BÀN LUẬN VỀ TUẦN TRIỆT
Đã gửi: 22:31, 13/08/10
Từ xưa đến giờ Tuần Triệt là nổi ám ảnh của nhiều người , bao nhiêu người vì thấy nó nằm trong các cường cung má ăn không ngon ngủ không yên , biết bao nhiều bậc phụ huynh muốn con mình có 1 lá số đẹp mà tìm cách đẩy Tuần Triệt càng xa mệnh tài quan càng tốt . Vậy thật sự nó có đáng sợ như vậy chúng ta cùng nhau tìm hiểu về nó. Và thấy nó cũng dể thương và đắc dụng đấy chứ.
Hoả phùng không tắc phát, Kim phùng không tắc minh"
" Hỏa không tắc phát, Kim không tắc minh "
Hai câu trên cùng một ý và chữ "Minh" đây có nghĩa là "Kêu". Nghĩa là, trong ngũ hành, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi ngộ Không Vong, Triệt Không thì chỉ có 2 hành Hỏa và Kim còn hữu dụng.
Hỏa - thì bốc lên gặp Không thì càng "phát" vì không bị gì che lấp...
Kim - thì đặc gặp Không rỗng ví như cái chuông, thì đánh mới "kêu" vang...
Đó là suy luận theo ngũ hành tương tác, còn nói thêm nguyên lý TUẦN-TRIỆT thì là vầy...
TUẦN - là nói về một Tuần {đơn vị} có 10 ngày và cũng là muốn nói đến chỉ có 10 Thiên can mà lại có đến 12 Địa chi, thành ra sẽ có 2 ngày (địa chi) dư ra không nằm trong phạm vi Tuần đó...
Thế nên, lục thập hoa giáp có 6 Tuần bắt đầu bằng:
-- Tuần GIÁP TÍ... đến Quý Dậu là xong... dư ra Tuất và Hợi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP TUÂT... đến Quý Mùi là xong... dư ra Thân và Dậu; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÂN... đến Quý Tỵ là xong... dư ra Ngọ và Mùi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP NGỌ... đến Quý Mão là xong... dư ra Thìn và Tỵ; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÌN... đến Quý Sửu là xong... dư ra Dần và Mão; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP DẦN... đến Quý Hợi là xong... dư ra Tí và Sửu.
Vì không nằm trong tầm quản hạt của Tuần Giáp, nên 2 cung địa chi Mệnh lâm vào hiển thị sự vô kỷ (kỷ cương, kỷ luật) nói theo kiểu khó nghe, nói dễ nghe thì là dễ thích nghi, hòa nhập vì không bị gò bó bởi cương luật của Tuần Giáp đó nhưng đó cũng có nghĩa là sự bỏ rơi vô trợ nữa. Đã vô trợ mà không dễ thích nghi nữa thì CHẾT thôi!
Cho nên, điểm CĂN BẢN cần phải hiểu - đó là cách sống, lối sinh hoạt của người Mệnh bị Tuần không vong.
Tuy nhiên, Mệnh bị Tuần không vong có chính tinh đơn thủ, đồng thủ hoặc không có thì lại có những tính chất đặc cách ảnh hưởng của chính tinh chi phối lên trên mình đương số; thế nên Tuần không vong - không mang ý nghĩa là làm mất đi tính chất hoặc biến chất v.v.. của chính tinh và các sao tọa lạc trong cung ấy MÀ nên quán ra một bức tranh rộng về cách cục này như là HOÀN CẢNH SỐNG, MÔI TRƯỜNG vô trợ (muốn làm, tính làm) mà hoàn cảnh không thuận tiện cho tính tình, tính toán của cá nhân đó bộc phát thực chất của mình.
Ví dụ: Mệnh có Thái Dương cư Tỵ ngộ Tuần - đâu có nghĩa là người đó không sáng suốt, tính toán dỡ mà cứ gặp hoàn cảnh vô trợ không thuận tiện cho người đó ra tay, thì người đó kẹt cứng rồi - lấy gì mà tiến thoái. Cũng vậy, Mệnh có Hung Tinh ngộ Tuần thì vì hoàn cảnh không cho phát tác nên mới gọi là Hung Tinh Ngộ Chế chứ bản chất vẫn là "Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến v.v..."... con người mà!
TRIỆT - Tính theo cặp thiên can âm dương tương khắc tương hợp: Giáp-Kỷ, Ất-Canh, Bính-Tân, Đinh-Nhâm và Mậu-Quý ở những cung Thân-Dậu, Ngọ-Mùi, Thìn-Tỵ, Dần-Mão và Tí-Sửu.
Giáp khắc Kỷ nhưng lại là tương hợp vì rằng "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" ví như người nam chế phục đặng người nữ làm vợ - chứ như Giáp khắc Mậu là khắc triệt để; thế nên, để ý thì thấy tiếp như sau: Canh khắc Ất nhưng lại là tương hợp , Bính khắc Tân nhưng lại là tương hợp , Nhâm khắc Đinh nhưng lại là tương hợp và Mậu khắc Quý nhưng lại là tương hợp.
TRIỆT - chữ Hán Việt có thể viết theo bộ Sách (bước ngắn) nghĩa là "trừ bỏ, phá hủy, sửa làm" hay bộ Thủ (tay) nghĩa là "bỏ đi, trừ đi, cất đi" VÀ có khi viết với bộ Qua (binh khí: cái mác, đánh nhau: can qua) mà phát âm là TIỆT nghĩa là "cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" thì chữ Hán họ viết theo nghĩa TIỆT cho TRIỆT ở trên.
"cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" là như thế nào?
TRIỆT được an theo Ngũ Tí Độn cho các cặp Thiên can âm dương tương hợp tương khắc trên ví dụ như:
Giáp-Kỷ : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Giáp Tí đếm đến NhâmThân-QuýDậu thì an TRIỆT giữa 2 cung Thân-Dậu.
Ất-Canh : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Bính Tí đếm đến NhâmNgọ-QuýMùi thì an TRIỆT giữa 2 cung Ngọ-Mùi.
Bính-Tân : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Mậu Tí đếm đến NhâmThìn-QuýTỵ thì an TRIỆT giữa 2 cung Thìn-Tỵ
Đinh-Nhâm : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Canh Tí đếm đến NhâmDần-QuýMão thì an TRIỆT giữa 2 cung Dần Mão.
Mậu-Quý : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Nhâm Tí đếm đến Quý Sửu thì an TRIỆT giữa 2 cung Tí-Sửu.
Cách an của TUẦN thì sau Nhâm- Quý dư 2 địa chi cung lấy đó mà an định cho TUẦN - còn cách an của TRIỆT thì lại TRIỆT hai can cuối Nhâm và Quý vì được đúc kết ra cái lý TRỊ THỦY của vua Đại Vũ thành công nên được thấy thần quy (rùa thần) hiện lên ở sông Lạc trên lưng có một đồ hình nhiều vạch như ta biết đồ hình Lạc Thư ngày nay.
Nhưng nên rõ, đây là TRỊ để YÊN chứ không phải TRỊ để ĐOẠT thành ra người có Mệnh Thân bị TRIỆT là để ngăn ngừa, câu thúc những cái quá đà, đam mê thái quá ví như GIỚI vậy! Điều nữa nên biết về tính chất của THỦY là chảy mãi không ngừng, nên khi bị chặn lại thì nó xung kích trở ngược và dậy sóng nên còn được minh họa là lẩm liệt chi thủy. Nên TRỊ để YÊN khỏi vỡ bờ trôi cuốn chứ không ĐOẠT mất tính chất của nó!
Hoả phùng không tắc phát, Kim phùng không tắc minh"
" Hỏa không tắc phát, Kim không tắc minh "
Hai câu trên cùng một ý và chữ "Minh" đây có nghĩa là "Kêu". Nghĩa là, trong ngũ hành, Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi ngộ Không Vong, Triệt Không thì chỉ có 2 hành Hỏa và Kim còn hữu dụng.
Hỏa - thì bốc lên gặp Không thì càng "phát" vì không bị gì che lấp...
Kim - thì đặc gặp Không rỗng ví như cái chuông, thì đánh mới "kêu" vang...
Đó là suy luận theo ngũ hành tương tác, còn nói thêm nguyên lý TUẦN-TRIỆT thì là vầy...
TUẦN - là nói về một Tuần {đơn vị} có 10 ngày và cũng là muốn nói đến chỉ có 10 Thiên can mà lại có đến 12 Địa chi, thành ra sẽ có 2 ngày (địa chi) dư ra không nằm trong phạm vi Tuần đó...
Thế nên, lục thập hoa giáp có 6 Tuần bắt đầu bằng:
-- Tuần GIÁP TÍ... đến Quý Dậu là xong... dư ra Tuất và Hợi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP TUÂT... đến Quý Mùi là xong... dư ra Thân và Dậu; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÂN... đến Quý Tỵ là xong... dư ra Ngọ và Mùi; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP NGỌ... đến Quý Mão là xong... dư ra Thìn và Tỵ; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP THÌN... đến Quý Sửu là xong... dư ra Dần và Mão; rồi bắt đầu từ
-- Tuần GIÁP DẦN... đến Quý Hợi là xong... dư ra Tí và Sửu.
Vì không nằm trong tầm quản hạt của Tuần Giáp, nên 2 cung địa chi Mệnh lâm vào hiển thị sự vô kỷ (kỷ cương, kỷ luật) nói theo kiểu khó nghe, nói dễ nghe thì là dễ thích nghi, hòa nhập vì không bị gò bó bởi cương luật của Tuần Giáp đó nhưng đó cũng có nghĩa là sự bỏ rơi vô trợ nữa. Đã vô trợ mà không dễ thích nghi nữa thì CHẾT thôi!
Cho nên, điểm CĂN BẢN cần phải hiểu - đó là cách sống, lối sinh hoạt của người Mệnh bị Tuần không vong.
Tuy nhiên, Mệnh bị Tuần không vong có chính tinh đơn thủ, đồng thủ hoặc không có thì lại có những tính chất đặc cách ảnh hưởng của chính tinh chi phối lên trên mình đương số; thế nên Tuần không vong - không mang ý nghĩa là làm mất đi tính chất hoặc biến chất v.v.. của chính tinh và các sao tọa lạc trong cung ấy MÀ nên quán ra một bức tranh rộng về cách cục này như là HOÀN CẢNH SỐNG, MÔI TRƯỜNG vô trợ (muốn làm, tính làm) mà hoàn cảnh không thuận tiện cho tính tình, tính toán của cá nhân đó bộc phát thực chất của mình.
Ví dụ: Mệnh có Thái Dương cư Tỵ ngộ Tuần - đâu có nghĩa là người đó không sáng suốt, tính toán dỡ mà cứ gặp hoàn cảnh vô trợ không thuận tiện cho người đó ra tay, thì người đó kẹt cứng rồi - lấy gì mà tiến thoái. Cũng vậy, Mệnh có Hung Tinh ngộ Tuần thì vì hoàn cảnh không cho phát tác nên mới gọi là Hung Tinh Ngộ Chế chứ bản chất vẫn là "Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác kiến v.v..."... con người mà!
TRIỆT - Tính theo cặp thiên can âm dương tương khắc tương hợp: Giáp-Kỷ, Ất-Canh, Bính-Tân, Đinh-Nhâm và Mậu-Quý ở những cung Thân-Dậu, Ngọ-Mùi, Thìn-Tỵ, Dần-Mão và Tí-Sửu.
Giáp khắc Kỷ nhưng lại là tương hợp vì rằng "nhất âm nhất dương chi vị Đạo" ví như người nam chế phục đặng người nữ làm vợ - chứ như Giáp khắc Mậu là khắc triệt để; thế nên, để ý thì thấy tiếp như sau: Canh khắc Ất nhưng lại là tương hợp , Bính khắc Tân nhưng lại là tương hợp , Nhâm khắc Đinh nhưng lại là tương hợp và Mậu khắc Quý nhưng lại là tương hợp.
TRIỆT - chữ Hán Việt có thể viết theo bộ Sách (bước ngắn) nghĩa là "trừ bỏ, phá hủy, sửa làm" hay bộ Thủ (tay) nghĩa là "bỏ đi, trừ đi, cất đi" VÀ có khi viết với bộ Qua (binh khí: cái mác, đánh nhau: can qua) mà phát âm là TIỆT nghĩa là "cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" thì chữ Hán họ viết theo nghĩa TIỆT cho TRIỆT ở trên.
"cắt đứt, đoạn, đánh chặn đường" là như thế nào?
TRIỆT được an theo Ngũ Tí Độn cho các cặp Thiên can âm dương tương hợp tương khắc trên ví dụ như:
Giáp-Kỷ : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Giáp Tí đếm đến NhâmThân-QuýDậu thì an TRIỆT giữa 2 cung Thân-Dậu.
Ất-Canh : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Bính Tí đếm đến NhâmNgọ-QuýMùi thì an TRIỆT giữa 2 cung Ngọ-Mùi.
Bính-Tân : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Mậu Tí đếm đến NhâmThìn-QuýTỵ thì an TRIỆT giữa 2 cung Thìn-Tỵ
Đinh-Nhâm : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Canh Tí đếm đến NhâmDần-QuýMão thì an TRIỆT giữa 2 cung Dần Mão.
Mậu-Quý : Bắt đầu Ngũ Tí Độn là Nhâm Tí đếm đến Quý Sửu thì an TRIỆT giữa 2 cung Tí-Sửu.
Cách an của TUẦN thì sau Nhâm- Quý dư 2 địa chi cung lấy đó mà an định cho TUẦN - còn cách an của TRIỆT thì lại TRIỆT hai can cuối Nhâm và Quý vì được đúc kết ra cái lý TRỊ THỦY của vua Đại Vũ thành công nên được thấy thần quy (rùa thần) hiện lên ở sông Lạc trên lưng có một đồ hình nhiều vạch như ta biết đồ hình Lạc Thư ngày nay.
Nhưng nên rõ, đây là TRỊ để YÊN chứ không phải TRỊ để ĐOẠT thành ra người có Mệnh Thân bị TRIỆT là để ngăn ngừa, câu thúc những cái quá đà, đam mê thái quá ví như GIỚI vậy! Điều nữa nên biết về tính chất của THỦY là chảy mãi không ngừng, nên khi bị chặn lại thì nó xung kích trở ngược và dậy sóng nên còn được minh họa là lẩm liệt chi thủy. Nên TRỊ để YÊN khỏi vỡ bờ trôi cuốn chứ không ĐOẠT mất tính chất của nó!