan muốn người trên làm vua, thay Trời trị dân, phải treo cao gương đức cả cho chúng dân nhìn vào.

Ngày nay, áp dụng quẻ Quan này vào Thời đại, cha mẹ hãy thay Trời mà dạy dỗ, đào tạo con cái mình, cho chúng trở thành người hữu dụng cho xã hội, nhân quần sau này. Hiện nay, ngoài học đường, giáo sư đã không còn có trách nhiệm giáo dục về đạo đức cho học trò mình như xưa nữa, mà các bậc phụ huynh thì lại quá bận rộn với cuộc sống hiện tại, nên sự giáo dục con cái có phần chểnh mảng, thiếu xót. Do đó con em như cây mọc giữa rừng hoang, may mắn thì được xử dụng đúng cách, chẳng may thì làm củi, hoặc đứng giữa rừng già, năm này qua năm khác chẳng ai biết tới.

Tôi, áp dụng quẻ Quan này vào sự giáo dục con em, mục đích muốn tiếp tay cùng với các bậc phụ huynh, ngõ hầu có thể mang lại phần nào hữu ích cho các em sau này. Theo thiển ý của tôi, nếu ta muốn có một đứa con khỏe mạnh, khi trưởng thành con ta sẽ là người tốt, và hữu dụng cho gia đình, xã hội, thì cũng chẳng có gì là quá khó khăn, nhưng người mẹ phải chịu hy sinh, chú ý Quan sát và Thực hành qua nhiều giai đoạn. Như vậy tôi nghĩ chỉ thích hợp cho quí vị nào muốn có ít con mà thôi. Tôi đã sưu tầm, đọc sách, học hỏi qua kinh nghiệm của người đi trước, nay mượn trang giấy này gởi đến quí vị, mong rằng nó làm nhẹ lòng cho những vị nào, vì quá lo sợ con mình mai sau sẽ hoang đàng, nên không dám nghĩ tới sinh con. Thật ra, có một người con hiếu thảo, tư cách đàng hoàng, siêng năng học hành, thì thật không có gì làm cho bậc làm cha mẹ sung sướng hơn. Sau đây, là những hiểu biết đơn sơ của tôi:

1) Thai giáo: Khi bắt đầu biết mình có mang, người mẹ không nên ăn những đồ nóng như ớt, tỏi, riềng v. v... , vì nó sẽ làm cho cơ thể đứa trẻ dễ sinh mụn nhọt, và tâm tính dễ nóng nẩy, mai sau. Chớ ăn đồ biển độc như bạch tuộc, mực, nghêu, sò v.v... sẽ làm cho đứa trẻ có chứng phong thấp. Hơn nữa, người mẹ chớ nên xem truyện, hay phim ảnh loại kích thích. Chớ nên uống rượu, sẽ dễ tạo cho đứa trẻ trở nên ngang bướng, nóng nẩy, đôi khi hung bạo, nếu người cha đã nóng nẩy, dữ dằn. Người mẹ phải luôn vui vẻ, do đó người chồng, khi vợ mang thai, phải chiều và nhường nhịn vợ, chớ để vợ mình luôn khóc lóc, vì đứa trẻ có thể sẽ trở nên thiếu nghị lực, ý chí sau này. Nên bố thí và làm việc thiện, nghĩ điều lành, lánh sự dữ, để tạo cho mình một sự thoải mái, và sự khỏe mạnh cho thai nhi.

2) Khi sinh ra, nếu đứa con được nuôi bằng sữa mẹ, thì tốt nhất, vì nó sẽ tạo tình thương giữa mẹ và con một cách đậm đà hơn.

3) Khi đứa trẻ bắt đầu hiểu biết, là ta phải quan sát nó kỹ càng, vì lúc này nó bắt đầu học theo cách ăn ở của những người xung quanh nó, do đó bậc cha mẹ phải làm gương cho con. Khi xưa, bà mẹ ông Mạnh Tử, góa chồng, chỉ có một mình ông Mạnh Tử là con. Ban đầu, bà thuê nhà ở cạnh một người đồ tể, chuyên giết heo, bà nhận thấy con bà bắt chước mổ heo. Lúc đó ông Mạnh Tử mới độ 4, 5 tuổi, bà thấy vậy liền dọn nhà, và đến ở cạnh một nghĩa địa. Bà nhận thấy con bà bắt chước người đi đưa đám mà khóc lóc, đắp mồ; bà liền dọn nhà đến cạnh một trường học, và bà thấy con bà cũng bắt chước học trò, cầm sách để đọc (Tích Mạnh mẫu trạch lân xử). Như vậy ta thấy cổ nhân có câu: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng là chí lý vậy.

Khi con cái bắt đầu khôn lớn, ta phải luôn luôn để ý đến nó, quan sát nó, xem nó có : Dễ dạy không? Thông minh không? Có đường hoàng, thẳng thắn không, hay thường nói dối, gian trá. Nếu nó có những khuyết điểm trên, thì ta phải truy ra ngọn ngành, tại sao nó có những thói xấu đó. Rồi ta sẽ tìm cách sửa chữa cho nó bằng nhiều cách: Răn dậy một cách nghiêm khắc hoặc dùng hành vi, cử chỉ, tư cách của mình để nó bắt chước. Chớ nên nuông chiều con một cách thái quá, hoặc lộ liễu, để trẻ nó nhờn, sẽ khó dạy.

Trẻ học hành kém cỏi, ta phải xem cơ thể nó có yếu đuối không? tinh thần nó ra sao, và phải bồi bổ cho nó được đầy đủ sức khỏe.

Muốn cho con ham thích học hành, điều cần thiết nhất là phải lưu ý đến sự học của con, dù là nó luôn đứng đầu lớp, để nó vui thích vì thấy bố mẹ luôn chú ý đến nó. Nếu nó yếu về môn gì, thì phải tìm thầy dạy bổ túc, kèm thêm cho nó đừng để nó bị thầy và bạn trong lớp chê bai, như vậy mỗi khi đến lớp học nó sẽ có cái mặc cảm tự ti, và do đó nó sẽ hay trốn học, và sự sa ngã sẽ đến với nó một cách dễ dàng

Nếu trường hợp đứa con không thể học chữ được, thì nên tìm nghề cho nó học, và phải cho nó học đến nơi, đến chốn. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh, ta nên luôn nhớ câu này. Trên đời chỉ có người dở, chứ không có nghề dở, nên con cái mà nghề nghiệp không ra gì, hoặc hoang đàng, thì chúng ta, những bậc cha mẹ cũng chịu một phần trách nhiệm vì đã thiếu sót trong sự dạy dỗ và quan sát con cái vậy.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:20, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
6 SƠN ĐỊA BÁC


SƠN ĐỊA BÁC



Bác Tự Quái


剝 序 卦

Bí giả sức dã.


賁 者 飾 也

Chí sức nhiên hậu


致 飾 然 后

Hanh tắc tận hỹ.


亨 則 盡 矣

Cố thụ chi dĩ Bác.


故 受 之 以 剝

Bác giả Bác dã.


剝 者 剝 也



Bác Tự Quái

Khi mà văn vẻ đàng hoàng,

Quá hay, rồi cũng sẽ tàn, sẽ suy.

Cho nên Bác tiếp chu kỳ.

Bác là bác lạc, suy vi, điêu tàn.



Quẻ Bác là một trong 12 quẻ dùng để chỉ sự vận chuyển tuần hoàn của guồng máy Âm Dương, của tiết khí, cũng như dùng để mô tả sự doanh hư, tiêu tức, sự thịnh suy, thăng trầm, tụ tán của vũ trụ và vạn vật.

Mười hai quẻ ấy là:

- Cấu, Độn, Bĩ, Quan, Bác, Khôn,

- Phục, Lâm, Thái, Đại Tráng, Quải, Kiền.

Ta nhận thấy:

Nơi 6 quẻ trên (Cấu... Khôn), Âm là chủ, và Dương biến dần thành Âm.

Nơi 6 quẻ dưới ( Phục ... Kiền), Dương là chủ, và Âm biến dần thành Dương.

Đó là sự biến hoá hai chiều, hai mặt của một thực thể là Thái Cực.

Cấu


Độn





Quan


Bác


Khôn











Âm trưởng, Dương tiêu


Phục Lâm Thái ĐạiTráng Quải Kiền

Dương trưởng, Âm tiêu

Mười hai quẻ Dịch tiêu tức của đồ hình trên:

Vòng Âm trưởng, Dương tiêu:

Cấu (tháng 5), Độn (tháng 6), Bĩ ( tháng 7)

Quan (tháng 8), Bác (tháng 9), Khôn (tháng 10).

Vòng Dương trưởng, Âm tiêu:

Phục (tháng 11), Lâm (tháng12), Thái (tháng 1)

Đ.Tráng (tháng 2), Quải (tháng 3), Kiền (tháng 4)

Thấu triệt đồ hình của 12 quẻ trên, ta sẽ hiểu lẽ biến dịch, tiết tấu của vũ trụ, của lịch sử nhân quần, và của vạn vật.

A. Về vũ trụ: Ta thấy rằng vũ trụ có tụ, có tán. Vũ trụ của chúng ta còn đang ở trong thời kỳ tán, và ngày nay đang tiến về phía biên. Nhờ phương pháp thâu quang phổ (Spectroscopy), và dựa vào định luật Dopper-Fizeau, các nhà Thiên văn học khám phá ra rằng các giải ngân hà đang đua nhau tiến về miền biên viễn, và vũ trụ y như là cái bọt xà phòng của trẻ con chơi đang được thổi phồng lên, theo lý thuyết của Georges Lemaître, đã được Hubble và Eddington xác nhận (Pierre Rousseau, Histoire de la Science, page.769).

B. Mười hai quẻ Dịch tiêu tức, (từ quẻ Cấu = tháng 5 ta, tới quẻ Khôn là tháng 10 ta, tức là Âm trưởng, Dương tiêu. Từ quẻ Phục = tháng 11 ta, tới quẻ Kiền là tháng 4, tức là Dương trưởng Âm tiêu) nói trên, còn được dùng để phác họa lại bộ mặt biến thiên của tiết khí, của bốn mùa. Quẻ Bác là quang cảnh từ tháng 9 ta trở đi, lúc mà Trời đem sương pha, tuyết phủ lên cỏ cây, làm cho cây trơ trụi lá, cành xơ xác cành. Lúc ấy, may mắn lắm, mới còn được một vài quả lủng lẳng trên những cành cao, còn lại được là vì người muốn ăn, mà ngại hái.

C. Xét về trào lưu Lịch sử: Bác là lúc mà vật đạo thịnh, thiên đạo suy; bao nhiêu cái hay, cái đẹp đều chạy ra ngoài bì phu, đều dồn cả vào vật chất. Đó là thời kỳ mà nhân loại chạy theo dục vọng, tiền tài, bỏ cái gốc là đức hạnh, mà chạy theo cái ngọn là danh lợi.

Xét về phương diện vật chất, thì đó là thời kỳ huy hoàng nhất, nhưng xét về phương diện tinh thần, thì đó là thời kỳ sa đọa nhất. Đó là thời kỳ tiểu nhân đánh trống, phất cờ, còn quân tử thì lao đao, lận đận, chạy được miếng ăn đã khó, giữ được thân là may.

Bác là bác lạc, suy tàn, Âm khí tăng, Dương khí giảm, tà thuyết thịnh, chính đạo suy. Đó là thời kỳ mà nơi kinh thành, thì thiếu lãnh tụ anh minh, ngoài đồng nội vắng hiền nhân, quân tử.

I. Thoán.

Thoán Từ.

剝:不 利 有 攸 往。

Bác. Bất lợi hữu du vãng.

Dịch. Thoán Từ.

Bác là rạn nứt, suy vi.

Làm gì, cũng chẳng ra chi nữa rồi.



Thoán Truyện. Thoán viết.

彖 曰: 剝,剝 也,柔 變 剛 也。 不 利 有 攸 往,小 人 長 也。順 而 止 之,觀 象 也。 君 子 尚 消 息 盈 虛,天 行 也。

Bác. Bác dã. Nhu biến cương dã. Bất lợi hữu du vãng. Tiểu nhân trưởng dã. Thuận nhi chỉ chi. Quan tượng dã. Quân tử thượng tiêu tức doanh hư. Thiên hành dã.

Dịch.

Bác là rạn nứt, suy vi.

Nhu toan thay đổi trọn bề Dương cương.

Làm gì cũng sẽ dở dang.

Tiểu nhân đang lúc nghêng ngang gặp thời.

Theo thời, dừng lại đi thôi,

Nhìn vào Tượng quẻ, cũng ngơi, cũng ngừng.

Hiền nhân, xin chớ băn khoăn,

Doanh hư, tiêu tức lẽ hằng xưa nay.

Lẽ trời có lúc vơi đầy,

Cũng khi tăng giảm, cũng ngày thịnh suy.

Thoán cho rằng: đó là thời kỳ tiểu nhân hoành hành, còn quân tử thì chẳng làm ăn dở dói gì được. Dịch kinh an ủi người quân tử hãy nên nhẫn nhục, hãy nên biết cơ trời, thời Trời vì: Sông có khúc, người có lúc.

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰: 山 附 地 上,剝﹔ 上 以 厚 下,安 宅。

Tượng viết: Sơn phụ ư địa. Bác. Thượng dĩ hậu hạ an trạch.

Dịch. Tượng rằng:

Bác là núi tựa đất dày,

Người trên hãy xử đặn đầy với dân.

Với dân đầy đặn ở ăn,

Rồi ra địa vị tư thân vững vàng.

Tượng từ tạm quên những chuyện phôi pha, bác lạc mà dạy ngược lại rằng: Khi người quân tử ở trên mà cầm quyền trị dân, phải biết chăm sóc cho dân, vì dân là nền tảng cho quốc gia. Dân có mạnh, thì nước mới bền; dân có hay thì mình mới vững. Mình mà mất dân thì cũng như là núi mất đất, sẽ không còn có nơi nương tựa, và cảnh suy vong, bác lạc sẽ đến.

Xét về Tượng quẻ: Quẻ Bác trên là 1 hào Dương liền, dưới là 5 Hào Âm, trông giống như cái giường có chân, có mặt; hay cái nhà có mái, có vách. Vì thế, Hào Sơ, Hào nhị, Hào tứ vẽ ra một cảnh phá giường. Trước tiên chặt chân giường (hào1), rồi phá khung giường (hào 2), Kế đến thang giường, rồi lại xoay tới cả đến người nằm ngủ trên giường (hào 4).

III. Hào từ & Tiểu Tượng Truyện

1. Hào Sơ Lục.

初 六: 剝 床 以 足,蔑 貞 凶。

象 曰: 剝 床 以 足,以 滅 下 也。

Sơ lục. Bác sàng dĩ túc. Miệt trinh hung.

Tượng viết.

Bác sàng dĩ túc. Dĩ diệt hạ dã.

Dịch

Sơ lục. Chân giường phá hủy,

Phá Cương thường, đạo lý xấu thay.

Tượng rằng:

Phá hủy chân giường,

Tiêu hao gốc rễ, Cương thường, mới nghe.



2. Hào Lục nhị.

六 二 : 剝 床 以 辨,蔑 貞 凶。

象 曰: 剝 床 以 辨,未 有 與 也。

Lục nhị. Bác sàng dĩ biện. Miệt trinh hung.

Tượng viết:

Bác sàng dĩ biện. Vị hữu dữ dã.

Dịch.

Hào Lục nhị: Thang giường bị phá,

Phá cương thường thêm nữa, xấu thay.

Tượng rằng:

Bác mà không bị chê bai,

Là vì đã biết xa rời dưới trên.



Hào Sơ & Hào Nhị có ý nói: Tiểu nhân có nhiều thủ đoạn để hãm hại người quân tử. Khi họ đắc thế, có bày có bọn, mà quân tử thời lẻ bạn, lẻ bày, cô thân, cô thế, họ sẽ tìm cách hãm hại người quân tử. Họ làm cho người quân tử mất công, mất việc, mất cơ sở sinh nhai, mất cả môi trường hoạt động, mất sự an lạc tĩnh lãng, hồn nhiên. Ví như người quân tử có cái giường, mà tiểu nhân đến chặt chân cho khập khiễng, đến phá thang, cho hư, cho gẫy (hào 1 & 2).



3. Hào Lục tam.

六 三 : 剝 之,無 咎。

象 曰:剝 之 無 咎,失 上 下 也。

Lục tam. Bác chi vô cữu.

Tượng viết:

Bác chi vô cữu. Thất thượng hạ dã.

Dịch

Không xu phụ với tiểu nhân,

Thế nên tránh được mọi phần chê bai.

Tượng rằng:

Bác mà không bị chê bai,

Là vì đã biết xa rời dưới trên.

Tuy nhiên, không phải là ai cũng xấu. Có những người tuy bề ngoài về phe phái với tiểu nhân, nhưng trong lòng vẫn hướng về người quân tử, vẫn muốn ám trợ người quân tử. Đó là như Trần Bình không nỡ chuốc rượu cho Bái Công nơi Hồng Môn hội yến, để Bái Công khỏi bị say sưa mà thất thế; sau lại còn giúp cho Bái Công đào tẩu (Tây Hán Chí, Thanh Phong dịch, trang 131).



4. Hào Lục tứ.

六 四 : 剝 床 以 膚,凶。

象 曰: 剝 床 以 膚,切 近 災 也。

Lục tứ. Bác sàng dĩ phu. Hung.

Tượng viết:

Bác sàng dĩ phu. Thiết cận tai dã.

Dịch.

Đẽo giường, đẽo cả đến da,

Đã đành rằng xấu, biết là mấy mươi.

Tượng rằng:

Đẽo giường, đẽo cả đến da,

Thế là tai họa, nguy cơ gần kề.

Chẳng những hại cho mất công ăn việc làm không thôi, kẻ tiểu nhân còn muốn vạc da, đẽo thịt người quân tử, làm cho lầm than, điêu đứng, mới vui, mới thỏa.



5. Hào Lục ngũ.

六 五 : 貫 魚,以 宮 人 寵,無 不 利。

象 曰: 以 宮 人 寵,終 無 尤 也。

Lục ngũ. Quán ngư. Dĩ cung nhân sủng. Vô bất lợi.

Tượng viết:

Dĩ cung nhân sủng. Chung vô cữu dã.

Dịch.

Thống lĩnh quần Âm, thuận phục Dương,

Y như Vương Hậu dẫn cung nương,

Lũ là, lũ lượt, in sâu cá,

Được chuộng, lại không lỗi đạo thường.

Tượng rằng:

Hướng dẫn cung phi được sủng ân.

Cơ sự rồi ra chẳng lỗi lầm.

Hơn thế nữa, có những người đã lên tới bậc lãnh tụ quần Âm, đã thống xuất cả bầy, cả đảng tiểu nhân, mà có khi còn biết xướng xuất giắt nhau trở về cùng chính nghĩa. Đó là trường hợp vua A- Dục đem dân trở về cùng Phật giáo, vua Constantin, vua Clovis đem dân trở về cùng Công Giáo...



6. Hào Thượng Cửu.

上 九 : 碩 果 不 食,君 子 得 輿,小 人 剝 廬。

象 曰: 君 子 得 輿,民 所 載 也。 小 人 剝 廬,終 不 可 用 也。

Thượng Cửu. Thạc quả bất thực. Quân tử đắc dư. Tiểu nhân bác lư.

Tượng viết:

Quân tử đắc dư. Dân sở tải dã. Tiểu nhân bác lư. Chung bất khả dụng dã.

Dịch:

Chưa ăn, quả lớn vẫn treo cây.

Quân tử được xe, thế mới hay,

Tiểu nhân ví thử manh tâm hại,

Mái nhà giật sập, ở đâu đây?

Tượng rằng: Quân tử được xe,

Vì dân mến chuộng, chẳng hề đổi thay,

Mái nhà giật đổ nào hay,

Cuối cùng tay trắng, trắng tay, bẽ bàng.



Gặp thời Bác, tức thời đảo điên, ly loạn, thì số người quân tử còn lại rất là thưa thớt, y như vài quả may ra còn sót lại đầu cành. Tuy ít, nhưng đó chính là hứa hẹn cho sự phục sinh tinh thần sau này, và chính cũng là bằng chứng chính nghĩa, chẳng bao giờ có sức gì làm suy vong, tiêu diệt được. Mà lạ hơn nữa, người quân tử khi ấy vẫn được dân kính, dân tôn, vẫn có thể còn được lên xe, xuống ngựa. Kẻ tiểu nhân nếu cố tâm hủy diệt cho tận tuyệt quân tử, cho tận tuyệt chính nghĩa và đạo lý. thì có khác chi con người ngu dại, tự nhiên đem kéo sập nhà mình đang ở, rồi ra sẽ lấy gì che nắng, che mưa, Thế chính là Hàm huyết phún nhân, tiên ô tự khẩu (Ngậm máu phun người, trước bẩn miệng mình).

ÁP DỤNG QUẺ BÁC VÀO THỜI ĐẠI

Trời đất, quốc gia, cũng như con người chúng ta luôn tuần hoàn, đầy rồi lại vơi, vơi rồi lại đầy, thịnh rồi lại suy, suy rồi lại thịnh, nhưng đến thời kỳ Bác là thời kỳ suy tàn nhất.

- Về Trời đất, Bác thuộc tháng 9, lúc đó Âm khí tăng, Dương khí giảm, thời tiết bắt đầu sang mùa đông, cây cỏ bắt đầu Cây trơ trụi lá, cành sơ xác cành. Nơi miền Cực Bắc, thì sương tuyết đầy đường, năng lực Trời Đất tiêu hao, vạn vật như không còn sức để triển dương.

- Đối với Quốc Gia, thì thiếu người tài giỏi chỉ huy, mọi người trở nên cao ngạo, nhố nhăng, sống gặp hay chăng chớ. Đó là thời kỳ nhiễu nhương, ly loạn, sẻ nghé, tan đàn. Đó là thời kỳ:

Trời làm một trận lăng nhăng,

Ông lại xuống thằng, thằng lại lên ông.

- Đối với cá nhân con người , thời quẻ Bác là thời khốn khổ, suy vi nhất. Trong cảnh tha hương này, số người gặp phải thời quẻ Bác không phải là ít. Thất nghiệp, không nhà ở, không thân thích, không tiền bạc, nếu lại gặp cảnh yếu đau nữa, thì sự khổ sở không sao tả xiết. Gặp hoàn cảnh này, họ rất dễ bị xa ngã, nếu họ chẳng may gặp phải kẻ chẳng ra gì, lợi dụng sự khốn khó của họ để đưa họ vào con đường bất chính. Những người không may này, nếu sớm biết hồi tỉnh, trở về chánh nghĩa, thì chẳng đáng bị chê trách. Còn những người, sống được sự giúp đỡ của bố mẹ, của chính quyền để ăn học, nhưng đã chơi bời phóng túng, bỏ bê học hành, lười biếng không chịu làm ăn, để đến nỗi thân tàn, ma dại; hoặc những người đã có gia đình, đã có công ăn, việc làm hẳn hoi, nhưng vì quá tự mãn, coi mình là nhất thiên hạ, không còn lo lắng gì về tương lai, sẵn có uy tín nên vay mượn dễ dàng, đâm ra bài bạc, lâu dần công nợ chồng chất, thậm chí còn đánh đập vợ để lấy tiền cờ bạc. Rốt cuộc, cửa nhà tan nát, vợ con ly tan. Đó thật là thời Bác không tới mình, mà mình tự đi tìm thời Bác vậy. Những loại người kể trên này, nếu không kịp thời tỉnh ngộ, ăn năn, hối cải thì sớm muộn gì cũng sẽ đi đến tình cảnh tang thương, không gì cứu vãn nổi.

Đời sống của chúng ta, nếu TRỜI HẠI TA, thì ta còn cứu ta được, bằng sự cố gắng, cầu tiến, tiết kiệm, chịu khó. Nhưng nếu TA TỰ HẠI TA, thì không ai cứu nổi. Ta luôn luôn phải ghi nhớ câu này.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:25, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
7 HỎA ĐỊA TẤN


HỎA ĐỊA TẤN



Tấn Tự Quái


晉 序 卦

Vật bất khả dĩ chung tráng


物 不 可 以 終 壯

Cố thụ chi dĩ Tấn


故 受 之 以 晉

Tấn giả tiến dã.


晉 者 進 也



Tấn Tự Quái

Mạnh rồi, chẳng lẽ mạnh suông,

Cho nên quẻ Tấn vẽ đường tiến lên,



Tấn là tiến lên, sáng láng, rục rỡ, như mặt trời mọc lên dần dần, tỏa ánh quang huy ra khắp mọi nơi.

Dịch Kinh có 3 quẻ đề cập đến sự tiến triển.

- Một là Tấn, là mặt trời tiến lên. Hai là Thăng, là cây từ lòng đất vươn lên. Ba là Tiệm, là cây từ sườn non vươn lên. Trong ba quẻ, thì Tấn là phát triển, thẳng tiến mạnh nhất. Quẻ Tấn trên là Ly, có nghĩa là quang minh, dưới là Khôn, có nghĩa là nhu thuận. Thượng minh, hạ thuận, tức là ứng vào một hoàn cảnh mà vua thời minh, tôi thời hiền, dưới trên tương đắc.

I. Thoán.

Thoán Từ.

晉:康侯用錫馬蕃庶,晝日三接。

Tấn. Khang hầu. Dụng tích mã phồn thứ. trú nhật tam tiếp.

Dịch. Thoán Từ.

Tấn như một vị khang hầu

Được ban nhiều ngựa, ngày chầu ba phiên.

Thoán đề cập đến một vị khang hầu, giúp vua trị an đất nước, được vua hết sức sủng ái, ban cho ngựa xe đầy rẫy, lại còn cho vào triều kiến một ngày mấy lần. Kinh Thi, Đại nhã, Thiên hàn Dịch có tả cảnh Hàn Hầu, dòng dõi vua Đại Võ, về triều yết kiến vua Chu Tuyên Vương (827-781), được vua này hết sức trọng đãi, và ban cho cờ, xe, và nhiều đồ quý giá để trang hoàng cho xe ngựa.

Xuân Thu Tả Truyện có chép rằng: năm Hi Công thứ 28, Tấn Hầu là Tấn văn Công Trùng Nhĩ về triều kiến vua Bình Vương, cũng đã được vua này phong cho làm bá và đã được vào triều yết tất cả là ba lần.

Thoán Truyện.

彖曰: 晉,進也。 明出地上,順而麗乎大明,柔進而上行。

是以康侯用錫馬蕃庶,晝日三接也。

Thoán viết:

Tấn. Tiến dã. Minh xuất địa thượng. Thuận nhi lệ hồ đại minh.

Nhu tiến nhi thượng hành. Thị dĩ khang hầu. Dụng tích mã phồn thứ.

Trú nhật tam tiếp dã.

Dịch.

Thoán rằng: Tấn ấy tiến lên,

Sáng từ mặt đất, sáng lên rõ ràng.

Thuận thừa nương ánh dương quang,

Mềm từ dưới thấp, nhịp nhàng tiến lên.

Nên rằng: hầu tước uy quyền,

Được ban nhiều ngựa, ba phiên ngày hầu.



Thoán Truyện, giải Tấn là Tiến. Vừng Dương từ chân trời, lừng lững tiến mãi lên, tung tỏa quang huy, chiếu soi cùng muôn vật, vì thế nên gọi là Tấn. Tấn, về phương diện nhân sự, ứng vào thời có quân minh, thần trung; thần thì một lòng thần phục đấng minh quân; đấng minh quân thời biết khuất kỷ, hạ hiền. Vì thế mới nói: Tấn. Tiến dã. Minh xuất địa thượng. Thuận nhi lệ hồ đại minh.

Quẻ tấn là từ quẻ Quan biến thành. Hào Lục tứ quẻ Quan tiến lên thành Hào Lục ngũ quẻ Tấn; vì thế nên nói: Nhu tiến nhi thượng hành. Những quẻ kép, mà có Ly ở trên, thường hay có chữ Nhu tiến nhi thượng hành. Nơi quẻ Phệ Hạp, thì lại nói: Nhu đắc trung nhi thượng hành, nhưng ý cũng như vậy.

II. Đại Tượng Truyện.

象曰: 明出地上,晉﹔君子以自昭明德。

Tượng Viết:

Minh xuất địa thượng. Tấn. Quân tử dĩ tự chiêu minh đức.

Dịch. Tượng rằng:

Lửa từ mặt đất tấn cao.

Nên người quân tử chuốt chau tính Trời.



Người quân tử thấy mặt trời từ lòng đất mọc lên, cũng bắt chước làm cho tàn lửa thiên chân trong mình ngày một thêm sáng tỏ.

- Mặt trời, vốn quang minh; bị trái đất che khuất mới không sáng soi được.

- Thần trong ta, vốn quang minh; bị dục tình che khuất mới không sáng soi được.

Vậy chúng ta phải khử nhân dục, thì vừng Dương thiên lý trong ta mới bừng sáng lên được.

Dịch muốn cho chúng ta, đi đến chỗ phối thiên huyền hóa. Cho nên mới khuyên ta tự cường bất tức, để theo gương trời tự chiêu minh đức, làm rạng tỏ vầng sáng thiên chân trong tâm hồn ta, để tranh huy với vùng dương của Trời đất.

Mới hay lời khuyên của Dịch vừa hay, vừa sâu sắc.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

1. Hào Sơ lục.

初六: 晉如,摧如,貞吉。 罔孚,裕無咎。

象曰: 晉如,摧如﹔獨行正也。 裕無咎﹔未受命也。

Sơ lục. Tấn như tồi như. Trinh cát. Võng phu. Dụ vô cữu.

Tượng viết:

Tấn như tồi như. Độc hành chính dã. Dụ vô cữu. Vị thụ mệnh dã.

Dịch. Sơ lục.

Tiến lên, mà bị cản lui,

Lòng luôn minh chính, âu thời mắn may.

Ví bằng đấy chửa tin đây,

Lâng lâng, thanh thản lòng này quản chi,

Vậy thời nào có lỗi gì?

Tượng rằng:

Tiến lên, mà bị cản lui,

Thi hành chính đạo, âu thời riêng ta.

Lâng lâng, thanh thản khoan hòa,

Là vì lộc nước, mệnh vua chưa từng.



Hào Sơ lục là bước đâu tiên của một hiền thần, trên con đường tiến thân. Muốn tiến lên, mà lại bao khó khăn, trắc trở còn đang chờ đợi. Vì thế Hào từ mới nói: Tấn như tồi như, tiến lên mà bị ngăn chận, bắt phải lui.

Trong trường hợp ấy, hãy biết chờ thời, ăn theo lẽ phải, ung dung, thanh thản, sống cho qua ngày, đừng nóng lòng vội, tiến như vậy mới khỏi lỗi lầm.

Hàn Tín từ Hàm Dương băng rừng, vượt suối, để về thần phục Bái Công. Tuy Hàn Tín có thư của Trương Lương tiến cử với Bái Công để lãnh chức Nguyên Nhung nhưng Hàn Tín không chịu đưa bức thư ấy ra vội.

Bái Công mới đầu không tin Hàn Tín có tài, nên chỉ cho làm một chức quan nhỏ coi lương hướng; nhưng Hàn Tín không lấy thế làm buồn, vẫn ra sức làm phận sự cho chu toàn. Thật là Võng phu. Dụ vô cữu.

Khi người chưa tin mình, mình cứ sống ung dung, thanh thản, mới tránh khỏi lỗi lầm. Vả lại mình chưa cơm nặng áo dầy của ai, thì việc chi mà chẳng sống cho tiêu sái (Dụ vô cư. Vị thụ mệnh dã).



2. Hào Lục nhị

六二: 晉如,愁如,貞吉。 受茲介福,于其王母。

象曰: 受之介福,以中正也。

Lục nhị.Tấn như sầu như. Trinh cát. Thụ tư giới phúc vu kỳ vương mẫu.

Tượng viết;

Thụ tư giới phúc. Dĩ trung chính dã.

Dịch. Lục nhị.

Tiến lên lòng những âu sầu,

Một niềm minh chính, trước sau tốt lành.

Rồi ra phúc lộc quân doanh,

Là vì trung nghĩa, phân minh đường hoàng.



Hào Lục nhị, tượng trưng những bậc thần tử có tài, muốn tiến lên, cho vua biết mặt, chủ biết tên, nhưng bị những quan chức triều đình úy kỵ, ghét ghen, cố dìm, không để cho xuất đầu lộ diện được. Trong trường hợp ấy, cũng vẫn phải cư xử cho phải phép, chóng chầy rồi sẽ được vinh hoa, quyền cao, chức trọng, vì thế Hào từ mới nói: Tiến như sầu như. Trinh cát. Thụ tư giới phúc vu kỳ vương mẫu. Chữ Giới đây nghĩa là lớn. Chữ vưong mẫu đây ám chỉ Hào Lục ngũ, tức là vua.

Tiết nhân Quý là một anh tài xuất chúng, ra đầu quân để đi Chinh Đông giúp vua Đường, chém tướng phá thành, mà bao công lao đều bị Trương Sĩ Quý gạt gẫm chiếm hết cho con rể là Hà Tôn Hiến. Mãi mãi, chỉ là một tên Hỏa đầu quân, đến nỗi một đêm phải nhìn trăng mà than rằng: Trăng ôi! Trăng có biết ta là Tiết Nhân Quý đứng đây; vì công danh nên bị khổ, bấy năm chày khóa hải Chinh Đông, biết bao công khó, chẳng hay chúa thượng có rõ nỗi lòng, chớ ở Nguyệt Tụ Hiệu này hoài, thì cực thân quá đỗi.

Nghĩ như bọn quân kia, có nhiêu người còn hớn hở, kẻ thì tiền công, người thì rượu thưởng, vui vầy, còn ta chịu khó nhọc phá thành này, lấy lũy nọ, suốt đòi làm Hỏa Đầu quân, mãi mãi vậy thôi. Biết ngày nào trả đặng ơn dầy, đền nghĩa nặng, còn vợ con nơi hang đá, ấm lạnh cũng chẳng hay. Trăng ôi! Trăng dẫu biết, cùng chẳng biết, lòng nghĩ riêng, bi thiết mà thôi. (Chinh Đông, trang 120).

Mãi sau này, khi một ngựa, một kích, đánh bại Cáp Tô Văn, cứu được vua Đường Thế Tôn, mới dần dần khôi phục được công lao. Lấy chuyện Tiết Nhân Quý, để giải thích Hào Lục nhị này, tưởng không gì thích hợp hơn.



3. Hào Lục tam.

六三: 眾允,悔亡。

象曰: 眾允之,志上行也。

Lục tam. Chúng doãn. Hối vong.

Tượng viết:

Chúng doãn chi. Chí thượng hành dã.

Dịch. Lục tam.

Mọi người ý hợp, tâm đầu,

Còn đâu hối hận, còn đâu phàn nàn.

Tượng rằng: Mọi người ý hiệp, tâm đầu,

Con đường tiến bộ, cùng nhau thượng hành.



Hào Lục tam. Khi một vị anh tài đã được mọi người kính phục, thì bấy giờ bước tiến sẽ thanh thản, và không còn gì bận lòng nữa. Khi Hàn Tín đã đem sở học của mình, làm cho Tiêu Hà, Đằng Công phục rồi, bấy giờ mới mang thư tiến cử của Trương Lương ra cho họ xem. Tiêu Hà, Đằng Công lại một phen nữa bảo tấu cho Hàn Tín.

Bái Công, sau khi đã rõ đầu đuôi, mới phục tài Hàn Tín, mới chịu lập đàn bái tướng, phong Hàn Tín làm Phá Sở Đại Nguyên Soái. Thế đúng là: Chúng doãn chi. Chí thượng hành dã.



4. Hào Cửu tứ.

九四: 晉如碩鼠,貞厲。

象曰: 碩鼠貞厲,位不當也。

Cửu tứ. Tấn như thạng thử. Trinh lệ.

Tượng viết:

Thạch thử trinh lệ. Vị bất đáng dã.

Dịch. Cửu tứ.

Tiến mà như chuột, hay chi,

Gian manh như chuột, ắt khi nguy nàn.

Tượng rằng:

Gian manh như chuột, ắt nguy,

Vị ngôi chẳng xứng, ắt khi lỡ làng.



Hào Cửu tứ là một Hào Dương, nằm sát ngay dưới Hào Lục ngũ, nhưng lại đè trên 3 hào Âm. Như vậy chẳng khác nào một gian thần che mắt vua, mà đè nén người có công ở dưới. Triều đình xưa nay, thường hay có hạng gian thần này. Dịch Kinh sánh họ với những con chuột đồng. Chuột đồng thì tham ăn, sợ người, sợ ánh sáng; ngày nấp, đêm ra. Những bọn gian thần cũng tham quyền cố vị; úy kỵ kẻ hiền tài, lại chuyên làm những điều ám muội.

Vì thế nói: Tấn như thạng thử. Trinh lệ.

Trong Kinh Thi, Ngụy Phong cũng có bài thơ Thạch Thử để mà chi; trích bọn tham quan này.



5. Hào Lục ngũ.

六五: 晉其角,維用伐邑,厲吉無咎,貞吝。

象曰: 維用伐邑,道未光也。

Lục ngũ. Hối vong. Thất đắc vật tuất. Vãng cát vô bất lợi.

Tượng viết:

Thất đắc vật tuất. Vãng hữu khánh dã.

Dịch. Lục ngũ.

Hết còn hối hận, phàn nàn,

Cuộc đòi thành bại, chẳng màng, chẳng lo,

Khi nên, trời sẽ giúp cho,

Rồi ra muôn sự tròn vo, êm đềm.

Tượng rằng: Đắc thất chẳng màng,

Việc gì rồi cũng muôn vàn mắn may.



Lục ngũ, tượng trưng bậc đại minh, mà người dưới đều thuận phục, như vậy làm gì chẳng nên, có việc gì mà phải ăn năn nữa. Vì thế nói: Lục ngũ, Hối vong.

Ngự Án cho rằng: Lục ngũ là vị khang hầu, và cũng là chủ quẻ Tấn này, vì Thoán Từ nói đến một vị khang hầu được đãi ngộ hẳn hoi. Thoán Truyện lại nói: Nhu tiến nhi thượng hành. Thoán Từ đòi hỏi vị khang hầu phải là người hoàn hảo. Những người tiến lên, mà còn nhỏ nhen, bo bo chuyện đắc thất, Ngự Án coi họ như là con chuột đồng, hay những kẻ phàm phu. Còn những bậc đại công thần, thì chỉ biết tận trung báo quốc, không màng đến chuyện được mất, lợi hại.

Ngược lại, các nhà bình giải lại cho rằng: Lục ngũ là một vị anh quân, khi đã tìm được hiền thần phụ bật rồi, thì đừng nên quá quan tâm về chuyện đắc thái, như vậy mới hay.

Chữ đắc thất vật tuất, đây phải hiểu là được, mất chớ lo. Người xưa cho rằng: mình hãy lo nghị luận chi xác đáng, đừng lo lợi lộc, hãy lo làm cho đạo nghĩa sáng tỏ, đừng kẻ công lao. (Nhân chính, kỳ nghị, bất mưu kỳ lợi, minh kỳ đảo, bất kể kỳ công).

Trương Trung Khê bình rằng: Lục ngũ là một vị quân chủ biết làm sáng tỏ đức sáng của mình, nên thiên hạ, thần dân ai cũng thuận phục, như vậy không còn gì phải phàn nàn.

Nếu mà lại có thể giữ cho lòng không bị hệ lụy, bởi những chuyện đắc thất, không để cho ưu tư làm hao tổn lao lung, rồi cứ đường ấy mà tiến, thì làm gì mà chẳng hay, chẳng lợi.

Vì thế mới nói: Thất đắc vật tuất. Vãng cát vô bất lợi



6. Hào Thượng cửu

上九: 晉其角,維用伐邑,厲吉無咎,貞吝。

象曰: 維用伐邑,道未光也。

Thượng Cửu. Tấn kỳ giác. Duy dụng phạt ấp. Lệ cát. Vô cữu. Trinh lận.

Tượng viết: Duy dụng phạt ấp. Đạo vi quang dã.

Dịch. Thượng củu.

Tiến mà tiến độc đôi sừng,

Ấp mình riêng trị, trị chừng ấy thôi.

Biết nguy, biết hiểm, may rồi,

Trị binh khéo léo, âu thời lỗi chi.

Nếu như sinh dụng quyền uy,

Ưa dùng võ lực, thế thì tiếc thay.

Tượng rằng: Đánh độc ấp mình,

Nghĩa là đạo đức chưa thành quang hoa.



Thượng Cửu nói: Tấn Kỳ giác. Tiến bằng sừng, tức là đã hết đường tiến rồi, đã tiến đến cùng rồi.

Lúc ấy Trình Tử cho rằng cần phải biết tự trị, tự xử cho hay, lại phải biết đề phòng nguy hiểm, mới tốt.

Chữ Duy dụng phạt ấp của Hào này được Trình Tử giải như sau: Chinh phạt tứ phương là trị ngoại, chinh phạt ấp mình là trị nội. Nói phạt ấp tức là nói tự trị phía bên trong. Ngự Án cũng cho rằng, khi đã tiến đến cùng rồi, hãy lo giữ mình, đừng làm điều sằng bậy; ở nhà thì lo giáo hóa con cái, cai trị tôi đòi, khi ra ngoài thì giao thiệp cho nghiêm cẩn. Bằng cứ một mức tiến nữa, dẫu may mà chẳng gặp hiểm nguy, nhiều khi vẫn thấy tự thẹn với lòng.

Có nhiều nhà bình giải lại cho rằng: lúc Tấn đã đến cùng cực, nếu cần phải dùng võ lực, để sửa trị ấp mình thì cũng được đi, không có gì đáng trách (Duy dụng phạt ấp. Lệ cát. Vô cữu). Tuy nhiên, khi mà đức độ chưa đủ cảm lòng người, còn phải dùng võ lực để chinh phục người, thì kể ra cũng đáng hổ thẹn vậy (Trinh lận).

Áp dỤng quẺ TẤN vào thỜi đẠi.

Con người sinh ra đời, luôn luôn phải tiến lên, để theo kịp đà tiến hóa của nhân loại.

* Khi còn ở học đường, ta tiến lên bằng các chăm chỉ học hành, có điều gì không hiểu thì hỏi thầy, hỏi bạn, tìm hiểu thêm trong sách vở ở ngoài, chứ đừng tiến lên bằng nhưng thủ đoạn gian manh, bề ngoài thì có bằng cấp, nhưng thực tế thì kiến thức thu thập được ở học đường không bao lăm, ra ngoài khó kiếm việc làm, tạo cảnh dở khóc dở cười.

* Khi đang làm việc, muốn tăng lương, tăng chức, thì phải chăm chỉ, nghiên cứu thêm để có nhiều sáng kiến mới, phải mang những sáng kiến đó lên thượng cấp của mình. Nhưng khi mình đã được trọng dụng rồi, thì phải tùy theo trí thông minh và sức khoẻ của mình mà tiến lên, chứ đừng cố gắng tối đa, (nhất là những người ở thành phần phát minh, phải cần có bộ óc cực kỳ sáng suốt), có thể gây ra sự suy nhược thần kinh, đó là điều quẻ Tấn muốn khuyên ta: Tiến nhưng đừng tiến vượt quá sức mình.

* Khi thấy mình là thành phần suất sắc, có khả năng đào tạo được một cơ sở độc lập, thì cứ mạnh bạo tiến lên, ví gặp khó khăn đừng nản chí, vì ở đòi có sự thành công nào mà không gặp khó khăn lúc ban đầu đâu.

Nhưng dù làm gì, cũng phải ngay thẳng, minh chính. Dùng mưu lược, thủ đoạn để bảo vệ mình thì không sao, nhưng để hãm hại người, mưu lợi cho mình, thì người quân tử không bao giờ làm.




TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:28, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
8 HỎA THIÊN ĐẠI HỮU
HỎA THIÊN ĐẠI HỮU





Đại Hữu Tự Quái


大 有 序 卦

Dữ nhân đồng giả.


與人 同 者

Vật tất quy yên.


物 必 歸 焉

Cố thụ chi dĩ Đại Hữu.


故 受 之 以 大 有



Đại Hữu Tự Quái

Được người, vật cũng theo chân về mình.

Cho nên Đại Hữu mới sinh.



Đại Hữu là giàu to, có lớn. Khi đã đồng tâm, hiệp ý với người rồi, tự nhiên của cải sẽ theo về. Vì thế, được lòng người sẽ giàu to, có lớn. Do đó quẻ Đại Hữu tiếp sau quẻ Đồng Nhân. Đại Hữu quan niệm rằng cầm đầu dân nước mà được lòng lê thứ, được lòng các bậc hiền minh, anh kiệt trong nước sẽ trở nên giàu có vô ngần. Đó cũng là chủ trương của Đại Học. Quẻ Đại Hữu còn dạy cách đem lại phú cường cho đất nước.

Đại Hữu trên có Ly là tâm, dưới có Kiền là Trời. Cái giầu có lớn lao nhất mà con người có thể có được nơi trần gian này là làm sao trong tâm khảm có Trời.

Chúng ta sẽ dùng quẻ Đại Hữu làm chiếc chìa khóa thần, chẳng những là để mở khóa then các đạo giáo, để tìm cho ra kho tàng châu báu, đã bị chìm ngập dưới nhiều tầng lơp bóng hình, ngôn ngữ, mà cũng còn là để mở cừa kho tàng tâm hồn ta, để tìm cho thấy tinh hoa của trời đất, ngọc châu vũ trụ, khuất lấp sau những bức tường nhân dục, và những khóa then của u mê.

A. Tân Ước cho rằng: Nước Trời ở trong ta (Luc 17, 20).

B. Đạo Phật cho rằng: Ngọc châu viên giác nằm tại liên hoa tâm. Mà liên hoa tâm đây không phai là những bông hoa sen nghìn cánh nở trong ao, trong hồ trần thế, mà chính là não, là tâm con người.

Vì thế, trong khi mà Thiền tông cho rằng phải Trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật, thì kinh Diệu Pháp Liên Hoa Kinh lại nói bóng bảy đến một người cùng tử, bó kho tàng châu báu muôn dật của nhà cha, mà đi làm tôi tớ ở phương xa. Người cha phải tốn công lắm mới tìm về được, du, dỗ lắm cuối cùng mới trao lại được cho hắn gia tài châu báu đó. Khi đã nhận được kho tàng rồi, người cùng tử đó mớ reo lên: ta vốn không lòng mong cầu, nay kho tàng châu báu này tự nhiên mà có.

Chúng ta chẳng hẹn mà gặp nhau nơi này, trên muôn vạn nẻo đường đời, truyền cho nhau những bí quyết của tiên nhân, rồi lại chia tay nhau, bước đi trên những con đường muôn vạn ngã, há chẳng phải vốn không có lòng cầu, mà nay kho tàng châu báu này tự nhiên mà đến hay sao.

C. Dở Áo Nghĩa Thư, Ấn Độ giáo mà suy, mà đọc, ta lại thấy bí quyết: Tâm nội hữu thiên = Hỏa Thiên Đại Hư hiện ra sáng quắc như vừng nhật giữa trong thanh.

Áo Nghĩa thư viết:

Dung quang Ngài khó mà cầu,

Mắt trần sau trước thấy sao được Ngài.

Biết Ngài trong dạ, ấy ai,

Tâm thần biết thế, muôn đời trường sinh.

Maitri Upanishad viết:

Tâm thường có 2 chiều, 2 vẻ,

Vẻ phàm phu và vẻ thanh cao.

Phàm phu, dục vọng rạt rào,

Lòng cố giữ thập phần tĩnh lãng,

Đứng ù lì, phá tán lòng ai.

Hòa đồng, hiệp nhất với Trời,

Ấy là tuyệt diệu, trên đời mấy ai.

Lòng chớ để pha phôi lạc lõng,

Tội tình chi, lóng ngóng Đông Tây,

Đáy lòng, giải thoát là đây,

Giác minh vô tận, cũng ngay đáy lòng.

Hãy cố gắng tập trung thần trí,

Thời oan khiên, phiền lụy tiêu tan,

Hòa đồng, phối hợp Atman,

Ấy là hạnh phúc muôn ngàn tả sao?

Diễm tuyệt ấy, lời nào tả xiết,

Chỉ tâm thần mới biết, mới hay.

Nước kia, nước nọ hòa hài,

Lửa phừng trong lừa, ai tài biện phân.

Khí pha khí, ai lần manh mối,

Đã hiệp rồi, khó nỗi hia ly,

Tâm thần mà nhập huyền vi,

Thời thôi trần cấu, còn chi bận lòng.

Lẽ giải kết ở trong hoàn võ,

Đều do tâm, dây nhợ mối manh,

Lụy là, bám víu sự tình,

Tâm không lụy vật, âu đành thần tiên.

Và còn nhiều sách như; Đạo Đức Kinh, Đại Thừa Chân Giáo (Cao Đài), đều có chủ trương Tâm nội hữu thiên = Thiên nhân hợp nhất.

Sau khi đã nói qua về những bậc thánh hiền đắc Thiên, đắc đạo, ta trở về quẻ Đại Hữu, với những lời bàn giải thực dụng, thực tế là làm thế nào trở nên giàu có, hùng mạnh.

I. Thoán.

Thoán Từ.

大 有 . 元 亨 .

Đại Hữu. Nguyên Hanh.

Dịch:

Quẻ Đại Hữu vì hay nên tốt.

Thoán Từ cho rằng vị quốc quân phải hoàn thiện, rồi ra công việc mới trôi chảy được (Nguyên hanh).

Thoán Truyện.

彖 曰 . 大 有 . 柔 得 尊 位 . 大 中 而 上 下 應 之 . 曰 大 有 . 其 德 剛 健 而 文 明 . 應 乎 天 而 時 行 . 是 以 元 亨 .

Thoán viết: Đại Hữu. Nhu đắc tôn vị đại trung. Nhi thượng hạ ứng chi. Viết Đại Hữu. Kỳ đức cương kiện nhi văn minh. Ứng hồ thiên nhi thời hành. Thị dĩ nguyên hanh.

Dịch. Thoán rằng:

Quẻ Đại Hữu: nhu cư tôn vị,

Ngôi đại trung muôn vẻ gồm thâu.

Dưới, trên, ứng hợp hồi đầu,

Trong lòng mạnh mẽ, ngoài mầu văn minh.

Thuận Trời, lại thi hành đúng lúc,

Thế cho nên hạnh phúc, hay ho.

Thoán Từ cho rằng vị quốc quân muốn trở nên hùng cường, phú hữu thực sự, cần phải được dân thương, dân tin và trọng, nghĩa là cần phải có uy tín đối vơi dân, từ như Hào Âm ở ngôi tôn cho chúng Dương, tức là chúng dân chầu về (Nhu cư tôn vị đại trung. Nhi thượng hạ ứng chi. Viết Đại Hữu). Ngự Án đề cao quan niệm cần phải đắc hiền tài, mới đi đến Đại Hữu. Như vậy cần phải có một vị nhân quân hư tâm há hiền, như vậy là lợi dụng được cái thông minh, kiến thức của thiên hạ, đó là đường đi tới Đại Hữu.

Chính quyền phải cương quyết và sáng suốt, phải viết thuận lòng dân, lòng Trời, phải biết cải biến theo Trời, luôn luôn theo được đà tiến hóa của thời gian và Lịch sử, để lèo lái con thuyền quốc gia cho hẳn hoi, cho vạn hảo, như vậy mới đi đến phú cường, mới được hanh thông mọi mặt (Kỳ đức cương kiện nhi văn minh. Ứng hồ thiên nhi thời hành).

Muốn cho nước phú cường, quân dân phải thực hiện được chữ Đại Hòa, Đại thuận; vua quan thì như tim óc, dân gian thời như tay chân, tuyệt đối tin cậy lẫn nhau, mới có thể thực hiện Đại Hữu, thực hiện phong doanh, cường thịnh.

II. Đại Tượng Truyện.

象 曰 . 火 在 天 上 . 大 有 . 君 子 以 竭 惡 揚 善 . 順 天 休 命 .

Tượng viết. Hỏa tại Thiên thượng. Đại Hữu. Quân tử dĩ át ác dương thiện. Thuận thiên hưu mệnh.

Dịch. Tượng rằng:

Đại Hữu là lừ trên Trời,

Hiền nhân xấu dấu, lành thời tán dương.

(Cho đời thêm đẹp, thêm hương).

Đúng theo đường lối, chủ trương của Trời.

Đại Học viết: Đức bản, tài mạt. Cái đức hạnh mới là cái chí quý trong một nước, cho nên bậc Nhân quân phải biết cổ xúy thiện, đức nơi con người, và phải biết kiềm chế, ức chế tính xấu trong dân. Dân có tinh thần mạnh mẽ, nước mới phú cường, dân có tinh thần bệnh hoạn, nước sẽ suy bĩ.

III. Hào Từ & Tiểu Tượng Truyện.

1. Hào Sơ Cửu.

初 九 . 無 交 害 . 匪 咎 . 艱 則 無 咎 .

象 曰 . 大 有 初 九 . 無 交 害 也 .

Sơ Cửu. Vô giao hại. Phỉ cữu. Gian tắc vô cữu.

Tượng viết:

Đại hữu sơ cửu. Vô giao hại dã.

Dịch. Sơ Cửu:

Không sa đọa vào vòng tệ hại,

Thế là hay, là phải, lỗi chi.

Sống mà chẳng quản gian nguy,

Rồi ra sẽ khỏi điều chê, tiếng cười.

Tượng rằng;

Thuở Đại Hữu còn thời Sơ Cửu,

Không lâm vòng tệ hại nhiễu nhương.

Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách, nên nước chỉ phú cường khi mỗi người dân biết nhất quyết không bao giờ làm điều gì di hại cho kẻ khác, và không ngại gian khổ.



2. Hào Cửu Nhị.

九 二 . 大 車 以 載 . 有 攸 往 . 無 咎 .

象 曰 . 大 車 以 載 . 積 中 不 敗 也 .

Cửu nhị. Đại xa dĩ tải. Hữu du vãng. Vô cữu.

Tượng viết:

Đại xa dĩ tải. Tích trung bất bại dã.

Dịch.

Xe lớn sinh ra là để chở,

Phải làm gì, khỏi hổ với ai.

Tượng rằng: Xe lớn chở chuyên,

Chở đầy đức hạnh, há gì rủi ro.

Nước chỉ phú cường, nếu mỗi người có tài, có đức, đều sẵn sàng phục vụ quốc gia, cố lo nho mình trở nên người có thực tài, thực đức, gánh vác nổi được những nhiệm vụ giao phó, chứ không đến nỗi đức bất xứng kỳ vị, mà nếm mùi thất bại chua cay.

Thân hệ bang gia chung hữu dụng,

Thiên sinh hào kiệt mạc ưng hư.

(Nguyễn Công Trứ)

3. Hào Cửu tam.

九 三 . 公 用 亨 于 天 子 . 小 人 弗 克 .

象 曰 . 公 用 亨 于 天 子 . 小 人 害 也 .

Cửu tam. Công dụng hưởng vu Thiên tử. Tiểu nhân phất khắc.

Tượng viết:

Công dụng hưởng vu Thiên tử. Tiểu nhân hại dã.

Dịch.

Hào Cửu tam; Công hầu chức trọng

Vì quân vương triều cống, chẳng sai,

(Một lòng trung nghĩ, chẳng ngơi)

Tiểu nhân noi nổi gương người được sao.

Tượng rằng: Công tước tuy cao,

Vẫn vì Thiên tử, há nào riêng tây.

Tiểu nhân ở dịa vị này,

Âu đành họa hại, tự tay chuốc vời.

Nước chỉ phú cường, khi chư hầu, hay những người có một phương, một cõi, không có đầu óc sứ quân, mà chỉ dốc lòng tận trung, báo quốc, luôn luôn tâm nệm rằng mọi sự mình dùng, mình hưởng, đều là ơn vua, lộc nước.

4. Hào Cửu tứ.

九 四 . 匪 其 彭 . 無 咎 .

象 曰 . 匪 其 彭 . 無 咎 . 明 辨 晰 也 .

Cửu tứ. Phỉ kỳ bành. Vô cữu.

Tượng viết:

Phỉ kỳ bành vô cữu. Minh biện triết dã.

Dịch.

Hào Cửu tứ: giầu có mà không ỷ,

Không ỷ mình, ai kẻ kêu ca,

Tượng rằng: giầu chẳng ỷ mình,

Mới là thông suốt, liễu minh chuyện đời.

Nước chỉ hùng mạnh khi mà các bậc đại thần không có ỷ sang, ỷ thế; ở ngôi cao không lấy làm vinh, mà chỉ lo phục vụ dân, lo sao thực hiện được phú cường, thái thịnh cho đất nước. Thế mới là sáng suốt.



5. Hào Lục ngũ.

六 五 . 厥 孚 交 如 . 威 如 ﹔吉 .

象 曰 . 厥 孚 交 如 . 信 以 發 志 也 . 威 如 之 吉 . 易 而 無 備 也 .

Lục ngũ. Quyết phu giao như. Uy như cát.

Tượng viết:

Quyết phu giao như. Tín dĩ phát chí dã. Uy như chi cát. Dị nhi vô bị dã.

Dịch.

Hào Lục ngữ: thành tâm đối xử.

Lại uy nghi, muôn sự sẽ hay.

Tượng rằng: Đối xử thành tâm,

Phát huy được chí chúng nhân xa gần,

Uy nghi hay, mới vẹn phần

Khiến người chẳng dám lần khân, khinh thường.

Nước chỉ phú cường khi mà con người trên có đủ tài năng, đức độ, có đủ lòng thành tín, gây được sự tin tưởng cho dân, và có đủ uy nghi để dân kính phục. Có uy tín, bậc lãnh đạo dân mới thực thi thái thịnh cho dân, cho nước được.



6. Hào Thượng cửu.

上 九 . 自 天 佑 之 . 吉 無 不 利 .

象 曰 . 大 有 上 吉 . 自 天 佑 也 .

Thượng Cửu. Tự nhiên hựu chi. Cát. Vô bất lợi.

Tượng viết:

Đại Hữu thượng cát. tự nhiên hựu dã.

Dịch.

Hào Thượng Củu: Trời cao phù hộ

Nên lợi, hanh, vẹn cả mọi bề.

Tượng rằng: Đại Hữu trên hay,

Là vì được sự tiếp tay của Trời.

Khi mà trong nước có đạo nghĩa hẳn hoi, dân chúng đua nhau theo điều hay, lẽ phải. Trên dưới một lòng cải tiến nhân sinh, cải tiến quốc gia, xã hội, để cho đời sống cộng đồng ngày thêm hoàn hảo, thêm thái thịnh, thì dĩ nhiên là thêm hoàn hảo, thêm thái thịnh, thì dĩ nhiên là theo đúng ý Trời. Đã thuận lòng Trời, dĩ nhiên là được Trời thương, Trời giúp, như vậy mà không hay sao được.



ÁP DỤNG QUẺ ĐẠI HỮU VÀO THỜI ĐẠI

Ngày nay, muốn tiến tới Đại Hữu, tức là tới phú cường, là phong thịnh, tới sự đồng tâm nhất trí của mọi người, là muốn chi đất nước giầu có, ta cần phải có một lành tụ anh minh, làm được cho mọi người nô nức, phấn khởi.

Lại nữa, mọi người cần phải có một khối óc sáng suốt, một tấm thân mạnh mẽ, biết tổ chức, biết chịu đựng, biết các định luật của Trời đất, của vạn vật, ngõ hầu có thể chế ngự, khai thác được ngoại cảnh, phải đồng tâm, hiệp lực, tùy thời, tùy thế mà hành động, dưới sự dìu dắt khôn ngoan của vị Nguyên thủ. Khi mà mọi tổ chức đã tinh tế, đã hoàn hảo, thì còn lo gì mà mọi sự chẳng xuôi. vả lại, một nước giầu có không phải nguyên vì tài vật bên ngoài phong doanh, phú thịnh, mà chính vì dân trong nước có một tâm hồn khang kiện, theo đúng được định luật Trời đất, đi theo được đường ngay, nẽo chính.

Cho nên muốn đánh giá mức giàu có của một dân nước, chẳng những phải bắc cân gia; trị các tài nguyên, các kỹ nghệ, các vấn đề kinh tế bên ngoài, mà cần phải dựa vào tiêu chuẩn tinh thần, đức độ nữa.

Hơn nữa, mọi người dân cũng đều phải giỏi giang, tháo vát, phải cố gắng lao tác, thì nước nhà mới đi tới phúc cường được. Ta hãy nhìn xem nước Hoa Kỳ, nước Nhật bản hiện nay, mọi người dân làm việc hết sức chịu khó, siêng năng. Họ hợp tác chặt chẽ với Chính Phủ, và tuân theo mệnh lệnh của Chính phủ, đồng thời Chính phủ cũng giúp đỡ, khuyến khích con dân phát triển tài năng đến mức tối đa: Cấp học bổng, cho vay dài hạn tiền cho những sinh viên ưu tú để ăn học cho tới lúc thành tài, để có thể mang tài năng của mình mà đóngười góp cho quốc gia, xã hội. giúp đỡ các nhà bác học để họ có đủ phương tiện mà theo đuổi nghiên cứu, phát minh ra những sáng kiến, ngõ hầu có thể giúp ích cho nhân loại mai sau.

Tổ chức được một xã hội văn minh, tinh tiến, đoàn kết, phú cường như vậy, thực là một điều quý báu nơi trần gian, vì thế gọi là Đại Hữu.

TL: Tượng hào vs tượng quẻ

Đã gửi: 21:38, 27/01/13
gửi bởi anhlinhmotminh
Hình ảnh