Cách cục yểu tử!
Đã gửi: 09:50, 18/11/19
Yểu tử được hiểu theo nghĩa của tử vi là người có sức khỏe không tốt, nhiều bệnh tật, hoặc bị tàn tật và tuổi thọ không cao, thường dưới 50 tuổi.
Thái Thứ Lang cho rằng: “Ba cung Mệnh, Thân và Phúc Đức đều mờ ám, xấu xa, đại hạn 10 năm cũng không được tốt đẹp, như vậy không thể sống lâu được. Sát thủ Thân nếu giàu sang tất chết non, trái lại nếu nghèo hèn thì lại sống lâu.”
Sách Tử - Vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu như sau:
- Xương, Khúc hãm địa: Mệnh có Xương, Khúc hãm địa hội nhiều sát tinh, nhất là Hóa Kỵ nên cùng khổ, cô đơn, nếu không tàn tật tất sẽ yểu tử. Riêng nữ số là người ti tiện, hoặc gái giang hồ nhưng thường chết non.
- Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào, Hồng: Mệnh hội họp Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào (Hồng) là người đa tình và yểu Mệnh. Trường hợp chỉ hội họp Kiếp, Không, Đào (Hồng) tại Mệnh thì cũng vậy.
- Kỵ ngộ Đào (Hồng): Mệnh có Kỵ đồng cung với Đào (Hồng) là người đau khổ vì tình, đàn bà thất tiết, tuổi thọ bị chiết giảm.
- Liêm, Khúc, Xương đồng cung: Mệnh an tại Mão, Dậu, Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi có Liêm tọa thủ gặp Xương (Khúc) đồng cung là người cùng khổ, hay mắc tai họa, tù tội và thường yểu tử.
- Kình Dương ở Tứ Chính: Mệnh ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu có Kình Dương hội sát tinh là người vất vả và thường chết non, nhất là khi Mệnh ở Ngọ. Còn Mệnh ở Mão. Dậu thì tuổi thọ trung bình.
- Tả, Hữu gặp sát tinh: Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa, nhất là Cự Môn, Phá Quân hãm địa, hoặc sát tinh hội họp là người cùng khổ và thường yểu tử.
- Kỵ ngộ Tuế, Đà: Cung Mệnh có Kỵ ngộ Thái Tuế, Đà La là người lắm điều, hay bị tranh chấp, kiện cáo và yểu tử.
- Kỵ ngộ Tham, Xương: Mệnh tại Tỵ có Tham Lang, Văn Xương, Hóa Kỵ đồng cung thì chết non.
- Thiên Cơ ngộ Kình, Đà: Mệnh có Thiên Cơ hãm địa, ngộ Kình (Đà) đồng cung thì yểu tử.
- Kình, Đà hãm địa hội hung sát tinh: Mệnh có Đà La hoặc Kình Dương hãm địa hội nhiều hung sát tinh, nhất là Địa Kiếp thì là người cùng khổ, hay bị tai nạn, tàn tật và thường yểu tử.
- Sát, Phá, Liêm, Tham ngộ Hỏa, Linh: Mệnh có các sao này hội họp mà đều hãm địa cả thì chết non.
- Âm Dương phản bối: Thái dương từ cung Dậu đến cung Sửu, Thái âm từ cung Dần đến cung Thân thì nghèo hèn và yểu, duy có tuổi Thìn và tuổi Tý tuy có chết non nhưng được nhiều người tiếc.
- Sát tinh thủ hoặc chiếu Mệnh: Các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Không, Địa Không, Địa Kiếp thủ Mệnh hoặc chiếu Mệnh lại bị hãm thì chết non, duy người tuổi Ngọ, Mão và Dần tuy chết non nhưng là người danh giá.
- Thiên Không thủ Mệnh tại Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi: Mệnh có Thiên Không mà Mệnh lại an tại cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ lại đẻ vào các giờ ấy thì chết non, nếu gặp các sao tốt cứu giả thì tuổi thọ cũng chỉ bình thường.
- Tật cung hội họp Không, Đào: Không Đào đồng cung tại Tật thì chết bất ngờ.
Thái Thứ Lang cho rằng: “Ba cung Mệnh, Thân và Phúc Đức đều mờ ám, xấu xa, đại hạn 10 năm cũng không được tốt đẹp, như vậy không thể sống lâu được. Sát thủ Thân nếu giàu sang tất chết non, trái lại nếu nghèo hèn thì lại sống lâu.”
Sách Tử - Vi liệt kê một số bộ sao tiêu biểu như sau:
- Xương, Khúc hãm địa: Mệnh có Xương, Khúc hãm địa hội nhiều sát tinh, nhất là Hóa Kỵ nên cùng khổ, cô đơn, nếu không tàn tật tất sẽ yểu tử. Riêng nữ số là người ti tiện, hoặc gái giang hồ nhưng thường chết non.
- Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào, Hồng: Mệnh hội họp Tử - Vi, Không, Kiếp, Đào (Hồng) là người đa tình và yểu Mệnh. Trường hợp chỉ hội họp Kiếp, Không, Đào (Hồng) tại Mệnh thì cũng vậy.
- Kỵ ngộ Đào (Hồng): Mệnh có Kỵ đồng cung với Đào (Hồng) là người đau khổ vì tình, đàn bà thất tiết, tuổi thọ bị chiết giảm.
- Liêm, Khúc, Xương đồng cung: Mệnh an tại Mão, Dậu, Tỵ, Hợi, Sửu, Mùi có Liêm tọa thủ gặp Xương (Khúc) đồng cung là người cùng khổ, hay mắc tai họa, tù tội và thường yểu tử.
- Kình Dương ở Tứ Chính: Mệnh ở Tý, Ngọ, Mão, Dậu có Kình Dương hội sát tinh là người vất vả và thường chết non, nhất là khi Mệnh ở Ngọ. Còn Mệnh ở Mão. Dậu thì tuổi thọ trung bình.
- Tả, Hữu gặp sát tinh: Mệnh có Tả, Hữu tọa thủ, gặp nhiều sao mờ ám xấu xa, nhất là Cự Môn, Phá Quân hãm địa, hoặc sát tinh hội họp là người cùng khổ và thường yểu tử.
- Kỵ ngộ Tuế, Đà: Cung Mệnh có Kỵ ngộ Thái Tuế, Đà La là người lắm điều, hay bị tranh chấp, kiện cáo và yểu tử.
- Kỵ ngộ Tham, Xương: Mệnh tại Tỵ có Tham Lang, Văn Xương, Hóa Kỵ đồng cung thì chết non.
- Thiên Cơ ngộ Kình, Đà: Mệnh có Thiên Cơ hãm địa, ngộ Kình (Đà) đồng cung thì yểu tử.
- Kình, Đà hãm địa hội hung sát tinh: Mệnh có Đà La hoặc Kình Dương hãm địa hội nhiều hung sát tinh, nhất là Địa Kiếp thì là người cùng khổ, hay bị tai nạn, tàn tật và thường yểu tử.
- Sát, Phá, Liêm, Tham ngộ Hỏa, Linh: Mệnh có các sao này hội họp mà đều hãm địa cả thì chết non.
- Âm Dương phản bối: Thái dương từ cung Dậu đến cung Sửu, Thái âm từ cung Dần đến cung Thân thì nghèo hèn và yểu, duy có tuổi Thìn và tuổi Tý tuy có chết non nhưng được nhiều người tiếc.
- Sát tinh thủ hoặc chiếu Mệnh: Các sao Kình Dương, Đà La, Thiên Không, Địa Không, Địa Kiếp thủ Mệnh hoặc chiếu Mệnh lại bị hãm thì chết non, duy người tuổi Ngọ, Mão và Dần tuy chết non nhưng là người danh giá.
- Thiên Không thủ Mệnh tại Tý, Ngọ, Tỵ, Hợi: Mệnh có Thiên Không mà Mệnh lại an tại cung Tỵ, Hợi, Tý, Ngọ lại đẻ vào các giờ ấy thì chết non, nếu gặp các sao tốt cứu giả thì tuổi thọ cũng chỉ bình thường.
- Tật cung hội họp Không, Đào: Không Đào đồng cung tại Tật thì chết bất ngờ.